Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bỗng Dưng Muốn Sống

Với bốn cuốn tiểu thuyết đã xuất bản dạng khổ lớn và ba cuốn dạng sách bỏ túi, Laurent Gounelle đã hai lần được ghi tên trong bảng xếp hạng 10 tiểu thuyết gia bán được nhiều sách nhất tại Pháp. Trong bảng top 10 năm 2014, do tuần báo Le Figaro bình chọn, anh đứng ở vị trí thứ 10 với 430.000 cuốn sách đã được bán. Là một chuyên gia về môn Khoa học nhân văn, được đào tạo tại Pháp và Hoa Kỳ, là diễn giả thường xuyên của các trường đại học, Laurent Gounelle đi khắp nơi trên thế giới để gặp gỡ, trò chuyện. Và trong mỗi dịp ấy, anh quan sát, ghi nhận từ mỗi người, theo cách của mình, đem đến những luồng sáng, những lời giải thích cho vấn đề cốt lõi nhất: làm sao để tinh thần thăng hoa và đem lại cho cuộc sống một ý nghĩa tích cực. Tôi đã rất ấn tượng và bị cuốn hút trước sự đam mê của anh đối với nền triết học phương Đông, mà theo tôi, anh đã thẩm thấu khá sâu đậm. Trong tác phẩm của mình, anh luôn nhấn mạnh đến sự sống chậm, đến thiên nhiên, đến những gì mà từ ngàn đời Tạo hóa ban tặng cho chúng ta. Laurent Gounelle phân tích một cách thuyết phục những bất cập của cuộc sống hiện đại luôn hối hả, xô bồ và chỉ ra mặt trái của sự toàn cầu hóa… Những phát triển của ngành công nghệ đã dần dần bào mòn đi khả năng cảm thụ và thấu cảm của con người. Cảm xúc trở nên lạnh lẽo, nhạt nhòa hơn khi ta bấm trên bàn phím một tin nhắn, một lá thư điện tử để hỏi thăm nhau thay bằng đến gặp nhau trò chuyện như trước kia. Nhiều thuần phong mỹ tục cũng bị cơn bão công nghệ cuốn dần đi. Anh cho rằng niềm vui, hạnh phúc, sung sướng hay khổ đau đều đến từ chính ta, ta suy nghĩ hay nhìn cuộc sống của mình như thế nào thì nó sẽ ra thế ấy. Trong cuốn sách Bỗng dưng muốn sống này, nhân vật chính Jonathan, là một người đàn ông trẻ đầy tham vọng và tràn trề nhựa sống, nhưng đang gặp rắc rối trong cuộc sống gia đình và công việc. Anh là đồng sở hữu một văn phòng bảo hiểm. Công việc bề bộn cùng những áp lực về doanh thu, về thu nhập và nhu cầu trong cuộc sống đã khiến anh bị cuốn vào một đời sống đơn điệu, sa vào những mánh khóe chiêu dụ khách hàng để có được các hợp đồng. Và rồi anh cùng gia đình bé nhỏ của mình bị rơi vào một cái bẫy do chính cộng sự giăng ra hòng mua rẻ số cổ phần của anh trong công ty. Đúng lúc bẫy vừa chụp xuống lưng chừng thì anh nhận được lời dự đoán của một cô gái Bô-hem: “Anh sắp chết…!”. Từ chỗ hoang mang lo sợ, chán nản, buông xuôi rồi từ từ thay đổi góc nhìn, cách cảm nhận cuộc sống, xoay chuyển tư duy và mục tiêu kinh doanh, âm thầm làm những điều thiện lành nho nhỏ mang lại niềm vui bất ngờ cho người khác, Jonathan đã “ngộ” ra được giá trị của sự an lạc. Khi hành động mang lại lợi ích, hạnh phúc cho người xung quanh, anh đã tự tạo ra được nguồn cảm hứng cho những ngày mới tràn đầy năng lượng. Anh đã không còn cảm thấy sợ cái chết. Nhưng hơn bao giờ hết, anh bỗng dưng khao khát được sống - một cuộc sống năng động mà an nhiên, từng giây từng phút gieo hạt giống yêu thương, từng khoảnh khắc nở nụ cười thân thiện, để đón trở về trong lòng mình sự thanh tĩnh, bình yên. Trải nghiệm những ngày đếm lùi để đối điện với bản án tử bí hiểm mà cô gái Bô-hem xa lạ báo trước, Jonathan cùng những phát hiện mới mẻ của mình sẽ mang lại cho bạn đọc nhiều điều bất ngờ, ẩn chứa những thông điệp kỳ diệu của cuộc sống và bạn sẽ hiểu vì sao nhân vật của chúng ta bỗng dưng muốn sống. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Paris tháng 11/2017 Hiệu Constant *** Review Yến Yến:   “Để sống thoải mái cuộc sống của mình, – Bác Margie tiếp tục lên tiếng, – điều cần thiết là lắng nghe những gi vọng tới từ sâu trong tâm hồn chúng ta. Lắng nghe những bức thông điệp thì thầm phát ra từ chính tâm hồn chúng ta. Nhưng tâm hồn chúng ta thì giống như một thiên thần, luôn thì thầm bằng một giọng quá dịu êm, quá nhỏ, đến nỗi ta phải dỏng tai lên. Cháu làm sao có thể nghe thấy nó khi cháu đứng giữa đám đông huyên náo không ngừng chứ?…” Jonathan được nhắc đến là một nhân vật chính của cuốn sách này. Có lẽ khi cầm cuốn sách này trên tay, hầu như tất cả những người trẻ đều thấy bản thân mình ở trong đó: Bị cuốn đi bởi những bận rộn của lối sống hiện đại mà không hề có thời gian cho tâm hồn được ngơi nghỉ. Jonathan là một điển hình cho một người như thế – người đàn ông trẻ đầy tham vọng và tràn trề nhựa sống. Anh đồng sở hữu một văn phòng bảo hiểm nhưng công việc bộn bề cùng với những áp lực về doanh thu, về thu nhập và nhu cầu trong cuộc sống đã khiến anh bị cuốn vào một đời sống đơn điệu. Gia đình anh bắt đầu rạn nứt và đổ vỡ. cuộc sống ngày một bế tắc thì anh lại nhận được lời dự đoán của cô gái xem đường chỉ tay Bô-hem: “Anh sắp chết!” Cuộc sống của anh ngày một lao đao hơn khi anh không thể nào thoát ra khỏi ý nghĩ về cái chết của bản thân mình. Cuối cùng anh đã quyết định nghỉ việc, tìm đến nghỉ dưỡng để tịnh tâm. Đây cũng chính là quãng thời gian anh gặp bác gái của mình – Bác Margie – người phụ nữ với những chiêm nghiệm về cuộc đời và nhân sinh đã giúp anh cảm thấy “bỗng dưng muốn sống”. Bác giúp anh hòa hợp với thiên nhiên, giúp anh hiểu được mỗi chúng ta “là những cá thể hoàn chỉnh và thiên nhiên dẫn dắt chúng ta cảm nhận điều đó một cách sâu sắc, trong khi xã hội tạo ra nơi chúng ta sự trống vắng thiếu hụt”. Bác giúp anh biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm trong tâm hồn mình, để hiểu rõ, cuối cùng thì điều thực sự mình muốn là gì? Bằng những chiêm nghiệm qua cách dẫn dắt của bác Margie về sự sống chậm, đến thiên nhiên, đến những gì mà từ ngàn đời tạo hóa ban tặng cho chúng ta đã giúp chúng ta hiều bản thân mình hơn một cách nhẹ nhàng. Từ đó, Jonathan đã cân bằng lại được cuộc sống vồn vã trước kia của mình. Anh bắt đầu dành thời gian cho bản thân mình hơn đồng thời âm thầm làm những điều thiện lành nho nhỏ để mang lại niềm vui bất ngờ cho người khác. Gửi một tách cà phê cho một cô gái ngồi âu sầu ở