Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quyến Rũ

Mười năm trước, đối với Brenna Marcelli, gia đình, nghề làm rượu vang, và một người con trai là tất cả thế giới của cô. Sau gần mười năm xa cách và một cuộc hôn nhân thất bại, Brenna quay trở về điền trang Marcelli để sống cùng ông bà và cha mẹ mình. Giữa một loạt những biến cố và sự kiện mới của gia đình - một đám cưới đôi của chị và em gái cô, sự xuất hiện của một người anh trai lưu lạc từ lúc mới chào đời, những ám ảnh về một mối hận thù truyền đời giữa gia đình cô và nhà hàng xóm Giovanni - Brenna quyết định sẽ gây dựng một xưởng rượu mới cho riêng mình. Và cô chỉ có một lựa chọn duy nhất để thực hiện được ước mơ của mình - đó là đi vay tiền Nic Giovanni, kẻ thù của gia đình, cũng là mối tình đầu của cô. Và cô nhận ra, quãng thời gian mười năm xa cách, những đổi thay và thất bại trong cuộc sống, tất cả không thể làm thay đổi được tình yêu của cô dành cho rượu vang, cho đám nho, và hơn thế nữa, cho một con người... Là tác phẩm thứ ba trong serie năm cuốn về năm anh chị em nhà Marcelli của Susan Mallery, The Seductive One có tất cả những yếu tố của một cuốn Romance nhẹ nhàng mà mi_do_ri yêu thích: một gia đình đông vui, đầm ấm, một nghề làm rượu vang gia truyền đầy hấp dẫn, một mối tình đầu nóng bỏng, mê say, một chút thù hận và trả thù cho hợp với chất Ý... Mình không giỏi viết giới thiệu và tóm tắt, chỉ biết nói đây là tác phẩm mình thích nhất trong serie này và muốn được chia sẻ với mọi người. *** Vay một triệu dollar của quỷ xứ là một chuyện, kháng cự lại được với hắn khi làm điều đó lại là một chuyện khác. Brenna Marcelli tự cho mình cũng thông minh trên mức trung bình. Với một tương lai còn đang mù mịt, cô sẽ chẳng thể làm gì được ngoài việc cố tỏ ra hoàn toàn dễ thương trong suốt cuộc đối thoại sắp tới với Nicholas Giovanni. Cô sẽ tự tin, sẽ đầy thuyết phục, thậm chí là lôi cuốn nữa. Cô sẽ không nổi nóng, cầu xin, hay nghĩ đến sex. Đặc biệt là sex. Dù cho nó đã từng tuyệt đến thế nào đi nữa. Nhưng nó đã rất tuyệt, cô nghĩ, khi sải bước dọc theo chiều dài sảnh đợi khu văn phòng của Wild Sea Vineyards. Còn hơn cả tuyệt nữa. Một lần, họ đã làm chuyện đó trên bãi biển, và cũng đêm đó, chương trình tin tức đã đưa tin về một cơn trều cường cao bất ngờ. Brenna vẫn luôn thắc mắc liệu cô với Nic có một phần trách nhiệm trong hiện tượng đó hay không. “Quá khứ,” cô nói thầm, ép chặt tập hồ sơ trước ngực. “Một quá khứ cổ xưa rồi. Còn bây giờ là một thập kỷ mới – thậm chí là một thế kỷ mới. Mình có khả năng. Mình độc lập. Mình đang thực sự khó chịu vì anh ta đã để cho mình phải chờ đợi.” Cô quay lại và nhìn về phía cánh cửa đang đóng dẫn đến văn phòng riêng của Nic. Khi cô trợ lý của anh yêu cầu cô đợi và hứa là ông chủ sẽ gặp cô ngay thôi, Brenna đã tin tưởng cô ta. Giờ, gần mười phút trôi qua, cô trợ lý đã biến mất và vẫn không thấy bóng dáng Nic đâu. “Chỉ là một trò cân não thử sức thôi,” cô tự nhủ, hít một hơi thở dài lấy lại bình tĩnh. “Mình sẽ không bỏ cuộc đâu. Anh ta có thể khiến mình đợi lâu đến chừng nào anh ta muốn.” Ngoại trừ là bụng cô đang quặn lại, cô thấy thực sự hối tiếc vì đã cố cái cốc cà phê thứ năm đó, và cô có một cảm giác xấu là nếu cô ngừng đi lại quá lâu, hai đầu gối cô sẽ run rẩy mất. Đó không hẳn là bức chân dung về một con người chuyên nghiệp tự tin mà cô đang muốn phác họa ra. Cô thực sự cần – Cánh cửa văn phòng bật mở và chính con quỷ bước ra. Thôi được, có lẽ gọi Nic là quỷ là hơi quá, nhưng anh trông kín bưng, nguy hiểm, và đến mức này rồi thì cô sẽ bán cả linh hồn mình cho anh để có được cái cô muốn. Một đóa hồng được gọi trại đi bằng một cái tên khác, hay gì cũng được. “Brenna.” Nic mỉm cười gọi tên cô. Cứ như thể họ vẫn gặp nhau thường ngày. “Thật vui được gặp em.” Giá như là thế, cô nghĩ. Cô đã không đặt chân đến nhà Giovanni mười năm rồi. Và vì một lý do chính đáng. “Xin chào, Nic.” Anh ra hiệu về phía văn phòng của mình và cô bước vào chốn riêng tư ấy. Căn phòng không thay đổi nhiều so với lần cuối cùng cô nhìn thấy nó. Vẫn rộng lớn, vẫn bị thống trị bởi một cái bàn có từ thế kỷ thứ mười tám. Cái máy tính là mới, cũng như người chủ của nó. Mười năm trước, ông nội của Nic là người làm chủ chốn này. Từ đây, ông điều hành toàn bộ công chuyện làm ăn của Wild Sea Vineyards. Giờ, người già đã ra đi và Nic là người tiếp nối. Tiếp nối và bành trướng, cô nghĩ khi đứng trước tấm bản đồ treo trên tường đối diện với cái bàn bề thế. Cô quan sát những khu vực được bôi đậm, thể hiện chi tiết đất đai của nhà Giovanni, cho thấy họ đã mở rộng được đến cỡ nào trong bảy năm trở lại đây. Nic vẫn luôn muốn trở thành người lớn mạnh nhất và cừ nhất. Và không cần phải bàn cãi gì nữa, anh đã đạt được mục tiêu đó. Tất nhiên, tập trung vào tấm bản đồ cho phép cô không nghĩ đến cái bàn chết tiệt sau lưng. Thật không may, rồi cô sẽ phải quay lại và nhìn nó. Sẽ không tệ đến thế đâu nếu cô và Nic chưa từng, ừ, làm chuyện đó trên cái bàn ấy. Đó là một ngày chủ nhật, khoảng ba giờ sáng. Màn đêm yên tĩnh, lạnh và lãng mạn lạ thường. Tất nhiên, đó là hồi cô mười bảy tuổi và đang yêu, đang ở cái thời khắc mà dù có làm việc đáng chán nhất trần đời là ngồi chờ đợi một vệt màu nước khô đi, cũng vẫn thấy lẵng mạn như thường. “Xin hoan nghênh em ngồi xuống đấy,” anh nói, một chút thích thú trong giọng anh. Chắc chắn rồi, cô nghĩ, hất thẳng vai và quay lại đối mặt với quá khứ của mình. Nic làm việc ở đây hàng ngày. Anh hiển nhiên là đã quên những gì xảy ra trên cái khối gỗ đó. Nhưng cô thì không. Cô đi về phía một chiếc ghế tựa quá khổ và buông mình xuống lớp da êm ái. Nic đi vòng qua chiếc bàn của mình và ngồi đối mặt với cô. “Anh đã ngạc nhiên khi biết em hẹn gặp anh đấy,” anh nói một cách dễ dàng. “Anh hy vọng là mọi chuyện vẫn ổn với gia đình em.” “Mọi người khỏe cả. Thực sự là, tuyệt vời ý. Francesca đã đính hôn rồi.” Còn hơn cả đính hôn nữa, nhưng chuyện đó phải dành để lần khác kể thôi. “Ông nội em chắc hạnh phúc lắm.” Cô gật đầu và nhận thấy tia nhìn của mình đang chiếu lên gương mặt anh. Những đường nét mạnh mẽ, cô nghĩ, chợt nhớ đến người con trai ngày xưa khi cô quan sát người đàn ông trước mặt. Anh vẫn luôn có những nét mạnh mẽ. Đôi mắt hút hồn, cái mũi thẳng, cái cằm cương nghị, và thậm chí là ương bướng nữa, và cái miệng đã từng hôn cô khiến cô quên cả thời gian. Tiết trời tháng tám ấm, nhưng anh vẫn mặc một cái áo sơ mi dài tay màu đen, một cái quần tối màu. Không phải là quần jeans và áo T-shirt như cô vẫn từng quen nhìn. “Anh ăn mặc trang trọng quá,” cô nói.       “Vì cuộc gặp mặt của chúng ta đấy.” Anh mỉm cười, một nụ cười chậm rãi, lôi cuốn, khiến cô nhớ đến những nụ cười khác. Như nụ cười anh đã từng dùng để thuyết phục cô, rằng sẽ thực sự rất ổn khi làm tình vào buổi đêm trên cánh đồng nho. Đó là lần đầu tiên của họ, và cô đã mất đi sự trong trắng của mình giữa hợp âm của đàn dế và – Ngừng lại ngay lập tức, cô tự bảo mình. Chìm vào dòng hồi ức đó sẽ chỉ khiến cô dấn sâu thêm vào rắc rối thôi. Cô ở đây với một nhiệm vụ không liên quan chút gì đến những nụ cười lôi cuốn đó, hay là cái hơi nóng của ngọn lửa đang cháy dần xuống phía bụng dưới của cô. Cô bắt mình thả lỏng trên cái ghế da. Cô cẩn thận bắt chéo chân, và cố biểu lộ một vẻ thích thú vừa phải, uể oải vừa vừa. Ai mà biết được, biết đâu nó lại hiệu quả. “Tất cả chuyện ăn mặc rắc rối đó là vì em à? Em không nghĩ vậy đâu.’ Anh cười lục khục. “Được rồi. Cuối giờ chiều nay anh có một cuộc gặp với mấy nhà phân phối nước ngoài. Anh nghĩ là mặc đồ jeans sẽ khiến họ rút lui mất.” Không đâu, nếu họ là phụ nữ, Brenna nghĩ, trước khi cô kịp ngăn mình lại. “Vậy là bọn anh lại đang mở rộng tiếp,” thay vì vậy, cô nói. “Luôn luôn. Trở thành kẻ lớn mạnh nhất và cừ nhất.” “Anh thực sự đã thắng lợi về mặt số lượng rồi đấy.” “Không phải người ta vẫn nói vấn đề về kích cỡ đấy sao?” “Chỉ những ai không biết tận dụng những gì mình đang có thôi.” Một chớp mắt trước khi quá muộn, cô chợt nhớ đến lời thề của mình về chuyện sẽ không tranh cãi với anh. “Xin lỗi,” cô lẩm bẩm. Anh nhướng mày. “Vì đã không đồng ý với anh à? Lần đầu tiên đấy. Giờ thì thậm chí anh thấy tò mò rồi đây.” Anh toét miệng cười và ngả người về phía trước. “Được rồi, Brenna. Em đang ở đây, em diện một bộ cánh, và em mang theo cái đám trông như một núi giấy tờ vậy. Sao em không nói cho anh biết đang có chuyện gì vậy?” Vậy là họ sẽ đi thẳng vào vấn đề. Cô hắng giọng và đặt tập hồ sơ lên bàn. Khoảnh khắc đó, não cô như đông lại, và mọi câu nói thông minh, logic, đầy giọng điệu tài chính cô đã luyện tập bay sạch khỏi đầu. “Em là một trong những người cừ nhất trong chuyện làm ăn,” cô bắt đầu, rồi lại ngập ngừng, tự hỏi không biết nói vậy nghe có tự cao quá không. Ít ra anh cũng không phá ra cười. “Anh sẽ phải thừa nhận là anh không muốn đối đầu cạnh tranh với em đâu.” anh thừa nhận. Lời khen ngợi khiến cô thêm tự tin và muốn cựa quậy trên ghế của mình.Cô tự hài lòng với bản thân bằng một nụ cười nhẹ. “Như nội em vẫn nói, ngoài nội ra, em là người duy nhất trong gia đình có đam mê với rượu vang. Em vẫn dành cả cuộc đời mình cho nó.” Anh định nói gì đó, nhưng cô nhanh chóng tiếp lời. Không đời nào cô để anh nhắc cô nhớ lại mười năm cô đã bỏ bẵng Marcelli Wines. Mười năm cô đã sống như một con ngốc. “Nội đã cho em phụ trách nhà máy rượu vang. Em biết cần phải làm những gì để có được thành công ở một cấp độ mới.” “Vậy là em đến đây không phải để xin việc.” “Không.” Cô mở tập hồ sơ. “Em đến đây để xin một khoản vay.” Nic thẳng người. “Tại sao? Gia đình em đâu có vấn đề gì về tiền bạc đâu.” “Marcelli Wines thì không có. Việc kinh doanh chưa bao giờ tốt đến thế. Nhưng em không phải là họ. Em làm việc cho nội. Công ty vẫn thuộc sở hữu của nội.” “Rồi em sẽ thừa kế nó mà.” Giá như là thế. Sự thật không nên vẫn cứ gây đau đớn thế này, nhưng nó vẫn thế. Nó khiến cô đau đớn rất nhiều. “Việc thừa kế của các chị em gái em và em không còn chắc chắn nữa rồi.” Cô ngừng lời, biết rằng giữ bí mật cũng chẳng để làm gì. Rồi cuối cùng anh cũng biết chuyện thôi. “Có vẻ như bố mẹ em đã có một đứa con riêng, như bố mẹ nói thế. Một đứa con trai. Khi đó cả hai vẫn còn đang học trung học. Vì áp lực của gia đình, họ đã cho đứa trẻ làm con nuôi.” Nic vẫn điềm tĩnh như mọi khi. Thay vì để lộ bất cứ chút cảm xúc nào trên gương mặt, anh dựa lưng vào ghế. “Chuyện này sẽ thay đổi mọi thứ,” anh thừa nhận. “Em biết được khi nào?” “Trong buổi Đại tiệc đêm mùng bốn tháng bảy của nhà em. Thực ra thì chỉ là một buổi tiệc có bắn pháo hoa thôi. Vấn đề là, đứa trẻ thất lạc nay đã là một người đàn ông ba mươi tuổi.” Hai gia đình Marcelli và Giovanni có thể không còn nói chuyện với nhau được gần ba thế hệ rồi, nhưng họ vẫn phát triển trên cùng một chuẩn giá trị truyền thống Italia. Thuyết bình đẳng nam nữ vẫn còn chưa đặt chân được đến lãnh địa những vườn nho của họ. Nic nhận ngay ra vấn đề. “Và ông nội em đủ lạc hậu để thấy thoải mái hơn khi để lại công việc làm ăn của gia đình cho một người thừa kế nam. Anh đoán là người anh thất lạc bấy lâu đó có hứng thú chứ?” “Nó là cả một đống tiền. Anh có thể không hứng thú được không?” cô hỏi lại với một sự vui vẻ nhẹ nhàng mà cô không nhận thấy. “Tất cả chuyện này khiến em chỉ còn là một mẩu nhỏ trong chuyện thừa kế.” Giờ đến phần khó khăn rồi đây. “Em biết việc làm rượu vang đã ăn sâu trong máu em. Em không muốn làm bất cứ cái gì khác nữa trong suốt cuộc đời mình.” “Nếu suy nghĩ của em là đúng và anh trai em sẽ được thừa kế, thì sao anh ấy lại không để em tiếp tục điều hành mọi việc?” “Anh ấy có thể làm thế, nhưng em không sẵn sàng chỉ đứng một bên để đợi chờ và quan sát. Em cũng có những ý tưởng và kế hoạch riêng của mình nữa. Em muốn gây dựng một nhãn hiệu mới của riêng mình.” Anh chỉ vào chồng hồ sơ trước mặt cô. “Kế hoạch đề xuất của em đây à?” Cô gật đầu. “Em đã liệt kê chi tiết tất cả. Loại nho nào em muốn mua, mức giá nguyên liệu, các thùng đựng rượu, kho chứa. Còn có cả một mảnh đất em đang quan tâm nữa.” “Gây dựng một nhãn hiệu mới tốn không ít tiền đâu.” “Em biết.” Cái