Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bà Ngoại Tôi Gửi Lời Xin Lỗi

Vẫn mang giọng văn hài hước và kỹ thuật thắt mở nút gây kịch tính nhà nghề, “Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi” của cùng tác giả cuốn “Người đàn ông mang tên Ove” chứa đựng mạch cảm xúc lạ thường về những mối quan hệ nhân quả của con người trong thế giới hiện đại. Có gì cổ xưa và quen thuộc như chuyện về một người bà ngoại? Người bà có rất nhiều câu chuyện để kể lại, và để đánh dấu chúng, dường như cần những mùi hương khác nhau. Cô bé bảy tuổi Elsa đã có bà ngoại, người chuyên kể những câu chuyện tưởng tượng cho cô, nhưng toàn là những câu chuyện liên quan đến những ký ức kỳ lạ của chính bà, một người phụ nữ lạ thường. Người ta sẽ gọi bà ngoại của Elsa là lập dị hay điên khùng, nhưng với Elsa, bà là một siêu anh hùng. Ai đã chứng kiến những hành vi kỳ quặc của bà ngoại họ rằng bà đã tán tỉnh cảnh sát, lái xe phạm luật, bắn súng sơn từ ban công trêu hàng xóm, thì Elsa đã hào hứng làm cổ động viên vì cô bé tìm thấy ở bà một người bạn để chia sẻ những điều thắc mắc của trẻ con. Tuy nhiên, ẩn dưới cái vỏ của những câu chuyện đầy màu sắc cổ tích, những hiệp sĩ, công chúa, những con rồng hay xứ sở mộng mơ mang những cái tên ám chỉ, lại là những con người thật, người đàn ông khỏe kỳ dị được gọi là Tim Sói, một con thú bí ẩn linh sói, một bà hàng xóm khó tính, một người đàn ông cục cằn khó gần, rồi ngay chính người mẹ hay căng thẳng cùng người bố trầm tính của Elsa… Họ đều là những nhân vật của cuộc đời bà ngoại, người đã phiêu lưu khắp nơi, để rồi lần lượt hé lộ câu chuyện kỳ lạ nhất về bà. Thông qua những lá thư bí ẩn chứa lời xin lỗi của bà, Elsa bắt đầu hành trình đi tìm sự thật, nghẹt thở và ma mị… *** Elsa không phóng ra băng tuyết. Elsa cũng không phải là nữ hoàng của vương quốc xa xôi nào cả. Elsa chỉ là một cô bé 7 tuổi, nhưng lại là cô-bé-7-tuổi-già-trước-tuổi. Bà ngoại không sống trong viện dưỡng lão. Bà ngoại cũng không rành mấy thứ gọi là Wikipedia. Bà ngoại chỉ là một bà cụ 77 tuổi, nhưng lại là bà-cụ-77-tuổi-trẻ-hơn-tuổi. Ban ngày, bà ngoại đưa đón Elsa dến trường, cùng cô bé tham gia vào những cuộc phiêu lưu kỳ lạ như trèo qua hàng rào để đột nhập vào sở thú, nhét những tờ báo miễn phí chật cứng trong thang máy, làm phiền những người hàng xóm bằng cách bắn sơn và treo pizza trước cửa nhà họ. Ban đêm, hai bà cháu chìm đắm trong xứ sở Mơ-màng-ngủ, nơi những câu chuyện cổ tích làu thứ nuôi sống tất cả các giống loài sinh sống ở 6 vương quốc kỳ diệu trong xứ sở ấy. Bà kể cho Elsa nghe về loài linh sói, về thiên thần biển, những con rồng, quái vật, bóng đêm, về “cô gái luôn nói không”, về người anh hùng Tim Sói,... Elsa chỉ ước bà ngoại sẽ mãi bên cô bé. Vì bà là siêu anh hùng của Elsa. Và mọi đứa trẻ lên bảy đều cần có một siêu anh hùng ở bên cạnh. Nhưng Elsa đã học được qua Wikipedia và tất cả “văn chương có chất lượng” rằng con người không có ai hoàn hảo, kể cả siêu anh hùng. Người ta có thể yêu quý ai đó suốt nhiều năm trời mà chẳng biết gì về họ hết. Thực hiện lời hứa cuối cùng của bà ngoại là sẽ chuyển những bức thư có chứa lời xin lỗi đến với tất cả những người bà quan tâm, Elsa lao vào một cuộc hành trình đầy ma mị và nghẹt thở, để rồi mãi chờ đợi bức thư xin lỗi dành cho chính mình.  Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi không phải là truyện cổ tích dành cho người lớn, nó là truyện cổ tích dành cho những người từng là trẻ con. Những câu chuyện thần tiên của bà ngoại trở nên thật hơn bao giờ hết bởi đó chính là sự kiện thật xảy ra xung quanh bà. Một cô bé 7 tuổi có lẽ phải mất nhiều năm mới hiểu được. Nhưng đừng quên Elsa không phải là một cô bé bình thường. Làm gì có đứa trẻ 7 tuổi nào có thể thuộc làu làu từng chi tiết trong Harry Potter, hay biết được cách tra Wikipedia với mỗi từ khó người lớn nói. Và quan trọng hơn, không có đứa trẻ nào chịu lắng nghe và tin vào câu chuyện thần tiên của người già như Elsa cả. Đọc cuốn sách, ta dường như hiểu được một sự thật quan trọng mà nhà văn Fredrik Backman muốn gửi gắm. Bà ngoại vốn không phải là một người kỳ quặc và lạ thường. Chính bà đã trở nên kỳ quặc và lạ thường để có thể hòa hợp với cô cháu gái. Bà nhắc nhở Elsa luôn giữ trong mình sự khác biệt và đừng để cho ai phải nhắc cô bé không được khác biệt. Vì chẳng có người tầm thường nào có thể thay đổi thế giới cả.  