Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nữ Hoàng Thinh Lặng - Marie Nimier

Nữ hoàng thinh lặng, cuốn tiểu thuyết thứ chín là một truyện kể đầy xúc động về những quan hệ rất khó khăn giữa tác giả với người cha của mình. “Nữ hoàng thinh lặng” – cha của Marie từng gọi cô bằng biệt hiệu này khi cô còn bé. Ông là nhà văn Roger Nimier, nổi tiếng từ tuổi hai mươi lăm với tác phẩm Khinh kỵ binh màu lam, chết vì tai nạn xe hơi năm 1962, ở tuổi băm sáu. Ngồi cạnh ông trên xe hơi và chết cùng ông là nữ tiểu thuyết gia xinh đẹp hai mươi bảy tuổi, mang cái tên lạ Sunsiaré de Larcône. Lúc đó Marie mới lên năm. Về ông bố tài hoa mệnh yểu, đứng đầu nhóm nhà văn trẻ ngỗ ngược mà mọi người gọi là các “khinh kỵ binh”, những kẻ “vô chính phủ và khuynh hữu”, khước từ văn học dấn thân theo kiểu Sartre, nhạo báng tiểu thuyết luận đề, chắc chắn Marie chẳng có nhiều kỷ niệm. Sau này, không cố ý mà khi ký tên, cô thường viết Ni-er, thay hai chữ m và i ở giữa bằng một nét gạch dài, thành thử tên cô hóa ra Nier (chối bỏ), như thể trong vô thức cô chối bỏ người cha. Và một thời gian dài Marie từng theo phái tả, có những lúc cực tả, đó cũng là một cách chối bỏ. Phải đợi đến đến tuổi bốn mươi bảy, sau khi đã viết và công bố tám cuốn tiểu thuyết, Marie Nimier mới quyết định lần theo dấu vết của cha, cố tái tạo bức chân dung đầy nghịch lý, mâu thuẫn. Đó là một người bố “chẳng thực sự ở đó khi ông đang hiện diện, chẳng thực sự vắng mặt khi ông rời bỏ chúng tôi” – sau này Marie biết rằng vào lúc cô sinh ra, cha mẹ cô đang tính chuyện ly hôn. Là nhà văn chói sáng đến mức tác phẩm trở thành tên gọi cả một nhóm, một khuynh hướng sáng tác, ông ngừng sự nghiệp tiểu thuyết rất sớm và cũng chóng bị lãng quên. Là “một con người thung dung nhẹ nhõm, nghiêm túc, dối trá, trung thực, chậm chạp, nhanh nhẹn, cần mẫn, lười nhác, trơ tráo, ái quốc, tàn nhẫn, yêu thương, dửng dưng, say đắm, trang trọng, phù phiếm, đúng đắn, vụng về trong tình cảm như thể người ta lóng ngóng chân tay”, bạn bè Roger miêu tả ông như vậy. Marie hoài nghi những tính từ “đóng sống” một cá tính, giam cầm một nhân cách. Các từ điển văn học, từ điển tác gia, như cô viện dẫn, cũng không giúp nhiều lắm: “Bảo hoàng dạng d’Artagnan, có kiến thức vô cùng rộng lớn, Roger Nimier đi ngược lại những gì ông coi là thứ suy-nghĩ-cho-sẵn của thời đại ông, giới tri thức cánh tả, chống lại họ sẽ là những người được đặt biệt hiệu Khinh kỵ binh…”. Để khám phá điều bí ẩn, để hiểu sự dữ dội và những dằn vặt ở chàng khinh kỵ binh trứ danh, Marie Nimier cô con gái viết về bố, nhà văn viết về nhà văn, đã tìm đến những nơi, những người, những thứ có thể giúp hồi ức sống lại: cô tới thăm mộ cha, đi gặp người anh ruột, người anh cùng mẹ khác cha, rồi người con của nữ tác giả xinh đẹp tử nạn cùng Roger, phát hiện những bức thư chưa từng công bố của ông… Song trước hết, và chủ yếu, cô thực hiện cuộc du hành vào tuổi thơ chao đảo không an ổn của chính mình, chắp nối những mảnh kỷ niệm, lần gỡ những mối dây liên hệ mỏng mảnh nối gia đình cô và bản thân cô với người cha lãng tử, với ông bố từng có mà cũng không hề có. Và, dần dà dần dà, trong khi đan dệt, phân tích mạng lưới những hồi tưởng, những quan hệ, lấp đầy khoảng trống do người cha chết yểu để lại, Marie không chỉ tìm lại được cha mà còn tìm lại được bản thân, không chỉ hòa giải với cha mà còn hòa giải với chính mình. Xem lại bản thảo cuốn tiểu thuyết Trẻ thơ buồn của cha, cô phát hiện “có lòng nhân hậu trong nét bút”, và đột nhiên thấy hình như kiểu chữ ấy không thể là kiểu chữ của một kẻ hung bạo, tàn ác. Trên một tấm bưu ảnh, Roger đã viết cho cô con gái nhỏ: “Nữ hoàng thinh lặng nói gì đây?”. Với bé Marie, ở đó chứa đựng một ẩn ngữ không sao giải được: “Nữ hoàng thinh lặng có thể nói gì để không bị mất danh hiệu của mình và không mất tình thương yêu của cha?”