Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cẩm Nang Chọn Nghề

“T rường hợp của anh là hiếm lắm,” Mark, bạn tôi, đã nói thế khi tôi đưa ra quyết định quan trọng nhất cuộc đời mình – bỏ việc để theo nghiệp viết lách. Ngày cuối cùng đi làm vô tình cũng là ngày sinh nhật lần thứ 30, một cột mốc mang nhiều ý nghĩa. Nhưng thật ra, bản thân ngày đó không quan trọng bằng quá trình đã dẫn tôi đến ngày này. Nếu ai đó hỏi tôi làm thế nào có được ngày hôm nay, tôi thật sự không biết trả lời sao cho rõ ràng. Trải nghiệm tìm ra tiếng gọi vừa bí ẩn vừa thực tiễn. Bạn vất vả gắng sức, nhưng đôi khi lại cảm giác nó tự nhiên mà đến. Giờ đây, tôi đã nhận ra việc đi tìm mục tiêu của cuộc đời giống như đặt chân lên một chuyến hành trình hơn là theo đuổi một kế hoạch: Bạn sẽ gặp những ngã rẽ và khúc cua bất ngờ. Dĩ nhiên, những bất ngờ này rồi cũng đưa bạn đến với định mệnh của mình. Và đích đến hóa ra chỉ mới là một đoạn đường trong chuyến hành trình dài. Cuốn sách này sẽ giúp bạn hình dung được chặng đường phải đi, cũng như từng bước bạn phải thực hiện nhằm tiến về phía trước. Mọi người có vẻ đều đang đi tìm lẽ sống để thỏa mãn những khát khao sâu thẳm trong tâm hồn. Tôi tin rằng họ đang đi tìm tiếng gọi. Vậy tiếng gọi là gì? Tôi dùng từ “tiếng gọi” theo nghĩa sự nghiệp, thiên hướng, công việc của cuộc đời, hay nói đơn giản hơn, tiếng gọi là lý do cho sự xuất hiện của bạn trên đời này. Khi mới bắt tay vào dự án này, tôi cứ nghĩ mình đã nắm rõ quá trình theo đuổi ước mơ, nhưng hóa ra tôi còn khám phá được nhiều điều bất ngờ. Đi tìm tiếng gọi hóa ra không hề đơn giản. Chặng đường này ở mỗi người đều khác nhau, dù cũng có những chủ đề chung. Nếu xem xét kỹ các chủ đề chung này, ta có thể xác định bộ khung định hướng để hiểu hơn về thiên hướng nghề nghiệp. Trường hợp của tôi có thực sự hiếm gặp không? Giả sử ai cũng có tiếng gọi của mình thì sẽ thế nào? Đó chính là câu hỏi thôi thúc tôi đi trên hành trình này. Những nhân vật xuất hiện trong cuốn sách này, do tôi đích thân phỏng vấn, đều không phải người phi thường, vì hẳn bạn đã nghe nhiều chuyện tương tự. Họ không phải là nhân vật thành công điển hình, tôi chọn họ vì có mục đích. Qua những câu chuyện có vẻ bình thường này, tôi nghĩ chúng ta có thể hiểu rõ hơn về chính mình. Sẽ có độc giả cảm thấy thất vọng vì cuốn sách không được khách quan. Nhưng cuộc đời là thế, nó đâu phải là dự án nghiên cứu hay bản tóm tắt nội dung sách mà đòi hỏi phải khách quan. Cuộc đời là những câu chuyện cảm xúc, và qua từng trải nghiệm, ta nhìn ra sự thật có thể đã bị bỏ qua. Tôi hy vọng những câu chuyện này sẽ chạm đến bạn nhiều hơn so với những dữ liệu khô khan, và từ đó, bạn sẽ thay đổi. Cẩm nang chọn nghề không phải là cuốn sách tôi định viết, mà là cuốn sách tôi phải viết. Tiếng gọi là thế: Bạn không hề dự tính, nhưng các nút thắt, ngã rẽ dẫn dắt kết nối mọi thứ, đưa bạn đến với kết quả cần đến. Quá trình viết cuốn sách này đã góp phần giúp tôi thấu hiểu lẽ sống và thiên hướng, và tôi hy vọng bạn cũng nhận được giá trị tương đương. *** Giới thiệu Ung thư cũng không ngăn được vận động viên ba môn phối hợp Nhiều người được gọi, nhưng ít người được chọn. — Matthew 22:14 S ứ mệnh nghề nghiệp không hẳn là kế hoạch có tính toán. Thường thì nó được vớt vát khi kế hoạch đổ bể. Một buổi tối tháng 6 năm 2000, Eric Miller đã trốn họp ở công ty để đi xem cậu con trai