Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giữa Trời Và Đất

Paris, 1934. Buổi lễ thụ phong linh mục trước nhà thờ Đức Bà bỗng nhiên bị những kẻ lạ mặt phá đám. Thoát chết trong gang tấc, chàng tu sĩ trẻ Vango biết mình không thể tiếp tục trốn chạy quá khứ được nữa. Vango không biết mình là ai, không biết tại sao lũ người hắc ám kia quyết thủ tiêu cậu. Khát khao tìm cho ra sự thật, chàng trai trẻ có biệt tài leo trèo lại bước vào những ngày tháng hiểm nguy, khởi đầu từ bậc thềm nhà thờ Đức Bà, bồng bềnh trên chiếc khí cầu Graf, rong ruổi khắp các hòn đảo ngoài khơi Địa Trung Hải, giữa sương mù lạnh giá xứ Scotland... Và lẩn khuất quanh những hiểm nguy rình rập cậu là bóng ma đe dọa của một cuộc chiến tranh thế giới mới... “Tôi đã đặt vào đây tất cả những gì tôi cảm thấy cần thiết : hơi thở của cuộc sống phiêu lưu, vẻ mong manh, sự tàn ác, nét đẹp của những sự sống. Tôi mong câu chuyện này sẽ cuốn độc giả đi, nhưng dấu ấn về nó sẽ vẫn lưu lại trong lòng họ.” - Timothée de Fombelle. *** Timothée de Fombelle sinh năm 1973, là tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch trẻ người Pháp. Thiên hướng dành cho kịch bộc lộ từ rất sớm, năm mười bảy tuổi, anh thành lập một nhóm kịch và đảm nhận nhiệm vụ viết kịch bản cũng như dàn dựng. Năm 2002, vở kịch Le Phare giành giải thưởng Prix du Souffleur, bước đầu tạo dựng tên tuổi anh trên sân khấu kịch. Anh đến với tiểu thuyết qua bộ truyện hai tập Tobie Lolness, một dự án rất được kỳ vọng và quả thật đã đưa tên tuổi tác giả ra toàn thế giới. Bộ truyện đã được dịch ra 26 thứ tiếng và nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá trong nước cũng như quốc tế. Tháng 3/2010, tập đầu tiên của bộ truyện phiêu lưu Vango ra mắt tại Pháp và đã giành được Giải thưởng của Thư viện Paris, Giải thưởng Livre en tête, hạng mục tác phẩm dành cho thanh thiếu niên. *** CON ĐƯỜNG CỦA NHỮNG THIÊN THẦN Paris, tháng Tư năm 1934 Bốn mươi con người trong trang phục trắng nằm rạp trên mặt đường. Người ta ngỡ như thấy một cánh đồng tuyết. Lũ chim nhạn sà lên những thân hình ấy, kêu rin rít. Hàng ngàn người chứng kiến cảnh tượng này. Nhà thờ Đức Bà Paris in bóng lên đám đông tụ tập. Bỗng nhiên, xung quanh, thành phố dường như trở nên trầm lặng. Vango tì trán lên đá. Cậu lắng nghe hơi thở của chính mình. Cậu nghĩ đến cuộc đời đã đưa cậu đến đây. Lần đầu tiên, cậu không sợ hãi. Cậu nghĩ đến biển, đến làn gió mặn chát, đến vài giọng nói, khuôn mặt, đến những dòng nước mắt nóng hổi của người đã nuôi nấng cậu. Lúc này, mưa đang rơi trên sân trước nhà thờ nhưng Vango vẫn không hay biết gì. Nằm rạp trên đất giữa đám bạn đồng hành, cậu không nhìn những chiếc ô đang lần lượt xòe ra. Vango không thấy đám đông dân chúng Paris đang tụ tập, không thấy những gia đình xúng xính quần áo đẹp, không thấy thái độ sùng kính của mấy bà lão, không thấy lũ trẻ luồn chân người lớn chơi đùa, không thấy bọn chim bồ câu đờ đẫn, không thấy lũ nhạn nhảy nhót, không thấy những kẻ hiếu kỳ đứng trên xe ngựa, và không hề thấy đôi mắt xanh, ở đó, phía bên cạnh, đang chỉ nhìn mỗi cậu. Đôi mắt xanh ngấn lệ, giấu dưới lớp mạng gắn mũ. Vango, mắt vẫn nhắm. Cậu đã tròn hai mươi tuổi đầu. Đây là ngày trọng đại của cuộc đời cậu. Một niềm hạnh phúc lớn lao đang dâng trào từ đáy lòng cậu. Lát nữa thôi, cậu sẽ trở thành linh mục. - Một sự điên rồ ngọt ngào! Người gác chuông nhà thờ Đức Bà, ở trên cao, lẩm bẩm khi liếc mắt về phía quảng trường. Ông đợi. Ông đã mời Clara bé nhỏ đến ăn trứng chần nước sôi trong tháp chuông của mình. Ông biết cô ấy sẽ không đến, như tất cả những người phụ nữ khác. Và, dưới quả chuông khổng lồ, khi nước đang réo rắt trong xoong, người gác chuông nhìn những con người trẻ tuổi sắp được phong làm linh mục kia. Còn vài phút nữa, họ vẫn nằm rạp dưới đất trước khi đi tu mãi mãi. Lúc này, ở trên cao, cách đám đông năm mươi mét, không phải khoảng không làm Simon, người gác chuông, chóng mặt, mà chính là những mảnh đời nằm rạp dưới đất kia, dâng hiến, sắp dấn thân vào thế giới xa lạ. - Điên rồ, ông nhắc lại. Điên rồ! Ông ra dấu chữ thập, như thường lệ và quay lại với những quả trứng của mình. Đôi mắt xanh vẫn không rời Vango. Đó là một cô gái trẻ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mặc chiếc áo măng tô nhung màu tro. Bàn tay cô lục tìm trong túi rồi lại rút ra mà không thấy chiếc khăn mùi soa. Mu bàn tay trắng trẻo