Mỗi linh hồn chết đi nhường lại sự sống cho một sinh linh nhỏ bé mới. Còn những câu chuyện cổ tích thì vẫn còn sống mãi nếu như vẫn có người kể lại và có người lắng nghe chúng. Bà ngoại không được dạy làm thế nào để không kể các câu chuyện, Elsa không được dạy làm thế nào để không nghe, còn chúng ta có lẽ không ai được dạy làm thế nào để không mỉm cười trước một cuốn sách đáng yêu như Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi. *** Fredrik Backman là blogger, nhà báo, nhà văn người Thụy Điển với các tác phẩm nổi tiếng đã được được dịch ra hơn 40 thứ tiếng như Người đàn ông mang tên Ove, Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi, Britt-Marie đã ở đây. Tác phẩm: Người Đàn Ông Mang Tên Ove Bà Ngoại Tôi Gửi Lời Xin Lỗi Britt-Marie Đã Ở Đây ... *** Ở cái tuổi lên bảy, mọi đứa trẻ đều cần có siêu anh hùng. Không thể khác được. Những ai không chấp nhận điều đó cần phải xem lại đầu óc của mình. Bà ngoại của Elsa thường nói như vậy. Elsa đã gần tám tuổi. Nó biết mình không giỏi làm một đứa bảy tuổi. Nó biết mình khác biệt. Thầy hiệu trưởng bảo là Elsa phải “thay đổi thái độ” để “chan hòa hơn với các bạn cùng tuổi”. Những người lớn khác luôn nhận xét rằng nó “quá già so với tuổi”. Elsa đoán đó chỉ là một cách nói để ám chỉ rằng nó là “một con bé phiền phức”, vì họ thường nói thế khi nó chỉnh lại cách phát âm chữ “déjà vu” hoặc những lỗi chính tả lặt vặt của họ. Giống như hầu hết những người lớn to đầu khác. Bởi vậy họ mới dùng chữ “già trước tuổi” để nói về Elsa, kèm theo một nụ cười gượng dành cho bố mẹ nó. Như thể đó là một căn bệnh, và Elsa làm gai mắt họ vì không tỏ ra ngờ nghệch như một đứa trẻ bảy tuổi. Đây là lí do tại sao nó không có người bạn nào ngoài bà ngoại. Bởi lẽ tất cả những đứa trẻ bảy tuổi ở trường đều ngớ ngẩn như những đứa trẻ lên bảy thường tỏ ra, trong khi nó thì khác. Elsa không nên để tâm đến những gì họ nói, bà của nó đã khẳng định như thế. Bởi những người giỏi nhất đều khác biệt, cứ nhìn các siêu anh hùng mà xem. Nếu những siêu năng lực của họ là bình thường thì mọi người ai cũng có siêu năng lực cả. Bà ngoại đã bảy mươi bảy, gần bảy mươi tám tuổi. Bà cũng không giỏi làm một bà già bảy mươi bảy tuổi cho lắm. Mọi người có thể thấy bà già vì khuôn mặt bà giống như tờ giấy báo bị vo tròn nhét vào trong giày cho khỏi ẩm mốc, nhưng không ai thấy bà trưởng thành đủ so với độ tuổi cả. “Trộm vía”, người ta thỉnh thoảng nói như vậy với mẹ Elsa. Sau đó, khuôn mặt họ sẽ trở nên đầy lo lắng hoặc rất giận dữ, và mẹ sẽ thở dài hỏi xem mình phải bồi thường bao nhiêu, chẳng hạn như khi bà hút thuốc làm kích hoạt hệ thống báo cháy ở bệnh viện và la lối rằng: “riết rồi bây giờ cái gì cũng phải đúng theo khuôn khổ” lúc bị các bảo vệ yêu cầu dập thuốc. Hoặc là lúc bà đắp một người tuyết trong tư thế nằm sóng xoài dưới ban công nhà bà Britt-Marie và ông Kent, mặc quần áo người lớn cho nó để làm người ta tưởng có ai đó bị rơi xuống đất. Hoặc là khi những người đàn ông đeo kính đến gõ cửa từng nhà trong khu phố để nói về Chúa, Jesus và thiên đường, còn bà thì mặc áo choàng ngủ phong phanh bắn súng sơn vào họ từ trên ban công. Không rõ bà Britt-Marie thấy phiền phức vì vụ bắn súng sơn hay vì bà ngoại của Elsa không mặc gì bên trong lớp áo choàng ngủ hờ hững, chỉ biết bà ta báo cảnh sát với cả hai lí do đó cho chắc ăn. Đó là những lúc mọi người thấy, trộm vía, bà ngoại rất trẻ so với tuổi tác. Họ cũng nói bà điên rồ. Nhưng thật ra bà là một thiên tài. Chỉ có điều bà đồng thời cũng rất gàn. Hồi trước, khi còn làm bác sĩ, bà đã nhận được các giải thưởng, được báo chí viết bài, và bà từng tới những nơi tệ hại nhất thế giới, khi mà những người khác đều đã bỏ đi. Bà đã cứu sống nhiều người và chống lại cái ác ở khắp nơi trên trái đất này. Như những gì các siêu anh hùng vẫn làm. Nhưng rồi một ngày nọ, người ta quyết định rằng bà đã quá già để đi giải cứu thế giới, dù Elsa nghi ngờ điều người ta thật sự muốn ám chỉ qua hai chữ “quá già” chính là “quá điên rồ”. Bà ngoại gọi kẻ đó là “xã hội” và nói rằng ngày nay chỉ vì mọi việc phải đúng theo khuôn khổ một cách chết tiệt mà bà không còn được phép phẫu thuật người khác. Rằng chủ yếu chuyện đó là do xã hội làm rùm beng quá mức về việc cấm hút thuốc trong phòng mổ, ai có thể làm việc trong những điều kiện như thế kia chứ? Thế nên bây giờ bà ngoại chủ yếu ở nhà để chọc điên bà Britt-Marie và mẹ. Bà Britt-Marie sống dưới bà ngoại một tầng lầu. Bà ta cũng sống dưới mẹ Elsa một tầng lầu, vì nhà mẹ ở sát vách nhà bà ngoại. Tức là Elsa cũng ở ngay bên cạnh bà ngoại, vì nó sống cùng mẹ. Ngoại trừ cứ hai tuần một lần, nó đến ở với bố và dì Lisette vào dịp cuối tuần. Và tất nhiên dượng George cũng là hàng xóm của bà ngoại, vì dượng sống với mẹ Elsa. Rối rắm thế đấy. Tuy nhiên, chúng ta hãy quay lại chủ đề chính: cứu người và làm người ta phát điên chính là những siêu năng lực của bà ngoại. Điều này có lẽ cũng biến bà thành một siêu anh hùng dị thường. Elsa biết chữ này vì con bé đã tra nó trên Wikipedia. Những người ở độ tuổi của bà ngoại gọi Wikipedia là “một bách khoa toàn thư trên mạng”, trong khi với Elsa, bách khoa toàn thư là “Wikipedia trên giấy”. Con bé đã tra cứu chữ “dị thường” ở cả hai nguồn đó, và nó được dùng để mô tả một thứ gì đó không hoạt động như lẽ ra nó phải thế. Đây cũng chính là một trong những điểm mà Elsa thích nhất ở bà ngoại. Nhưng có lẽ không phải hôm nay. Bởi lúc này đã một giờ rưỡi đêm, Elsa khá mệt mỏi và rất muốn quay về giường ngủ. Chỉ có điều nó không thể làm điều đó, vì bà ngoại đã ném phân vào cảnh sát. Chuyện này hơi phức tạp một chút.   