. Cuối cùng nữ tác giả đã tìm ra cách giải đáp: viết văn chính là “nói trong lặng thinh”, nhà tiểu thuyết là người vừa nói vừa không nói, kể chuyện mà vẫn im tiếng. Khi được hỏi nên giới thiệu Nữ hoàng thinh lặng như tiểu thuyết hay truyện kể, Marie Nimier trả lời là cứ để trống đừng xác định. Quả thật trong tác phẩm có kết cấu vừa tài tình vừa mang tính mộng du này, hư cấu và thực sự chồng lên nhau, quá khứ và hiện tại hòa trộn. Theo tác giả, có lẽ đó là một essai, không phải theo nghĩa tiểu luận, mà theo nghĩa đầu tiên của từ này: thể nghiệm. Với bút pháp giản dị và mực thước, với giọng điệu cực kỳ chính xác và tinh tế, câu chuyện thấm đượm nỗi đau kìm nén và nỗi buồn dịu dàng, không trách cứ, không oán hận, lay động tâm hồn người đọc tận bề sâu. Tác phẩm đã được trao tặng giải Médicis 2004. LÊ HỒNG SÂM *** Nữ hoàng thinh lặng là cuộc du hành vào một tuổi thơ chao đảo của chính tác giả - nhà văn Marie Nimier – để chắp nối những mảnh kỷ niệm, lần gỡ những mối dây liên hệ mỏng mảnh nối cô với người cha quá cố lãng tử “có mà như chưa hề có”. Câu chuyện kể sống động và giản dị, những hồi ức miên man cứ thế chảy trôi vào lòng người. “Nữ hoàng thinh lặng nói gì đây?” để không vĩnh viễn mất đi tình yêu của cha? Đó là thông điệp hiếm hoi sót lại từ người cha - một nhà văn tài hoa nhưng yểu mệnh, tín hiệu của tình yêu mà tác giả vin vào đấy để giải mã trong suốt cuộc kiếm tìm.  “Cha tôi qua đời vào một chiều thứ sáu, ở tuổi ba sáu…” trong một tai nạn xe khi đi chơi với người tình. Điều này đã khắc sâu trong lòng cô con gái bé bỏng và nhạy cảm thêm một vết hằn, cùng với tuổi thơ thiếu vắng tình thương trong một gia đình mà cha mẹ ly dị khi cô con gái duy nhất chỉ mới lên 5. Trong một khoảng thời gian dài, cô đã cố gắng bôi xóa hình ảnh cha trong ký ức, bởi nỗi mất mát lớn lao hơn cả đó là lòng tin vào cuộc sống, vào con người, vào tình yêu và hạnh phúc. Những kỷ niệm nhức nhối ào ạt kéo về, từ việc tìm thăm mộ cha cho đến những phát hiện đầy bất ngờ nơi bạn bè, đồng nghiệp một thời của ông đã khơi lại những ký ức rất đỗi sống động, cuốn hút, những bí ẩn tưởng đã vĩnh viễn chôn vùi. Nimier phát hiện mình giống cha kinh khủng, càng tìm hiểu, cô càng thấy yêu thương và thông cảm, thứ tình yêu bấy lâu cố đè nén, cố xóa bỏ bởi thù hận, hiểu lầm… Và Nữ hoàng thinh lặng đã không thể thinh lặng mãi, không thể chôn vùi theo cha mãi những yêu thương, day dứt. Dẫu muộn màng, cô đã viết tất cả mong giải tỏa đám mây mù giữa hai cha con, không trách cứ cũng chẳng còn oán hận… Marie Nimier là nữ nhà văn Pháp, sinh tại Paris. Cô cho ra mắt quyển tiểu thuyết đầu tiên năm 28 tuổi và tiếp tục thành công cho đến nay, Nữ hoàng thinh lặng là tiểu thuyết thứ 9 của cô, được khán giả khắp thế giới đón nhận, được tặng giải thưởng Medicis 2004. Một giọng văn nữ mộc mạc, giản dị, ngọt ngào, đằm thắm mà sâu sắc, với bút pháp mực thước, giọng điệu tinh tế, câu chuyện thấm đượm nỗi đau kìm nén và nỗi buồn dịu dàng đã lay động tâm hồn độc giả tận bề sâu. *** Marie Nimier là một tiểu thuyết gia và nhạc sĩ người Pháp, sinh ngày 26 tháng 8 năm 1957 tại Paris, là con thứ hai của Nadine và Roger Nimier. Marie  bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 1985, và ngay lập tức tác phẩm đầu tay Sirene (Tiên cá) của bà đã được Viện Hàn lâm Pháp đánh giá cao. Những tiểu thuyết đã xuất bản: Sirène (Tiên cá), NXB Gallimard, Paris, 1985 La Girafe (Hươu cao cổ), NXB Gallimard, Paris, 1987 Anatomie d'un chœur (Cấu tạo của một điệp khúc), NXB Gallimard, Paris, 1990 L'Hypnotisme à la portée de tous (Thuật thôi miên dành cho mọi người), NXB Gallimard, Paris, 1992 La Caresse (Mơn trớn), NXB Gallimard, Paris, 1994 Celui qui court derrière