chơi bóng gậy. Trong trận đấu, ông và vợ là Nancy để ý thấy cậu con trai Garrett bé bỏng không thể giữ thăng bằng và đánh trúng bóng. Hai vợ chồng lo ngại, dẫn con đi khám bác sĩ, và ngay lập tức bác sĩ chỉ định đưa cậu bé đi chụp CT. Khi hai vợ chồng được mời vào đợi trong phòng tư vấn, nơi vẫn thường được gọi là “căn phòng yên lặng”, Eric thoáng hiểu có chuyện chẳng lành. Là một y tá, ông hiểu rõ chức năng của căn phòng này. Đây là nơi người ta được mời đến để nhận hung tin. Lúc đó là 6 giờ tối.1 Đến 11 giờ 30 phút, Garrett được chỉ định nhập viện tại Bệnh viện Nhi đồng ở Denver, Colorado, và được đưa ngay vào phòng phẫu thuật. Sáng hôm sau, ngày 24/6, một khối u to bằng quả bóng golf đã được lấy ra khỏi não phía sau gáy của cậu bé. Cậu bé được chẩn đoán mắc bệnh u nguyên bào tủy* – một cụm từ mà Eric cho rằng con nít không nên biết.2 Sau cuộc phẫu thuật, Garrett bị mất thị lực, không nói được và bị liệt. Garrett giờ đây phải đeo máy thở, và học lại cách đi đứng, cách phát âm, học cách tự đi vệ sinh, tất cả làm lại từ đầu. Ngay cả nếu có phép màu giúp cậu bé làm lại được mọi thứ, cậu cũng chỉ có 50% cơ hội sống được thêm năm năm nữa. * U nguyên bào tủy là khối u ác tính, hay gặp nhất trong các khối u sọ não ở trẻ em. U xuất hiện ở tiểu não, là vùng kiểm soát thăng bằng và một số chức năng vận động phức tạp. (BTV) Gia đình Miller chỉ còn biết ngồi đếm từng ngày được sống bên cạnh cậu con trai bé bỏng của mình. Trong một buổi điều trị ung thư, Eric ngồi nhìn con mà nghĩ đến sự nghiệt ngã của thời gian đang trôi qua, cuộc đời của cậu bé đang ngắn dần theo từng ngày. Đứng trước những khó khăn cậu bé phải chống chọi, đứng trước những lo lắng về căn bệnh, ông chợt nhận ra một điều. Một ý tưởng mới. Là người làm trong ngành y tế, “nơi chiếc đồng hồ đếm thời gian cuộc sống có thể dừng chạy bất cứ lúc nào,” Eric chợt nhận ra bấy lâu nay mình đã sai. Không phải chỉ cuộc đời của Garrett có thể kết thúc bất cứ lúc nào, mà toàn bộ cuộc đời của mọi người trong nhà cũng thế. Không có gì chắc chắn về việc những người trong nhà sẽ sống lâu hơn Garrett. “Chúng ta cần phải sống trọn vẹn từng phút giây,” Eric nói với tôi. “Vì không ai trong chúng ta dám chắc mình còn sống sau một hay hai giờ nữa.” Với thời gian còn lại, cả gia đình Miller quan tâm đến việc sống trọn vẹn hết mình. Sau khi Garrett rời khỏi phòng chăm sóc đặc biệt và không còn phải đeo máy thở, Eric tự hỏi không biết trên đời này có ai thấu hiểu cảm giác của ông. Ngồi một mình bên khung cửa sổ trong bệnh viện, ông lặng lẽ cầu nguyện có thể tìm ra câu trả lời cho nỗi tuyệt vọng đang tàn phá chút hy vọng còn sót lại của gia đình.3 Cũng trong thời gian này, ông được biết câu chuyện về Matt King, một kỹ sư IBM đồng thời là vận động viên xe đạp đôi mất thị lực nổi tiếng thế giới.4 Mùa thu năm đó, Eric dẫn con trai đến gặp Matt King nhân một sự kiện xe đạp tổ chức gần nhà, và Garrett được ngồi lên chiếc đạp xe đôi, nắm chặt ghi đông, cảm nhận bàn đạp dưới chân mình. Đó hẳn là lúc “lóe sáng” ý tưởng trong đầu Garrett. Cậu bé quyết định sẽ đạp xe trở lại, và từ đây bắt đầu chuyến hành trình không chỉ thay đổi cuộc đời chính mình mà còn tác động đến cuộc đời của nhiều người khác, dù ngay lúc đó cậu bé và cha đều không thể hình dung hết. Vài tháng sau, Garrett nói với mẹ rằng cậu muốn thử đạp xe. Mẹ cậu không dám tin, nhưng cậu rất quyết