quán, tặng một bó hoa hồng ngẫu nhiên cho người thứ bảy bước xuống từ một chuyến tàu,… Cuối cùng, anh cũng đã ngộ ra được giá trị của sự an lạc và phá bỏ lời nguyền về cái chết của cô gái Bo-hem. Và đơn giản, ai chẳng không muốn “muốn sống” một cuộc sống tuyệt với như thế. Hiểu tận cùng nỗi đau Từ cửa sổ phòng tắm trên tầng lầu ngôi nhà nhỏ màu đỏ mà anh thuê từ gần ba tháng nay trong một con hẻm xinh xắn của thành phố San Francisco, Jonathan vừa cạo râu, vừa quan sát lũ cỏ ba lá tròn mọc nhanh một cách vô cảm trên bãi gazon*. Bãi cỏ thảm hại, vàng ủng dưới ánh nắng chói chang nghiệt ngã của mặt trời tháng Bảy, dường như đã sẵn sàng xin chào thua rồi. Dùng chất clopyralid* thì chẳng ăn nhằm gì. Từ đầu tháng phun cả một bình đầy mà không mang lại tác dụng nào. Phải nhổ thôi, từng cọng một, mình buộc phải làm thế, - Jonathan tự nhủ trong lúc bàn cạo râu điện rà rà mơn man dưới cằm trong một âm thanh rì rì không ngớt. Anh thiết tha chăm sóc khu vườn đến mức tốt nhất: khu vườn nằm sau nhà và quay hướng Nam, là sân chơi cho cô con gái nhỏ của anh, Chloé, trong kỳ nghỉ cuối tuần, khi nó về ở với bố, xen kẽ hai tuần một lần. • Gazon là dạng bãi cỏ mọc do được gieo hạt, không phải là bãi cỏ mọc tự nhiên. • Một loại thuốc diệt cỏ. Vừa tiếp tục cạo râu, Jonathan vừa kiểm tra thư điện tử trên chiếc điện thoại thông minh của mình. Những yêu cầu của khách hàng, một đơn khiếu nại, một bữa ăn trưa bị hoãn, bản báo cáo hàng tháng của ban Kế toán, một món quà tặng thương mại của Công ty Cung ứng điện thoại và vài bản thông tin mới. Quay lại trước gương, anh vớ một cây phớt nhỏ và một lọ thuốc nhuộm tóc màu đen. Rất tinh tế, anh thấm nước nhuộm lên những sợi tóc bạc đầu tiên trên đầu mình. Tuổi ba mươi sáu vẫn còn quá sớm để có thể chấp nhận dấu ấn thời gian. Anh hối hả chuẩn bị để kịp đến đúng giờ hẹn, cuộc gặp gỡ hàng ngày ở quán cà phê trên quảng trường diễn ra mỗi sáng kể từ khi thành lập công ty bảo hiểm từ 5 năm trước, ba cộng sự đều gặp nhau tại đó để dùng cà phê sáng, nhanh thôi, ngay trên mảnh sân hiên ngoài trời. Một trong ba người chính là bạn gái cũ của anh, Angela, và sự chia tay mới đây giữa anh và cô ấy đã không làm thay đổi thói quen hình như đã trở thành bất biến này. Văn phòng bảo hiểm của họ là cơ quan duy nhất trong thành phố chuyên về lượng khách hàng gồm các tiểu thương nhỏ của cả khu vực. Sau thời kỳ khởi đầu khá khó khăn, văn phòng hiện thời đã vận hành tốt và cho phép các cộng sự cùng trợ lý của họ được nhận lương tháng, dẫu khoản tiền lương ấy vẫn còn khiêm tốn. Văn phòng đã bén rễ và hứa hẹn những viễn cảnh tăng trưởng. Chắc chắn là còn phải chiến đấu và đôi khi Jonathan cảm thấy chút nản chí chợt thoáng qua tâm tưởng, nhưng anh tiếp tục tin rằng mọi chuyện đều có thể xảy ra, và những giới hạn duy nhất chính là giới hạn mà ta tự đặt cho mình. Anh bước xuống bậc tam cấp và đi ra cổng. Không khí thơm nồng phảng phất mùi sương mù mùa hè. Tình trạng khu vườn nhỏ nằm giữa ngôi nhà và đường phố cũng chẳng khá khẩm hơn khu vườn đằng sau kia. Khu vườn này quay hướng Bắc, lại bị rêu mọc ở khắp nơi. Có thư tín nằm đợi Jonathan trong thùng thư. Anh bóc một phong thư do nhà băng gửi tới. Tiền thanh toán phí sửa xe đã khiến tài khoản bị báo động đỏ. Phải nhanh chóng cứu trợ thôi. Lá thư thứ hai đến từ nhà cung ứng điện thoại. Có lẽ lại là một hóa đơn nữa… - Xin chào! Cũng ra lấy thư tín như anh, người hàng xóm chào anh với dáng vẻ hoàn toàn thư thái, điệu bộ của kẻ mà hình như cuộc sống luôn mỉm cười với hắn. Jonathan cũng chào đáp lại. Một con mèo cọ vào chân anh và miệng kêu meo meo. Jonathan cúi xuống âu yếm nó. Đó là con mèo của một bà lão ở trong khu chung cư nhỏ bên cạnh. Jonathan thường xuyên thấy nó trong vườn nhà mình, Chloé vui thích vô cùng khi gặp nó. Trên phố, con mèo liền tiến lên đi trước Jonathan rồi kêu meo meo khi đến khu chung cư, mắt ngước nhìn anh. Jonathan đẩy cánh cửa và nó lao nhanh vào bên trong, trong lúc mắt vẫn không rời khỏi anh. - Mày muốn tao đi cùng với mày ư, đúng không? Tao đang vội lắm, mày biết đó, - Jonathan nói trong lúc mở cửa thang máy. Đi nào, nhanh lên đi! Nhưng con mèo cứ đứng lì ở chân cầu thang bộ, miệng kêu meo meo nhẹ nhàng. - Mày thích đi cầu thang bộ hơn, tao biết… nhưng tao không có thời gian. Nào, đến đây đi… Con mèo chớp chớp mắt nài nỉ. Jonathan thở hắt ra. - Mày quá đáng lắm rồi đấy… Anh ôm con mèo trên tay và bước nhanh qua các bậc cầu thang lên tận tầng ba. Anh bấm chuông rồi lại đi xuống ngay mà không đợi. - A! Mày đây rồi, đồ háo chiến! - Tiếng bà cụ già vang lên. Jonathan bước nhanh trong con hẻm giữa những ngôi nhà còn ngái ngủ, rồi rẽ phải vào phố buôn bán để đến khu quảng trường nhỏ, nơi anh có hẹn. Anh chợt nghĩ đến sự kiện diễn ra hôm trước mà anh đã tham dự: chống nạn phá rừng trong vùng Amazôn. Cuộc biểu tình đã quy tụ vài trăm người tham gia và thu hút được sự chú ý của báo chí địa phương. Thoạt đầu, được thế đã là tốt rồi. Đi qua trước cửa hiệu bán đồ thể thao, anh liếc nhìn đôi giày đã trêu ngươi anh từ ít lâu nay. Tuyệt hảo nhưng đắt quá chừng. Xa hơn chút nữa, mùi bánh ga-tô nóng thơm lừng quyến rũ thoảng tới quấy nhiễu mũi anh. Mùi thơm này bay ra từ những ô cửa sổ được trổ rất khéo trên mặt tiền một cửa hiệu bánh ngọt Áo. Anh đã suýt xiêu lòng, nhưng rồi cố gắng đi nhanh hơn. Quá nhiều chất cholesterol. Trong tất cả các cuộc chiến thường nhật, thì cuộc chiến đấu chống lại những ham muốn mà người ta luôn luôn cố tình làm nảy sinh trong chúng ta, liệu đã phải là tệ hại nhất không nhỉ? Vài người vô gia cư đang nằm ngủ rải rác đây đó, dưới những tấm chăn. Ông chủ hiệu bán đồ khô người Mê-hi-cô đã mở cửa, cũng như các sạp báo và xa hơn chút nữa là ông chủ hiệu làm đầu gốc Puerto Rico. Anh chạm mặt một số khuôn mặt thân quen đang trên đường đi làm, vẻ mặt họ lơ đễnh. Chỉ một giờ đồng hồ nữa thôi, khu phố này sẽ rất náo động. Mission District là khu cổ nhất thành phố San Francisco. Tất cả nơi đây đều