l'oiseau, NXB Gallimard, Paris, 1996 Domino, NXB Gallimard, Paris, 1998 La Nouvelle Pornographie, NXB Gallimard, Paris, 2000 La Reine du silence (Nữ hoàng thinh lặng), NXB Gallimard, Paris, 2004 (đoạt giải Prix Médicis, 2004) Les Inséparables (Không thể tách rời), NXB Gallimard, Paris, 2008 (đoạt gải Prix Georges-Brassens, 2008) Photo-Photo, NXB Gallimard, Paris, 2010 *** Franck mang cây vào nhà, bọn trẻ trang trí nó, chúng làm một con lừa đất (con trước bị mất hai chân), làm trắng khung cửa sổ bằng bình xịt và treo quanh cửa những cành ô rô và chùm tầm gửi. Trên cuốn lịch Mùa vọng, chỉ còn sáu ngày nữa. Franck cắm điện súng bắn nhựa để sửa chuồng bò bị rời ra. Khi Élio tìm đôi ủng để đặt dưới cây thông, nó tự hỏi phải đặt một, hay là hai chiếc. Câu chuyện lại làm Franck nhớ lại. Cái này làm anh nhớ – Franck nói, quay người về phía tôi, khẩu súng ngửa lên để tránh keo nhỏ giọt lên bàn bếp – cái này làm anh nhớ tới giày của bố em. Chiếc giày của bố tôi ư? Tôi không hiểu anh muốn nói gì. Anh ngạc nhiên là tôi không biết chương có ý nghĩa này của bản anh hùng ca gia đình. Một tối mẹ đã kể lại cho anh trong khi tôi đọc cho bọn trẻ. Theo anh, hiển nhiên tôi phải biết. Câu chuyện ư? Một buổi tối năm 1962, Frédéric Dard và vợ từ Paris quay trở lại Mureaux nơi họ ở trong thời kì đó. Xa lộ phía tây không một bóng người. Họ nhận thấy, ở phía con đường, khối màu sẫm của một chiếc ôtô gặp tai nạn. Nghĩ rằng tai nạn vừa mới xảy ra, họ dừng lại để cấp cứu người qua đường, nhưng không còn ai ở vệ đường. Chỉ có một chiếc giày vương vãi trên bờ dốc, một chiếc giày côi cút mà vợ chồng nhà văn khai báo trong đồ vật thất lạc, như thể cử chỉ này có thể làm dịu đi chút ít linh cảm về điềm gở. Chiếc giày này, người vợ ông ta nói về nó như về một con vật nhỏ nhắn, một cái gì đó mềm mại và ấm nóng. Bà ta nhìn thấy nó, bốn mươi năm sau, bà ta vẫn còn cảm thấy nó ở trong tay. Bà ta chưa bao giờ kể câu chuyện này trước đám đông, rất đơn giản vì nó không phải là một giai thoại mà là một thời khắc quan trọng của cuộc đời họ. Chỉ vào hôm sau, khi đọc hàng tít lớn của các báo, họ mới biết được sự thật hiển nhiên: họ đã giữ trong tay chiếc giày của Roger Nimier. Chuồng bò được gắn lại, và chúa Jésus ở trong lòng mẹ mình. Đức Mẹ đồng trinh trùm khăn màu lam. Lũ trẻ làm cho đức mẹ một loại tạp dề di chuyển được để đứa bé có thể ra ngoài và tìm được vị trí trong chiếc máng vào nửa đêm ngày 24. Jeseph đứng xa hơn một chút, chống gậy. Ông ta có vẻ mệt mỏi. Xa hơn nữa, Ba Vua đã ở đấy bước đi bên cạnh lạc đà của họ. Một vòng hoa nhấp nháy được gắn vào cành thấp tạo ra chút ít ảo giác cho toàn bộ cảnh vật. Cuối cùng, Élio để hai chiếc ủng dưới cây thông và Merlin, một đôi giày mềm của năm trước. Đối với tháng Mười Hai thì thời tiết này đặc biệt dễ chịu. Tôi hay nghĩ tới chiếc giày. Tôi có cảm giác cầm nó trong tay, như thể chính tôi là người nhặt nó bên vệ đường. Cử chỉ đặt chiếc giày vào trong ôtô khiến tôi xúc động mãi không thôi. Trò chơi ghép hình đã hoàn tất, hay ít ra là khung của nó, viền của nó: ở phía trong, có một khoảng trống lớn nơi mà đôi chỗ những tập hợp mảnh ghép được đặt vào, những hòn đảo nhỏ rời rạc mà giờ đây được nối lại với nhau bằng các đường ngoằn ngoèo giống như con đường bị từ ngữ đào xới. Và những từ ngữ cần thiết, kì lạ thay, những từ ngữ đã lưu thông, đủ sức để lại dấu vết của chúng, dường như được sắp xếp quanh mảnh bị khuyết, mảnh đã được tìm ra, mà không cần có một kế hoạch, một chiến lược viết lách nào điều khiển kết quả này.   Mời các bạn đón đọc Nữ Hoàng Thinh Lặng của tác giả Marie Nimier.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thế giới của Sophie - Jostein Gaarder