tâm. Lúc đó, mắt cậu cũng đã nhìn được phần nào, và cậu đã đi lại chập chững dù còn khó khăn. Với sự giúp đỡ của mẹ, Garrett trèo lên chiếc xe đạp ngày trước và bắt đầu nhấn bàn đạp. Thoạt đầu, bà còn chạy theo khi cậu loạng choạng đạp để giúp cậu giữ thăng bằng. Nhưng chẳng mấy chốc đôi chân cậu đã đạp nhanh hơn, bà không thể chạy theo kịp chiếc xe, và cậu được tận hưởng dù chỉ một khoảnh khắc cảm giác tự do như trước khi bị căn bệnh ung thư hành hạ. Cùng hôm đó, cha cậu mang về nhà một chiếc xe đạp đôi mới toanh để hai cha con cùng nhau đạp xe. Sáu tháng sau, ngày 24 tháng 6 năm 2001, sau một năm hóa trị và xạ trị, cậu bé Garrett sáu tuổi đã cán đích cuộc thi ba môn phối hợp lần đầu tiên. Cha cậu chạy theo phía sau, đẩy chiếc xe lăn. Hôm đó cũng là dịp kỷ niệm một năm ca mổ định mệnh.5 Đối với cặp cha con đã phải trải qua bao trắc trở, cuộc đua là cách họ tuyên bố với thế giới, cũng như với bản thân, rằng họ sẽ không để một khối u ngăn trở mình sống cuộc đời trọn vẹn, tận hưởng mọi khoảnh khắc cuộc sống. Nhờ vào các phương pháp điều trị, Garrett giờ đây có 90% cơ hội sống. Và đó là câu chuyện cách đây 14 năm. Từ sau ca mổ suýt biến cậu thành người tàn tật hơn chục năm trước, Garrett đã cùng cha tham gia thi đấu hàng chục cuộc đua ba môn phối hợp, thậm chí cậu còn từng thi đấu một mình. Thị lực của cậu dù không hồi phục hoàn toàn, nhưng cũng giúp cậu nhìn đồ vật một cách lờ mờ dựa trên hình dáng của chúng. Dù bị xếp vào nhóm khiếm thị, nhưng cậu đã làm được những việc mà trước kia bác sĩ cho rằng không thể. Nói không ngoa, Garrett là một phép màu sống. *** Cuốn sách này không kể về những phép màu. Đây là cuốn sách về cách tìm ra tiếng gọi trong sự nghiệp, cách phát hiện tài năng thiên bẩm của bạn. Tiếng gọi chính là điều mà bạn không thể không làm, là câu trả lời cho câu hỏi ngàn đời, “Tôi phải làm gì với cuộc đời mình đây?” Trên kệ sách có những cuốn cẩm nang hướng dẫn bạn đi tìm công việc mơ ước, hay trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực nhất định – nhưng không phải là cuốn sách này. Cẩm nang chọn nghề tập trung vào thiên hướng. Trong sách, tôi sẽ đề cập đến cách hiểu tiếng gọi không chỉ đơn thuần là công việc. Thông qua câu chuyện của những người quanh ta, tôi sẽ chỉ cho bạn thấy thật sai lầm khi coi tiếng gọi như một công việc. Con đường đưa ta đến với công việc ý nghĩa không phải lúc nào cũng là một kế hoạch chủ động. Đôi khi con đường dẫn ta đến mục đích sống của đời mình lại thật rối rắm, và chính cách chúng ta phản ứng mới thật sự quan trọng hơn bản thân tình huống đó. Mỗi chương là mỗi câu chuyện khác nhau, thể hiện một khái niệm chủ đạo, một trong bảy giai đoạn của tiếng gọi. Dù khác nhau, nhưng chúng đều có một điểm tương đồng: mỗi người theo cách riêng của họ đều bị bất ngờ trước tình huống xảy đến. Và tôi nghĩ, những câu chuyện dạng này giờ đây ít được nhắc đến, dù chúng có thể góp phần giúp ta hiểu hơn về con đường sự nghiệp. Chẳng phải ta đã học được nhiều điều từ câu chuyện về cậu bé năm tuổi chiến đấu với bệnh ung thư não để trở thành vận động viên ba môn phối hợp sao? Trong 18 năm, Garrett Rush-Miller đã hoàn thành cuộc đua bán-Ironman**, leo lên khu tàn tích Machu Picchu, và đạt cấp độ Hướng đạo Đại bàng. Những lúc không đi học hay không bận làm việc tại phòng tập leo núi, anh lại dành thời gian tham gia tình nguyện với Wounded Warriors, một