tạp nham: những ngôi biệt thự thời Victoria đã hơi cũ nằm cạnh những tòa nhà cao tầng vô hồn, những tòa nhà hiện đại này lại nằm cạnh những khu chung cư cổ lỗ xập xệ. Những ngôi nhà cổ màu phấn phơn phớt cạnh những tòa nhà phủ đầy những hình vẽ tự phát với những gam màu lòe loẹt. Chính dân chúng nơi đây cũng sống rải rác giữa nhiều cộng đồng khác nhau. Họ chạm mặt nhau nhưng không thực sự giao du với nhau. Ta nghe thấy đủ các thứ tiếng như Trung Quốc, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ả Rập hoặc Nga. Ai nấy sống trong thế giới của mình mà không bận tâm đến những người xung quanh. Một người ăn mày tiến đến và chìa tay ra. Jonathan lưỡng lự giây lát rồi bước qua trong lúc cố tránh nhìn vào mắt ông ấy. Ta làm sao có thể cho tất cả mọi người được. Michael - cộng sự của anh - đã chọn bàn trên sân quán cà phê. Đó là một người đàn ông trạc tứ tuần, lịch lãm với nụ cười quyến rũ, nói rất nhanh và luôn tràn trề năng lượng đến nỗi ta phải tự hỏi liệu có phải anh ấy được gắn với các hộp pin cao áp hay đơn giản là đã được tiêm amphêtamin. Com-plê màu cát, áo sơ mi trắng và cà-vạt lụa màu vàng dệt nổi, anh ta ngồi trước một cốc cà phê to và phần bánh carrot cake, mà nó hình như được chọn để hợp với màu chiếc cà-vạt. Phần sân hiên quán cà phê chiếm dụng một khoảng lớn vỉa hè, đủ sâu để khiến ta quên đi luồng xe hơi đang chạy ngoài kia, đằng sau dãy cây thấp, được trồng trong những bồn gỗ lớn sánh ngang các vườn ươm trong các tòa lâu đài. Bàn ghế được làm từ song mây tạo thêm cảm giác rằng ta đang ở nơi khác, chứ không phải ở trung tâm thành phố. - Cậu ổn chứ? - Michael lên tiếng với một chất giọng đầy hưng phấn. Cảnh tượng gần giống với các màn diễn của Jim Carrey trong phim Mặt nạ*. • Phim The Mask với sự tham gia của nam diễn viên điện ảnh Mỹ Jim Carrey. - Còn anh thì sao? - Jonathan đáp lại hệt như thường lệ. Anh lấy trong túi ra một lọ nước tẩy trùng, nhỏ vài giọt lên những ngón tay và xoa thật mạnh. Michael nhìn anh với một nụ cười thích thú trên môi. - Tuyệt đỉnh! Cậu dùng gì hả? Hôm nay có bánh ga-tô ngon lắm. - Giờ anh lại ăn sáng bằng bánh ga-tô à? - Đấy là chế độ ăn mới của tôi đấy: một chút đường vào buổi sáng để khởi động, sau đó thì suốt cả ngày sẽ chẳng có gì hết. - Thế thì gọi bánh ga-tô đi. Michael ra hiệu cho người bồi bàn và gọi đồ ăn. Trong ba cộng sự thì Michael là người xử lý tốt nhất những mánh lới nghề nghiệp, Jonathan thường xuyên cảm thấy và dành cho anh ta một sự ngưỡng mộ nhất định. Anh thèm muốn sự lưu loát thuần thục mà Michael có được để dẫn dụ khách hàng vào một tình thế thích hợp để rồi bị thuyết phục. Khi đi cùng anh ta tiến hành thăm dò tư tưởng của những tiểu thương, Jonathan chứng kiến nhiều cảnh đáng kinh ngạc mà Michael đã có thể lật ngược tình thế để thuyết phục được một khách hàng tiềm năng nhưng hết sức khó tính. Sau một thời gian dài được đào tạo và huấn luyện các phương pháp bán hàng, Jonathan đã xoay xở khá thành công, nhưng anh vẫn cần phải có nhiều nỗ lực đáng kể ở những điểm mà Michael đã thực hiện với một sự thuần thục cao độ, thông thạo mọi chi tiết kỹ thuật để thuyết phục được khách hàng đồng ý ký hợp đồng mới, những chọn lựa mới, luôn luôn gia tăng các điều khoản bảo hiểm để bảo vệ mình hơn nữa, cho đến tận lúc cứ đồng ý mua các khoản mà không hề nhận ra rằng trên thực tế chúng bảo hiểm cho cùng một rủi ro… Trong lĩnh vực này - anh ta đã thổ lộ bí quyết với các cộng sự của mình - sợ hãi là cảm xúc chúa tể, đồng minh cốt lõi của người bán hàng. Cảm xúc đó mà nảy sinh trong ánh mắt của nhà buôn thì ngay lập tức gợi lên hình ảnh của một thảm họa, một vụ trộm, một vụ kiện tụng. Thoạt đầu rất nhỏ, nhưng rất âm ỉ, nó nhanh chóng thấm vào tận các hang cùng ngõ hẻm của trí óc cho đến lúc nó trở nên chiếm ưu thế trong tính năng quyết định. Khi ấy khoản lệ phí hàng năm sẽ được đưa ra, khoản này sẽ được so sánh với phí tổn của một trận hỏa hoạn, một tai nạn hoặc một vụ kiện tụng bởi một khách hàng tiêu dùng giận dữ? Các viễn cảnh tai nạn càng ảm đạm bao nhiêu thì các khoản đóng bảo hiểm hình như càng chẳng đắt đỏ gì… Jonathan là một người trung thực, nên anh thường cảm thấy hơi có lỗi. Nhưng tất cả các đối thủ cạnh tranh của anh đều vận dụng những kỹ thuật này, mà nếu một mình từ bỏ chúng thì e sẽ bị trừng phạt. Trong thế giới nhẫn tâm này, các quy tắc là đúng như chúng vốn thế, - anh tự nhủ. Tốt hơn là chấp nhận chúng và cố gắng lấy lại vốn liếng của mình nếu như ta không muốn đến nhập bọn cùng với những kẻ bị xã hội ruồng bỏ… - Cậu biết đấy, - Michael nói, - tôi đã suy nghĩ rất nhiều về tình trạng của cậu trong những ngày gần đây. - Tình trạng của tôi ư? Michael gật đầu nhẹ. Ánh mắt anh ta ngập tràn sự cảm thông. - Càng quan sát kỹ các bạn, thì tôi lại càng tự nhủ rằng quả là địa ngục đối với cậu khi cứ tiếp tục làm việc hàng ngày với người vợ cũ như hiện nay. Hơi bị bất ngờ, Jonathan ngước nhìn người cộng sự mà không đáp lại. - Các người cứ làm khổ lẫn nhau. Thật chẳng ra làm sao cả. Jonathan vẫn nín thinh. - Và chuyện ấy không thể kéo dài mãi được. Jonathan cụp mắt xuống. Michael nhìn anh gần như rất trìu mến. - Thế nên tốt hơn là thúc tiến trước đi… Anh ta cắn một miếng bánh carrot cake. - Tôi đã động não ghê lắm, lật ngược lật xuôi vấn đề, và cuối cùng tôi đã tìm ra đề xuất này cho cậu. - Một đề xuất à? - Ừ. Jonathan lại quay về với trạng thái yên lặng. - Cậu không cần trả lời ngay lập tức đâu, hãy cứ bình tĩnh suy xét cho kỹ. Jonathan nhìn anh ta một cách chăm chú. - Tôi sẵn sàng, - Michael lên tiếng, - gắng sức để mua lại các phần của cậu, nếu như cậu muốn rút đi. - Các phần của tôi… thuộc văn phòng công ty ư? - Đúng thế, chứ không phải phần bánh ga-tô của cậu đâu. Jonathan không sao thốt được thành lời. Anh chưa bao giờ có ý định rời khỏi công ty mà họ đã cùng nhau sáng lập nên. Anh đã đầu tư vào đó biết bao nhiêu, cả thể xác lẫn tâm hồn, đến nỗi mà nơi đó đã trở thành… như chính một bộ phận của cơ thể anh