Jostein Gaarder tốt nghiệp Đại học Oslo chuyên ngành ngôn ngữ, thần học và lịch sử tư tưởng, ông từng dạy triết học ở trường phổ thông nhiều năm. Trong sự nghiệp viết lách của mình, Jostein Gaarder cho ra đời gần 20 cuốn sách, tất cả đều đậm tính kỳ ảo, triết luận và Thế giới của Sophie cũng không ngoại lệ. Thế giới của Sophie vừa là một tiểu thuyết vừa là một hướng dẫn căn bản về triết học phương Tây. Cuốn sách chứa đựng những thông tin về lịch sử văn hóa và lịch sử triết học thông qua các câu chuyện của 2 nhân vật Sophie và Hilde. Nhưng phần lớn nội dung tác phẩm là những đoạn đối thoại giữa nhân vật chính Sophie và một người đàn ông bí ẩn có tên Alberto Knox. Cầm trên tay cuốn sách Thế giới của Sophie, chắc chắn các phụ huynh cũng phải hoa mắt khi lướt qua mục lục: Socrates, Platon, Descartes, Kant, Chủ nghĩa lãng mạn, Thế kỷ khai sáng, Vụ nổ lớn, thời Trung cổ… đều có chung suy nghĩ liệu trẻ có thể tiếp thu được một lượng kiến thức khổng lồ, khô khan như vậy? ***  Sophie Amundsen từ trường về. Cô đi cùng đường với Joanna. Họ trò chuyện về người máy. Theo Joanna, bộ óc của con người giống như một cái máy tính cao cấp. Sophie không rõ có đồng ý được không. Chắc chắn một con người phải hơn là một cái máy chứ?    Khi đến siêu thị, mỗi người rẽ về phía nhà của mình. Sophie sống ở cuối một khu nhà ngoại ô, đường đến trường xa gấp đôi Joanna. Nhà cô như ở tận cùng của thế giới, vì sau khu vườn đã là cửa rừng.    Cô rẽ vào đường Cỏ Ba Lá. Cuối đường có một chỗ ngoặt gấp - “khúc ngoặt của Thuyền trưởng”. Hầu như chẳng có ai đến đây trừ thứ bảy và chủ nhật.    Bấy giờ là đầu tháng Năm. Trong các khu vườn, hoa thuỷ tiên mọc xen với cây ăn quả. Những cây phong đã được phủ một màu lá xanh dịu.    Thật kỳ diệu khi mọi vật bừng nở vào thời kỳ này trong năm! Cái gì đã làm cho cỏ cây xanh tốt ùa ra từ lòng đất chết, ngay khi trời vừa ấm lên và tuyết tan hết?    Khi Sophie mở cánh cửa vườn, cô ngó vào hộp thư. Ở đó thường có cả đống quảng cáo và một vài phong bì khổ lớn gửi cho mẹ cô. Thỉnh thoảng cũng có một vài lá thư từ ngân hàng gửi cho bố cô, nhưng phải nói ngay rằng, ông không như các ông bố bình thường khác. Bố Sophie là thuyền trưởng của một tàu chở dầu lớn và ông vắng nhà gần như quanh năm. Khi có được vài tuần ở nhà, ông sẽ đi lại loẹt xoẹt quanh nhà và làm mọi thứ trở nên xinh đẹp và ấm cúng. Nhưng khi ở ngoài biển, ông lại có vẻ rất xa cách    Chỉ có mỗi một bức thư trong hộp thư, và nó được gửi cho Sophie. Chiếc phong bì trắng ghi “Sophie Amundsen, số 3 đường Cò Ba Lá”. Chỉ có vậy, không có tên người gửi, cũng chẳng có cả tem.    Sophie vội vàng khép cổng và mở phong bì. Bên trong chỉ có một mảnh giấy nhỏ với dòng chữ: Bạn là ai?    Không có gì khác, chỉ có ba chữ viết tay với một dấu chấm hỏi to tướng.    Cô nhìn lại chiếc phong bì. Rõ ràng bức thư được gửi cho cô. Ai đã thả nó vào hộp thư?    Sophie chạy nhanh vào ngôi nhà màu đỏ. Như thường lệ, chú mèo Sherekan đã kịp chui ra khỏi bụi cây, nhảy lên bậc thềm và lách vào nhà trước khi cô đóng cửa.    Mỗi lần bực bội, mẹ Sophie thường gọi ngôi nhà họ đang ở là một cái chuồng thú. Sophie khá hạnh phúc về bộ sưu tập động vật của mình. Đầu tiên, cô có ba con cá vàng Lưng Vàng, Mũ Đỏ, và Cờ Đen. Tiếp theo là hai con vẹt Smitt và Smule, rùa Govinda, và cuối cùng là con mèo vàng Sherekan. Chúng đều được tặng cho cô để bù đắp cho chuyện mẹ cô luôn đi làm về muộn còn bố cô thì luôn vắng nhà, lái tàu khắp thế giới.    Sophie liệng cặp xuống sàn và cho mèo ăn. Sau đó, cô ngồi xuống chiếc ghế nhà bếp với lá thư bí ẩn trên tay.    Bạn là ai?    Làm sao biết được? Tất nhiên, cô là Sophie Amundsen, nhưng đấy là ai? Cô chưa nghĩ ra.    Nếu thực ra cô được đặt một cái tên khác, Anne Knutsen chẳng hạn, liệu cô có thành người khác không? ... Mời các bạn đón đọc Thế giới của Sophie của tác giả Jostein Gaarder.