Elsa nhìn quanh căn phòng nhỏ hình chữ nhật và há miệng ngáp to đến nỗi nhìn nó giống như đang cố nuốt chửng chính cái đầu của mình. - Cháu đã bảo bà đừng có leo rào. - Con bé vừa lẩm bẩm vừa xem giờ. Bà ngoại không đáp. Elsa tháo chiếc khăn quàng Gryffindor và đặt nó vào lòng. Con bé chào đời một ngày sau lễ Giáng sinh, bảy năm về trước (đúng hơn là gần tám năm). Cùng ngày hôm đó, các nhà khoa học người Đức đã ghi nhận vụ nổ tia gamma mạnh nhất của một ngôi sao từ có ảnh hưởng tới trái đất. Phải thừa nhận rằng con bé không biết sao từ là gì, ngoại trừ việc đó là một loại sao neutron. Và chữ đó trong tiếng Anh cũng hơi giống với “Megatron”, vốn là tên của một con robot hiểm ác trong bộ truyện Người máy biến hình. Những người không đọc nhiều văn chương có chất lượng vẫn gọi đó là một “thứ dành cho trẻ con”. Thật ra các Transformer là robot, nhưng theo lí thuyết người ta có thể coi họ là các siêu anh hùng. Elsa thích cả Người máy biến hình lẫn các ngôi sao neutron, con bé hình dung một “vụ nổ tia gamma” sẽ giống như lần bà ngoại làm đổ nước ngọt Fanta lên chiếc iPhone của cháu gái mình và cố làm khô nó bằng máy nướng bánh mì. Bà ngoại nói việc sinh ra vào một ngày như thế làm cho Elsa trở nên đặc biệt. Và “đặc biệt” là hình thức hay ho nhất của “khác biệt”. Bà ngoại đang mải chia thuốc rê thành nhiều phần trên cái bàn nhỏ trước mặt và cuộn chúng lại bằng thứ giấy vấn thuốc khô giòn. - Cháu đã nói bà đừng có trèo qua cái hàng rào đó! Bà ngoại hừ mũi và lục lọi trong cái túi xách quá khổ của mình để tìm chiếc bật lửa. Có vẻ như bà không hề coi chuyện này là nghiêm túc. Mà hình như bà chưa bao giờ coi bất cứ chuyện gì là nghiêm túc cả. Trừ phi bà muốn hút thuốc nhưng không thể tìm ra bật lửa. - Lạy Chúa, nó chỉ là một cái hàng rào cỏn con thôi mà! - Bà nói với giọng vô lo. - Có gì đâu mà phải bận tâm! - Bà đừng có nhắc đến Chúa với cháu! Bà là người đã ném phân vào cảnh sát. - Thôi đi. Cháu nói năng y hệt mẹ cháu vậy. Cháu có bật lửa không? - Cháu mới có bảy tuổi thôi! - Cháu định dùng cái đó để viện cớ đến khi nào đây? - Cho đến khi cháu không còn bảy tuổi nữa. Năm 2017, tác phẩm mới nhất của Backman mang tên Beartown lọt top 10 cuốn sách hay nhất của năm do Amazon bình chọn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuyện Tình Tristan & Iseut
Truyền thuyết về truyện tình của Tristan và Iseult là một sáng tạo lớn của trí tuệ, được hình thành bởi sự gặp gỡ của nhiều luồng tư tưởng văn minh khác nhau. Truyện tình rất đam mê, ai oán, não nùng, nhưng cũng rất “người” này, cho thấy là khi đụng phải nó, các cổ tục khắc khe, các luật lệ nghiêm khắc đều phải bó tay. Từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, mối tình của Tristan và Iseult vẫn làm say mê lòng người cũng như vẫn gây những xúc động mạnh. Trong một số tác phẩm văn học xưa và nay, đôi khi xuất hiện những nhân vật ảo xen lẫn với nhân vật thực, thí dụ như trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỉ 16). Có lẽ cũng là một hình thức hữu hiệu để tác giả phát biểu được ý kiến của mình trên một số vấn đề tế nhị. Mặt khác, ở chính trong một con người - tác giả - cũng có thể có mặt này và mặt nọ, vv. , làm tôi liên tưởng tới truyện Dr. Jekyll và Mr. Hyde (1886) của tác giả (người Anh) Robert Louis Balfour Stevenson. Bác sỹ Jekyll, là con người thiện, tình cờ phát minh ra được một liều thuốc, uống vào thì biến thành ông Hyde, một con người ác. Nhưng trong bài viết này, không phải là lúc luận chuyện thiện hay ác, thuần đạo hay nghịch đạo, có chăng chỉ là hình thức phát biểu. Tôi có một kẻ đối thoại, thực và ảo, gọi là Y, thường cùng tôi trao đổi, luận bàn, trong những buổi thư nhàn hay trong những cơn mộng mị. Y và tôi có qui ước như sau : khi đã trao đổi xong về một vấn đề gì mà y muốn tôi viết ra, tôi mất công ghi chép, thì tôi nhận phần « hơn » : những gì ôn tồn, nghiêm chỉnh, thanh tú, thì tôi nhận phần tôi ; những gì thô bạo ngang ngược, chướng tai