ấy rón rén dưới lớp voan, lau nước mắt trên má. Mưa bắt đầu thấm qua lớp áo măng tô. Cô gái rùng mình đảo mắt sang phía bên kia sân trước nhà thờ. Một gã đàn ông bất ngờ quay đầu lại. Hắn nhìn cô chăm chăm. Cô chắc chắn điều đó. Đây là lần thứ hai cô nhận ra hắn trong buổi sáng hôm nay, nhưng cô biết, từ rất xa xôi trong ký ức, cô đã gặp hắn ở đâu đó. Mặt trắng như sáp, tóc bạc, ria mép lưa thưa và gọng kính nhỏ bằng dây sắt. Cô đã gặp hắn ở đâu vậy nhỉ? Âm thanh lớn của bộ đàn ống đưa cô trở lại với Vango. Giờ phút trọng đại đã đến. Vị hồng y già đứng dậy và đi xuống phía những người vận đồ trắng. Ông gạt cái ô mà người ta giơ ra để che cho ông, ông gạt cả những bàn tay muốn đỡ ông bước xuống bậc thềm. - Cứ để mặc ta! Ông nắm cây trượng tổng giám mục nặng trịch của mình và mỗi bước đi của ông như thể một điều kỳ diệu. Vị hồng y đã già và yếu. Buổi sáng hôm đó, Esquirol, bác sĩ của hồng y, không cho phép ông tổ chức buổi lễ. Hồng y mỉm cười đuổi hết mọi người ra, rồi ông dậy, ra khỏi giường để mặc quần áo. Lúc chỉ còn một mình, ông mới cho phép mình rên rỉ mỗi khi cử động. Còn ở chỗ đông người, ông là một khối đá. Lúc này, ông đang bước xuống bậc, dưới trời mưa. Hai tiếng trước, khi thấy những đám mây đen lớn dần, mọi người nài nỉ ông nên tổ chức buổi lễ bên trong nhà thờ. Lại một lần nữa, ông không nghe. Ông muốn buổi lễ diễn ra bên ngoài, trước thế giới mà những người trẻ tuổi kia sẽ sống trọn cả cuộc đời mình. - Nếu họ sợ bị cảm, họ nên chọn cái nghiệp khác. Họ sẽ lại gặp những cơn bão khác mà thôi. Đến bậc cuối cùng, vị hồng y dừng lại. Ông là người đầu tiên nhận thấy sự nhốn nháo trên quảng trường. Phía trên, Simon, người gác chuông, chẳng mảy may nghi ngờ gì. Ông quẳng trứng vào nước và bắt đầu đếm. Ai có thể nói được điều gì sẽ xảy ra trong thời gian vừa đủ để chần một quả trứng cơ chứ? Ba phút để làm thay đổi một số phận. Trong khi nước đang sôi lại, tiếng rì rầm như tiếng nước sủi từ những hàng sau cùng bắt đầu lan ra cả đám đông. Cô gái trẻ lại rùng mình. Xảy ra chuyện gì trong sân trước nhà thờ rồi. Vị hồng y ngẩng đầu lên. Khoảng hai chục người đang rẽ lối đi giữa đám đông. Tiếng xì xào to hơn. Người ta nghe thấy cả những tiếng kêu la. - Để họ đi qua! Bốn mươi tu sĩ không hề động đậy. Chỉ riêng Vango quay đầu sang một bên, áp má và tai lên đất giống như chàng chiến binh Apache đang nghe ngóng. Cậu nhìn thấy những bóng người đang di chuyển sau hàng đầu tiên. Tiếng xì xào rõ hơn. - Chuyện gì xảy ra vậy nhỉ? - Tránh ra nào! Dân chúng hoài nghi. Hai tháng trước, những vụ bạo động tại quảng trường Concorde đã gây ra chết chóc và làm hàng trăm người bị thương. - Cảnh sát đấy…, một phụ nữ kêu lên để trấn an đám đông. Họ đang tìm ai đó. Những con chiên cố gắng dập tắt tiếng ồn ào. - Suỵt… Có im đi không nào. Năm mươi chín giây. Dưới tháp chuông, Simon vẫn đếm. Ông nghĩ đến Clara bé nhỏ, cô ấy hứa là sẽ đến mà. Ông nhìn bộ đồ ăn cho hai người được bày trên cái hòm. Ông nghe thấy tiếng réo rắt từ chiếc xoong trên bếp. Một tu sĩ vận áo dài trắng tiến lại gần hồng y và thì thầm vào tai ông. Ngay phía sau họ, một người đàn ông thấp, béo cầm mũ trên tay. Đó là cảnh sát trưởng Boulard. Người ta nhận ra mí mắt chảy xệ như mắt của một con chó già nua, cái mũi đánh hơi, hai gò má hồng và nhất là hai đồng tử sáng rực lanh lẹ của ông. Auguste Boulard. Điềm tĩnh, dưới cơn mưa rào tháng Tư, ông đang rình từng cử động nhỏ nhất của đám người trẻ tuổi nằm rạp trên đất kia. Một phút hai mươi giây. Chính lúc đó, một người trong số họ đứng dậy. Cậu không quá cao lớn. Chiếc áo dài nặng trĩu nước mưa. Khuôn mặt đầm đìa nước. Cậu quay một vòng tại chỗ giữa những cơ thể không hề nhúc nhích. Từ mọi phía, cảnh sát mặc thường phục xổ ra khỏi hàng và tiến một bước về phía cậu. Cậu thanh niên nắm hai tay, rồi lại thả ra. Trong mắt cậu, dường như gói trọn tất cả mây đen trên trời. Cảnh sát trưởng hô to: - Vango Romano? Chàng trai nghiêng đầu. Trong đám đông, ở một chỗ nào đó, đôi mắt xanh đang đảo tứ phía, giống như mấy con bướm bị mắc lưới. Người ta muốn gì ở Vango chứ? Rồi Vango bắt đầu chuyển động. Cậu bước qua những người bạn và tiến về phía cảnh sát trưởng. Đám cảnh sát tiến dần lại. Vừa bước, Vango vừa cởi lớp khoác màu trắng khỏi chiếc áo dài và xuất hiện trong bộ đồ đen. Cậu dừng lại trước mặt hồng y, quỳ gối. - Hãy tha thứ cho con, thưa cha. - Con đã làm gì