vậy. Anh cảm thấy lòng quặn thắt. Rời khỏi công ty đồng nghĩa với việc tự cắt đi phần cốt lõi nhất của cuộc đời anh. Bắt đầu lại từ con số 0. Phải gầy dựng lại toàn bộ… Một màn hình ti vi gắn trên tường trong quán cà phê đang phát những hình ảnh về Austin Fisher, quán quân quần vợt đã giật được cơ man là giải thưởng. Sau khi đã tiếp tục chiến thắng giải Wimbledon vài tuần trước, cầu thủ này lại có mặt tại Flushing Meadow với rất nhiều triển vọng cho giải US mở rộng. Jonathan nhìn những hình ảnh, vẻ mơ màng. Bán lại các cổ phần cho Michael chắc cũng sẽ đồng nghĩa với việc từ bỏ ước mơ thầm kín của anh: vượt anh ta, để đến lượt anh sẽ trở thành người thu được thành quả kinh doanh tốt nhất. - Tôi sẽ phải đi vay thêm, - Michael tiếp tục lên tiếng - cũng nặng đô đấy, nhưng có lẽ đó là điều mà tất cả chúng ta nên làm. - Hello mọi người! Angela ngồi vào bàn cùng họ và ồn ĩ thở hắt ra để biểu lộ sự bực bội của mình, tuy nhiên vẫn có nụ cười thoáng trên môi. Jonathan biết rõ tâm tính cô ấy. - Cô khỏe chứ? - Michael hỏi. - Con gái anh đã không muốn đánh răng, - cô gái lên tiếng trong lúc hất cằm về phía Jonathan. - Đương nhiên là mẹ nó đã không nhân nhượng. Em đã phải chiến đấu trong suốt mười phút liền… Kết quả là khi đến nơi thì cổng trường đã đóng. Nó đã phải tự bấm chuông phòng người quản trường và đã bị mắng cho một trận. Đáng đời nó lắm! - Cà phê Mỹ, như thường lệ chứ hả? - Michael hỏi mà không đánh mất đi nụ cười của mình. - Không, một cà phê đúp đi, - Angela đáp và lại tiếp tục thở hắt ra. Michael gọi cà phê. Angela đưa mắt nhìn Jonathan kèm theo một nụ cười a-xít. - Anh có vẻ bình thản nhỉ. Thư giãn… Anh không phản ứng. Cô luồn bàn tay vào mái tóc hạt dẻ sáng màu và dài chớm vai của mình. - Anh đã trách em, - cô nói, - dành thời gian chăm sóc đám cây cối hơn là chăm con gái nhưng mà… - Anh chưa bao giờ trách em điều ấy, - Jonathan phản kháng bằng một chất giọng đã kịp mang màu cờ trắng rồi. - Nhưng đám cây cối của em, như anh thấy đấy, chúng chẳng bao giờ lăn lộn ra đất và kêu toáng lên cả. Jonathan cố kìm một nụ cười, rồi uống tách cà phê của mình mà không nói gì. Họ chia tay nhau đã ba tháng nay, nhưng cô tiếp tục trách cứ anh hệt như trước đây. Và kỳ lạ, đột nhiên anh cảm thấy thích điều ấy. Bởi nó gây cho anh cảm giác quan hệ giữa anh và cô, dẫu đã chia cắt, nhưng vẫn tiếp tục. Anh chợt ngộ ra điều mà anh đã chưa bao giờ thú nhận: tận sâu trong tâm khảm mình, tia hy vọng sẽ nối lại tình xưa vẫn đang ngủ gà ngủ gật đâu đó. Bán các cổ phần của anh trong công ty cho Michael là dập tắt cả tia hy vọng đó trong anh, khi hủy bỏ mối quan hệ hàng ngày cuối cùng giữa anh và Angela. Anh quáng quàng đi đến buổi hẹn làm việc đầu tiên trong ngày, bỏ mặc các cộng sự trên sân hiên quán cà phê. Bản danh sách những khách hàng tiềm năng cần gặp gỡ thì dài. Sẽ là một ngày vất vả đang chờ đợi đấy, nhưng hôm nay là ngày làm việc cuối cùng trước kỳ nghỉ cuối tuần. Anh sẽ còn thời gian để nghỉ ngơi. Anh còn lâu mới hình dung rằng chỉ hai ngày sau, cuộc đời của anh sẽ thay đổi hoàn toàn. Mời các bạn đón đọc Bỗng Dưng Muốn Sống của tác giả Laurent Gounelle.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Thể Chuộc Lỗi - Allen Hassan
Chiến tranh cũng giống như bệnh hủi; nó tiêm nhiễm tất cả và lấy đi lòng nhân ái, lấy đi bản chất con người của chúng ta. (- trích Không Thể Chuộc Lỗi) Thật khó để phân loại Không Thể Chuộc Lỗi theo thể loại sách. Hồi ký? - Đúng. Lịch sử? - Không sai. Ký sự? - Có thể chấp nhận được. Nghiên cứu? - Căn cứ trên số liệu mà cuốn sách cung cấp thì được... Và nếu như tựa cuốn sách đã đặt ra vấn đề thì nội dung chính là phần giải quyết vấn đề ấy, lý giải cho những hành động mà cho dù có làm thế nào cũng không thể chuộc lại lỗi lầm hay xóa đi quá khứ bi thảm trong chiến tranh Việt Nam. Tác giả cuốn sách, bác sĩ, luật sư Allen Hassan đã viết về khoảng thời gian ông làm việc ở Việt Nam trong chiến tranh, những gì ông được chứng kiến, được nghe, được trải nghiệm. Và chiến tranh, với tất cả sự khắc nghiệt của nó, biến khoảng thời gian ấy của vị bác sĩ tình nguyện trở thành địa ngục với những hình ảnh tang thương đầy máu. Đó là chiếc máy bay chở đầy xác các em nhỏ. Đó là những vụ thảm sát dân thường vô tội. Đó là những người đồng đội bị bỏ rơi trong cái chết và không bao giờ có thể trở về. Từng dòng chữ tràn đầy cảm xúc và nghẹn đắng về một "phía bên kia của chiến tranh" mà phải đến bây giờ, khi chiến tranh đã qua đi rất lâu, người ta mới muốn biết và lắng nghe. © Không Thể Chuộc Lỗi là câu chuyện trước đây chưa từng được tiết lộ của một bác sĩ tình nguyện người Mĩ trong chiến tranh Việt Nam "Việc chứng kiến cái chết  của những người già và trẻ em đã khắc ghi vào tâm khảm tôi. Bị bắn vào đầu! Tại sao? Có lẽ tôi không bao giờ có thể quên được những điều ấy". Những trăn trở của bác sĩ Hassan về cuộc chiến tranh Việt Nam cứ mãi ám ảnh ông. Mặc dù tiếp tục thành công ở phòng mạch và văn phòng luật sư ở Sacramento, California nhưng ông vẫn khổ sở với những cơn ác mộng triền miên về Việt Nam. Nhiều tháng, nhiều năm sau khi trở về nước, giấc ngủ của ông vẫn bị gián đoạn vì những hình ảnh hãi hùng. Ông từng thực hiện nhiều chuyến đi trở lại Việt Nam, trở lại vùng đất Quảng Trị với mong muốn làm sáng tỏ về cái chết của hàng chục sinh linh nhỏ bé mà ông từng tận mắt chứng kiến. Sau chiến tranh, khi những cựu binh chiến tranh trở về và kể chuyện của mình, họ bị phớt lờ, cô lập, bị từ chối những phúc lợi đúng ra họ được hưởng , thậm chí bị đưa vào nhà thương điên. Cũng như trường hợp của bác sĩ Hassan, người ta đã nói với nhiều cựu binh rằng những việc mà họ đã thấy và đã làm trong chiến tranh Việt Nam là không thể xảy ra, và rằng dân chúng không muốn nghe những điều kinh hoàng như thế. Và vì thế, ông Hassan tiếp tục mong muốn làm sáng tỏ vụ việc. Những điều chưa hề được tiết lộ về cuộc chiến còn nói về tình cảnh thương tâm của những thương binh hạng nặng của Mỹ được tập trung ở