Như Không Hề Có - Bret Easton Ellis
Trở về Los Angeles để nghỉ lễ Giáng Sinh, Clay một lần nữa bước vào một thế giới nơi ai ai cũng lái xe hạng sang, ăn ở nhà hàng thượng hạng, đắm chìm trong tình dục và ma túy, nơi tiền như chiếm hết chỗ của hy vọng và yêu thương. Cậu cố nối lại tình cảm với bạn gái, Blair, và với Julian, người bạn thân từ trung học. Nhưng rồi những nỗ lực đầy tính người ấy đều như bị nuốt chửng trong nỗi tuyệt vọng thăm thẳm lớn hơn hết thảy, ngay giữa vòng xoáy của những bữa tiệc vô mục đích triền miên, những quán rượu tồi tàn, câu lạc bộ rock ngầm và phía bên kia nhớp nhúa của bóng tối thành Los Angeles. Không nhiều tình tiết thắt nút, mở nút, Như không hề có là cuốn sách về một trải nghiệm nhiều hơn là một chuyện kể ly kỳ. Đừng đọc nó nếu bạn định kiếm tìm sự dễ chịu hay ngọt ngào. Đừng đọc nó nếu bạn đang cần chút gì nhẹ nhàng và hài hước. Hãy đọc nó khi bạn đang ở giữa tuổi thiếu niên đầy bất ổn, hay bỗng hoài nhớ về những ngày tháng hoang mang đã qua. Hoặc là, đơn giản hơn, khi muốn kiếm tìm một Bắt trẻ đồng xanh ở gần hơn với thời hiện tại. *** Bret Easton Ellis sinh ngày 7 tháng Ba năm 1964 ở Los Angeles, bang California, Hoa Kỳ. Với sáu tiểu thuyết và một tập truyện ngắn, Ellis đã trở thành một trong những cái tên ăn khách nhất, có sức hút nhất của văn học đương đại. Năm 1985 ông xuất bản tác phẩm đầu tay Như không hề có (Less than zero). Năm 1987, xuất bản tiếp cuốn tiểu thuyết thứ hai - The rules of attraction… Các tác phẩm: Như không hề có (Less than zero), American psycho, The rules of attraction, Glamorama, The informers và Lunar park của Bret Easton Ellis đều đã được chuyển thể thành phim và gặt hái được nhiều thành công lớn. *** Thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ ở Los Angeles. Đó là điều đầu tiên tôi được nghe khi trở về thành phố. Blair đón tôi tại LAX 1 và thì thầm câu này khi lái xe chạy lên đoạn dốc nhập vào đường chính. Cô bảo: "Thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ ở Los Angeles." Dù câu nói vốn chẳng đáng bận tâm, nó vẫn đeo đẳng tâm trí tôi suốt một thời gian dài đến khó chịu. Dường như không điều gì khác còn đáng kể nữa. Từ chuyện tôi mười tám và giờ đã là tháng Mười hai, chuyến bay lại khá xóc và đôi tình nhân đến từ Santa Barbara ngơi đối diện tôi trên khoang hạng nhất thì đã ngà ngà say. Từ mảng bùn bắn lên ống quần jeans của tôi hồi sớm tại một phi trường ở New Hampshire, khiến tôi thấy vừa lạnh vừa lùng nhùng sao đó. Từ vết ố trên tay áo sơ mi ẩm ướt và nhàu nhĩ tôi đang mặc, chiếc áo mới sáng nay còn mới tinh, sạch sẽ. Từ chỗ rách trên cổ chiếc áo khoác ca rô xám của tôi, chiếc áo có chút gì đậm hơi hướng miền Đông hơn trước, đặc biệt là bên chiếc quần jeans bó và cái áo phông xanh nhạt của Blair. Tất thảy như vô nghĩa bên cạnh mỗi một câu nói ấy. Dường như vụ dân tình sợ nhập làn xa lộ nghe lọt tai hơn chuyện "Em dám chắc Muriel bị biếng ăn tâm lý" hay tiếng cô ca sĩ trên đài gào thét về sóng điện từ. Dường như với