nhìn kín bưng của anh chưa một lần rời gương mặt cô. “Em còn đi vay tiền ở những chỗ nào nữa?” “Bất cứ đâu có những kẻ cho vay nặng lãi.” Anh gật đầu. “Để anh đoán nhé. Họ muốn biết tại sao em không thể lấy tiền từ ông nội em.” “Kiểu thế. Họ còn bận tâm là sao em không có bất kỳ bảo đảm nào. Em đã giải thích rượu vang chính là bảo đảm rồi, nhưng có vẻ chả gây được ấn tượng gì cho họ cả.” Cô nhún vai. “Anh là một người ưa mạo hiểm, nhưng chỉ với những món hời. Và em chắc chắn rồi, chính là cái mà anh đang tìm kiếm đấy.” Anh nhướng mày. “Thật không?” Brenna có thể hớn hở mà ném mình vào một chiếc xe tải đang lao tới. Cô có thể cảm thấy mặt mình đang nóng bừng lên, nhưng nhờ làn da oliu, nét ửng đỏ ấy không lộ ra. Chỉ là một sự an ủi nho nhỏ, nhưng cũng đủ để cô bám vào, như đang níu chặt người sẽ giải cứu cả cuộc đời cô vậy. “Anh biết là em có thể làm được mà,” cô nói, làm như cô chưa hề bị anh bắt thóp là đang chơi chữ vậy. “Có thể,” anh nói. “Nhưng tại sao anh lại cần phải hỗ trợ cho đối thủ của mình chứ?” Lần đầu tiên kể từ lúc đặt chân đến đây, Brenna được thư giãn. “Ôi, làm ơn đi. Nếu may mắn, phải mất năm năm em mới có thể đạt được mười phần trăm những gì anh đang có. Em không nghĩ là anh sẽ lo ngại em ngáng đường làm ăn của anh đâu.” “Có vẻ hợp lý đấy. Thế tại sao em lại đến chỗ anh?” “Anh là người duy nhất em biết có dư tiền mặt.” “Bố mẹ em có thể giúp em.” “Rõ ràng là vậy. Nhưng em không muốn khiến bố mẹ phải lựa chọn giữa em và nội. Anh là người hoàn toàn trung lập.” “Anh là một người nhà Giovanni. Điều ấy không khiến anh trở thành anh em với quỷ dữ sao?” Thế, đúng là cái ý tưởng cô đã có lúc trước, chỉ có điều, trong mắt cô, mối quan hệ anh em đó có gần gũi hơn chút ít nữa. Đến chỗ Nic là hy vọng cuối cùng của cô, nhưng cũng là một sự mạo hiểm đã được cân nhắc kĩ. Mối thù giữa hai gia đình Marcelli và Givanni đã kéo dài hàng bao năm trời. Có thể nội cô sẽ biết chuyện về món nợ nếu cô đi vay từ những kênh truyền thống như ngân hàng, nhưng nội sẽ không bao giờ biết được nếu như Nic là người cho cô vay. Nội Lorenzo thà cắt lưỡi của mình còn hơn phải nói chuyện với một người nhà Giovanni. Brenna và các chị em của cô chưa bao giờ quan tâm đến mối thù truyền kiếp đó cả. Nic cũng chưa bao giờ, anh đã chứng mình như vậy từ lần đầu tiên cô gặp anh. Nhưng với ông bà của cô – sự thù địch đó vẫn còn nguyên. “Có chút ít mỉa mai trong cuộc nói chuyện này,” cô thừa nhận. “Em chỉ muốn nghĩ rằng nó sẽ hấp dẫn anh.” Anh quan sát cô. Brenna muốn biết anh đã thấy những gì, nhưng có lẽ anh không nhìn thấy gì cả lại tốt hơn. Cô vẫn còn đang trong giai đoạn phục hồi từ vụ cắt tóc bốc đồng thảm hại lần trước. Vài tháng ở nhà với sự chăm bẵm ăn uống của hai bà đã đắp thêm vào những đường cong vốn đã đầy đặn của cô bảy pound nữa. Cô nghĩ bộ cánh cô chọn mặc nhìn rất ổn, nhưng như vậy đã đủ chưa? Cô đã khác xa với cô nhóc mười bảy tuổi, người đã từng hứa sẽ yêu Nic bằng cả trái tim; nhưng vấn đề là, liệu anh có còn bận tâm đến sự thay đổi đó là tốt hay xấu nữa không? “Người ta vẫn đồn anh là một tên con hoang tàn nhẫn đấy,” anh nói bất chợt. “Em có nghe rồi. Em có nên sợ không?” “Nói anh nghe xem.” Cô có thể nhớ mọi thứ về Nic – cái cách anh chạm vào cô, cách anh hôn cô, mùi hương của làn da anh. Cô đã từng biết anh, người con trai ngày xưa, chứ không phải là người đàn ông này. Cái gì vẫn vậy và cái gì đã thay đổi? Mà chuyện đó liệu có quan trọng nữa không? Có là tên con hoang tàn nhẫn hay không, thì cô vẫn cần tiền của anh. “Giờ em không còn sợ hãi dễ dàng vậy đâu.” Cô đẩy tập hồ sơ về phía anh. “Anh thử xem xem rồi cho em biết anh nghĩ gì.” Anh đặt bàn tay lên cái bìa da nhưng không mở nó ra. “Bao nhiêu?” Trong bụng cô như đang xuất hiện cả đàn bướm và chúng đang bắt đầu bay. Cô nghĩ chúng có thể đang luyện tập màn hạ-cánh-và-tiếp-đất. Miệng cô khô khốc, ngón tay cô ướt đẫm, và cả căn phòng bỗng nhiên chao đảo. “Một triệu dollar.” Nic không có bất kỳ một phản ứng gì – ít nhất là vẻ bề ngoài. Anh không nheo mắt, vẫn ngồi yên trên ghế; anh thậm chí không cười. Nhưng bên trong, sự tò mò thích thú của anh đã biến thành một mối sửng sốt sâu sắc. Anh lôi ví từ túi quần sau và trỏ vào đám giấy bạc. “Em có muốn tất cả bằng đồng hai mươi dollar không?” “Em không phải đang ở vị thế được đòi hỏi. Tiền hai mươi dollar cũng ổn rồi.” “Anh không nghĩ hôm nay anh mang theo mình nhiều ngần ấy đâu.” "Bất tiện quá." Cô nhìn anh, đôi mắt đang mở lớn đã phản bội sự bối rối của cô. Cô đang cùng đường rồi, và cả hai người bọn họ đều biết vậy. Nếu anh từ chối cô, cô sẽ không thể có được khoản vay. Mọi giấc mơ về một nhãn hiệu của riêng cô vậy là sẽ tan tành. Ồ, chắc rồi, cô vẫn có thể mua được vài tấn nho ngoài chợ nông sản, đi mượn trang thiết bị, rồi làm ra vài tá thùng rượu vang rẻ tiền cất ở một gara nào đó. Cô có thể có được sự ủng hộ từ những người trung thành với Marcelli, một chút chú ý, có thể là một vài lời từ Hiệp hội rượu vang. Nhưng không có tiền, cô sẽ không bao giờ có cơ hội để làm một cái gì to tát cả. Không, khi anh có quan tâm quái gì đến chuyện đó đâu. Tất cả những gì anh quan tâm, là mục đích của anh. Làm sao cái yêu cầu của cô có thể ghép vừa vào bức tranh to lớn đó? Anh đứng lên, đi vòng qua bàn đến đứng trước mặt cô, anh tựa vào bàn, khoanh hai tay trước ngực. Đó là một tư thế đầy hăm dọa. Đầy thách thức. Brenna phản ứng lại bằng cách buông hai chân, rồi lại bắt chéo chân trở lại. Trong sự yên lặng của căn phòng, tiếng cọ sát của đôi tất lụa của cô như nghiến vào tai anh. Anh nhận thấy mình đang dõi theo chuyển động đó, nhìn chăm chăm vào đường viền trên váy cô, tưởng tượng ra cặp đùi cô phía dưới cái váy. Và phía trên cặp đùi cô? Là thiên đường. Ít nhất, đó là những gì cơ thể cô mang lại mười năm trước. Kín đáo, trơn mượt, bí mật – là con đường dẫn tới sự cứu thế. Để rồi thay vào đó, cô đã đưa anh thẳng xuống địa ngục. Vì cô, anh đã bị đuổi khỏi nhà. Anh đã phải sống tha hương, bị bỏ rơi, và bị ruồng bỏ cho đến chết. Thật không may, hồi ức đó