thì y phải nhận ; và y đã đồng ý. Lại qui ước với nhau về cách xưng hô : gọi nhau bằng « vị », xưng tôi, để tránh gọi nhau bằng « Ngài », xưng « tại hạ », vv., lủng củng và lỉnh kỉnh. *** Ngày xưa, thời trung cổ bên Âu châu, vua Marc trị vì tại miền Cornouaille. Đất đai rộng lớn, nhiều đô thị, nhiều rừng tốt, nhiều mỏ quý và nhiều lông thú. Nhà vua ngự tại Tintagel, trong một tòa lâu đài với những cây tháp cao vời vợi. Thương thuyền tứ xứ đua nhau kéo tới bỏ neo dưới bến. Hiệp sĩ bốn phương đều ao ước tới triều đình vua Marc dự những cuộc đua tài đấu võ. Rivalen, trị vì tại miền Loonois, cũng tới dự đua. Rivalen dòng dõi quý tộc và can trường, trước triều vua Marc có nhiều dịp biểu dương đức tính hiệp sĩ và chiếm được trái tim công chúa Blanchefleur, em gái của vua Marc. Cả hai cùng xinh đẹp và phong nhã, được cảm tình của hết thảy mọi người chung quanh. Nhà vua hoan hỷ chiều ý đôi bạn,cho phép kết hợp thành đôi vợ chồng. Hôn lễ vừa xong, có tin từ Loonois tới cấp báo. Công tước Morgan cho quân tới đánh chiếm lãnh thổ của Rivalen. Dọc đường tiến quân lâu đài bị phá nát, chúng dân bị cướp bóc, quân lính của Rivalen bị hại rất nhiều. Rivalen vội vã xuống thuyền trở về, đưa theo công chúa Blanchefleur đã thụ thai. Về tới đất nhà, Rivalen hối hả triệu tập binh sĩ, tung quân ngăn chặn xâm lăng. Trước khi lên đường, Rivalen trao cho người thân tín Roald, tức Foi-Tenant, nhiệm vụ bảo vệ và chu toàn công chúa Blanchefleur. Trong một cuộc đấu nảy lửa, Rivalen bị hạ sát. Blanchefleur đợi mãi chồng chẳng thấy tin. Khắp miền Loonois, dân chúng kêu gào than khóc. Khi hay tin Rivanlen đã bị giết, Blanchefleur tái xanh, chết ngất. “Phu quân ta chết đi làm sao ta sống được nữa. Ta là cuộc sống, là nguồn an ủi của chàng; chàng là niềm vui, là cả đời ta. Ta phải chết theo chàng. Nếu ta không mang thai trong bụng chắc ta phải chết tức khắc.” Blanchefleur cho gọi Foi-Tenant. “Ta giao phó cho nhà ngươi đứa nhỏ trong bụng. Nhớ tới phu nhân ta, nhà ngươi hãy lo bao bọc đứa nhỏ, coi như con của nhà ngươi. Còn đây là chiếc nhẫn: tặng vật của vua Marc. Một ngày nào vua Marc trông thấy chiếc nhẫn sẽ nhìn nhận con của em gái nhà vua.” Một ngày một đêm công chúa Blanchefleur đau đớn, sáng hôm sau hạ sanh một trai. Nhờ ơn Thượng Đế, đứa nhỏ khỏe mạnh. Bồng con trên tay, công chúa Blanchefleur nhủ thầm với con: Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Tristan & Iseut của Dân Gian Pháp.
Chiếc Hộp Giáng Sinh
Giáng sinh đã về trên thành phố. Những cơn gió tháng Mười hai buốt giá, tuyết rơi dày và ngọn lửa trong lò sưởi đã rực lên ấm nóng. Trong căn áp mái một ngôi biệt thự trên khu Đại Lộ thành phố Salk Lake, những bức thư ngả vàng nằm đó mấy chục năm, chờ được đọc lên lần nữa.  Những lá thư bí ẩn khiến người ta rơi lệ, bởi nỗi đau song hành cùng tình yêu tha thiết của một người mẹ mất con. Và nhờ đó, ý nghĩa của Chiếc hộp Giáng sinh đựng những bức thư, của ngày Giáng sinh thiêng liêng đã hé lộ. Một cuốn sách như lời ngợi ca tình yêu bất tử mà Thượng đế dành cho loài người, khi Người gửi con trai mình ra đi, dẫu biết con đường nào chờ đợi phía trước… Kể từ lần xuất bản đầu tiên, hơn bảy triệu người đã bị lay động bởi Chiếc hộp Giáng sinh, cuốn sách kinh điển về ngày Giáng sinh của thời đại chúng ta, thường được xếp cạnh Bài ca mừng Giáng sinh của Charles Dicken. Richard Paul Evans đã viết Chiếc hộp Giáng sinh như  một sự bày tỏ tình yêu ông dành cho hai con gái nhỏ của mình, Jenna và Allyson, nhưng câu chuyện rồi đã trở thành một thông điệp đầy sức mạnh, vượt qua nhiều biên giới, không chỉ dành riêng ngày Giáng sinh, gieo những nốt nhạc cảm động trong tâm hồn người nhận. Nhận định “Cuốn sách là về những sức mạnh bao bọc chúng ta, như gió, vô hình nhưng mãnh liệt khiến ta bàng hoàng chấn động. Và câu chuyện Giáng sinh nhỏ mà tôi viết ra là kết quả của những sức mạnh đó. Một vài người có thể coi đó là sự linh thiêng, một số khác gọi là sự trùng hợp. Còn có những người mà với họ, đó chính là phép màu.” *** “Chiếc hộp Giáng sinh" của Richard Paul Evans từng giành vị trí thứ nhất trong top best-seller cho cả ấn bản bìa cứng và bìa mềm của tạp chí New York Times “Món quà Giáng sinh đầu tiên là gì?” - bạn đã bao giờ đặt ra và trả lời câu hỏi này. Có lẽ phần lớn chúng ta khi được hỏi câu này đều nghĩ đến một món quà vật chất, một thứ đồ quý giá nào đó. Và nếu bạn chưa có câu trả lời, hãy đọc “Chiếc hộp Giáng sinh” (The Christmas Box) của nhà văn người Mỹ Richard Paul Evans.  Câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh gia đình Richard - Keri và cô con gái nhỏ Jenna, một gia đình nhỏ gặp những khó khăn về chỗ ở khi trở về quê hương lập nghiệp. Căn hộ một phòng ngủ chật chội đến mức cô con gái của họ đã 4 tuổi vẫn được đặt trong chiếc nôi kê vừa khít vào phòng ngủ. Qua một trang báo, hai vợ chồng tìm được ngôi biệt thự cổ của một người phụ nữ độc thân sống trong vùng cần một gia đình có trẻ nhỏ đến ở cùng. Từ đây, ý nghĩa câu chuyện dần được mở ra. Mary Anne - chủ nhân ngôi biệt thự lộng lẫy ấy đã mất cô con gái duy nhất khi cô bé được 3 tuổi và chưa đêm nào bà nguôi ngoai nỗi nhớ con. Nỗi nhớ ấy được bà gửi gắm vào những bức thư nhuốm màu thời gian đựng trong chiếc hộp Giáng sinh bí mật trên căn gác áp mái của ngôi biệt thự. Sự ra đi của cô con gái khiến bao nhiêu năm Mary đắm chìm trong buồn bã, đau khổ và cô độc, khi không biết thổ lộ lòng mình cùng ai. Có thể nói, cuộc gặp gỡ giữa gia đình Rachard và bà Mary giống như một định mệnh mà Chúa trời đã sắp xếp. Một bên người phụ nữ dư giả nhưng gần như cả đời sống trong cô đơn, đến tuổi “gần đất xa trời” chợt nhận thấy cần có ai đó để được sẻ chia, được trò chuyện, để yêu thương: “Thật là tuyệt khi có ai đó trong nhà khi những ngày lễ đến”. Còn bên kia là một gia đình trẻ hạnh phúc, ăm ắp tiếng cười trẻ thơ nhưng đang gánh trên vai nỗi lo toan cơm áo gạo tiền. Sự gặp gỡ giữa họ giống như những mảnh ghép trong cuộc sống, bổ khuyết cho nhau những phần thiếu để làm nên một bức tranh tươi đẹp về cuộc sống hạnh phúc.  Sống chung với Mary, càng ngày vợ chồng Richard càng cảm thấy gần gũi với người phụ nữ cô đơn ấy, cảm thấy bà như một người thân trong gia đình: “Em có cảm giác như em đã biết bà ấy cả đời rồi” - Keri nói. “Như là bà mình vậy”, tôi nhận xét. Vợ chồng Richard nhận ra rằng người phụ nữ ấy muốn có người ở cùng là vì bà mong muốn có được cái không khí gia đình chứ không phải vì nhu cầu vật chất. Và điều làm Richard tò mò, muốn khám phá chính là những bức thư ngả vàng trong chiếc hộp Giáng sinh có thể chơi nhạc trên căn gác áp mái của căn biệt thự. Những lá thư chứa đầy tình yêu thương tha thiết, nỗi nhớ nhung của người mẹ đối với con gái mỗi dịp Giáng sinh về. Chủ nhân của những bức thư bí ẩn ấy là ai? Tại sao nó lại được đựng trong chiếc hộp Giáng sinh ấy. Nhưng bí mật dần hé mở cũng là lúc Mary phát hiện có một khối u trong não. Chính trong những ngày tháng ấy, khi Richard tìm hiểu được nguồn gốc những bức thư kia là của bà Mary viết cho cô con gái đã qua đời Andea. Đọc những bức thư nhuốm màu thời gian nhưng chứa chan xúc cảm của người mẹ ấy, Richard đã có câu trả lời cho câu hỏi của bà Mary dành cho anh “có bao giờ anh tự hỏi món quà Giáng sinh đầu tiên là gì không?”. Đấy chính là lời nhắn gửi đầy yêu thương mà bà góa phụ đã gửi đến cho anh, để anh nhận thấy đâu mới là thứ quý giá nhất của cuộc đời. Trải qua mất mát, đớn đau của cuộc đời nên Mary hiểu rõ, dù có kiếm được bao nhiêu tiền, dù cuộc sống vật chất có đầy đủ đến đâu nhưng thiếu sự quan tâm, dành thời gian cho gia đình là ta đã đánh mất món quà quý giá nhất của cuộc đời. Những lo toan thường nhật, những giấc mơ kiếm tiền dần thành công đã phần nào chiếm mất thời gian Richard dành cho gia đình, dành cho cô con gái nhỏ Jenna. Trẻ con luôn ngây thơ, trong sáng những cực kỳ nhạy cảm. Nghe cách cô bé Jenna trò chuyện với bà Mary không ít người trong chúng ta cũng tự soi lại chính mình bởi rất nhiều lúc, giống như Richard, ta mải mê với những lo toan mà xao nhãng sự quan tâm dành cho con cái. Có đôi lúc ta nghĩ cố gắng dành cho con những gì tốt nhất, cố gắng kiếm tiền để lo cho cuộc sống của con mà quên đi rằng, tuổi thơ của con cần nhất là sự gần gũi, chuyện trò của cha mẹ. Và cũng giống như Richard, chắc hẳn cũng không ít người, một ngày nào đó bỗng nhận ra rằng thời gian sẽ đưa tuổi thơ của con đi xa. Và càng lớn thì dường như con càng rời xa vòng tay của mình, cho nên hãy ở bên con, gần gũi với con khi vòng tay mình còn đủ rộng để ôm được nó. “Con gái nhỏ quý giá của tôi. Tôi đã ngu ngốc làm sao, khi để tuổi thơ của nóm tuổi thơ quý giá thoáng qua của nó vô tình trôi đi. Mãi mãi. Trong cái đầu óc khờ khạo của tôi sẽ mà là con gái nhỏ của tôi. Nhưng thời gian đã cho thấy tôi mới lầm lạc biết nhường nào. Một ngày nào đó con bé sẽ lớn. Một ngày nào đó con bé sẽ ra đi, còn tôi bị bỏ lại với ký ức về tiếng cười khúc khích và những điều bí mật mà lẽ ra tôi đã được biết”. Hiếm có tác phẩm đầu tay của tác giả nào lại giành được vị trí thứ nhất trong top best-seller cho cả ấn bản bìa cứng và bìa mềm của tạp chí New York Times như “Chiếc hộp Giáng sinh” cho dù ban đầu tác giả chỉ định viết câu chuyện như một món quà dành cho hai cô con gái của mình. Ngay từ lần xuất bản đầu tiên (năm 1994) “Chiếc hộp