tổ chức từ thiện chuyên hỗ trợ cựu chiến binh. Vào thời điểm tôi viết cuốn sách này, anh đang chuẩn bị tốt nghiệp phổ thông và trên hết là muốn tìm bạn gái. ** Ironman là cuộc thi ba môn phối hợp nổi tiếng thế giới với chuỗi đường đua dài mà các vận động viên phải thực hiện trong một ngày và không có khoảng nghỉ giữa các môn đua. (BTV) Sau khi nhận được e-mail của Eric đính kèm một số bài báo viết về con trai ông, tôi đã ngay lập tức gọi điện cho họ. Khi trực tiếp trao đổi với cả hai trong giờ nghỉ trưa của Garrett, tôi rất ngạc nhiên trước tinh thần tích cực và quan điểm sống của hai cha con. Câu chuyện của họ không phải là chuyện đi lên từ nghèo khổ hay trải nghiệm siêu tâm linh. Nó vừa truyền cảm hứng lại vừa chân thực. Họ không làm gì khác ngoài việc cố gắng sống, cố gắng hiểu cuộc đời, và do đó nó rất gần gũi với tôi. Tôi hỏi Garrett liệu cậu có bao giờ suy nghĩ xem cuộc đời mình sẽ đi theo hướng nào nếu ngày hôm đó cậu không đánh trật quả bóng, không bị u não và không phải trải qua 64 tuần hóa trị. “Thật lòng mà nói, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đó,” cậu thừa nhận. Cha cậu cũng nói thế. “Thực tế là,” Eric giải thích, “đây là những lá bài mà chúng tôi có, và chúng tôi phải chơi sao cho tốt nhất.” Eric Miller vẫn luôn cố gắng hướng cậu con trai đến những thứ cậu có thể làm được, chứ không để tâm đến những thứ cậu không thể làm được. Và bài học nhỏ này đã tạo ra kết quả phi thường cho cả hai người. Món quà mà cha cậu mang đến không phải là sự bảo vệ Garrett khỏi đau đớn và tổn thương dù hẳn là Eric rất muốn làm thế cho con. Ông giúp Garrett nhận ra rằng cuộc đời phi thường không đến từ cơ hội ta gặp, mà đến từ cách ta phản ứng với chúng. Mời các bạn đón đọc Cẩm Nang Chọn Nghề của tác giả Jeff Goins.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống - Nhã Nam tuyển chọn
Bộ sách Thông điệp yêu thương lan truyền những cảm hứng về cuộc sống, về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò… thông qua những mẩu chuyện, những câu nói giúp bạn sống lạc quan, yêu đời, hạnh phúc và thành công hơn. Hi vọng mỗi cuốn sách sẽ là quà tặng ý nghĩa, là người bạn đồng hành cùng bạn đọc trong cuộc sống. Cuốn sách Luôn mỉm cười với cuộc sống gồm những câu văn, câu chuyện ngắn đầy yêu thương giúp bạn thật sự lạc quan trong cuộc sống dù cuộc sống của bạn không ngừng với những bộn bề lo toan… Mời các bạn đón đọc Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống của tác giả Nhã Nam tuyển chọn.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3
Quyển một “Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” đã giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về Sáng tạo học và Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM). Quyển hai “Thế giới bên trong con người sáng tạo” và quyển ba “Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống” có mục đích trình bày các kiến thức, được rút ra một cách chọn lọc từ những khoa học có đối tượng nghiên cứu là tư duy, hoặc liên quan, hỗ trợ hoạt động tư duy. Các kiến thức này đóng vai trò các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM, theo nghĩa, chúng giúp bạn đọc hiểu cơ sở khoa học của PPLSTVĐM và sử dụng các công cụ có trong PPLSTVĐM (sẽ trình bày từ quyển bốn trở đi) một cách chủ động với hiệu quả cao. Như bạn đọc đã biết, quyển hai dành nói về tâm lý