chẳng giúp được cái khỉ gì cho trạng thái căng cứng bất chợt đang lan khắp người anh. Anh vội nhìn đi chỗ khác trước khi tự biến mình thành mất trí với những kỷ niệm không nên nhớ đến. “Anh không nói không,” anh nói với cô. “Anh đang đùa!” Cô đứng bật dậy, vẫn thấp hơn một foot so với anh. Đủ gần để cho anh có thể thấy những tia vàng nâu trong mắt cô, và cả vết sẹo nho nhỏ nơi khóe miệng cô. Đủ gần để mùi hương của cô chiếm hữu toàn bộ không gian của anh. Mùi hương đã khác, nhưng phản ứng của anh với nó thì không. Hơi nóng đã bị lãng quên từ lâu bỗng thức dậy, lan tỏa, tìm kiếm nơi chế ngự. Anh cố gạt đi hơi nóng và ham muốn. Không đúng nơi và không đúng thời điểm, và cả cô, chắc chắn quá đi rồi, là không đúng người. Điểm chính bây giờ là anh vốn đã có một kế hoạch. Trong những năm qua, anh đã học được rằng, một kế hoạch thấu đáo sẽ luôn là đảm bảo cho anh giành chiến thắng. Khi mục tiêu là sự trả thù, thì điều duy nhất cần là phải kiên nhẫn chờ đợi. Bản năng của anh mách bảo món nợ của Brenna là một quả home-run trời cho từ cú đập đầu tiên. Tất cả những gì anh phải làm là quẳng cây gậy của mình đi và chạy vòng quanh sân bóng. Nhưng anh muốn chắc chắn hơn. “Rất nhiều tiền đấy,” anh nói.   Mời các bạn đón đọc Quyến Rũ của tác giả Susan Mallery.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thời Xa Vắng
Công cuộc đổi mới đất nước vừa được mở ra thì ngay lập tức văn học đã ghi được dấu ấn bất ngờ bằng tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu. Ông viết từ mình, rút ruột mình ra mà kể chuyện mình, chuyện một người nhưng là chuyện của nhiều người, chuyện của một thế hệ, chuyện của một thời. Cái thời đó tác giả gọi là “Thời xa vắng” nhưng thật ra vẫn chưa qua. Đó là cái thời nhân vật Giang Minh Sài sống không phải là mình, nửa đời trước sống cho cái mình không có, nửa đời sau sống chạy theo cái không phải của mình. Nhân vật văn chương này đã được nhớ tên, được coi như một định ngữ chỉ một kiểu người, một kiểu sống, điều này rất ít có trong văn chương nhiều năm trước đó vốn chỉ có hình tượng nhân vật tập thể mà không thể gọi tên một nhân vật cụ thể nào. Thời xa vắng đã được đón đọc nồng nhiệt, ai đọc cũng thấy mình trong đó, và được giới phê bình coi là tác phẩm mở đầu cho một xu hướng của văn học đổi mới - xu hướng nhận thức lại thực tại. - Nhà LLPB Phạm Xuân Nguyên - Thời xa vắng là một tiểu thuyết tiêu biểu trong đời viết văn của nhà văn Lê Lựu. Tác phẩm ông chứa một dung lượng lớn chặng đường lịch sử 30 năm oai hùng của dân tộc, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng toàn bộ đất nước. Lịch sử được khái quát bằng tiểu thuyết thông qua số phận của anh nông dân Giang Minh Sài: học giỏi, là niềm hy vọng, tự hào của cả gia đình và dòng họ. Nhưng cũng chính niềm tự hào đó cũng đã đặt lên vai cậu bé Sài một thứ áp lực vô hình, lúc nào cũng phải học phải làm theo những điều mà mọi người xung quanh cho là "tốt nhất". Lấy vợ cũng phải do cha mẹ chọn, ngủ với vợ cũng vì để tránh cái án kỷ luật làm ô nhục danh tiếng gia đì Là một người lính với vẻ ngoài thô mộc, khô khan nhưng thực chất bên trong con người Sài lại là một người đang vùng vẫy với niềm khao khát được yêu, được sống với cảm xúc thực sự của mình. Hơn nữa tác phẩm còn có nhiều tầng nhiều lớp với nhưng trăn trở rất đáng suy ngẫm của tác giả. *** Lê Lựu là một trong số những nhà văn ra đời và trưởng thành từ giai đoạn đất nước còn đang kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước. Ông sinh năm 1942 tại Hưng Yên và đến năm 1974 thì ông là hội viên trong Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn khởi đầu sự nghiệp viết văn của mình từ những năm 60 của thế kỷ XX, và từ đó ông là một trong những nhà văn đã để lại ấn tượng trong giới văn học với những tác phẩm nổi bật như truyện ngắn Tết làng Ma (1964), tiểu thuyết Mở rừng (1977), tiểu thuyết Thời xa vắng (1986), tiểu thuyết Chuyện làng Cuội (1993), tiểu thuyết Sóng ở đáy sông (1994),… Và đặc biệt với tiểu thuyết Thời xa vắng đã tạo nên tên tuổi của Lê Lựu và làm khuấy động làn sóng văn học nước nhà, có thể nói Thời xa vắng là tác phẩm đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn và nó đã trở thành một hiện tượng trong văn học thu hút nhiều nhà nghiên cứu phê bình bàn luận về nó. Vị thế của Lê Lựu được khẳng định qua tác phẩm này với một hướng khai thác đề tài mới mẻ, đánh đúng vào tình hình của con người – đất nước – dân tộc, và đặc biệt là dấu mốc lịch sử của đất nước lúc bấy giờ, lúc xã hội đang tiến hành công cuộc “đổi mới đất nước”. Tác phẩm Thời xa vắng được tác giả hoàn thành vào năm 1984 và xuất bản vào năm 1986, đúng vào thời điểm đất nước mới bắt đầu đi vào thời kì đổi mới đất nước sau khoảng thời gian của xã hội “bao cấp”. Và chính vì vậy, bối cảnh mà tác phẩm muốn đề cập đến là những năm tháng trước đó, những năm tháng đất nước trong giai đoạn “bao cấp”. Tác phẩm ra đời đã tạo nên tiếng vang lớn trong văn học nước nhà, có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình đất nước vận động phát triển của văn học từ sau năm 1975. Chính vì vậy năm 1990, tác phẩm này đã đạt giải A của Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết với nội dung chính xoay quanh câu chuyện về cuộc đời của nhân vật tên là Giang Minh Sài. Và tác phẩm này có thể khái quát chia thành hai phần chính dựa trên cuộc đời của nhân vật Sài. Phần thứ nhất, cuộc đời Sài trong bối cảnh đất nước còn chiến tranh. Lúc Sài 10 tuổi thì đã bị gia đình bắt ép lấy một cô vợ lớn hơn mình 3 tuổi là Tuyết. Tuy rằng ngoài mặt thì Sài chấp nhận mình có một cô vợ như thế, nhưng trong lòng Sài không hề công nhận cô ta là vợ của mình. Trong một lần cùng vợ giã ngô do sơ ý nên Tuyết giã vào tay Sài và cộng thêm nỗi uất ức bấy lâu trong lòng, Sài đã đánh vợ và đuổi cô đi. Gia đình Sài là một gia đình mang nặng những tư tưởng phong kiến và những hủ tục lạc hậu, mặc dù Sài không yêu vợ nhưng trước mặt mọi người thì Sài vẫn là một người chồng đúng mực. Sài là một người học giỏi, trong mắt mọi