Giáng sinh" đã được bán ra tới hơn 7 triệu bản. Tác phẩm này được dịch ra hơn 20 thứ tiếng với bốn mươi triệu bản được bán ra và còn giành được giải Emmy cho bộ phim truyền hình được dựng cùng tên. Tại Việt Nam, sách được Nhà xuất bản Văn học cùng Công ty Nhã Nam liên kết xuất bản năm 2014 và lập tức trở thành cơn sốt với bạn đọc trong nước. Chính những thông điệp đầy nhân văn mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm đã làm lay động trái tim bạn đọc trên toàn thế giới. Không còn đơn thuần là một tác phẩm viết cho ngày Giáng sinh mà tác phẩm này giống như những nốt nhạc đầy yêu thương và cảm động gieo vào tâm hồn mỗi người, để chúng ta nhận ra rằng món quà quý giá nhất của cuộc sống tình yêu thương. Ai đã đọc “Chiếc hộp Giáng sinh” có lẽ sẽ có cùng chung nhận xét, tác phẩm này thật sự xúc động dù cả nội dung và văn phong đều vô cùng giản dị. Kết thúc truyện đượm buồn khi bà Mary ra đi vì căn bệnh u não nhưng đằng sau đó vẫn lấp lánh tình yêu thương. Sự ra đi của Mary không gây cho bạn đọc cảm giác nặng nề, u uất mà vô cùng nhẹ nhàng bởi đó là giây phút bà được gặp lại con gái bé bỏng mà suốt đời bà yêu thương, nhung nhớ. Và chiếc hộp Giáng sinh được trao lại cho Richard như một món quà bà để lại, như một lời nhắc nhở hãy luôn trân trọng món quà quý giá nhất cuộc sống - đó là tình yêu thương trong mỗi gia đình. PHẠM NGỌC Mời các bạn đón đọc Chiếc Hộp Giáng Sinh của tác giả Richard Paul Evans.
Cõi Chết
James Joyce được xem là nhà cách mạng tiên phong trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của thế kỷ XX. Theo kết quả thăm dò của báo Time (Mỹ) và Le Figaro (Pháp), hai tờ báo uy tín trên thế giới, thì dẫn đầu các nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ XX là James Joyce, tiếp theo là Franz Kafka (Tiệp Khắc), Virginia Woolf (Anh), Ernest Hemingway (Mỹ), Gabriel Garcia Maquez (Colombia)... Có thể coi Joyce là một trong những nhà văn hàng đầu của lối viết "dòng ý thức" với bút pháp độc thoại nội tâm chân thật nhất trong văn học hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại hay chính là James Joyce - không chấp nhận lối sáng tác giống các thể loại văn học truyền thống. Nhà văn phá bỏ hoặc tưởng tượng lại các cấu trúc đã được nhận thức và nỗ lực tạo ra chính xác những dòng suy nghĩ theo quy luật hàng ngày với những gì xảy ra. Trong bài viết của nhà nghiên cứu Paul Gray về James Joyce đăng trong tuyển tập 100 con người tạo nên thế kỷ XỬ do báo Time (the Time 100, ngày 6 tháng 8 năm 1998) bình chọn, ông cho rằng chính Ulysses đã mở đường và in dấu sâu đậm trong tác phẩm của nhiều nhà văn lớn của thế giới sau đó như William Faulkner, Albert Camus, Samuel Beckett, Saul Bellow, Gabriel Garcia Marquez và Toni Morrison. Các tác giả này, Paul Gray viết một cách châm biếm, không như Joyce, đều đoạt giải Nobel văn học. James Joyce từng nói "Một trong những điều khi còn trẻ tôi không tài nào quen được là sự khác biệt tôi nhận thấy giữa cuộc sống và văn chương" (trích từ bài của Paul Gray). Joyce dường như đã dành cả sự nghiệp của mình để xóa bỏ sự khác biệt này, đồng thời cách mạng hóa cả nền văn chương thế kỷ XX. Cuộc sống trong tác phẩm của Joyce phần lớn là cuộc đời của chính ông. Tác phẩm được xuất bản đầu tiên của ông, người Dublin, gồm 15 truyện ngắn, bề ngoài có vẻ đơn giản và truyền thống nhưng lại theo một phong cách và ngôn ngữ đa chiều lạ lẫm. Tiếp sau đó là tiểu thuyết mang đậm tính tự thuật A Portrait of the Artist as a Young Man, câu chuyện của chàng Stephen Dedalus, hay chính là Joyce, từ những ngày thơ ấu ở Dublin đến khi quyết định rời quê hương ra đi theo đuổi nghệ thuật. Với độ phức tạp, sáng tạo về ngôn ngữ mô tả những bí ẩn nội tâm thường hiếm khi được tiết lộ, cuốn sách, dù không bán chạy nhưng đã thu hút được sự chú ý của một số nghệ sĩ thuộc trường phái cách tân nổi tiếng thời đó, cho rằng thế kỷ mới đòi hỏi mọi thứ - nghệ thuật, thi ca, văn chương, âm nhạc...cũng phải có gương mặt mới. Vậy là thử nghiệm ngôn từ của James Joyce đã được ủng hộ, và ông cũng không làm họ phải thất vọng. Joyce bắt tay viết Ulysses năm 1914, một số phần của tác phẩm xuất hiện trước trên tạp chí Egoist ở Anh và Little Reivew ở Mỹ, cho đến khi ba số tạp chí bị đình chỉ và chủ báo bị phạt 100 đô la vì bị buộc tội đã đăng bài tục tĩu, không phù hợp với đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục. Tuy nhiên việc này chỉ càng làm tăng thêm sự tò mò của độc giả đối với tác phẩm sắp chào đời. Thậm chí trước khi Ulysses được xuất bản năm 1922, các nhà phê bình đã so sánh những sáng tạo của Joyce với khám phá của Einstein và Freud. Được ca ngợi là tiểu thuyết