vậy, Vango? - Con không biết, thưa cha, xin cha hãy tin con. Con không biết mà. Một phút năm mươi giây. Vị hồng y già bám chặt tay vào cây trượng. Ông tì cả người lên đó, cánh tay và vai quấn lấy thân gỗ nạm vàng, tựa như dây thường xuân quấn lấy thân cây vậy. Ông buồn bã nhìn xung quanh. Ông thuộc tên từng người trong số bốn mươi con người trẻ tuổi này. - Cha tin con, đứa con bé bỏng của ta, nhưng ta sợ ở đây chỉ có mỗi mình ta thôi. - Thế đã là nhiều rồi, nếu cha thật sự tin con. - Không đủ đâu con, vị hồng y thì thầm. Hồng y nói đúng. Boulard và quân của ông ta chỉ còn cách có vài bước. - Hãy tha thứ cho con, Vango van nài một lần nữa. - Con muốn ta tha thứ gì đây, trong khi con chẳng gây ra chuyện gì? Khi cảnh sát trưởng Boulard, ở ngay đằng sau, đặt tay lên vai cậu, Vango trả lời hồng y: - Đây là những gì mà con muốn cha tha thứ… Và, bằng bàn tay rắn chắc, cậu tóm tay cảnh sát trưởng, đứng dậy bẻ quặt cánh tay ông ra sau lưng. Cậu ném ông về phía một nhân viên cảnh sát. Bằng vài bước nhảy, Vango thoát khỏi hai cảnh sát đang lao về phía cậu. Viên cảnh sát thứ ba giơ súng lên. - Đừng bắn, Boulard hét, vẫn nằm trên đất. Tiếng hét lớn làm đám đông trở nên hỗn loạn, nhưng chỉ cần giơ lòng bàn tay lên, hồng y khiến đám đông im bặt. Vango vượt lên mấy bậc thềm. Đám lễ sinh vừa hét vừa chạy toán loạn khi cậu đi qua. Toán cảnh sát ngỡ như đang băng qua một sân trường. Mỗi bước chân, họ lại vấp phải một đứa trẻ hoặc bị một cái đầu tóc vàng húc vào bụng. Boulard gào lên với hồng y: - Cha nói chúng xếp thành hàng đi chứ! Bọn này nghe lời ai đây? Hồng y chỉ ngón tay lên trời, thích thú. - Chỉ Chúa thôi, thưa ngài cảnh sát trưởng. Hai phút ba mươi giây. Vango đã đến trước cửa chính nhà thờ. Cậu trông thấy một người phụ nữ thấp, hơi đậm người, da xanh xao, biến mất sau cánh cửa và đóng lại. Cậu lao vào cánh cửa gỗ. Phía trong, then đã cài. - Mở cửa ra đi! Vango kêu to. Mở cho tôi! Một giọng nói run run trả lời cậu: - Tôi biết mình không được làm thế. Tôi xin lỗi. Tôi chẳng muốn làm điều gì không tốt. Chính người đánh chuông đã hẹn tôi mà. Phía sau cánh cửa, người phụ nữ khóc. - Mở cửa ra đi, Vango nhắc lại. Tôi thậm chí chẳng biết chị đang nói gì nữa. Tôi chỉ nhờ chị mở cửa thôi mà. - Ông ấy có vẻ tốt bụng… Tôi xin cậu. Tôi tên là Clara. Tôi không phải là người hư hỏng đâu. Vango nghe thấy tiếng cảnh sát ở đằng sau. Cậu cảm thấy đôi chân mình mềm nhũn. - Chị ơi, tôi không trách gì chị đâu. Tôi chỉ cần chị giúp thôi mà. Mở cửa cho tôi đi. - Không… Tôi không thể… Tôi sợ. Vango quay người lại. Mười người đàn ông đã đứng đó, thành hình vòng cung quanh cánh cửa chạm trổ. - Không được nhúc nhích, một người trong số họ nói. Vango tựa lưng sát cánh cửa ánh đồng. Cậu thì thầm: - Bây giờ thì, chị ơi, muộn quá rồi. Đừng có mở cửa nữa đấy. Đừng mở, dù với bất kỳ lý do gì. Tôi sẽ đi đường khác. Cậu tiến một bước về phía đám người đó, rồi quay lại và ngước mắt lên. Đó là cánh cửa Phán Quyết. Cậu biết nó quá rõ. Một viền đá chạm trổ quanh cánh cửa. Bên phải, là những kẻ bị đày xuống địa ngục. Bên trái, là thiên đường và những thiên thần. Vango thích con đường của những thiên thần hơn. Lúc này, cảnh sát trưởng Boulard đã đến nơi. Ông suýt ngất xỉu khi chứng kiến những gì đang diễn ra. Trong vòng chưa đầy một giây, Vango Romano đã leo qua những hàng tượng đầu tiên. Cậu cách mặt đất năm mét. Ba phút. Simon, người gác chuông, chẳng nhìn thấy gì, đang lấy muôi vớt trứng ra. Dường như Vango không trèo, mà đang từ từ trườn trên bức tường mặt tiền nhà thờ. Ngón tay bám chặt vào những hình chạm nổi nhỏ nhất. Tay và chân cậu di chuyển dễ dàng. Như thể cậu đang bơi theo chiều thẳng đứng. Đám đông nhìn cậu, miệng há hốc. Một phụ nữ ngất xỉu và ngã lăn khỏi ghế như một mảnh vải. Dưới chân bức tường, đám cảnh sát đang nháo nhác tứ phía. Cảnh sát trưởng sững sờ. Phát súng đầu tiên vang lên. Boulard lấy được chút hơi để quát: - Dừng lại! Tôi đã nói các anh không được bắn cơ mà. Nhưng có viên cảnh sát nào rút súng ra đâu. Một người còn chìa vai cho đồng nghiệp trèo lên nhưng không được. Mấy gã đàn ông tội nghiệp leo được không quá tám mươi xăng ti mét so với bậc thềm, số khác đang cố gắng lấy móng tay cậy cánh cửa nặng hai tấn. Lại một tiếng nổ nữa. - Ai bắn? Boulard gào lên, tóm lấy cổ một tay cấp dưới. Tìm cho tôi kẻ nào đã bắn đi, thay vì các anh cứ bám riết lấy cánh cửa này. Các anh muốn