Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu

Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu

Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu – Ernst Muldashev

Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu là cuốn sách mang tính cách mạng của Munđasep về vũ trụ – sự sống – loài người. Cuộc sống tâm linh được sử dụng như thước đo cho sự tiến hóa của loài người.

Con ngườii xuất hiện nhờ sự cô đặc của các dòng sóng mang thông tin, có năng lượng tâm linh. Nhiều triệu năm trước, trên trái đất tồn tại bốn nền văn minh trước khi nền văn minh thứ năm của chúng ta phát triển lan tỏa ra khắp thế giới.

Từ những đôi mắt được vẽ ở Tây Tạng và Nepal, nhờ công nghệ, ông dựng lại hình ảnh của người có cặp mắt đó – một con người khác thường với chúng ta, những người Limuri khổng lồ ép xác, có năng lượng tâm linh vô tận – mà ở Tây Tạng và Nepal, Ấn Độ Kính cẩn gọi là “Ngài”.

Qua cuộc thám hiểm ở Hymalaya, Ấn Độ, Nepal và sự tiếp xúc với những người nắm được nhiều bí mật của các hang động, tác giả đưa ra giả thuyết về quỹ gen nhân loại bắt nguồn từ nền văn minh Lemuri vô cùng phát triển từ xa xưa. Nền văn minh này bị huỷ diệt do sự đụng độ của một hành tinh khác vào trái đất làm lệch trục trái đất và gây nên đại hồng thuỷ.

Xem thêm:

Hành Trình Về Phương Đông Một Linh Hồn Nhiều Thể Xác Lịch Sử Vạn Vật

Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu kêu gọi con người hãy làm việc để tích luỹ tri thức, sống yêu thương, đồng cảm lẫn nhau, trừng phạt tội ác, quên mình cho lý tưởng nhân bản. Chừng nào chúng ta chiến thắng cái ác thì nhân loại mới có cơ may được Thế giới kia cho phép tiếp xúc với Trí tuệ Tối thượng. Đến khi ấy khoa học và công nghệ của nhân loại mới có khả năng đạt tới đỉnh cao như nền văn minh Limuri.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