các lán trại tại Đông Hà không được đưa về Mỹ chữa trị hoặc được chết trong vòng tay thân ái của gia đình, vì sợ những hình ảnh sự thật này sẽ gây ra làn sóng phản đối chiến tranh "... Giá như lúc đó, người dân Mỹ biết về những gì đang xảy ra với con cái của họ... giá mà họ biết đến phạm vi rộng lớn của các hành động tội ác, điên rồ diễn ra khắp mọi nơi..." *** Tại hội trường 8 Hội chợ sách Quốc tế Frankfurt ở Đức năm 2006, giữa các khu vực trưng bày sách rộng lớn và không khí giao dịch bản quyền náo nhiệt của các tập đoàn xuất bản hàng đầu thế giới là một gian hàng nhỏ với một điểm đặc biệt có một không hai: Gian hàng chỉ trưng bày và giao dịch bản quyền duy nhất một cuốn sách có tựa đề Failure To Atone - Không Thể Chuộc Lỗi - với một poster lớn: "Nước Mỹ Không Thể Chuộc Lỗi về những gì đã gây ra trong cuộc chiến tranh Việt Nam! Sự thật chưa từng được tiết lộ của một bác sĩ tình nguyện người Mỹ tại Việt Nam”. Tác giả cuốn sách là một bác sĩ phẫu thuật người Mỹ, tiến sĩ Allen Hassan, nguyên là quân nhân thuộc binh chủng Thủy quân lục chiến của quân đội Mỹ, từng qua Việt Nam để chữa trị cho những nạn nhân chiến tranh. Đại diện công ty First News tham dự hội chợ đã làm việc với đại diện bản quyền của bác sĩ Allen Hassan. Phía bạn rất vui và xúc động khi Việt Nam là ngôn ngữ đầu tiên mua bản quyền cuốn sách. Ông liên lạc ngay với tác giả ở Mỹ để thông báo và cho biết bác sĩ Allen Hassan sẽ sẵn sàng bay qua TP. HCM dự lễ ra mắt ấn bản tiếng Việt cuốn sách của mình ở Việt Nam vào dịp 30/04/2007. Khi chúng tôi hỏi vì sao lại lấy tên là Không Thể Chuộc Lỗi đặt cho cuốn sách, đại diện bản quyền của bác sĩ Allen Hassan trả lời: "Mục đích của bác sĩ Allen Hassan khi viết cuốn sách này là muốn những người lính đã từng tham chiến tại Việt Nam và chính quyền Mỹ thật sự hiểu rõ những gì mà nước Mỹ đã gây ra cho người dân Việt Nam là lớn hơn rất nhiều những gì mà người Mỹ từng nghĩ. Nước Mỹ nhớ rất kỹ những gì người khác gây cho họ nhưng lại quên rất nhanh những gì họ đã gây ra cho những người khác. Người chết không thể sống dậy, người tàn tật mãi mãi tàn tật, và nỗi đau mãi mãi là nỗi đau... Khi đọc xong cuốn sách này, mọi người sẽ hiểu bây giờ dù làm bất cứ việc gì, nước Mỹ cũng không thể chuộc lại lỗi của mình đối với người dân Việt Nam!”. NHỮNG ÁM ẢNH KHÓ QUÊN Là một trong những bác sĩ người Mỹ hiếm hoi chữa trị cho những người bị thương ở cả hai phía, nhất là ở vùng bom đạn ác liệt trong cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam như Quảng Trị, bác sĩ Allen Hassan đã rất phẫn nộ khi chứng kiến tận mắt những thảm cảnh đau thương do cuộc chiến gây ra, đặc biệt là vụ thảm sát trẻ em ở Quảng Trị - một sự kiện chưa hề được công bố. Đến nỗi đang hưởng tuần trăng mật mà ông cũng không thể gác được nỗi ám ảnh về cơn ác mộng đó. Trong tuần trăng mật ở Rome và Majorca năm 1974, vợ ông đưa cho ông cuốn sách có tựa “Home From The War” (Trở về từ cuộc chiến) của tác giả Robert J. Lipton. Cuốc sách đã khơi dậy những ký ức về Việt Nam, khiến ông viết ngay vào bên lề trang sách đang đọc: "Việc chứng kiến cái chết của những người già và trẻ em đã khắc ghi vào tâm khảm tôi. Bị bắn vào đầu! Tại sao? Có lẽ tôi không bao giờ có thể quên được những điều ấy”. Những điều chưa hề được tiết lộ về cuộc chiến còn là tình cảnh thương tâm của những thương binh hạng nặng của Mỹ được tập trung trong các lán trại ở Đông Hà. Họ không được đưa về Mỹ để chữa trị hay để có được niềm an ủi cuối cùng là chết trong vòng tay thân ái của gia đình, bởi cỗ máy chiến tranh của Mỹ lo sợ rằng những hình ảnh của sự thật tàn khốc này sẽ gây ra làn sóng phản đối chiến tranh. Tác giả viết: "Giá như lúc đó, người dân Mỹ biết về những gì đang xảy ra với con cái của họ... Giá mà họ biết đến phạm vi rộng lớn của các hành động tàn ác điên rồ diễn ra khắp mọi nơi...”. Và rồi ông đã chứng kiến phong trào phản chiến ngay tại chiến trường Việt Nam: "Trong những ngày cuối cùng ở Sài Gòn, tôi rất kinh ngạc phát hiện ra rằng, Việt Cộng không phải là những người duy nhất sống dưới đường hầm ở Việt Nam. Erhart yêu cầu tôi - với tư cách là một bác sĩ - đi cùng anh ta đến một khu vực có nhiều binh lính Hoa Kỳ đào ngũ hoặc vắng mặt bất hợp pháp. Những người này rõ ràng là đang sống dưới các đường hầm. Cùng với một toán quay phim của hệ thống truyền hình - tôi không chắc là đài nào, nhưng có lẽ là đài truyền hình NBC - chúng tôi tìm thấy những binh lính Mỹ đào ngũ đang sống trong đường hầm ngay dưới lòng đất Sài Gòn”. Tận mắt chứng kiến những điều đau lòng như thế, nhưng bác sĩ Hassan đã phải im lặng suốt một thời gian dài vì những phản ứng của ông lúc đó - về vụ thảm sát trẻ em - đã bị Cục Tình Báo Trung Ương Mỹ (CIA) tại Nam Việt Nam theo dõi và suýt nữa thể ông đã phải trả giá bằng mạng sống của chính mình trong một đêm nọ tại Quảng Trị. Và sau này, ông còn biết thêm rằng, trong chiến tranh, có khoảng 40.000 người Việt Nam bị chính quyền Nam Việt Nam và Mỹ bí mật theo dõi và sát hại trong các chiến dịch Phượng hoàng do CIA chỉ đạo. NỖI ĐAU CÒN ĐÓ Chiến tranh đã qua đi hơn 30 năm nhưng những di chứng của nó vẫn còn tồn tại không những trên đất nước Việt Nam, mà còn mang theo đến tận bên kia Tây bán cầu. Tại Hoa Kỳ, bác sĩ Hassan vẫn tiếp tục chữa trị cho những quân nhân Mỹ từng tham chiếc ở Việt Nam, vẫn tiếp tục cùng những người khác đấu tranh cho đồng đội của mình được hưởng những phúc lợi mà họ đáng được chăm sóc do hậu quả độc hại của các loại hóa chất - đặc biệt là chất độc da cam - mà Hoa Kỳ từng sử dụng tại chiến trường Việt Nam. Trong khi đó, ngay trên mảnh đất đau thương hứng chịu toàn bộ bom đạn, hóa chất trong cuộc chiến, chính quyền cùng nhân dân Việt Nam tiếp tục khắc phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến. Những cố gắng của chính quyền các cấp, những tổ chức từ thiện, những tấm lòng nhân ái rộng mở đối với nạn nhân chất độc da cam đã phần nào làm dịu bớt nỗi đau, nhưng tác hại của nt lớn