vào làm gì cơ chứ? Để thắp nến à? - Chúng tôi nghĩ sẽ tóm được hắn trên tháp, thưa cảnh sát trưởng. - Có cầu thang ở hướng Bắc đây, Boulard nổi xung chỉ ngón tay sang bên trái. Rémi và Avignon ở lại với tôi. Tôi muốn biết ai đang bắn con gà gô của mình. Vango đã lên đến hành lang Vua. Cậu đứng dậy và bám vào một cái cột. Cậu thở nhẹ nhàng. Trên gương mặt cậu, sự quyết tâm xen lẫn nỗi tuyệt vọng. Cậu nhìn xuống sân trước nhà thờ. Hàng nghìn con mắt mở to đang dõi theo cậu. Một viên đạn làm nổ tung chiếc vương miện bằng đá, ngay sát tai cậu, làm văng bụi trắng lên má cậu. Cậu nhìn thấy, ở phía dưới, viên cảnh sát trưởng đang quay tròn như một gã điên. - Ai đã làm thế? Boulard gào lên. Không phải cảnh sát bắn cậu. Vango nhanh chóng hiểu ra điều đó. Cậu còn có những kẻ thù khác trên quảng trường này. Cậu tiếp tục trèo, bằng vài động tác, cậu đã lên đến chân ô cửa kính hoa hồng. Lúc này, cậu đang leo trên một mảng kính ghép màu đẹp nhất thế giới, giống như một chú nhện trượt trên mạng vậy. Phía dưới, đám đông câm lặng. Cô ở đó, lặng thinh, bị thôi miên khi nhìn chàng trai bám vào mảng kính ghép màu phía Tây nhà thờ Đức Bà. Lũ chim nhạn bay thành đội tàu nhỏ siết chặt quanh cậu, như thể để bảo vệ Vango bằng những tấm thân bé nhỏ phủ lông vũ của chúng. Nước mắt lưng tròng, Simon, dưới tháp chuông, đang dùng dao bóc quả trứng đầu tiên. Lại một lần nữa, cô ấy không đến. - Đời thật buồn, ông nhẹ nhàng nói. Khi nghe thấy cầu thang gỗ dẫn lên gác chuông kêu cọt kẹt, ông dừng lại và ấp úng: - Cô đó hả? Ông nhìn quả trứng thứ hai. Luống cuống, trong giây lát, ông ngỡ như hạnh phúc đang ở ngoài cửa. - Clara? Cô đấy ư? - Cô ấy đợi ông phía dưới. Đó là Vango, viên đạn sau cùng sượt qua sườn khi cậu đặt chân lên hành lang Quái vật đầu sư tử. - Cô ấy cần ông, cậu nói với người gác chuông. Simon cảm thấy có cái gì đó vui vui trong lồng ngực. Từ trước đến nay có ai cần ông đâu. - Thế còn cậu? Cậu là ai? Cậu đang làm gì ở đây? - Cháu không biết, Vango nói. Cháu chẳng biết gì. Cháu cũng thế, cháu cần ông. Trên quảng trường, cô gái trẻ kia, người có đôi mắt xanh và khoác chiếc áo măng tô màu tro, đang vùng vẫy trong đám đông. Lúc Vango bỏ chạy, cô phát hiện gã đàn ông có khuôn mặt sáp ong đang rút súng ra khỏi áo choàng. Cô lao đến nhưng đám đông nhộn nhạo không cho cô tiến bước. Khi cô sang đến phía bên kia, hắn không còn ở đó nữa. Cô không còn chút gì của hình ảnh mèo con sướt mướt mà người ta thấy trước đó. Cô đã biến thành con sư tử xổng chuồng, hất tung mọi thứ trên lối đi. Sau đó, cô nghe thấy phát súng đầu tiên. Lạ thay, cô hiểu ngay là nó nhằm vào Vango. Phát súng thứ hai, mắt cô hướng về phía bệnh viện Hôtel-Dieu, bao lấy mạn Bắc quảng trường. Rồi cô nhìn thấy gã đàn ông. Hắn chót ở tầng hai. Khẩu súng ngắn vươn ra từ sau một tấm kính vỡ và trong bóng tối, phản chiếu khuôn mặt lạnh lùng của kẻ sát nhân. Chính hắn. Cô phóng ánh mắt lên cao. Vango đang giữ thăng bằng. Ông trời vừa kéo cậu ra khỏi định mệnh vào phút cuối. Đối với cô, ngược lại, một lần nữa, tất cả đều trở nên có thể. Với điều kiện cậu ấy còn sống. Cô gái mắt xanh lao về phía bệnh viện. Đột nhiên, trên bầu trời nhà thờ Đức Bà, xuất hiện một con quái vật khổng lồ. Nó gần như làm cho đám đông quên đi những gì đang xảy ra trên mặt đất. Dài và uy nghi như nhà thờ, láng bóng nước mưa, một quả khí cầu xuất hiện. Nó choán cả bầu trời. Ở mặt trước cabin chắn kính, Hugo Eckener, viên chỉ huy lớn tuổi của Khí cầu Graf, đang dõi mắt tìm kiếm bóng dáng bạn ông trên sân trước nhà thờ. Từ Braxin trở về, trên đường tới hồ Constance, ông đã chuyển hướng quỹ đạo bay của khí cầu qua Paris, để cái bóng của khí cầu vuốt ve thời khắc trọng đại ấy của cuộc đời Vango. Đến phát súng thứ ba, ông hiểu rằng có điều gì đó chẳng lành. - Phải đi thôi, thưa chỉ huy, đội trưởng Lehmann nói. Một viên đạn lạc suýt nữa làm thủng quả bóng mà trong cái vỏ rực rỡ của nó chứa đến sáu mươi hành khách và phi hành đoàn. Tiếng nổ sau cùng vang lên dưới mặt đất. - Nhanh lên, chỉ huy… Eckener hạ kính xuống buồn bã nói: - Ừ thôi, chúng ta đi vậy. Phía dưới, một con chim nhạn chết rơi xuống chân Boulard. Và chuông nhà thờ Đức Bà bắt đầu điểm. Mời các bạn đón đọc Vango - Giữa Trời Và Đất của tác giả Timothée de Fombelle & Hà Thảo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đấu Trường Đen - Mario Puzo