PDF TRƯỜNG CA CHĂM - Ariya Cam - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Đầu thế kỉ XX, một nhà xã hội học người Pháp thời danh là Paul Mus đánh giá văn học Chăm một cách oan uổng rằng nó chỉ có thể tóm tắt trong 20 trang sách, nghĩa là không có gì đáng nói cả! Thế nhưng, vào năm 1994-95, một nhà nghiên cứu Chăm lúc đó còn vô danh: Phú Trạm, bút danh là Inrasara, sau 20 năm sưu tầm nghiên cứu đã làm điều ngược lại: bộ Văn học Chăm, khái luận-văn tuyển 1.200 trang của ông được xuất bản, đánh dấu một bước ngoặc quan trọng trong việc giới thiệu nền văn học dân tộc phong phú và đặc sắc có nguy cơ thất truyền này đến với cộng đồng các dân tộc Việt Nam và thế giới.Công trình mang tính khai phá này đã được Trung tâm nghiên cứu Lịch sử và Văn minh Đông dương (CHCPI) thuộc Trường Đại học Sorbonne (Pháp) công nhận bằng Giải thưởng năm 1995 dành cho nó. Giám đốc Trung tâm Lafont xem “đây là công trình có giá trị khoa học lớn”. và GS Nguyễn Tấn Đắc “tin rằng Văn học Chăm sẽ được đón nhận như một tin vui lớn, không những trong cộng đồng người Chăm, trong các tộc người trên đất nước Việt Nam, mà cả trong giới chuyên môn trên thế giới” (Tựa: Văn học Chăm – Khái luận, NXB Văn hóa Dân tộc, 1994).Mười năm đi qua, bộ ba Văn học Chăm đã hết. Nhà thơ kiêm nhà nghiên cứu ngôn ngữ – văn chương Chăm không dừng ở đó. Ông tính sẽ cho ra mắt bạn đọc cả nước và thế giới một công trình đầy đủ hơn, và đồ sộ hơn: Tủ sách Văn học Chăm. Dự tính 10 tập trong sẽ lần lượt xuất bản trong 5 năm: 2006-2010.Trường ca Chăm nằm trong Tủ sách ấy.Trích “Lời nói đầu”:“Trường ca Chăm là tập 3 trong bộ sách có tên gọi Tủ sách Văn học Chăm, gồm 10 tập, do Inrasara chủ trì biên soạn. Bộ sách sẽ ra mắt độc giả tuần tự trong 5 năm tới.Trường ca Chăm gồm 2 ariya thế sự: Ariya Glơng Anak, Ariya Ppo Parơng và 2 ariya trữ tình: Ariya Xah Pakei, Ariya Cam – Bini. Mỗi tác phẩm được trình bày qua nguyên tác bằng Akhar thrah (gồm cả bản chép tay và bản chữ Chăm truyền thống trên máy vi tính), chuyển tự Latin, đối chiếu dị bản, dịch nghĩa, dịch thơ và phần Index.Trước đó, ở Phần dẫn nhập, Inrasara nêu khái quát vài nét đặc trưng của ngôn ngữ và thi ca Chăm, thể thơ ariya của Chăm, tình trạng văn bản cũng như tình hình sưu tầm và công bố văn bản Chăm trong hơn thế kỉ qua. Trong kho tàng văn bản chép tay này, người viết đưa ra nêu lên vài tiêu chí để xác định đâu là văn bản văn chương và phân loại các thể loại văn chương. Sau đó là việc xét đến vị trí của 4 ariya trên trong văn chương Chăm; cuối cùng là phần phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của mỗi tác phẩm.”Đây là công trình nghiên cứu có giá trị khoa học cao, một ý hướng và thành tựu đáng kể nhằm khôi phục một phần quan trọng trong nền văn hóa dân tộc có bề dày truyền thống, cống hiến vào nền văn hóa đại gia đình văn hóa Việt Nam, góp phần thiết thực vào sự hiểu biết chung giữa các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam.
PDF CỬA VÀO PHONG TỤC VIỆT NAM (KHÔNG BÁN RA BÊN NGOÀI) - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
CỬA VÀO PHONG TỤC VIỆT NAM (1974) - Tài liệu học tập về Văn Minh Việt Nam dành cho sinh viên Đại học Văn Khoa Sài Gòn (KHÔNG BÁN RA BÊN NGOÀI)
PDF THẦN TIỀN - TẢN-ĐÀ NGUYỄN KHẮC HIẾU - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Có nhiều là giầuCó ít là nghèoAi mà không cóKhốn khó trăm điều!Thần Tiền! Cuốn tiểu thuyết đối thoại của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tiên sinh làm vào khoảng 1917-1919 tả hai đồng bạc con gái năm canh nói chuyện với nhau về công dụng đồng tiền ở thế giới và tội ác của xã hội vì tiền mà sinh ra: nhất là những tội ac tiền ở xã hội ta hồi bấy giờ. Kết luận tác giả cho là người ta chỉ sỡ dĩ vì tiền mà mắc vào tội ác chỉ ở sự kém đạo đức. Nếu làm cách nào cho người ta giầu lòng đạo đức lên thì công dụng và ích lợi của đồng tiền lại vô giá.
PDF CHƠI CHỮ (1970) - LÃNG NHÂN - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
“Nghề chơi cũng lắm công phu”, huống hồ chơi… chữ!Chơi chữ, đối với nhà nho, cần phải có những yếu tố mà nhiều người không gom được đủ: có học đã đành, nhưng lại còn phải có tài.Học có hàm – xúc, mới biết dùng chữ cho rành rẽ, dùng điển cho đích đáng, khiến câu văn ít lời mà nhiều ý; tài có mẫn tiệp, mới lĩnh hội được mau lẹ những nét trội trong một cảnh huống, và diễn xuất một cách nhanh chóng , hồ như là tự nhiên.Trong văn chương ta, có nhiều lối chơi chữ: thơ, phú, câu đối, tập Kiều, ứng dụng lối nào là tùy theo tình, theo cảnh, theo cách cấu tứ mà nguồn cảm hứng của nhà văn.Những lúc tửu hậu trà dư, những khi đối cảnh sinh tình, nhà nho gặp những tình tiết đáng cười đáng bỉ, thường thốt ra lời văn, ngụ ý mình và răn đời.Văn tuy gọi là chơi, song lắm khi có bao hàm sâu sắc, và bao giờ cũng đặt công dụng vào hai chữ cảnh tỉnh.Thú chơi chữ, ngày nay không mấy ai ham chuộng nữa. Ta tiêu khiển bằng chớp bóng, bằng cải lương, nếu không bằng bài bạc, bằng du lãm là những lối tiêu khiển giản dị hơn và cũng dễ thưởng thức hơn.Đành rằng năng khiếu trào lộng của dân tộc là một thiên tư không bao giờ mất được: nếu nó không diễn xuất bằng cách này, ắt nhiên nó cũng sẽ diễn xuất bằng cách khác. Nhưng dù sao, lối chơi chữ cũng đã như lỗi thời rồi. Vì thế, chúng tôi tưởng chép lại vài câu văn cũ gọi là nhắc lại lối tiêu khiển của người xưa, âu cũng là một cách giữ lại trên giấy mực một cái gì sắp mất, một cái gì không có cơ tồn tại, một cái gì khi mất đi sẽ không trở lại được nữa, dưới cái sắc thái cũ kỹ, chất phác mà không thiếu thú vị của nó.Người xưa – nói người xưa nghe như xa xôi lắm rồi, mặc dầu đây chúng tôi chỉ chép được những câu văn từ đầu thế kỷ trở lại, song khoảng ba bốn mươi năm thời tiền chiến là giai đoạn cuối cùng của Hán học có thể tiêu biểu cho cả ngàn năm theo chữ Hán, mà lối chơi chữ là một diệu thú, bởi vậy nói người xưa tuy nghe như xa nhưng thực cũng là gần – người xưa dường như để cả thời giờ và tâm trí vào việc văn chương, nên dù trong lúc tiêu nhàn khiển muộn, cũng lại quay vào văn chương.Hoặc làm câu đối dán cửa để tỏ chí mình thường hoài bão hoặc họp bạn uống rượu ngâm thơ hoặc làm câu hát cho ả đào phả vào đàn phách… Cũng nhờ có những cuộc tiêu khiển ấy mà kho văn chương các cụ để lại mới dần dần thành phong phú dồi dào.Thường thì cuộc hội hữu trở nên hào hứng là khi có thời sự giúp đề tài, khiến cho cái khiếu trào lộng bị kích thích, rồi trong những chuỗi cười dồn dã, có khi nảy ra một đôi phút xuất thần mà thành “nhả ngọc phun châu”.Loại thời sự hay được làm đầu đề cho cuộc chơi chữ, là những dịp khánh điếu. Ăn khao hay đưa đám là những dịp cho nhà nho lên tiếng phẩm bình.(Cười cợt mà sửa lại phong hóa – Tiêu ngữ La Tinh)