học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, nhằm giúp bạn đọc biết, hiểu và sử dụng những hiện tượng phong phú thuộc thế giới bên trong của mình tốt hơn. Từ đó, bạn đọc có thể thấy rằng, cần có những nỗ lực cá nhân hướng đến phát triển khả năng điều khiển thế giới bên trong cũng như các hành động của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển các nhân cách sáng tạo. Quyển ba này trình bày các kiến thức lấy từ lôgích học hình thức, phép biện chứng duy vật và khoa học hệ thống. Theo chủ quan của người viết, cùng với quyển hai, đây là những kiến thức cần thiết nhất và phục vụ tốt nhất trong tư cách là các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM. Giống như trong quyển hai, những gì trình bày trong quyển ba này là kết quả người viết được học, tự học, nghiên cứu và sử dụng chúng. Bạn đọc nên xem những gì viết ở đây chỉ là tối thiểu, mang tính chủ quan, do vậy, cần tự suy xét, đánh giá và tìm hiểu sâu, rộng thêm các kiến thức liên quan thông qua những nguồn khác. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Vào thế kỷ 17, 18, cơ học cổ điển của Galileo, Newton... đạt được nhiều thành tựu lớn cả trong nhận thức thế giới lẫn giải quyết các bài toán thực tiễn đề ra, tạo nên sự phát triển xã hội mạnh mẽ. Có lẽ vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa các luận điểm cơ học cổ điển thành thế giới quan (chủ nghĩa) cơ giới: Giải thích sự phát triển của tự nhiên và xã hội bằng các quy luật của hình thức cơ học vận động vật chất. Những quy luật đó được xem là phổ biến và đúng cho tất cả các hình thức vận động vật chất. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa cơ giới là sự đánh đồng một cách trừu tượng hình thức vận động vật chất bậc cao với hình thức vận động vật chất bậc thấp: Ví dụ, hình thức xã hội với sinh học; sinh học với hóa học hoặc/và vật lý... cho đến cơ học. Tuy có những hạn chế, thế giới quan cơ giới là sự tiến bộ vào thời kỳ đó và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, triết học. Các kiến thức cơ học giúp người ta hiểu, giải thích được nhiều hiện tượng tự nhiên, thoát khỏi các quan điểm thần bí, tôn giáo giáo điều. Việc dùng các quy luật cơ học ra ngoài phạm vi áp dụng của chúng (xem mục nhỏ 6.5.4. Tính ì tâm lý do ngoại suy ra ngoài phạm vi áp dụng của quyển hai) và tuyệt đối hóa chúng tạo nên bức tranh cơ giới về thế giới: Toàn bộ vũ trụ (từ nguyên tử đến các hành tinh) là hệ cơ học khép kín, bao gồm những yếu tố không thay đổi mà sự vận động của chúng tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển. Tư duy tương ứng với mức phát triển nói trên của khoa học chính là tư duy siêu hình. Sự phát triển tiếp theo của khoa học cho thấy, các cố gắng dựa trên các quy luật cơ học cổ điển để giải thích các hiện tượng điện–từ, hóa học, sinh học, đặc biệt, các hiện tượng xã hội đã hoàn toàn thất bại. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như cách tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới (Mechanistic Approach), được dùng phổ biến từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”... Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: 1) Nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; 2) Xây dựng các mô hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống; 3) Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng các quan điểm, phương pháp hệ thống; 4) Là cơ sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3 của tác giả Phan Dũng.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 2 - Phan Dũng