tôi, chẳng còn gì đáng kể ngoài mười hai từ ấy. Từ những cơn gió ấm như đang đẩy chiếc xe trôi xuống con đường nhựa vắng tanh cho đến mùi cần sa đã nhạt vẫn phảng phất trong xe Blair. Tất cả những gì đọng lại đó là cái thằng tôi trở về nhà trong một tháng, gặp một người tôi không thấy mặt đã bốn tháng và thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ. Blair lái xe rời xa lộ và gặp đèn đỏ. Một cơn gió dữ dội làm chiếc xe rung lên trong thoáng chốc, rồi Blair mỉm cười nói gì đó về chuyện có lẽ phải nâng mui xe cao hơn và chuyển sang kênh phát thanh khác. Trên đường về, Blair phải dừng xe vì có năm công nhân đang khênh những xác cọ bị gió giật đổ, nhét lá cây cùng những mẩu vỏ cây chết lên một xe tải lớn màu đỏ, Blair lại mỉm cười. Cô dừng xe trước nhà tôi, cổng nhà để ngỏ, rồi tôi ra khỏi xe, ngạc nhiên khi nhận thấy tiết trời khô nóng đến độ nào. Tôi đứng đó một lúc khá lâu, Blair cười toe toét hỏi, "Sao thế?" sau khi đã phụ tôi nhấc các va li ra khỏi khoang hành lý, tôi liền nói, "Không" và Blair bảo, "Trông anh nhợt nhạt quá," thế là tôi nhún vai, rồi chúng tôi chào tạm biệt và cô lên xe lái đi. Không có ai ở nhà. Điều hòa đang chạy và căn nhà tỏa ra mùi gỗ thông. Trên bàn bếp có mẩu giấy nhắn cho biết mẹ và các em gái đang đi sắm sửa cho Giáng sinh. Từ chỗ đứng, tôi trông thấy con chó đang nằm ngủ cạnh bể bơi, thở phì phì, bộ lông gợn sóng trước gió. Tôi bước lên lầu, đi ngang qua cô phục vụ mới, cô này mỉm cười và có vẻ như đã biết tôi là ai, rồi tôi đi qua phòng các em, hai phòng trông vẫn giống hệt nhau, chỉ những mẫu báo cắt ra từ GQ 2 dán trên tường là khác, rồi tôi vào phòng mình, nhận thấy không có gì thay đổi. Tường vẫn màu trắng, các đĩa hát vẫn nằm đúng vị trí, ti vi chưa hề bị dịch chuyển, cửa chớp vẫn để mở đúng như khi tôi rời đi. Có vẻ như mẹ và ả phục vụ mới, hoặc ả phục vụ cũ, đã dọn sạch tủ tường khi tôi vắng nhà. Trên chồng truyện tranh chất ở bàn có mẩu giấy nhắn, "Vẫn cần đống truyện này hả con?" ngoài ra còn có tin nhắn cho biết Julian đã gọi và một tấm thiệp với dòng chữ "Mẹ kiếp Giáng sinh." Tôi mở thiệp ra, trong đó viết "Nào ta cùng đú với Giáng sinh," lời mời dự tiệc Giáng sinh của Blair. Tôi bỏ thiệp xuống, nhận thấy không khí trong phòng đã bắt đầu lạnh thực sự. Tôi tháo giày, lên giường nằm, sờ trán xem mình có sốt không. Tôi nghĩ là có. Rồi vẫn đặt tay trên trán, tôi ngước lên săm soi tấm áp phích lồng kính treo trên bức tường phía đầu giường, nhưng cả nó cũng vẫn y như cũ. Đó là áp phích quảng cáo cho một đĩa hát cũ của Elvis Costello. Elvis nhìn qua tôi, nhếch môi cười mỉa mai, mắt đăm đăm hướng ra ngoài cửa sổ. Từ "Trust" 3 lơ lửng trên đầu ông, cặp kính râm bên xanh bên đỏ của ông bị kéo xệch xuống dưới sống mũi để ta có thể thấy đôi mắt ông, chúng hơi lệch tâm. Nhưng đôi mắt ấy không nhìn tôi. Chúng chỉ nhìn bất cứ ai đứng bên cửa sổ, mà tôi thì chẳng còn hơi sức đâu mà nhổm dậy đứng bên cửa sổ. ... Mời các bạn đón đọc Như Không Hề Có của tác giả Bret Easton Ellis.