người rằng học giỏi thì phải cộng thêm đạo đức tốt, sống đúng chuẩn mực thì mới được gọi là một đội trưởng tốt và gương mẫu. Nhưng bên trong Sài phản kháng quyết liệt chống đối và tránh xa cô vợ của mình mặc cho người nhà tạo mọi điều kiện cho họ ở bên nhau. Thời gian như thế cứ trôi qua, cuộc sống của Sài với cô vợ vẫn cứ tiếp tục như không có gì và Sài vẫn không chấp nhận cô vợ của mình. Bước ngoặt cuộc đời Sài thay đổi khi anh gặp được tình yêu cuộc đời mình là Hương. Họ yêu nhau say đắm mãnh liệt, nhưng vì sĩ diện của gia đình nên Sài đã im lặng chạy trốn vào chiến trường chiến đấu nhằm trốn tránh cuộc sống ngột ngạt của gia đình và tình yêu đầu đời của mình. Khi Sài vào quân ngũ, anh lại là một người dẫn đầu về thành tích học tập giỏi và gương mẫu, tuy nhiên trong môi trường quân đội anh vẫn không có được sự tự do, cuộc sống của anh đều bị giám sát, sống phải theo ý định của mọi người nếu không thì sẽ bị xem là có “tư tưởng phản động”. Vì thế từ lúc vào quân ngũ, Sài đã sống theo ý định của mọi người chứ không theo ý định của mình. Phần thứ hai, cuộc đời của Sài từ lúc đất nước hòa bình. Khi Sài trở về với cuộc sống của một người bình thường, đồng thời với anh bây giờ một cuộc sống mới đã bắt đầu khi anh được phép ly hôn Tuyết. Từ đây anh được quyền lựa chọn tình yêu cho chính bản thân mình. Không ngờ rằng, khi anh quyết định cưới Châu làm vợ một cách vội vàng để che đậy đứa con trong bụng mà anh tưởng là của anh, cuộc đời lại đẩy Sài bước vào một bi kịch mới. Châu là một cô gái Hà Nội đã yêu một người trước đó, có con với hắn nhưng hắn không chịu cưới cô nên cô đành phải lừa Sài cưới cô như một tấm bình phong bảo vệ sĩ diện. Sài từ khi lấy vợ thì lao vào những thứ vặt vãnh mỗi ngày anh phải làm, mọi thứ nó lặp đi lặp đi hết ngày này qua tháng nọ. Quần quật suốt ngày với những thứ như: cơm, áo, gạo, tiền đè nặng trên vai để rồi anh dần lãng quên đi những người thân đã từng giúp đỡ và cưu mang anh vượt qua khó khăn. Cuộc sống với Châu ngày càng có nhiều đổ vỡ rạn nứt giữa hai người để rồi cả hai phải quyết định ra tòa ly hôn. Những tưởng rằng anh sẽ được nuôi đứa con đầu còn Châu nuôi đứa con thứ 2 nhưng nào ngờ một sự thật phũ phàng mà bấy lâu nay anh bị lừa dối, anh đã nuôi đứa con không phải là con ruột của mình mà là con của Châu với người yêu của cô ấy trước khi đến với anh. Mọi thứ của anh dường như đã mất tất cả chẳng còn điều gì thuộc về anh, rồi anh quay trở về ngôi làng Hạ Vị nơi được sinh ra và nuôi dưỡng, anh dốc sức để xây dựng quê hương mình phát triển hơn. Cuộc sống như thế trôi qua với niềm hạnh phúc của Sài khi nhìn thấy quê hương đất nước mình đang đổi mới từng ngày. Vậy tác giả lại đặt nhan đề cho tác phẩm là “Thời xa vắng” nhằm ngụ ý điều gì? Có lẽ ở đây tác giả muốn nói đến thời mà Sài đã trải qua. Cuộc đời Sài từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, anh luôn sống theo ý nguyện của người khác, như đang bị siết chặt trong một sợi dây trói buộc anh không thể nào thoát ra được, anh chấp nhận số phận mình được vạch sẵn như vậy, sống theo những ý định mà bố mẹ muốn, làm việc gì cũng phải nghĩ đến sĩ diện của dòng họ gia đình sẽ ra sao. Anh gồng mình gánh chịu hết tất cả những thứ đó ràng buộc o ép anh, ngay cả khi có tình yêu đầu đời của mình anh cũng vì đã có vợ nên không dám sống hết mình với tình yêu ấy, cuộc tình không đi đến viên mãn làm cho cả hai phải đau khổ. Cuộc đời của Sài sau khi cưới Châu cũng như thế, sống với một người vốn không thuộc về anh lại làm cho cả hai đau khổ, cái thời đó đã qua khi Sài trở về làng quê xây dựng xóm làng, tất cả giờ chỉ còn lại là dĩ vãng, là quá khứ một thời mà có lẽ chính Sài cũng không muốn nhắc đến nữa, tất cả chỉ là quá khứ xa vắng. Với tác phẩm Thời xa vắng, trung tâm của toàn bộ câu chuyện tập trung ở hình tượng nhân vật Giang Minh Sài, trải dài theo suốt cuộc đời Sài từ khi 10 tuổi cho đến hơn 40 tuổi là cả tuổi trẻ của một con người sống gói gọn trong 13 chương (tính cả chương kết). Khi Sài được 10 tuổi, bỗng dưng bị bắt phải cưới một cô vợ lớn hơn mình 3 tuổi, lúc nào cô ta cũng có thể mách bố mẹ những chuyện của mình “tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao ngầu bùn của nhà chú Hào lúc nào”. Sài chỉ 10 tuổi thì làm sao có thể chống cự lại ý định của người lớn thế nên Sài đành phải chấp nhận sự thật đắng cay đó – có vợ lúc 10 tuổi. Nếu như lúc nhỏ Sài là một đứa trẻ bị gò ép như vậy thì khi anh trưởng thành, những cảm xúc, những suy nghĩ, tình cảm,…của cá nhân mình cũng không dám tự quyết định được. Không dám cưới Hương – tình yêu đầu tiên của anh, vì nghĩ đến bản thân mình đã có một người vợ rồi, gia đình sẽ mất sĩ diện với họ hàng làng xóm nên không dám quyết định một cách tự chủ tình cảm để rồi cuối cùng trong lúc uất hận thì Hương đã quyết định lấy một người yêu cô tha thiết mà cô không yêu anh ta. Thế rồi cả cuộc dời anh vỡ lỡ cũng chính bởi vì phần nào nguyên nhân Sài “yêu cái người khác yêu” và “yêu cái mà mình không có”. Lê Lựu xây dựng nên hình tượng nhân vật Sài với những nỗi đắng cay vậy một phần cũng muốn nhắn nhủ những thông điệp đến độc giả. Nguyên nhân vì đâu cuộc đời Sài rơi vào vòng luẩn quẩn đầy bi kịch như vậy, có thể giải thích bằng hai nguyên nhân chính làm nên bi kịch này. Thứ nhất là nguyên nhân khách quan, chính bối cảnh xã hội mà Sài đang sống cũng là nguyên trực tiếp làm nên bi kịch cuộc đời Sài như thế. Gia đình Sài cả bố mẹ và anh chị em đều mang nặng tư tưởng phong kiến lạc hậu, những hủ tục cổ hủ lỗi thời như nạn tảo hôn, tục cưới xin,…áp đặt lên Sài phải thực hiện theo:“Một nề nếp, một thói quen, một thông tục cha truyền con nối từ mấy đời nay: con cái không được quyền muốn sao được vậy vì như thế là trái với phép tắc gia phong”. Danh dự của gia đình, danh dự của ông đồ Khang,… Chính những thứ này đã đè nặng lên đôi vai của Sài, anh không thể sống nếu như mình làm khác đi những gì họ muốn và như vậy sẽ bị coi là “phản động” và không tốt. Như bao người khác ở làng Hạ Vị, Sài đành gò ép chính mình