Tác giả của tiểu thuyết Bố già lừng danh tiếp tục cho ra mắt bạn đọc cuốn Đấu trường đen. Tác phẩm lấy bối cảnh nước Đức sau Thế chiến thứ II, với không gian trải rộng từ nước Mỹ xa xôi tới tận Berlin hoang tàn đổ nát. Cuốn sách kể về cuộc đời của Mosca, chàng cựu chiến binh trẻ với tâm hồn chai sạn vì hội chứng chiến tranh chán ngán rời bỏ nước Mỹ quay lại Berlin đổ nát để bắt đầu xây dựng cuộc sống mới, cũng để tìm lại cô gái Đức mà anh tình cờ gặp trong cuộc chiến... Đấu trường đen còn là bản mô tả đời sống Berlin sau chiến tranh hết sức chân thực, sống động với những vụ áp phe chợ đen, buôn lậu, những thủ đoạn lừa đảo..., và những tình bạn chân thành, những mối quan hệ nồng ấm tình người. Liệu tình yêu của cô gái Đức có làm mềm lại tâm hồn chai sạn của Mosca? Sự hỗn loạn sẽ kéo dài trong bao lâu?... Đấu trường đen sẽ lý giải tất cả.   Đấu Trường Đen chỉ với 300 trang, hơn mười nhân vật chính và một ít nhân vật phụ... thế mà cuốn sách bao trùm không gian rộng lớn, đủ sức đánh dấu sự kiện lịch sử mang tính chủ đề lên án chiến tranh và kêu gọi loài người muốn sống phải loại trừ chiến tranh. Đấu Trường Đen gợi lại hậu quả chiến tranh qua ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật, có sức thấm sâu, tạo xúc tác lớn... Toàn bộ cuốn sách là lời cảnh tỉnh bọn hiếu chiến ích kỷ khi ngọn triều chiến tranh chưa có dấu hiệu ngưng tràn tới. Ở lĩnh vực văn học Đấu Trường Đen ngoài giá trị nghệ thuật cống hiến cho bạn đọc, còn có ích cho các nhà văn trẻ bởi tính khái quát đề tài và cấu trúc chương mục, phân bố nhân vật với đường viền hiện trường và bối cảnh lịch sử. Bản dịch khác của Nhà Xuất Bản Phương Đông là Đấu Trường U Ám. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu Trường Đen (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) ... Mời các bạn đón đọc Đấu Trường Đen của tác giả Mario Puzo.
Hoa Trái Của Niềm Đắm Say - Daniel Pennac
Daniel Pennac sinh năm 1944 tại Casablanca (Marốc). Thuở nhỏ, ông đã theo chân bố mẹ đi khắp nơi trên thế giới: châu Âu, châu Á, châu Phi… Trải nghiệm sống phong phú có được qua những chuyến phiêu lưu ấy đã góp phần không nhỏ tạo nên sự đa dạng về thể loại trong sáng tác của nhà văn: tiểu luận, tiểu thuyết trinh thám, sách cho thiếu nhi, truyện tranh, tự truyện… Daniel Pennac đặc biệt ghi dấu ấn trong nền văn học Pháp với những câu chuyện viết cho thiếu nhi. Giọng văn hài hước mà không kém phần sâu lắng, tình bạn giữa con người và loài vật, những khám phá vô cùng thú vị về thế giới “bốn chân” đã đem lại cho từng trang viết của ông sức hấp dẫn khó cưỡng đối với độc giả mọi lứa tuổi. Mới đây, Chagrin d’ecole, cuốn tiểu thuyết-tự truyện của Daniel Pennac đã được vinh danh trong lễ trao giải Renaudot 2007, giải thưởng danh giá nhất của văn đàn Pháp chỉ xếp sau Goncourt.   Cún bụi đời là một trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi thành công nhất của Daniel Pennac. Cuốn sách là minh chứng hùng hồn cho những gì được gọi là tinh tế trong cảm nhận và giản dị trong văn phong của tác giả. Sau Mắt sói, thêm một lần nữa, độc giả nhỏ tuổi Việt Nam lại có dịp tái ngộ với người thầy yêu trẻ, “người kể chuyện cổ tích hiện đại về loài vật”. *** Chín tháng sau – và lần thứ nhất trong trải nghiệm lâu dài của tôi về lĩnh vực này – tôi đã nhìn thấy một đứa bé ra khỏi bụng mẹ, lăn tròn từ phải sang trái. Một bé gái. Bố Théo bên này, bố Hervé bên kia, mẹ Thérèse trong chiếc giường trải đờ-ra tráng, lần đầu tiên nàng thấy thỏa mãn. Sau đó, vầng trán nhỏ bé của nó nheo lại và cô bé làm lại những gì nó muốn. Đứng sau Hervé, là một ứng viên thứ ba, cũng có vẻ xúc động như hai người kia. Nó có nhận ra hay không rằng ứng viên thứ ba đang ve vuốt lòng bàn tay của bố Hervé bằng lưng bàn tay của mình? Nó có nhận thấy không, phía bên kia giường, bố Théo phản đối cử chỉ đó của vị phó nhiệm Jual? Lúc nào cũng vậy, khi đôi mắt của con bé cuối cùng ngừng lại trên tôi, đôi mắt nó liền ánh lên tất cả ý thức tra hỏi về sự phức tạp của thế giới và một cầu mong nồng nhiệt xin giải thích cho nó cái phương thức sử dụng thế giới này.   - Người ta có thể nghĩ rằng nó chọn anh đấy, Benjamin ạ, Thérèse tuyên bố như vậy vừa trao con bé cho tôi.   Đó chính là một cách giải thích ký tự SOS. Cái vầng trán có lông tơ của con bé nằm đúng trong lòng bàn tay tôi; nó đang sôi lên ham muốn hiểu biết. ... Mời các bạn đón đọc Hoa Trái Của Niềm Đắm Say của tác giả Daniel Pennac.