quá, lâu dài quá và nạn nhân thì đông quá. Trong Không Thể Chuộc Lỗi, bác sĩ Hassan đã đề cập đến chất độc da cam, nhưng đặc biệt, trong ấn bản Việt ngữ, ông đã viết thêm một chương về những hậu quả và di chứng nặng nề của chất độc da cam mà quân đội Mỹ đã sử dụng tại Việt Nam. Chúng tôi cũng trích dẫn một số tài liệu, hình ảnh liên quan để bạn đọc tham khảo. Nhân đây,chúng tôi xin cảm ơn Hội Nạn nhân Chất độc Da cam/Dioxin Việt Nam đã cho phép chúng tôi được trích dẫn những số liệu, hình ảnh trong hai tập tư liệu "Vì nỗi đau da cam" và "Chất độc da cam - Lương tâm và trách nhiệm”. MỘT TẤM LÒNG NHÂN ÁI Những trăn trở của bác sĩ Hassan về cuộc chiến tranh Việt Nam cứ mãi ám ảnh ông. Mặc dù tiếp tục thành công ở phòng mạch và văn phòng luật sư ở Sacramento, California nhưng ông vẫn khổ sở với những cơn ác mộng triền miên về Việt Nam. Nhiều tháng, nhiều năm sau khi trở về nước, giấc ngủ của ông vẫn bị gián đoạn vì những hình ảnh hãi hùng. Ông từng thực hiện nhiều chuyến đi trở lại Việt Nam, trở lại vùng đất Quảng Trị với mong muốn làm sáng tỏ về cái chết bí ẩn và man rợ của hàng chục sinh linh nhỏ bé mà ông từng tận mắt chứng kiến. Sau chiến tranh Việt Nam, những cựu binh Mỹ trở về quê nhà, kể những câu chuyện mắt thấy tai nghe, nhưng họ bị phớt lờ, bị cô lập, bị từ chối những phúc lợi đúng ra họ được hưởng, thậm chí bị đưa vào nhà thương điên. Cũng như trường hợp của bác sỹ Hassan, người ta đã nói với nhiều cựu binh rằng những việc mà họ đã thấy và đã làm trong chiến tranh là không thể xảy ra, vì nước Mỹ không cho phép những việc như thế, và rằng dân chúng Mỹ không muốn nghe những điều kinh hoàng như thế. Họ phải là những "anh hùng chiến đấu vì chính nghĩa". Do đó, bác sĩ Hassan tiếp tục mong muốn làm sáng tỏ vụ việc. Bác sĩ Allen Hassan cho biết, trong hơn 30 năm qua, ông thường dành khoảng một tiếng đồng hồ mỗi ngày để theo dõi tin tức thế giới, đã đọc hơn 200 cuốn sách viết về Việt Nam và còn sẽ đọc tiếp những cuốn xuất bản sau này. Giống như nhiều người từng chứng kiến cuộc chiến ở Việt Nam, ông luôn quan tâm đến những thông tin làm rõ sự dính líu của Mỹ vào cuộc chiến tranh này. Ông mong muốn chính quyền Mỹ phải nhận trách nhiệm về những gì đã gây ra. Bác sĩ Hassan đã dẫn lời của Richard Hughes, một người bạn và là người quản lý một tổ chức nhân đạo nhỏ mang tên Shoeshine Boys of Vietnam. Richard Hughes đã tuyên bố vào năm 1976 khi từ Việt Nam trở về Mỹ: "Tôi nghĩ sẽ có việc bình thường hóa mối quan hệ hai bên... Sẽ có đàm phán về trách nhiệm, và nên chăng chúng ta hãy nhận lấy phần trách nhiệm ấy về mình. Chúng ta có sức mạnh, và khi chúng ta sử dụng sức mạnh đó ở bất kỳ đâu thì chúng ta cũng phải có trách nhiệm. Chúng ta đã ở đó, ở đó với tầm ảnh hưởng quá lớn. Và giờ đây có rất nhiều việc chúng ta có thể làm và cần phải làm. Chúng ta có khả năng. Chúng ta có thể làm điều gì đó để giảm bớt những đau thương, giúp họ cải thiện cuộc sống; và ngược lại, họ có thể giúp chúng ta thoát khỏi những nỗi ám ảnh, day dứt triền miên”. Bác sĩ Allen Hassan đã viết cuốn Failure To Atone - Không Thể Chuộc Lỗi trong ba năm và kịp xuất bản để mang sang giới thiệu tại Hội sách Quốc tế 2006. Cuốn sách là một lời kêu gọi chống lại bạo lực, chống lại bất công của con người đối với con người và đối với những sinh vật khác trên trái đất. Ông cũng đã lập riêng một trang web với tên cuốn sách: www.failuretoatone.com để giới thiệu với độc giả thế giới và dành 10% lợi nhuận có được từ cuốn sách để giúp đỡ những nạn nhân chiến tranh. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn Failure To Atone - Không Thể Chuộc Lỗi đến bạn đọc Việt Nam. FIRST NEWS Mời các bạn đón đọc Không Thể Chuộc Lỗi của tác giả Allen Hassan.
Cái Trống Thiếc
Cuốn tiếu thuyết này ra đời năm 1959 là một cú sốc về thi pháp, với bút pháp vừa hoạt bát phóng túng vừa đầy ắp liên tưởng, cuồn cuộn những sóng chữ trái tai, chói màu. Tác giả đã hoà trộn các cấp độ ngôn ngữ (từ phong cách kinh thánh đến cách nói bình dân) với dung lượng kịch tính và tượng trưng cực đại. Nhưng đằng sau cái giỡn cợt, bao giờ cũng là một chân lý cay đắng. Điểm mạnh của Cái trống thiếc theo tôi là ở tính hòa sắc kỳ ảo trong văn chương với nhiều yếu tố bất ngờ. Với giới cầm bút nước ta, đây là một gợi ý rất lớn cho việc tiếp cận, mổ xẻ và chuyển hóa hiện thực. Tuy nhiên, với bạn đọc Việt Nam, tôi e sách sẽ bị coi là hơi khó đọc, nhưng nếu đọc được, chắc chắn các bạn sẽ thích. Có hai cuốn sách tôi đọc khi trưởng thành khiến tôi sút hai cân là Tội ác và trừng phạt (1982) và mới đây nhất là Cái trống thiếc. Thật lý thú là sau khi người ta đã chán nản nhiều sự, chán đến cả văn của mình mà rồi còn bị hấp dẫn đến mức đọc mấy đêm liền tù tì một cuốn sách gây sốc bởi có cảm giác bản thân bị bới móc và sỉ nhục. Xin trước hết nói rõ hơn khái niệm nhúc nhích. Văn chương từ Homerre tới giờ nói chung không tiến được mấy độ đường, nó khác hẳn với văn minh. Thậm chí tuyến tính không có mấy vai trò ở chỗ này. Và giữa những đỉnh khác nhau, ví như anh hùng ca Odisse với sử thi M’Nông Tây Nguyên mới phát hiện chẳng hạn, là thung lũng của những nhà văn thời vụ với rất nhiều tài năng và ảo tưởng làm nền. Nếu ta xếp các đỉnh đó theo lịch trình văn chương, ta sẽ vừa có cảm giác không hề có sự dịch chuyển lại vừa thấy rất khác. Tôi tạm gọi tính chất nhùng nhằng ấy là sự nhúc nhích trong khi chờ một hình dung từ đúng hơn. *** Günter Wilhelm Grass (16 tháng 10 năm 1927 - 13 tháng 4 năm 2015) là một nhà văn người Đức đoạt Giải Nobel Văn học năm 1999. Ông sinh ngày 16 tháng 10 năm 1927 ở Danzig-Langfuhr, nay là Gdansk (Danzig) thuộc Ba Lan. Sinh ra trong một gia đình có cha mẹ làm nghề buôn bán nhỏ, thành phố quê hương ông cũng như những ngày thơ ấu sống ở đây đã là cảm hứng cho nhiều tác phẩm của ông. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai ông đã tình nguyện đăng ký tòng quân cho quân đội Đức Quốc xã khi 15 tuổi. Vào ngày 10 tháng 11 năm 1944, khi 17 tuổi, ông được gọi vào sư đoàn tăng SS số 10 "Frundsberg" của Waffen-SS Vào ngày 8 tháng 5 năm 1945 ông bị bắt làm tù binh tại Marienbad và đã ở trong trại giam tù binh cho đến ngày 24 tháng 4 năm 1946. Khi bị bắt giam Grass đã tự nhận với người Mỹ rằng ông là thành viên của Waffen-SS. Thế nhưng mãi đến tháng 8 năm 2006 ông mới công khai thừa nhận việc này. Trước đó, trong các tiểu sử đã được công bố của nhà văn, ông chỉ là thiếu niên phụ giúp cho lực lượng phòng không trong năm 1944 và sau đó được gọi đi lính. *** Chỉ đến khi trở thành kẻ đi thuê lại phòng Oskar mới học được nghệ thuật trở ngược lại quá khứ bằng cách đánh trống. Giúp tôi trong việc này, không phải chỉ là căn phòng, mà còn có Con Nhím, cái kho chứa quan tài trong sân và xừ Münzer - đó là chưa kể Xơ Dorothea. Quý vị có biết tích Parsifal không? Tôi cũng không thuộc lắm. Tôi chỉ nhớ nhất câu chuyện về ba giọt máu trên tuyết. Chuyện này chắc có thật vì nó giống chuyện tôi như đúc. Mà có lẽ đó là chuyện của bất kỳ ai có một ý tuồng. Tôi vẫn còn là một tên đầy tớ của nghệ thuật. Tôi để cho người ta vẽ tôi xahh lơ, xanh ve và theo các sắc độ của đất; tôi để người ta ký họa tôi bằng chì than và đặt trước nhiều bối cảnh; cùng với Ulla, tôi đem lại cảm hứng cho Trường Mỹ thuật trong suốt học kỳ đông cũng như học kỳ hè tiếp theo, nhưng tuyết đã rơi để nhận ba giọt máu và vừa nhìn thấy ba giọt máu ấy, Oskar liền biến thành đá như anh chàng điên Parsifal mà Oskar biết rất lơ mơ nên chẳng cần phải cố gắng lắm cũng có thể đồng nhất được với anh ta. Hình ảnh tôi phác ra tuy vụng về nhưng, theo tôi nghĩ, khá rõ ràng. Này nhé: tuyết là bộ đồng phục nữ y tá; chữ thập đỏ mà phần lớn các nữ y tá đều mang ở giữa cái kẹp hoa cài cổ áo, đối với tôi, là ba giọt máu. Tôi ngồi đó, hút hồn, mắt nhìn trân trân. Nhưng trước khi tôi có thể ngồi trong căn phòng trước kia là buồng tắm của căn hộ Zeidler, tôi phải săn tìm phòng để thuê đã. Học kỳ đông sắp hết; một số sinh viên không định quay trở lại sau đợt nghỉ lễ Phục sinh, sẽ giả phòng trọ. Người cộng sự của tôi, Nàng Thơ Ulla, đã giúp tôi đắc lực. Nàng đưa tôi đến văn phòng quản lý nhà ở cho sinh viên, tại đó, người ta cho tôi một số địa chỉ kèm theoo một giấy giới thiệu của Trường Đại học Mỹ thuật. Trước khi đi xem các phòng cho thuê, tôi đến thăm ông thợ đẽo đá Korneff tại xưởng của ông ở Bittweg. Đã lâu tôi không gặp ông. Tôi đến vì quý mến ông, nhưng cũng để kiếm chút việc làm trong đợt nghỉ nữa. Tôi có một số giờ ngồi mẫu tư - một mình hoặc cùng với Ulla - nhưng chừng nấy khó mà đủ để nuôi tôi trong thời gian sáu tuần, với lại, tôi còn phải kiếm thêm để trả tiền thuê phòng nữa. Tôi thấy Korneff vẫn như xưa, chả thay đổi gì - một cái nhọt chưa chín và hai cái sắp khỏi, ông đang cúi trên một khối đá gra-nít Bỉ mà ông đã đẽo thô và giờ đang bắt vào mài nhẵn. Chúng tôi nói chuyện một lúc; tôi bắt đầu mân mê mấy cái đục khắc chữ ra cách gợi ý và nhìn quanh xem có tấm đá nào đã được cắt gọt và mài nhẵn chờ được khắc chữ. Có hai tấm, một bằng đá vôi điệp, một bằng cẩm thạch Silesia, có vẻ như đã được bán và đang chờ một chuyên gia khắc chữ. Tôi chúc mừng Korneff đã vượt qua được thời kỳ khó khăn sau cải cách tiền tệ. Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ đó, chúng tôi cũng đã tìm được an ủi trong ý nghĩ Tà: một cuộc cải cách tiền tệ, dù có mạnh mẽ, thiết yếu và lạc quan đến đâu chăng nữa, cũng không thể ngăn người ta chết và đặt bia mộ. Tiên đoán của chúng tôi đã ứng nghiệm. Thiên hạ tiếp tục chết và tiếp tục đặt bia. Ngoài ra, cuộc cải cách tiền tệ còn mang đến những "com-măng" trước đây chưa từng có: nhiều chủ hàng thịt đặt lát mặt trước và đôi khi cả bên trong cửa hàng bằng cẩm thạch trang trí; một số ngân hàng và cửa hàng bảch hóa tổng hợp, để lấy lại uy tín, buộc phải sửa sang và trang tri lại những mặt tiền bằng đá cát kết và tufa bị hư hại trong chiến tranh. Tôi khen Korneff cần mẫn xoay sở và hỏi ông có thể một mình đảm đương tất cả công việc không. Mới đầu, ông trả lời qua quít, sau rồi ông thừa nhận rằng đôi lúc ông cũng ước có bốn tay thợ và cuối cùng, ông đề nghị tôi đến làm việc với ông nửa thời gian, giá cả như sau: khắc chỉm trên đá vôi, bốn lăm pfennig/chữ cái, trên gra-nít và đi-o-rít, năm lăm pfennig/chữ cái, còn khắc nổi thì có thể từ sáu mươi đến bảy lăm. Tôi mần luôn một tấm đá vôi điệp. Nhanh chóng lấy lại được ngón nghề, tôi khắc: Aloys KLifer, 3 tháng 9 năm 1887 -16 tháng 6 năm 1946. Tôi đã khắc xong ba mươi chín chữ cái và con số trong đúng ba giờ và được trả mười bảy mark năm lăm pfennig. Chừng nấy là hơn một phần ba số tiền thuê phòng hằng tháng mà tôi ước tính mình có thể kham nổi. Tôi quyết định chi vào khoản này không quá bốn mươi mark vì Oskar vẫn cảm thấy có bổn phận phải đóng góp vào ngân sách gia đình ở Bilk. Văn phòng quản lý nhà ở đã có nhã ý cho tôi bốn địa chỉ. Lựa chọn đầu tiên của tôi là Zeidler, số 7 phố Jiilicher-strasse vì chỗ đó gần Trường. Đầu tháng năm, vào một ngày ấm áp lãng đãng sương mù, điển hình của vùng hạ Rhine, tôi xuất hành với kha khá tiền mặt trong túi. Maria đã là bộ com-lê nên nom tôi cũng bảnh. Mặt tiền trát vữa xtuých-cô long lở, trước cửa là một cây hạt dẻ bụi bám đầy. Vì phố Julicher-strasse đã đổ nát đến một nửa, nên khỏi phải nói đến nhà bên cạnh hoặc đối diện, ở bên trái là một đống gạch vụn um tùm cỏ và bồ công anh, đây đó lòi ra những dầm sắt hình chữ T, khiến ta có thể đoán ở đây đã từng có một ngôi nhà bốn tầng. Bên phải, một ngôi nhà bị phá huỷ một phần nay đã được sửa đến tầng ba, nhưng vẻ như vốn xây dựng đã cạn; mặt tiền bằng gra-nít đen Thuỵ Điển mài bóng bị nứt rạn nhiều chỗ, cần chữa khẩn cấp. Dòng tên "Schornemann, Hãng Mai Táng" thiếu nhiều chữ cái, tôi không nhớ là những chữ gì. Cũng may, hai cành cọ khắc trên mặt đá gra-nít nhẵn như gương vẫn còn nguyên vẹn, góp phần giữ cho cửa hàng một vẻ tôn nghiêm khả kính nào đó. ... Mời các bạn đón đọc Cái Trống Thiếc của tác giả Gunter Grass.