sống theo ý muốn của họ và “không dám là mình” và cũng không đủ can đảm “đạp lên dư luận mà sống”. Sống ở nhà lúc nhỏ Sài luôn bị bố, mẹ, anh, chị, dòng họ bắt phải sống như thế này, không được làm cái kia, ngay cả dân làng cũng thế, nếu mà Sài làm khác những gì họ muốn thấy thì lập tức Sài bị lên án gay gắt dữ dội. Cũng chính vì thế, Sài không muốn mất danh hiệu của một liên đội trưởng tốt gương mẫu trong mắt mọi người nên anh đã cố “yêu vợ” như chuẩn mực của một người đội trưởng phải có, ép buộc mình làm những điều mà bản thân không muốn để được mắt mọi người. Thứ hai là nguyên nhân chủ quan nằm ở chính con người của Sài, nếu như mọi người áp đặt Sài phải sống và làm theo ý của họ muốn mà Sài không phản kháng thì xem như Sài chấp nhận như vậy và sẽ không có bi kịch nào xảy ra, còn Sài ở đây nội tâm luôn có một ý chỉ phản kháng mạnh mẽ, bằng chứng là những lần phải đi cùng với Tuyết thì “Sài thường chạy đi trước hoặc tụt lại thật xa”, “bao giờ Sài cũng tìm cách rời khỏi “nhà ấy” nhanh chóng”. Hay những lần Sài bị bắt ép phải vào ngủ chung với vợ, anh thà nằm ngủ dưới đất chứ không bao giờ chịu nằm ngủ chung giường với người mà mình không hề yêu. Như vậy, trong thâm tâm của Sài thì anh luôn phản đối, chống lại những hủ tục phong kiến, chống lại sự áp đặt con người theo ý muốn của bố mẹ và xã hội, chống lại những gì mà mình không muốn,…Thế mà, Sài có ý chí phản kháng, chống lại những gì đã gò ép anh vậy rồi cuối cùng anh lại lặng lẽ chấp nhận tất cả chúng như một điều tất nhiên. Rõ ràng chính Sài nhu nhược, hèn nhát, không đủ can đảm để đứng lên phản kháng lại những thứ đang gò ép mình mà lại lặng lẽ bẻ bản thân sống sao cho đúng những gì mà người khác muốn. Ngay cả khi Sài sống trong môi trường quân ngũ cũng vậy, khi những nỗi niềm riêng anh ghi vào quyển nhật ký rồi bị đồng đội phát hiện và cho là nó chứa tư tưởng bất chính, và thế là từ đó Sài không dám viết nhật ký nữa mà anh vẫn tiếp tục cuộc đời gương mẫu như: học giỏi, chăm chỉ làm việc, học đại học,…luôn là người xuất sắc nhất trường. Thêm nữa, để được kết nạp Đảng thì Sài phải ép mình sống chung với Tuyết theo sự chỉ bảo của các vị thủ trưởng chỉ định, có như vậy thì Sài mới đủ tiêu chuẩn để được kết nạp vào Đảng, nếu không thì Sài không được kết nạp vì lý do “không yêu vợ”. Và cuối cùng là Sài vẫn phải làm theo ý của thủ trưởng muốn, và có một đứa con với Tuyết như việc ban ân huệ cho cô ấy để rồi cả cuộc đời của Tuyết phải chịu những khổ đau dằn vặt vì yêu người mà không yêu mình. Tác giả khắc họa nhân vật Sài không phải là một nhân vật hoàn toàn nhu nhược và thiếu dũng cảm, có thể thấy quá trình tự nhận thức của nhân vật bắt đầu được hình thành từ những cảm xúc, suy nghĩ, độc thoại mà tác giả chú ý khắc họa nhiều hơn. Trải dài suốt 13 chương của tiểu thuyết, chúng ta có thể bắt gặp những suy tư, trăn trở của Sài về cuộc đời, về tình yêu, về xã hội,… Qua đó, người đọc có thể hiểu được những suy nghĩ của Sài và nhận ra Sài đang khát khao những gì, đang muốn thoát khỏi sự tù túng như thế nào và nhận thức được mình cần phải àm gì để thay đổi hoàn cảnh hiện tại này. Đồng thời, mượn hình tượng nhân vật Sài tác giả muốn phản ánh chân thực những chuyển biến và thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá lại thực tại vấn đề. Xã hội mà Sài sống có những tiêu cực của nó, nhưng không phải nó tiêu cực thì lên án gay gắt nó, mà thông qua đó tác giả muốn chúng ta nhìn nhận lại một thời đã qua, nó có những thiếu sót gì, có những gì chưa làm được thì cố gắng khắc phục và sửa chữa. Chẳng hạn như xã hội trước thời kỳ đổi mới có những hạn chế và tiêu cực của nó, chính vì vậy ở thời kỳ đổi mới đã sửa đổi những sai lầm và thiếu sót của xã hội giai đoạn trước. Nhìn nhận lại thời gian đã qua để định hướng cho hiện tại. Bên cạnh việc khắc họa nhân vật Sài là chủ yếu, tác giả còn tập trung khắc họa những nhân vật khác để làm nổi bật lên tính cách của họ. Chúng ta có thể thấy nhân vật Tuyết – người vợ đầu tiên của Sài lúc 10 tuổi, Tuyết cũng có những nổi khổ của riêng mình chứ không phải cá nhân Sài mới khổ. Cô yêu chồng mình nhưng hóa ra thứ mà cô nhận lại được chỉ là sự hờ hững, lạnh lùng, oán ghét, thậm chí là xua đuổi xem cô như là một chướng ngại vật cản đường. Rốt cuộc thì cô có lỗi gì để Sài ghét cô đến như vậy? Câu hỏi luôn trực diện trong suy nghĩ của Tuyết như một bi kịch day dứt cuộc đời cô. Qua đó có thể thấy thân phận người phụ nữ lúc bấy giờ qua đại diện là Tuyết, khát khao hạnh phúc gia đình nhưng lại sống trong đau đớn cả cuộc đời như vậy. Còn nhân vật Hương cũng như vậy, cô yêu Sài hết mực và cũng muốn xây dựng hạnh phúc gia đình với anh, nhưng Sài không thể lấy cô làm vợ và cũng không có một quyết định dứt khoát trong tình cảm của mình, anh chỉ im lặng để Hương chờ, chờ mãi để rồi cuối cùng cô phải lấy một người mà mình không yêu, như vậy Hương cũng không hạnh phúc và Sài cũng không hạnh phúc. Với các nhân vật như Hiểu, Hiền, anh Tính, chú Hà,… chúng ta có thể hiểu được rõ hơn về tính cách của nhân vật Sài được thể hiện qua điểm nhìn trần thuật của tác giả. Ngoài việc khắc họa nhân vật, Lê Lựu còn đề cập đến vấn đề về xã hội, vấn đề về tâm lý của con người trước thời đại. Cụ thể là tâm lý của dân chúng trong bối cảnh xã hội “bao cấp” và trong giai đoạn đổi mới. Xen kẽ những đoạn văn trong tác phẩm, tác giả có tái hiện nên bức tranh của dân làng Hạ Vị với tâm lý “đi làm thuê” mà không thích làm ruộng đồng. Đoạn trích dưới đây có thể thấy rõ nhà văn đã miêu tả khá chi tiết về việc dân làng chuyên “đi làm thuê”. “Không hiểu từ thuở nào làng chỉ quen đi làm thuê. Miếng cơm thiên hạ bao giờ cũng ngon nên người sức dài vai rộng thì đi tứ chiếng bằng đủ thứ nghề: hàn nồi và cắt tóc, đốt gạch và nung vôi, thợ nề, thợ đất, thợ lặn… Dăm bữa, nửa tháng vợ hoặc con đảo qua để làm cỏ, xáo xới rồi cũng lại vội vã ra đi. Đến mùa thu hoạch lại về. Hết mùa lại đi. Cứ thế. Khi về lại nhớ cơm thiên hạ. Khi đi lại cồn cào thương từ gốc cau, bụi chuối. Họ không yêu tha thiết với