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”. “Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”. “Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Chương 5: Từ nhu cầu đến hành động và ngược lại trình bày những yếu tố tương đối độc lập, cần lưu ý nhất, như nhu cầu, xúc cảm, các thói quen tự nguyện, tư duy thuộc thế giới bên trong và hành động của mỗi cá nhân, cùng các mối liên kết giữa chúng. Chương 6: Tư duy sáng tạo: Nhìn theo góc độ thông tin – tâm lý tập trung chi tiết hóa quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định của cá nhân. Các hiện tượng thông tin – tâm lý đóng vai trò chủ đạo trong tư duy sáng tạo được trình bày cùng với các lời khuyên về cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả. Không ít người hiện nay để cho suy nghĩ nói riêng, các hoạt động của thế giới bên trong con nguời mình nói chung, diễn ra một cách tự nhiên và không để ý đến chúng. Do vậy, nhiều phép thử sai như là kết quả của các hành động cá nhân đã không được những người đó tìm hiểu, giải thích theo quan hệ nguyên nhân–kết quả một cách khoa học. Những kiến thức của Chương 5 và 6 giúp cá nhân không chỉ có ý thức một cách tương đối đầy đủ về các hoạt động thuộc thế giới bên trong mà còn giúp cá nhân “lắng nghe” và “suy nghĩ” về chúng, tức là, về chính bản thân mình. Điều này có nghĩa, cá nhân cần dành thời gian, công sức tự hỏi, tự quan sát, tự theo dõi, tự trả lời và tự rút kinh nghiệm để phát huy các mặt mạnh, hạn chế các mặt yếu của các hiện tượng thuộc thế giới bên trong con người. Chương 7 này có mục đích phát triển tiếp những gì đã trình bày, theo hướng thảo luận nhằm trả lời câu hỏi: “Cần làm những gì và làm như thế nào để có thể điều khiển được hành động và thế giới bên trong của con người sáng tạo?”. Ở đây, người viết không có tham vọng trả lời trọn vẹn câu hỏi nói trên vì đấy là công việc phức tạp và của rất nhiều người. Do vậy, bạn đọc nên quan niệm Chương 7 này giống như sự cung cấp các thông tin, chia sẻ các kiến thức để chúng ta còn quay trở lại thảo luận tiếp trong tương lai, khi có dịp thuận tiện. Đi vào cụ thể, Chương 7 sẽ trình bày một số ý tưởng cơ bản chung của một bộ môn khoa học, gọi là điều khiển học. Có một loạt từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với “điều khiển” như quản lý, quản trị, điều hành, lãnh đạo, dẫn dắt, điều chỉnh, lái, lèo lái, kiểm soát... Trừ những trường hợp cần nhấn mạnh, nói chung, người viết sẽ dùng từ “điều khiển”. Tiếp theo, Chương 7 sẽ trình bày mối quan hệ, tác động qua lại của cá nhân và môi trường (hiểu theo nghĩa rộng nhất), có tính đến những kế thừa lịch sử phát triển tự nhiên, xã hội. Để đối phó với những thách thức đến từ môi trường, con người hiện đại có nhu cầu thay đổi thế giới bên trong của chính mình, hiểu theo nghĩa, phải chủ động điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong, một mặt, cho phù hợp với các thay đổi môi trường. Mặt khác, điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong để điều khiển quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định, tạo ra các hành động biến đổi môi trường, phù hợp với các quy luật phát triển khách quan. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 2 của tác giả Phan Dũng.