Cuốn Sách Về Mẹ - Albert Cohen
Cuốn sách cảm động này làm sống lại hình ảnh của một người phụ nữ, một người Mẹ đã qua đời, lúc sinh thời luôn sống vì con. Đây cũng là cuốn sách của một đứa con, của tất cả những đứa con. Mỗi người sẽ thấy trong đó hình ảnh của Mẹ mình, mỗi người đang khóc thương người Mẹ đã qua đời sẽ thấy ở đây những lời dằn vặt, trách móc chính bản thân mình mỗi khi nghĩ đến những phút giây vô ơn, thờhiếu kiên nhẫn hay thiếu cảm thông. Nhưng nuối tiếc và hối hận đều đã muộn rồi. “Không đứa con nào thực sự hiểu rằng một ngày mẹ sẽ qua đời, những đứa con nào cũng nổi cáu, cũng mất kiên nhẫn với mẹ, những con người ngu dại ấy sớm bị trừng phạt rồi mới nhận ra tội lỗi của mình.” Đây là một tác phẩm xuất sắc, có một không hai mà bạn nhất định phải đọc.   Well Leon dịch  *** Albert Cohen (sinh ngày 16 tháng 8 năm 1895 tại Corfu, Hy Lạp, mất ngày 17 tháng 10 năm 1981 tại Geneva, Thụy Sĩ) là một tiểu thuyết gia gốc Do Thái viết bằng tiếng Pháp. Gia đình ông chuyển đến Marseille, Pháp khi ông còn là một đứa trẻ. Đến năm 1914, ông rời Marseille đến Thụy Sĩ, và trở thành công dân nước này năm 1919.   So với các nhà văn Pháp cùng thời, Albert Cohen chín muồi khá muộn. Mãi tới năm bốn mươi tuổi ông mới có tác phẩm đầu tay. Và một điều lạ lùng nữa là trong suốt ba mươi lăm năm ông chỉ viết bốn tiểu thuyết và ba cuốn tự thuật. Điều người ta nhận thấy trước tiên về con người và nghiệp văn của Cohen là ở chỗ: ông là một con người tài tử, một diễn viên lớn đã nói về chính mình trong tác phẩm, nói khác đi, nhân vật của ông chính là ảnh phản chiếu trung thành con người nhà văn. Xuyên suốt các tiểu thuyết và tự thuật của ông là một sự châm biếm, là tính hài hước, là cái cười nhạo, thể hiện rõ rệt một thị hiếu tốt đẹp và rất Pháp. Qua tập hợp tiểu thuyết của ông người ta nhận thấy rõ truyện của ông kể giống như những truyện dân gian Bắc Âu vừa đậm chất anh hùng ca vừa hài hước nhưng lại viết về cuộc sống của những người Do thái sống trong các quốc gia Châu Âu, vào những năm ba mươi của thế kỷ XX>   Tiểu thuyết lớn nhất của ông Belle du Seigneur (Người đẹp của Đức Chúa trời 1968)  một trong những chuyện tình đẹp nhất trong văn học kể về những ngày lưu đày và bị săn đuổi của nhân vật chính, chàng trai Do Thái Solal, ở Paris năm 1963, thời điểm mà làn sóng bài trừ dân Do Thái đang dâng cao ở Châu Âu. Tác phẩm của Cohen không ngừng mơ ước và tìm kiếm một thế giới mà trong đó những người Do Thái được sống trong tình thương yêu thực sự, trong tình anh em bè bạn với tất cả các dân tộc khác trên thế giới này.   Một số tác phẩm:   Solal (1930) được dịch ra với tên Solal of the Solals  (1933)  Mangeclous (1938) Nailcruncher (1940)  Le livre de ma mère (1954) Book of my Mother (1997)  Belle du Seigneur (1968) được dịch sang tác phầm cùng tên (1995)  Les valeureux (1970)  Ô vous, frères humains (1972) O Humans, My Brothers  Carnets (1978, 1979) Notes  *** Thật đáng ngợi khen các bà mẹ của mọi đất nước, ngợi khen các mẹ thông qua em gái các mẹ là mẹ của tôi, thông qua cái uy nghi của mẹ quá cố của tôi. Hỡi các bà mẹ trên trái đất, các bà mẹ, con xin chào các mẹ, các mẹ già yêu quý, các mẹ đã dạy chúng con buộc dây giầy, đã dậy chúng con hỉ mũi, vâng, đã dậy chúng con phải thổi vào khăn tay và kêu lên xì xì như các mẹ kiên trì đút từng thìa bột mà chúng con những hài nhi làm bộ làm điệu mãi rồi mới chịu, các mẹ để động viên chúng con nuốt những quả mận luộc đã giải thích cho chúng con rằng quả mận là những tên da đen nhỏ bé muốn trở về nhà, thế là cái thằng nhóc, sung sướng và bỗng nhiên thơ mộng mở cửa nhà, các mẹ đã dạy chúng con xúc miệng và kêu lên “hơ hơ” để động viên chúng con và chỉ cho chúng con, các mẹ không ngừng sắp đặt những lọn tóc xoăn của chúng con và những cái cà vạt của chúng con để cho chúng con xinh đẹp trước