đồng ruộng nhưng không đủ sức dứt bỏ những gì quen thuộc từ thuở cha sinh mẹ đẻ ở cái nơi mà ai cũng quen gọi là quê Hương…Những người còn lại hoặc tuổi già yếu, con bận con mọn, hoặc không biết nghề, không quen đi xa, cái lực lượng sản xuất chủ yếu ấy cũng chỉ chòn chọt năm một vụ ngô, tháng mười cày bừa dối dả, tháng tư bẻ bắp chặt cây vội vàng để rồi lại nô nức kéo nhau sang bên kia sông, vào nội đồng làm thuê, sáng cắp nón đi, tối cắp nón về nói cười rả rích. Dường như số trời đã định cho làng này chỉ có việc đi làm thuê. Chen lấn, tranh cướp nhau từng người chủ, và ai được chủ tin thì coi đó là một diễm phúc có thể vênh váo, hãnh diện với kẻ khác, sẵn sàng hạch sách bắt bẻ người cùng xóm, cùng làng, cùng cánh thợ làm thuê một cách nghiệt ngã độc ác hơn cả người chủ thật. Bởi thế, cũng là tỉa ngô, rắc đỗ, ruộng nhà thì làm quáng quàng chỗ dầy, chỗ mỏng, hàng thưa hàng mau nhưng ruộng của chủ cứ đều tăm tắp. Ruộng nhà không bao giờ bón phân, cả làng không ai bón phân, cần quái gì chuồng lợn, chuồng xí. Đàn ông, đàn bà, cả người già trẻ con đều chạy toá ra đồng và lợn cũng thả rông hoặc có chuồng thì cũng chả cần phân ấy để làm gì. Chính những con người ấy lại đánh phân, rửa ráy quét dọn cả chuồng xí, chuồng lợn cho chủ rồi gánh ra đồng cứ của những người chủ tốt tươi sai quả, mấy hạt lại theo đà đâu đó, ca thán, và xỉ vả làng mình ngu si không biết đường làm ăn.” Qua đó, tác giả đang châm biếm giễu nhại một xã hội không có tinh thần vươn lên, cầu tiến trong cuộc sống mà chỉ sống lay lắt qua ngày này tháng nọ bằng việc làm thuê làm mướn trong khi có thể kiếm sống trên chính mảnh đất quê hương của mình. Nhà văn đã vạch trần tâm lý của nhân dân trong bối cảnh đất nước đang vượt qua giai đoạn khó khăn như thế. Đồng thời, nhà văn cũng phản ánh vấn đề của người nông dân lúc này rằng họ cảm thấy chưa có sự yên ổn và đi lên trong xã hội hiện tại, xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu của họ và những phương pháp cải tiến xã hội lúc bấy giờ đã thất bại. Người nông dân khi chuyển đổi thời đại xã hội bước vào một đất nước mới, họ chỉ kịp trang bị cho mình hành trang tinh thần, còn hành trang về phương tiện, vật chất cũng như cách thức thì họ không có. Như vậy thì chưa đủ cho việc thích nghi với bối cảnh mới của thời đại của đất nước. Sài cũng vậy, khi Sài bước vào một đất nước chuyển mình từ bối cảnh chiến tranh sang hòa bình xây dựng và phát triển đất nước, anh chưa trang bị kịp cho mình những thứ cần thiết để thích nghi trong một môi trường mới, để rồi kết cuộc là cái giá mà anh phải trả là khá đắt cho sự thiếu sót đó được diễn tả qua cuộc hôn nhân giữa anh với Châu. Nhà văn phản ánh những hoàn cảnh, những thói quen, những tập quán nó đã là “thuộc di sản của xã hội cũ” đó là việc đi làm thuê mãi rồi trở thành thói quen. Tác giả xây dựng cốt truyện Thời xa vắng rất mạch lạc, cách xây dựng các tình tiết cốt truyện phát triển đơn giản, với tác phẩm Thời xa vắng Lê Lựu đã xây dựng và phát triển truyện truyền thống như tác phẩm đã có trước đó. Ở tác phẩm này nhà văn đặc biệt quan tâm đến xây dựng hình tượng nhân vật Sài để làm nổi bật lên tính cách và con người trong xã hội. Bên cạnh đó, nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm là một bút pháp tạo nên dấu ấn với độc giả, thông qua việc trần thuật lại những sự việc diễn ra trên khía cạnh góc nhìn khách quan của nhà văn từ điểm nhìn đa diện nhiều chiều khác nhau. Nhà văn đã xây dựng nên tính cách và diện mạo của Sài từ góc nhìn của những nhân vật khác như: Hương, Châu, anh Tính,… Dần dần qua cảm nhận của những nhân vật này thì hình ảnh của Sài sẽ được hoàn thiện dần một cách khách quan hơn. Qua tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu, câu chuyện về cuộc đời bi đát của Sài được dựng nên trong bức tranh của xã hội đương thời với những đắng cay và đau đớn mà một đời người phải trải qua, nhà văn vừa thành công trong việc tái hiện những bi kịch đau khổ của con người đồng thời cũng tạo nên tiếng cười châm biếm mỉa mai với những vấn đề xã hội của thời đại. Vừa sâu lắng nhưng cũng vừa xót xa cho một thế hệ, một đời người. Lấy cảm hứng vừa bi vừa hài để lồng ghép vào nhau làm cho tác phẩm có sức cuốn hút hấp dẫn người đọc chiêm nghiệm những triết lý ẩn sau bức tranh của tác phẩm muốn đề cập đến. Với mỗi nhân vật nhà văn khắc họa là một nét điển hình đại diện cho một bộ phận hay một phương diện nào đó trong xã hội. Đó có thể là Hương hoặc Tuyết đại diện cho tầng lớp của những người phụ nữ trong xã hội, hay đó có thể là anh thủ trưởng và các chiến sĩ với môi trường quân ngũ đại diện cho tầng lớp những cán bộ chiến sĩ anh dũng bảo vệ xây dựng và phát triển đất nước với lòng nhiệt thành, hoặc đó là ông đồ Khang và mẹ của Sài là tầng lớp những người nông dân còn sót lại với tư tưởng của xã hội phong kiến cũ. Tất cả những tầng lớp đại diện này đang trong tiến trình bước vào xã hội mới và họ cần phải thay đổi để thích nghi với bối cảnh của xã hội mới. Thời xa vắng tạo được làn sóng mạnh mẽ trong văn học Việt Nam thời kỳ bắt đầu đổi mới xã hội. Nó không chỉ đề cập đến những vấn đề của con người mà còn mở rộng ra cả xã hội, cả thời đại. Ngoài những khía cạnh mà bài viết này đề cập đến thì còn những vấn đề khác ẩn sâu trong tác phẩm, đó là sự phát hiện bổ sung của độc giả với góc nhìn cảm nhận khác nhau của từng người. Mỗi khía cạnh sẽ cung cấp cho chúng ta một cách nhìn nhận đánh giá các vấn đề của xã hội một cách khách quan hơn. Chính vì ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa trong nó và kết hợp với văn phong giản dị của tác giả, ngôn từ dễ hiểu thêm sinh động và chân thực, lôi cuốn là một thế mạnh giúp cho Thời xa vắng khẳng định được giá trị của nó trên văn đàn nói chung và trong lòng độc giả nói riêng. Và cho đến ngày nay, tác phẩm Thời xa vắng gắn với cái tên Lê Lựu vẫn còn nguyên những giá trị nghệ thuật và ý nghĩa của nó. Bài Review Sách được đóng góp bởi Cộng Tác Viên Lê Thị Hồng Thắm Mời các bạn đón đọc Thời Xa Vắng của tác giả Lê Lựu.