vĩ đại nhất trong lịch sử, Ulysses, như tên gọi của nó, được sáng tác với cảm hứng từ Odyssey của Homer (khoảng thế kỷ VIII trước công nguyên). Khi còn bé, Joyce đã bị mê hoặc bởi sử thi Odyssey. Năm 20 tuổi, khi được viết về người anh hùng yêu thích nhất của mình, Joyce đã chọn Ulysses, người chiến thắng bằng chính sự khéo léo và thông minh hơn là dùng bạo lực. Khi viết Ulysses, (tên của Odysseus theo cách gọi của người La Mã), Joyce đã nói rằng Odysseus là một tính cách toàn diện và mang tính nhân văn nhất trong văn học. Trường ca Odyssey kể chuyện Ulysses, người anh hùng muôn vàn trí xảo, au khi dùng mưu hạ được thành Troy thần thánh, đã phiêu lưu khắp nơi, chiến đấu bảo vệ tính mạng của mình và để cho các bạn đồng hành được trở về xứ sở. Ulysses đã chịu nhiều đắng cay, cám dỗ, những gian nan, nguy hiểm...và chàng đã chiên thắng tất cả bằng mưu trí. Ulysses là hiện thân của trí tuệ, sự thông minh. Chàng không biết khuất phục, không biết nản lòng, là hình tượng người đi tiên phong mở đường cho một sự nghiệp lớn. Ulysses đã tự tạo nên số phận mình bằng tinh thần đấu tranh không mệt mỏi với các lực lượng tự nhiên cũng như với những kẻ thù trong xã hội. Ulysses tiêu biểu cho sự giải phóng tinh thần quan trọng, chứng tỏ sự trưởng thành mạnh mẽ của con người. Sau 20 năm lưu lạc, Ulysses đặt chân lên mảnh đất quê nhà, sống trọng nghĩa vợ chồng, tình cha con, tình cảm bè bạn, giống nòi, quê hương, đất nước... Tiểu thuyếy Ulysses của James Joyce sử dụng thiên trường ca cổ điển Odyssey như một phương pháp sắp đặt những trải nghiệm của con người hiện đại, để miêu tả cuộc sống đương đại. Ông sáng tạo Ulysses là một người đàn ông bình thường tên là Leopold Bloom, đấu tranh trước những thử thách thường ngày, trong một ngày bình thường. Cuốn tiểu thuyết dõi theo những khoảnh khắc hành động và suy nghĩ, ẩn ức, tưởng tượng của Leopold Bloom, của vợ anh ta, Molly, và Stephen Dedalus (nhân vật trong A Portrait of the Artist as a Young man) trong một ngày trọn vẹn ở Dublin, ngày 16 tháng 6 năm 1904 (là món quà của Joyce dành cho Nora Barnacle, ngày đầu tiên hai người hẹn hò). Cùng với ba nhân vật chính, tác phẩm đã tải hiện cuộc sống của người dân Dublin trên đuờng phố, những cảnh tượng, không gian, âm thanh, thậm chí cả mùi vị của Dublin. Mọi hoạt động diễn ra tưởng chừng ngẫu nhiên, nhưng ẩn sau chúng là rất nhiều bí ẩn và câu đố đến mức nó sẽ khiến cho các giáo sư phải bận rộn trong hàng thế kỷ để tranh cãi điều tác giả muốn nói, như Joyce từng tuyên bố. Sáng tạo ngôn từ không mệt mỏi của Joyce (nhiều đoạn trong Ulysses ông viết liên tục không hề có dâu câu) cùng thủ pháp "dòng ý thức" miên man giữa hiện tại, quá khứ và tương lai, và tâng tầng lớp lớp ám chỉ về tôn giáo lịch sử, thần thoại trong mỗi từ, mỗi câu nói, đã khiến Ulysses trở thành một cuốn từ điển về bản chất con người, tiến gần nhất đến sự khám phá hoàn hảo về con người, nhưng cũng trở thành cuốn sách khó đọc, và có lẽ chỉ dành riêng cho "một số độc giả nhạy cảm, tinh tế" như nhà phê bình Joseph Collins nhận xét. Một tác phẩm quan trọng khác của Joyce sau đó, và cũng là tác phẩm cuối cùng của ông, Finnegans Wake, thậm chí còn khó đọc hơn cả Ulysses, được viết với ngôn ngữ riêng do Joyce sáng tạo ra. Nếu Ulysses nói về Dublin ban ngày thì Finnegans Wake mô tả cuộc sống ban đêm của Dublin theo logic của những giấc mơ, hơn 600 trang sách tưởng như ngớ ngẩn với những suy nghĩ được mô tả bằng ngôn ngữ đứt đoạn và ngoại lai, thách thức mọi quy ước về cốt truyện và nhân vật. Thủ pháp dòng ý thức, ám chỉ và những giấc mơ, ẩn ức lộn xộn của Joyce trong Ulysses đã được đẩy đến đỉnh cao với Finnegans Wake. Joyce đã vượt lên chính mình, vượt qua bộ bách khoa Ulysses của chính mình mà không ai vượt nổi. Viết về Joyce, Allen Ruch ca ngợi "James Joyce là nhà văn duy nhất chúng ta có thể hoàn toàn đặt niềm tin, con người duy nhất mà chúng ta có thể chắc chắn 1000 năm sau vẫn sẽ được nhớ đến, nếu như có con người ấy. Như câu nói nổi tiếng của một nhà phê bình: James Joyce đã và sẽ là nhà văn độc nhất trong lịch sử bởi chỉ xuất bản không gì ngoài kiệt tác. *** Tháng 7 năm 1998 Hội đồng cố vấn của Modern Library, một bộ phận của nhà xuất bản Random House, gồm 10 thành viên trong đó có một phụ nữ đã bỏ phiếu chọn một danh sách gồm 100 tiểu thuyết hay nhất viết bằng Anh Ngữ của thế kỷ 20 (Newsweek, 3 Aug. 1998, "Battle of the Books"). Trong số 100 tiểu thuyết được chọn có 6 tác phẩm được viết trong 25 năm qua. Cuốn Ulysses của James Joyce, một nhà văn người Ái nhĩ lan xuất bản năm 1922 đứng đầu danh sách. Cuối cùng là cuốn The Magnificent Ambersons của Booth Tarkington xuất bản năm 1918.  