Công Chúa - D. H. Lawrence
"Công chúa" là tác phẩm chứa đựng đầy đủ những tư tưởng sáng tạo của D.H.Lawrence, một câu chuyện vừa kỳ quái vừa đẹp mê hồn. D.H. Lawrence là một tác giả luôn gây nên những sửng sốt. Là một người luôn có ham muốn tột cùng về việc khám phá thế giới nhân bản của loài người, ông đã kiến tạo nên những tác phẩm chấn động thời đại, với những tư tưởng bạo liệt, đam mê, nhưng cũng đầy dịu dàng, trắc ẩn và đẹp đến mê hồn về bản năng, khao khát, tình yêu và dục tính của con người. Một người con gái chịu ảnh hưởng nặng nề của người cha cuồng tín tin mình là một người cao quý, thuần khiết, thượng đẳng. Cô sống trong một thế giới thần tiên, luôn hành xử nhã nhặn, thanh khiết, tin rằng cô hoàn toàn khác biệt so với những người khác. Thế giới của cô chỉ luôn tồn tại mơ mộng, cùng với người cha thân thiết, tận tụy. Thế giới ấy là một thế giới không vương chút bụi trần, và cô mãi là một cô công chúa trinh nguyên. Tuy nhiên, cho sau khi cha cô qua đời, cô bắt đầu đặt những câu hỏi về thế giới. Đến lúc cô nghĩ rằng mình muốn kết hôn, để hôn nhân là cây cầu nối cô với đời sống, như những người bình thường khác. Trong cuộc tìm kiếm bản thể của mình, công chúa đã thất bại. Sự thất bại của nàng, khiến cho mối xung đột trong câu chuyện vẫn tồn tại một cách bất lực. *** Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một xứ sở kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện một cuộc phiêu lưu hoan lạc. Dịch thuật, giới thiệu và biên khảo về những tác phẩm tinh hoa sẽ mở ra các lối cổng dẫn vào những cảnh tượng văn chương khác nhau, qua những không gian và thời gian vừa hiện thực vừa kỳ ảo. Khát vọng hiểu biết và vui thú trong đời là bản tính của con người ở mọi nơi và mọi thời. Các tác phẩm văn chương thật sự vĩ đại đều mang lại hai điều đó: vui thú và hiểu biết. Nhưng hiểu biết là niềm vui hiếm khi tự đến một cách dễ dãi. Cần đón đợi và hồi đáp.> Mọi tác phẩm tinh hoa cần được đón đợi và hồi đáp trong niềm hân hoan có tên là “ĐỌC”. ĐỌC. Cầm sách lên và đọc. Trong sách có bạn hiền, có người đẹp, có mọi thứ. Do vậy, chúng tôi chủ trương TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC, xem đó như cửa ngõ của hiểu biết và niềm vui. CÓ NĂM CỬA: - Kiệt Tác: Mỗi Kiệt tác sẽ được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong phối cảnh văn hóa những đặc điểm thiết yếu. - Tuyển: Tuyển chọn những tác phẩm ngắn của một tác giả, một nền văn học hay một chủ đề mang tính điển mẫu (thuộc vòng đời hay vòng mùa) - Kiến Thức: Những kiến thức mà người đọc hiện đại cần có: trào lưu văn học, các nền văn học, thể loại... được trình bày gọn nhẹ, dễ tiếp nhận. - Nghiên Cứu: Các công trình chuyên sâu về một vấn đề văn học, một tác giả thiên tài, lý luận phê bình... - Mới: Về các hiện tượng văn học mới xuất hiện của nước ngoài đang gây chú ý hoặc đoạt các giải thưởng lớn... Mong ước chúng tôi là TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC sẽ tiến bước bền vững và được đón nhận thân tình. Tủ sách được biên soạn và dịch thuật từ những nhà giáo, dịch giả và nhà nghiên cứu có uy tín và tâm huyết với văn chương. Nhật Chiêu Mời các bạn đón đọc Công Chúa của tác giả D. H. Lawrence.