Bóng Hình - Danielle Steel
Truyện Bóng Hình, trong lòng mỗi người đều có một cái bóng trong mình, mỗi khi cô đơn thì cái bóng đó đều xuất hiện đều an ủi cho nhau, dạng như một một loại tâm thần phân liệt. Bản thân chịu một sự đả kích rất lớn hoặc chuyện đó liên quan tới một vấn đề nào đó khiến đối phương đều không thể kìm chế bản thân thì tự khắc sẽ nảy sinh ra ảo giác đó chính là dấu hiệu nói chuyện một mình hay tự mình làm gì đó nhưng khi tỉnh lại thì không nhớ gì hết. Bóng hình trong lòng mỗi người đều có nhưng chúng ta phải biết cân bằng tâm trí như thế nao thì ới không xảy ra hiện tượng đó. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Cả buổi chiều Olivia sống trong tâm trạng buồn nản. Cô hoang mang đi hết buồng này sang buồng khác không biết nên làm gì. Con tàu Lusitania giờ này chắc đã lênh đênh ngoài khơi, mang theo em gái cô càng lúc càng xa mãi. Olivia vừa mong Geoffrey và Charles mau mau trở về để phá tan sự cô quạnh này lại vừa e sợ đến giờ phút đó. Thiếu người em sinh đôi, cô cảm thấy mình thật lạc lõng. Suốt thời gian sau khi nghỉ trăng mật về, Victoria luôn ủ rũ mệt mỏi. Giờ đây Victoria đã được bay tới nơi mà cô ấy tin là phương trời tự do, để lại mình Olivia với nỗi lo lắng khôn nguôi. Ngay khi nào Charles và Geoffrey về nhà, Olivia sẽ phải là người thế Victoria, sống cuộc sống của Victoria. Giống như 1 diễn viên lần đầu tiên chuẩn bị ra sân khấu, Olivia muốn chết vì sợ. Cô đã chuẩn bị sẵn 1 bức thư gửi cho Charles, 1 cho cha cô và cả 1 bức viết cho chính mình. Trong thư cô hứa khi trở lại sẽ giải thích về cuộc bỏ trốn tới California này và thay cho chuyến tàu đi Liverpool cô nói dối rằng sẽ đáp xe lửa đi Chicago chiều nay. Lúc Charles về, Olivia đã lấy lại bình tĩnh. Cô đã sẵn sàng cho vai diễn của mình. Charles bước vào phòng, nhìn qua gương mặt Olivia anh thấy ngay có điều khủng khiếp đã xảy ra. Quên hẳn cuộc cãi vã giữa 2 vợ chồng, anh gần như lao đến bên cô. - Victoria, chuyện gì vậy? Em ốm ư? Olivia xanh nhợt như tàu lá buông mình xuống ghế, biểu lộ 1 nỗi tuyệt vọng khủng khiếp. - Là Olivia... Anh chờ cô nói tiếp, hẳn không phải Olivia bị tai nạn, anh tự nhủ, vì nếu vậy Victoria đã phải ở bên cô ấy trong bệnh viện. -... Chị ấy đi rồi. - Đi đâu, Croton ư? Có vậy thôi sao? – Charles ngơ ngác. Nhưng rõ ràng Victoria – hay đúng hơn là cô gái mà Charles nghĩ là Victoria – trông kiệt quệ như vừa mất đi 1 người thân trong gia đình. - Em và cô ấy cãi nhau à? Thời gian gần đây, cô ấy gây lộn với tất cả mọi người, kể cả chị gái mình. Olivia lắc đầu. Cô chẳng khó khăn gì để tỏ ra buồn thảm đến thế. Trên thực tế, sự ra đi của Victoria đã nhấn chìm cô trong biển u sầu. Làm sao cô phải nghĩ ra và tìm cách diễn ra nỗi đau mà chính cô đang phải chịu đựng? Cô đưa Charles lá thư đã chuẩn bị sẵn từ trước, để gửi cho Victoria. Không ai có thể phân biệt được chữ viết của 2 cô, kể cả Bertie. Lá thư giải thích thật đơn giản rằng mặc dù trái tim Olivia tan nát khi làm điều này, nhưng có đã quyết định sống cách biệt 1 thời gian để suy nghĩ về cuộc đời mình. Từ khi Victoria đi lấy chồng, cô cảm thấy tuyệt vọng, mất phương hướng. Sự tồn tại ở Croton, sự cô độc, sự trống vắng đè nặng lên cô. Và kết quả, cô đã chọn cách ra đi như 1 sự giải thoát, mong rằng thời gian sẽ giải tỏa nỗi trầm uất của mình. Thậm chí cô còn nói có thể cô sẽ sống mốt phần đời còn lại trong 1 tu viện và sẽ không bao giờ lấy chồng. ... Mời các bạn đón đọc Bóng Hình của tác giả Danielle Steel.
Bia Mộ Đen - Erich Maria Remarque
Chơi vơi giữa dòng xoáy cuộc đời khi mà những điều khủng khiếp của chiến tranh vẫn còn ám ảnh, Ludwig Bodmer lựa chọn cách đối mặt bằng thái độ hài hước và bất cần. Tuy nhiên, bên trong anh lại là trái tim của một nhà thơ, với tâm hồn nồng nàn và lãng mạn, đang đấu tranh với thời cuộc và với chính mình để tìm ra ý nghĩa thật sự của cuộc sống mà anh đang và muốn sống. Lấy bối cảnh thành phố quê nhà của Remarque giữa hai cuộc thế chiến, Bia mộ đên mang nhiều tính chất tự truyện và đậm màu sắc triết lý trào phúng. Như chính tác giả từng viết, đây là “câu chuyện về tuổi trẻ trễ tràng”, về một thế hệ vỡ mộng, miệt mài đi tìm lời đáp cho những câu hỏi quan trọng mà nhân loại đã dần dần quên lãng. Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết *** Tôi không hề gặp lại một người nào nữa hết. Nhiều lần, tôi có ý định trở về nhưng lần nào cũng bị ngăn chận. Tôi nghĩ là sẽ có một thời gian nào đó thuận tiện hơn nhưng bây giờ thì đã hết rồi. Bóng tối đã phủ trùm lên nước Đức, tôi đã mất quê hương và lúc trở về, tôi chỉ còn thấy những điêu tàn. Georges đã chết. Mụ Konersmann sau bao nhiêu công trình dọ dẫm đã khám phá ra được cuộc tình vụng trộm của Lisa và Georges. Năm 1933, mười năm sau, mụ ta tố cáo với Watzek lúc bấy giờ là chỉ huy trưởng đội S.A. Mặc dầu đã ly dị Lisa tới năm năm, Watzek vẫn cứ nhốt tình địch vào trại tập trung của hắn. Vài tháng sau, Georges chết. Hans Hungermann, ủy viên văn hóa và là Đảng viên cao cấp đã ca tụng Đảng Quốc xã bằng một loạt thơ nóng bỏng. Năm 1945, hắn mất chỗ hiệu trưởng. Tuy nhiên, cũng như một số đảng viên khác, hắn sống một cách khá đầy đủ tiện nghi khỏi phải đi làm, nhờ có tiền hồi hưu. Nhà điêu khắc Kurt Bach sống luôn sáu năm trong một trại tập trung và trở về què quặt. Hiện nay, mười năm sau cuộc thảm bại, hắn vẫn phải vất vả để nuôi miệng cũng như bao nhiêu nạn nhân khác của chiến tranh. Hắn chỉ mong kiếm được mỗi tháng bảy chục ngàn Đức kim, khoảng một phần mười tiền trợ cấp cho Hungermann, khoảng một phần mười số tiền mà nhà nước cấp dưỡng cho viên chúa trùm mật vụ Gestapo, người ta có sáng kiến lập các trại tập trung mà Kurt bị nhốt và trở về què quặt... Đó là chưa kể các khoản trợ cấp cao hơn cho các tướng lãnh, tội nhân chiến tranh, và các đảng viên Quốc Xã khác. Henri Kroll, vượt thoát mọi biến cố, nhận thấy mọi quyền hạn và công lý vẫn còn đứng về phía quê hương yêu dấu của chúng tôi. Viên trung đội trưởng thiết kỵ Wolkeinstein rất lên hương. Người của Đảng và kỳ thị chủng tộc hết mình, sau chiến tranh, im hơi lặng tiếng luôn vài năm và bây giờ, cũng như bao nhiêu đồng chí khác, được làm nhân viên Bộ Ngoại giao. Bodendick và Wernicke cố giấu được một số người Do Thái trong trại điên bất trị. Họ cho những người trốn tránh cạo đầu và học cách giả điên. Sau đó ít lâu, Bodendick bị thuyên chuyển về một làng hẻo lánh vì đã lỡ nói một vài lời bất ý khi đức Giám mục của ông ta chấp nhận làm cố vấn cho một chính phủ chỉ lấy chuyện tàn sát làm bổn phận thiêng liêng. Wernicke cũng bị đổi đi vì không chịu chích thuốc độc cho những người điên. Trước khi ra đi, ông ta đã tập hộp được một số dân Do Thái và tổ chức một cuộc chạy trốn, ông ta bị gởi ra mặt trận và chết ở đó năm 1944. Willy ngã gục năm 1942. Otto Bambuss năm 1945. Charles Kroll năm 1944. Lisa chết trong một cuộc ném bom. Bà Kroll cũng cùng chung số phận. Edouard Knoblock thì vượt qua tất cả. Hắn phục vụ tất cả các quyền lực, tốt cũng như xấu, với tất cả nhiệt tâm. Nhà hàng của hắn bị phá hủy nhưng đã được xây cất lại. Hắn không cưới Gerda và không ai biết cô ta hiện ra sao. Tôi cũng chằng được một tin tức nào về Geneviève Terhoven. Oscar “mắt treo cờ tang” dựng nghiệp một cách huy hoàng. Lúc chiến tranh xảy ra hắn bị gởi sang Nga làm lính trơn và kế đó được chỉ định làm Thanh Tra nghĩa địa. Năm 1945, hắn làm thông dịch viên cho quân đội chiếm đóng và chỉ vài tháng sau được làm Thị trưởng. Thị trưởng Werdenbruck. Kế đó hắn hùn với Henri Kroll, cả hai tạo dựng một xưởng mới và rất phát tài. Vào thời đó mộ bia cũng khan hiếm như bánh mì. ... Mời các bạn đón đọc Bia Mộ Đen của tác giả Erich Maria Remarque.