những cuộc viếng thăm hoặc trước khi chúng con đến trường, các mẹ không ngừng cho chúng con ăn mặc kỳ cục và trang điểm công phu cho lũ con trai nhỏ ngốc nghếch của các mẹ, rửa ráy cho chúng con, nào là đầu gối dây đất bẩn thỉu và trầy da, nào là những cái mũi dơ dáy của lũ nhóc thò lò mũi xanh, các mẹ không ghê tởm chúng con, các mẹ luôn luôn yếu đuối với chúng con, rộng lượng khoan hồng khi sau này các mẹ để cho các chàng trai con các mẹ phỉnh phờ rồi cho chúng tất cả những món tiền dành dụm của các mẹ, con chào các mẹ. Con chào các mẹ, các bà mẹ đầy duyên dáng, dũng cảm và nhân hậu, nhiệt tình và yêu thương, các mẹ với cặp mắt xét đoán, các mẹ biết ngay nếu có kẻ ác gây ra cho chúng con điều phiền muộn, các mẹ là những người duy nhất mà chúng con có thể tin tưởng và các mẹ không bao giờ phản bội chúng con, con chào các mẹ, các mẹ không ngừng nghĩ đến chúng con ngay cả trong giấc ngủ của các mẹ, các mẹ luôn luôn tha thứ và xoa trán chúng con bằng bàn tay nhăn nheo, các mẹ đợi chúng con, các mẹ luôn luôn ở cửa sổ để nhìn chúng con ra đi, các mẹ cho rằng chúng con không thể có gì so sánh được và là độc nhất, các mẹ không bao giờ chán việc phục vụ chúng con, nào là mặc quần áo cho chúng con, nào là giắt giường cho chúng con ngay cả khi chúng con đã tứ tuần, các mẹ không yêu chúng con ít hơn nếu chúng con có xấu xí, hư hỏng, thất bại, yếu hèn, các mẹ đôi khi làm cho con tin tưởng ở Chúa.   Mời các bạn đón đọc Cuốn Sách Về Mẹ của tác giả Albert Cohen.
Thợ Bánh Samurai - Araki Gen
Cuộc sống của Yusa Hiroko,người mẹ đơn thân làm nghề kỹ sư hệ thống là những chuỗi ngày quay cuồng giữa công ty và gia đình. Trong một ngày như thế, cô tình cờ bắt gặp trước cửa siêu thị người đàn ông kỳ lạ có lối phục sức ngỡ như bước ra từ một bộ phim dã sử. “Anh ta có một chỏm tóc búi chonmage cột trên đỉnh đầu, mặc chiếc quần ống rộng hakama bên ngoài áo kimono, hình như trên thắt lưng còn đeo hai thanh kiếm.” Vào giây phút đó, Hiroko chẳng hề hay biết, người đàn ông lạ lùng là một samurai từ 180 năm trước vượt thời gian tới Tokyo hiện đại, và cuộc gặp gỡ định mệnh sẽ làm đảo lộn cuộc sống của hai mẹ con… Cuốn sách gợi nhắc về những giá trị nhỏ bé ấm áp tưởng chừng đã bị quên lãng, như một chiếc bánh ngon để lại trong lòng độc giả dư vị hân hoan và ngọt ngào khôn tả.  *** Yusa Hiroko không thể dừng lại quan sát kỹ người đàn ông nọ, bởi lẽ cô đang rất vội. Thế nhưng phải nói bộ dạng anh ta lạ lùng quá thể. Tomoya thoạt trông thấy anh ta thì reo lên vẻ thích thú lắm “Mẹ ơi, người ngày xưa kìa!”. Nhưng Hiroko chỉ giục con “Rồi, mẹ biết rồi, nhanh chân lên nào con” rồi liếc “người ngày xưa” một cái. Quả thật, trước cánh cửa cuốn hẵng còn đóng kín mít của siêu thị Tomiya, có một người đàn ông đang đứng sừng sững, với lối phục sức ngỡ như vừa bước ra từ một bộ phim dã sử. Anh ta có một chỏm tóc búi chonmage* cột trên đỉnh đầu, mặc chiếc quần ống rộng hakama* bên ngoài áo kimono, hình như trên thắt lưng còn đeo hai thanh kiếm. Nói “hình như” không phải bởi Hiroko chẳng hứng thú gì lắm với người đàn ông nọ mà vì cô đang phải mải mốt cho kịp giờ. Cô chỉ kịp liếc anh ta một cái, đáp lại Tomoya một câu cho có “Ơ đúng thật nhỉ, người ngày xưa kìa”, rồi hớt hải kéo tay con chạy đi. Sáng nay Hiroko phải tất tả như thế, nguyên do chính là bởi cô ngủ dậy muộn. Tối qua cô phải căng mắt đến gần ba giờ sáng để giải quyết mớ công việc mang về nhà, nhưng để đến mức dậy muộn rồi tới trễ vào ngày dã ngoại của nhà trẻ thì đương nhiên không thể biện minh được. Hiroko vội vội vàng vàng làm cơm nắm từ cơm còn thừa hôm qua, rán xúc xích, trứng cuộn cho vào hộp cơm rồi đặt cả vào ba lô. Đáng lý ra cô đã có thể xoay xở đến kịp giờ tập trung tại nhà trẻ, nhưng đúng lúc vừa chuẩn bị bước ra khỏi nhà thì Tomoya kêu toáng lên “Đi ị!”