Kí Ức Của Một Người Lính Trinh Sát Sư 307 - Võ Văn Hà
Kí Ức Của 1 Người Lính Trinh Sát Sư 307 ra đời chẳng vì cái gì cả, nó chỉ là một cuốn hồi ức sống động của một người lính thầm lặng của một chiến trường khốc liệt. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đã lùi dần vào dĩ vãng hơn ba mươi năm, nhưng hãy còn đó những CCB, những anh hùng ngày xưa mà lịch sử đã một thời lãng quên họ, những người anh hùng vô danh ấy, đã sống đã chiến đấu dũng cảm cho đất mẹ yêu thương, những trong số họ đã nằm xuống cho đất nước Chùa Tháp hồi sinh, những người trở về thì lặng yên cố hòa mình vào cuộc sống, nhưng trong họ vẫn âm ỉ cháy một ngọn lửa hồi ức không bao giờ tắt về những ngày tháng chiến đấu bên đồng đội, cùng trèo đèo lội suối chia sẻ nhau chút lương khô trên đường truy kích địch, hay còn nguyên cảm giác không nói nên lời khi tự tay khiêng xác thằng bạn mới hôm qua còn tếu táo với nhau... Tuổi trẻ các anh đã hiến dâng cho tổ quốc nào có ai đòi hỏi gì, đó là những năm tháng không thể nào quên, có những phút nghỉ ngơi sau những tất bật cơm áo gạo tiền, nghĩ lại những giây phút ngày xưa các anh bỗng chợt trào nước mắt vì thương những thằng bạn ra quân sau, mà cứ ngỡ tới tận bây giờ nó vẫn còn nằm chốt bên ấy (lời Trungsy1), để rồi các anh có thêm nghị lực, mà sống cả cho những đồng đội không được sống. Truyện nói lên những dòng hồi ức của một người lính thực thụ, người đã cầm súng chiến đấu cho đất mẹ và cho sự sống của chính mình, qua ngòi bút của chính tác giả, một nhà giáo đã vẽ nên một bức tranh sống động về chiến tranh và cuộc sống người lính trong chiến tranh. Chiến tranh nào phải những con số khô khan lạnh lùng, chiến tranh nào phải trò chơi mà chỉ có thắng với thắng, người lính nào phải chỉ biết đánh nhau… Trăm điều thú vị, nghìn chuyện ngậm ngùi… Tôi đã cùng cười cùng khóc với những dòng hồi ức này, cảm ơn chú Võ Văn Hà nhiều lắm. Giờ thì mời mọi người cùng đọc truyện tuổi teen để hiểu hơn về câu chuyện và Võ Văn Hà gửi gắm. *** Chắc chắn rằng trận đánh đã mang tính chất bất ngờ hoàn toàn với địch. Do địa hình không thuận tiên nên hai khẩu 12.7 và khẩu DKZ phải đặt trước BB và bắn tà âm trực tiếp vào địch. Ngay từ những loạt đạn đầu tiên của DKZ thì căn cứ địch đã bị thiệt hại nặng. Khẩu DKZ của địch nòng vẫn còn quay về hướng bãi mìn đã bị hư nặng nên chúng không phát huy được. Khi dứt đợt hỏa lực đầu tiên, anh em C9 do ở gần nên cơ động nhanh chiếm được một phần trận địa của chúng, và chính vì hai C9 và C10 không đồng bộ trong chiếm lĩnh trận địa nên anh em C9 sau khi chúng định thần lại bị chúng tấn công tới tấp bằng hỏa lực. Cả hai lần C9 bị khựng lại vì anh em không tiến lên được và bị thương khá nhiều. Lúc này hỏa lực của ta đi cùng không phát huy được, nên anh Khánh phải dùng tới cối 120. Không biết thực hư ra sao, nhưng phải công nhận cối rơi vào các điểm trọng yếu của địch và toàn bộ Pốt chết trên tuyến hào này đều do cối. Dù bị địch phản công mạnh, nhưng khi dứt đợt cối thứ hai thì C9 đã có bộ phận vào đến hầm của địch (hai LS cùng một chỗ), địch đã bị dồn tới nước cùng. Có hai hướng chúng định tháo chạy là tây và đông nam. Hướng tây của anh em D10 thì lực lượng mỏng, nhưng kẹt con suối ta đã chiếm sâu vào cứ của chúng. Anh Thìn đang cùng với một B của D10 đang án ngữ hướng này, hơn nữa địa hình hơi khó nên cũng không dễ gì thoát được (một nhóm địch chạy tháo ra bị anh em D10 đánh trả diệt hai tên). Trên các hướng hầm hố đã bị chiếm, và một ít bị cối phá sập nên không còn điểm tựa. Chỉ còn con đường của bãi mìn là con đường lí tưởng của chúng. Cả một lực lượng chúng bị co cụm trên một khu vực hẹp (có lẽ chúng biết bãi mìn của chúng có nơi dày thưa khác nhau) và chính diện vẫn là hướng C9. Tranh thủ thời cơ này, C10 tấn công mạnh yểm trợ cho anh em C9, và anh Thìn nhanh chóng thúc D10 vào chiếm lĩnh khu mạn tây của hào địch (tôi quẳng hai quả MK3 vào hầm địch) và buộc chúng phải rút chạy bất chấp là bãi mìn. Theo nhận định, thì nếu chúng cố chống trả chừng mười – mười lăm phút (không bị mất trung tâm) thì chắc chắn ta và địch phải đánh giáp lá cà vì đạn của ta đã hầu như không còn bao nhiêu. Có một anh C9 trong nòng chỉ còn bảy viên AK, khi tiếp giáp với anh em D10 phải xin hai băng AK… một lúc sau cũng gặp anh này, đang nấp vào phía sau cái thùng phuy của địch đang đưa đạn lẻ thu của địch vào băng. Trên hướng D3 ta hi sinh tám và bị thương hơn mười người. D10 bị thương tám do miểng cối của địch. Trận đánh khép lại với những thắng lợi phải nói là giòn giã. Tâm lí anh em đã được giải tỏa rất nhiều trước những tổn thất trong thời gian qua. Cũng không ai có thể ngờ rằng… chính tại cứ điểm này những năm sau ta phải vất vả, tốn quá nhiều xương máu của anh em F307, F2, F315 và những lực lượng trợ chiến của QK5.   Mời các bạn đón đọc Kí Ức Của Một Người Lính Trinh Sát Sư 307 của tác giả Võ Văn Hà.