Không phải nhà văn nào cũng đồng ý với lựa chọn này, nhưng ít nhất sự lựa chọn cho chúng ta một tiêu chuẩn tương đối giúp giới thưởng ngoạn văn học quan sát một phần sinh hoạt văn học của thế kỷ này. Riêng nhà văn James Joyce có 3 tác phẩm được chọn trong số 100. Ngoài cuốn Ulysses là cuốn A Portrait of the Artist As a Young Man xuất bản năm 1916, sắp hạng 3 và cuốn Finnegans Wake xuất bản năm 1939 sắp hạng 77. James Joyce sinh tại thành phố Dublin, Ái nhĩ lan năm 1882 và là người độc nhất trong gia đình được ăn học đến nơi đến chốn, Năm 16 tuổi ông vào đại học Dublin và tốt nghiệp năm 20 tuổi. Lúc đó James Joyce đã được biết đến qua bài bình luận về Ibben ông viết đăng trên tờ Fortnightly Review có uy tín trong giới văn học Anh. Năm 1904 James Joyce rời nước qua lục địa Âu châu sống ở Paris, Zurich, Trieste sinh nhai bằng nghề dạy Anh Ngữ, và sống trong nghèo túng cho đến năm 1919 ông được ông Harriet Weaver vì mến tài giúp đỡ một số tiền lớn. Lúc này James Joyce đã nổi tiếng trong giới văn học Âu châu. Việc xếp cuốn Ulysses của ông lên hàng đầu của các tác phẩm viết bằng Anh ngữ hay nhất của thế kỷ dù chỉ là một lựa chọn tương đối đã xác nhận văn tài của ông. Chuyện ngắn "The Dead" tôi dịch sau đây ông viết năm 25 tuổi (khi Anh quốc còn đô hộ Ái nhĩ lan, một quốc gia có hai tôn giáo, hai ngôn ngữ do ảnh hưởng của người Anh) và được xem là một trong những chuyện ngắn xuất sắc nhất của ông. James Joyce qua đời năm 1941, hưởng thọ 59 tuổi. Trần Bình Nam Mời các bạn đón đọc Cõi Chết của tác giả James Joyce.
Bông Hồng Mất Tích
Câu chuyện kể về Diana, một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp mười bảy tuổi khát khao nhận được sự tán dương từ người khác. Chính điều này đã khiến cô từ bỏ giấc mơ trở thành nhà văn và từ bỏ cả những giá trị của chính mình. Trong giây phút lâm chung, mẹ của Diana đã thú nhận rằng Diana còn một người em song sinh nữa - một người khát khao được gặp mẹ, dám chống đối lại những người khác để thực hiện nguyện ước của cô là đi tìm mẹ. Lời mẹ khẩn cầu Diana hãy đi tìm gặp em gái đã thôi thúc Diana thực hiện một cuộc hành trình bí ẩn. Cuộc hành trình dẫn cô đến khu vườn hoa hồng kỳ lạ ở Istanbul, và chính nơi đó, cô đã trò chuyện được với những bông hồng... Serdar Ozkan sẽ đưa chúng ta đến với cuộc hành trình tìm kiếm điều gì đó tưởng như vô cùng đơn giản - HẠNH PHÚC. Nhưng, để có được hạnh phúc chẳng đơn giản chút nào. Để rồi khi chạm tới điểm cuối của hành trình, chúng ta chợt nhận ra rằng, hạnh phúc, nó tựa như một món đồ ta để quên trong ngăn kéo kí ức hóc khóa và chờ đợi bàn tay tỉ mẩn, kiên trì của một ai đó tìm lại mà thôi. *** Ephesus! Thành phố của sự đối ngẫu Là nơi có cả đền thờ nữ thần Artemis lẫn tòa thánh thờ Đức mẹ Maria. Nơi đây là hiện thân của cái tôi bản ngã lẫn chiều sâu tâm hồn. Đây cũng là hình ảnh thu nhỏ của những thứ cao khiết hư ảo lẫn những điều trần tục thấp hèn, là nơi kết hợp cả chế độ nô dịch lẫn sự tự do, phóng khoáng. Ephesus – Là sự hòa quyện của những điều đối lập. Bản thân thành phố ấy cũng có tâm hồn như mỗi con người chúng ta. Một buổi chiều muộn tháng Mười, có hai người ngồi bên cạnh con suối Meles gần thành phố cổ Ephesus. Mặt trời đang khuất dạng dần sau ngọn núi Buldul, nhuộm hồng cả một góc trời. Với những ai am hiểu ngôn ngữ của bầu trời thì chắc hẳn sẽ sớm hân hoan đón chào cơn mưa. “Thánh Paul đang giảng đạo cho mọi người về Mẹ Maria đấy”, cô gái trẻ nói. “Anh có nghe thấy đám đông phẫn nộ đang gào thét, phản đối và nguyền rủa ông ấy không? Hàng nghìn người nổi loạn chống lại tôn giáo mới - thứ tôn giáo ngăn cấm họ thờ nữ thần của mình. Hãy nghe tiếng những bước chân đang giậm trên nền đất và tiếng họ la hét kìa, ‘Chúng tôi không muốn Maria! Chúng tôi tôn thờ nữ thần Artamis!’ “Artemis ư?” Chàng trai trẻ hỏi lại. “Mội nữ thần sao? Nữ thần Diana của La Mã?” “Đừng quan tâm đến bà ấy làm gì”, cô gái trẻ đáp lời, “Bà ấy chẳng là gì ngoài một ảo tưởng đã được hình hài hóa và được người ta tôn thờ.” “Em có vẻ biết nhiều về bà ấy nhỉ?” “Em hiểu rõ bà ấy như chính bản thân mình ấy chứ.” “Được rồi, vậy sao em không kể cho anh nghe về bà ấy nhỉ?” “Bà ấy là nữ thần săn bắn,” cô gái bắt đầu kể. “Đó là một nữ thợ săn thực thụ - người dùng cung tên của mình để đem đến cho kẻ thù một cái chết đột ngột và ngọt ngào. Đó là một tâm hồn tự do bị cầ tmù, một người phụ thuộc nhưng rất đỗi kiêu hãnh. Nhờ có cây oliu mà mẹ bà – bà Leto đã sinh ra bà cùng với…” Sau khi đã hít một hơi sâu, cô gái nói thêm “người em song sinh của bà…” Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Mất Tích của tác giả Serdar Ozkan.