. “Đến nhà trẻ rồi hẵng đi con?” “Không được đâu mẹ.” “Không nhịn được thật à?” “Ra quần mất mẹ ơi!” Tomoya đứng ngay tại chỗ, tụt một lúc cả quần dài và quần sịp xuống. Hiroko thẫn thờ nhìn theo cặp mông như hai trái đào của thằng bé biến mất vào toilet. “Tại sao ban nãy không đi hả con?” Hiroko rên rẩm như sắp khóc tới nơi trước cửa nhà vệ sinh. Ấy vậy mà Tomoya nói vọng ra, chẳng tỏ vẻ sốt ruột gì: “Nhưng mà bây giờ con mới buồn thì biết làm thế nào được?” Thằng bé ở trong nhà vệ sinh lâu thật lâu. Đến lúc xong xuôi cũng phải mất tận sáu phút, xỏ quần sịp rồi quần dài vào lại mất thêm một phút nữa. Khi hai mẹ con tới được nhà trẻ thì lớp Hoa Ly đã khởi hành tới ga Otsuka mất rồi. “Nếu nhanh lên khéo vẫn kịp giờ tàu chạy đấy!” Nghe giáo viên ở lại trực nói thế, Hiroko cúi gập đầu cảm ơn, đoạn cầm tay Tomoya lao ra khỏi nhà trẻ. Cô hối hận vì đã không đi xe đạp, nhưng bây giờ về chung cư lấy xe thì lại muộn quá. Hôm nay bọn trẻ đi dã ngoại tại công viên Otomeyama ở Mejiro. Nếu không bắt kịp tàu ở ga Otsuka chắc Hiroko phải tự đưa con ra tận đó mất. Như thế thì sẽ muộn giờ làm. Dữ liệu phải có trong sáng sớm nay nên tối qua Hiroko thức khuya giải quyết cho xong, chính vì thế cô mới ngủ dậy muộn để rồi mọi sự thành ra nông nỗi này. Nhỡ không kịp giờ họp nữa thì... Cô đúng là kẻ dở hơi điển hình. Tâm trí ngổn ngang nên Hiroko chẳng còn hơi sức đâu để tâm đến người đàn ông kia nữa. Đàn ông có bộ dạng dị hợm bây giờ có phải chuyện hiếm đâu. Nhất là ở cái đất Tokyo này, nếu cứ ngạc nhiên về mấy chuyện con con kiểu đó chắc thần kinh cũng chẳng trụ được lâu. Kể cả có bận đồ như samurai hay hóa trang thành Godzilla đi lại trên phố thì cũng chẳng phải chuyện phạm pháp gì. Có khi anh chàng kia đang đóng phim dã sử ở một ngôi đền quanh đây cũng nên. Mà thực ra Hiroko cũng chẳng biết rõ liệu có đền chùa gì gần đây hay không. Buồn thay, tất cả những việc Hiroko thầm mong sẽ tránh được đều biến thành sự thực hết. Chỉ có Tomoya cứ nghĩ mẹ cũng đi dã ngoại cùng mình nên hớn hở vui sướng lắm. Chẳng bù cho tâm trạng của mẹ nó bây giờ đang đục ngầu như bùn ở vịnh Tokyo. Bị sếp mắng, Hiroko lại khúm núm cúi đầu xin lỗi, đến giờ nghỉ trưa cũng chẳng thiết ăn uống gì. Nhưng có buồn nữa thì công việc cũng chẳng vơi đi cho. Khi nhận ra thì việc phải xử lý đã lại dồn đống như núi. Mà cũng chẳng làm thêm giờ được vì còn phải đi đón Tomoya. Sao một ngày lại ngắn như thế được nhỉ. “Đi làm thì muộn mà đi về đúng giờ thế?” Hiroko rời công ty với câu nói mát mẻ của sếp văng vẳng bên tai. Cô lết đôi chân mỏi mệt, một lần nữa đứng trước sân ga Otsuka. Người đàn ông kỳ lạ ban sáng đã hoàn toàn biến mất khỏi tâm trí Hiroko. Trước khi tới ga cô có tạt qua siêu thị Tomiya để mua há cảo, rau diếp, bánh flan hiệu Pucchin và sữa tươi nhưng anh chàng kia đã không còn ở đó nữa. Hiroko cũng chẳng hề nhớ tới anh ta. Trước khi mở cổng nhà trẻ, Hiroko giấu tạm túi đồ cô mới xách về từ Tomiya vào bụi cây rậm rạp gần đấy. Ghé mua đồ trước khi đón con tiện hơn nhiều thật, nhưng vẫn là trái quy định. Nhưng nếu tuân thủ đúng quy định, Hiroko sẽ phải dắt con từ nhà trẻ vòng lại Tomiya. Chưa kể cô cũng không thích thú gì viễn cảnh bị Tomoya vòi vĩnh đòi mua kẹo hình nhân vật yêu thích. Phát hiện ra mẹ đang đứng đợi trên sân trường, Tomoya liền chạy như bay tới. Thằng bé tíu tít “Con chào mẹ ạ”, rồi ôm chầm lấy cô. Trong giây phút ấy, bao nhiêu mệt mỏi tích tụ trong Hiroko bỗng dưng tan biến hết cả. “Hôm nay đi dã ngoại có vui không con?” “Vui lắm mẹ ạ!” “Vui chừng nào?” Tomoya dang hai cánh tay ra, hào hứng nói “Mẹ mà đi cùng thì còn vui nữa cơ”. Hiroko chỉ còn biết gượng cười. Hai mẹ con nắm tay nhau, cùng đi bộ quãng đường từ nhà trẻ về chung cư mất tầm năm phút. Đến nửa đường, Tomoya rủ mẹ chơi trò đuổi bóng*. “Để tôi đây làm quỷ mẹ nhé.” ... Mời các bạn đón đọc Thợ Bánh Samurai của tác giả Araki Gen.