Quản Lý Thời Gian - Martin Manser
Quản Lý Thời Gian của tác giả Martin Manser là một bài học vô cùng đơn giản về cách thức chúng ta sử dụng thời gian của mình. Đó chính là cách thức chúng ta sử dụng cuộc sống của mình. Tất cả chúng ta đều có những đặc điểm tính cách khác nhau và nhu cầu đa dạng với việc sử dụng thời gian của mình. Một vài người sống rất ngăn nắp/ có trật tự, những người khác thì không. Thông qua quá trình làm việc của mình, tôi đã học được một số phương pháp để sử dụng hiệu quả thời gian. Có hai ý tưởng cơ bản: thứ nhất là làm việc hiệu quả - để thấy rằng tôi có những hệ thống được đặt đúng chỗ, nhờ đó mà mọi thứ vận hành trôi chảy và khiến cho tất cả những nguồn lực có sẵn cho tôi được tận dụng một cách tối ưu nhất. Nhưng tôi đã học được cách làm nhiều hơn thế; tôi cũng muốn sống và làm việc hiệu quả - để tạo ra một cái gì đó trong cuộc sống của tôi, để làm cho nó trở nên có ý nghĩa, để đạt được một cái gì đó rõ ràng, tốt đẹp và đúng đắn. Trong suốt 30 năm làm việc của mình, tôi đã phải hỏi mình một số câu hỏi khó: Tôi muốn gì trong cuộc sống của mình? Tôi muốn đạt được những gì? Tôi thuộc kiểu người nào? Làm thế nào tôi có thể phát triển bản thân với tư cách là một con người? Tôi muốn sử dụng thời gian của mình như thế nào? Tôi nên định giá thời gian của mình như thế nào? Kiểm soát thời gian của bạn. Việc sử dụng thời gian hiệu quả xảy ra khi bạn học cách quản lý thời gian hiệu quả bằng cách tập trung vào nhiệm vụ, giảm thiểu sự gián đoạn và sử dụng những khoảng thời gian chậm trễ, không được mong đợi có thể xuất hiện. Nếu bạn theo đuổi bảy bí mật bạn sẽ biết cách sử dụng thời gian của bạn một cách hợp lý, cách để sống hiệu quả, cách để tận dụng lợi thế của những sự việc bất ngờ xảy ra trong cuộc sống. Mong mọi điều tốt đẹp sẽ đến với bạn! *** Có thể sẽ rất hữu dụng nếu bạn tạo ra các khung thời gian khi thực hiện những nhiệm vụ khác nhau. Điều này đặc biệt hữu dụng cho những việc chính mà bạn cần làm, và nó cũng hữu dụng cho cả những công việc thường xuyên. Chẳng hạn như, bạn cần lập báo cáo bán hàng hàng tuần vào ngày thứ Ba của tuần tiếp theo. Vậy, hãy dành thời gian vào thứ Hai hàng tuần để nói chuyện với các đồng nghiệp ở phòng kinh doanh, đồng thời kiểm tra chắc chắn rằng những số liệu được cung cấp trong hệ thống máy tính của bạn là chính xác. Sau đó, thứ Ba hàng tuần, hãy sắp xếp một khoảng thời gian để bắt tay vào viết báo cáo. Đây là những nhiệm vụ cần được ưu tiên mà bạn không nên xao nhãng. Đặt ra thời gian dành riêng cho những việc này trong nhật ký sẽ giúp bạn tránh chỉ làm chúng khi bạn thích. Dưới đây là một số bí quyết khác cho việc quản lý thời gian của bạn trong lúc thực hiện những công việc cần tập trung cao độ: Tự cách ly. Nếu mọi thứ đều thuận tiện, hãy tắt điện thoại di động, đóng ứng dụng thư điện tử và để điện thoại bàn ở chế độ trả lời tự động (đồng thời tắt tiếng). Nếu thực sự cần phải tập trung, hãy xem liệu bạn có thể rời đến một chỗ khác trong văn phòng, nơi mà không ai có thể làm phiền bạn hay không. Học cách siết chặt thời gian. Hãy đặt cho bạn một giới hạn, chẳng hạn là 30 phút, và sau đó kéo căng bản thân ra để xem liệu bạn có thể xử lý được công việc mà thông thường bạn cần 40 phút không. Bạn sẽ ngạc nhiên trước những gì bạn làm được. Điều này cũng có hiệu quả theo một cách khác: Một cuộc họp dự định kéo dài 90 phút sẽ có vẻ như quá dài. Hãy xem liệu bạn có thể giảm nó xuống khoảng 10, thậm chí là 15 phút không. Cho phép mình nghỉ ngơi. Sau khi tập trung làm việc khoảng 50 phút, hãy cho phép mình nghỉ ngơi 10 phút: việc này sẽ cho phép tâm trí xử lý và đào sâu thêm suy nghĩ của bạn, và bạn có thể thấy mình giải quyết được một số vấn đề phát sinh trong lúc bạn làm việc tập trung. “Công việc sẽ luôn nở ra để lấp đầy quỹ thời gian dành để hoàn thành nó.” ... Mời các bạn đón đọc Quản Lý Thời Gian của tác giả Martin Manser.