Đại Tá Không Biết Đùa
Anh tự nghĩ mình không có tội. Nhưng tiếng kêu của người lính trẻ, còn rất trẻ thì không buông tha anh. Ít ra, anh cũng cảm thấy thế trên đoạn đường khoảng trăm rưởi hay hai trăm km gì đấy từ chỗ bị phục kích cho đến khi ngồi vật xuống dưới gốc cây hoa giấy trong viện quân y. Suốt quãng đường không rõ dài ngắn, không để ý đến những cú xe “khục” xuống “ổ trâu” đầu nhao ra khỏi khoang ca-bin đã vỡ, anh chỉ nghe tiếng kêu cứu o...o ở trong đầu mình, tiếng quát lạnh ở gáy và một bãi nước miếng nhổ vào mặt, bất giác anh đưa tay chùi vào má, bàn tay anh ướt nhây nhớt. Cho đến khi của đầu tóc, cả mặt, và khắp người thấm đẫm nước, bụi đường ùa vào như một lớp vỏ cứng đờ hai mi mắt và sàn sạn ở miệng, anh vẫn còn cảm giác những dòng nước cứ túa ra kia là bãi nước miếng người lính trẻ đã nhổ vào mặt mình. Chiếc U-oát từ sở chỉ huy mặt trận lao đến đỗ xịch trước mặt anh, trước cửa phòng cấp cứu. Anh tỉnh lại. Đại tá, người cha của chiến sĩ trẻ lầm lầm đứng trước mặt. Hơn nửa tháng, tiễn anh ở sân bay hai bàn tay ông siết vào nhau giơ lên trước mặt mình quát vui vẻ trong tiếng động cơ ầm ầm của chiếc trực thăng đang tự nâng mình rời khỏi mặt đất. Tôi chờ những nhận xét mới mẻ của anh về cuộc chiến đấu này. Nhất định gặp lại. Cả hai khuôn mặt lúc ấy đều cười lưu luyến. Bây giờ thì hai làn môi ông run run, mặt xám lại, hơi cúi, hai tay chắp sau lưng. Từ lúc đến trước mặt anh, ông vẫn đứng nguyên một chỗ, rồi trầm ngâm buông một câu khiến người nghe tưởng nó thoát ra từ một nào khác. Ở đời, cái gì xảy ra, nó ắt phải xảy ra, không có gì, không có gì hệ trọng cả. Nhưng mà, khác hẳn với thói quen nhìn việc cỏn con cũng biến thành triết lý lớn lao, lần này giọng hơi lạc, chìm dần xuống, ông quay ngoắt đi. Rồi đột ngột ông quay lại hỏi dồn dập, không cho anh kịp trả lời. Anh bình tĩnh để tôi kể lại. Vâng! Nó ngồi ở chòm cây thốt nốt, tựa lưng vào một gốc cây, tay nó còng vào tay người lính trẻ khác như nó hoặc trẻ hơn, không thể đoán được tuổi người chết. Cậu ấy nằm ngửa, hai tay ríu vào tay con anh, giơ lên cho vừa tầm tay con anh lúc nó ngã ngồi như kiểu người ngồi nghỉ để thở. Vì thằng sống còng tay với thằng chết, tôi không làm sao mở nổi cái khóa còng số tám, dù cháu cứ rối rít van lạy tôi. Tôi vác người chết lên vai để cho cháu chạy theo, nhưng chỉ được vài chục mét cả ba cùng ngã vật ra. Nếu không có tiếng còi ô tô và tiếng quát “ông nhà báo ở lại, tôi chạy đây” thì có lẽ tôi không thể nào nâng nổi người chết đè lên mình để bò dậy. Vâng! Lúc tôi vùng dậy và lao như một mũi tên tới mặt đường, thì chiếc ô tô tải đã bắt đầu vào số để vượt ra khỏi ổ phục kích. Không cần biết chuyện ấy, đại tá gầm lên: Có ai cứu nó không? Tại sao lại có thể nổi giận một cách vô lý như vậy. Từ lúc bám vào thành nhảy lên thùng xe, rồi đột ngột xe dừng, người lái xe bảo tôi xuống ngồi ở cabin, có lẽ để anh ta đỡ sợ, rồi cho xe lao đi thục mạng, làm sao tôi có thể biết điều anh cần biết. Dưới áng sáng xanh lét của ngọn đèn cao áp, nhà báo nhìn hai làn môi xanh nhợt nhạt của đại tá đang lật bật, anh bỗng hoảng sợ như kẻ sắp bị trả thù... Lúc đầu trên xe có sáu người, do một thiếu úy trợ lý quân pháp sư đoàn chỉ huy. Thực ra cũng là chỉ huy “ghép”. Mọi sự quyết định số phận của toàn chiếc xe vẫn do người lái xử lý theo nhiệm vụ và kinh nghiệm của anh ta. Xe vận tải do bộ chỉ huy quân sự tỉnh T. hợp đồng với công ty vận tải, tổ chức mười đầu xe thành một đại đội do trợ lý xăng dầu của ban hậu cần chỉ huy, tăng cường cho mặt trận khoảng cuối chiến dịch, nghĩa là mới chạy được hai chuyến dọc biên giới. Chuyến đầu đi cả đoàn, an toàn tuyệt đối. Đến lần này! Người ta điều hai xe chở đạn và xăng tiếp tế cho một đơn vị cách hai mươi lăm kilômét về phía tây bắc. Đến gần nơi giao hàng, nghe đâu chỉ cách độ nửa kilômét, thì xe téc bị bắn, cả người và xe đều cháy. Chiếc xe này trả hàng xong được chặn lại ở barie nhận mệnh lệnh đột xuất của phòng tham mưu sư đoàn đưa hai chiến sĩ phạm pháp về trại giam mặt trận. Một hạ sĩ mang AK cùng một thiếu úy trợ lý quân pháp “hộ tống”. Tôi có điện của tòa soạn yêu cầu về gấp nên được trợ lý câu lạc bộ thương lượng với trợ lý quân pháp cho đi nhờ. *** Nhà văn Lê Lựu sinh ngày 12 tháng 12 năm 1942 tại xã Tân Châu, huyện Khoái Châu - Hưng Yên, là một nhà văn Việt Nam, thành viên của Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1974, chuyên về tiểu thuyết và truyện ngắn, tiêu biểu là Thời xa vắng đã được đạo diễn Hồ Quang Minh của Hãng phim Giải Phóng dựng thành phim truyện nhựa và ra mắt công chúng năm 2004. Ông hiện nay đang đảm nhiệm chức Giám đốc của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân tại Hà Nội. Mời các bạn đón đọc Đại Tá Không Biết Đùa của tác giả Lê Lựu.
Chuyện Làng Cuội
“ Cũng là lạ. Không biết nội bộ nó là gì mà phổ biến đến tận đứa trẻ con. Ngành nào, cấp nào làm gì cũng làm theo những chỉ thị, nghị quyết nội bộ chứ không làm theo luật pháp. Luật pháp cứ ra, cứ học, cứ thuộc ra rả như con vẹt mà làm gì, xử lý bất kể việc gì, kể cả tội giết người cũng cứ là từng làng, từng xóm, từng ngành, từng giới có cách giải quyết riêng theo những chỉ thị, nghị quyết nội bộ của người ta. ” Trích “Chuyện làng cuội”. Đó là một câu chuyện trải dài mấy chục năm, từ đời ông đến đời con, rồi đến đời cháu, suốt mấy thời kỳ, từ trước Cách mạng tháng tám, đến cải cách ruộng đất, rồi đến những năm đầu chuyển sang cơ chế thị trường. Với một cốt chuyện hấp dẫn, “Chuyện làng cuội” đã tái hiện chân thực về cuộc sống con người và vùng quê sông Hồng trong sự chuyển mình của làng quê, của Đất nước trong thời kỳ đổi mới. *** Nào ai ngờ cái chết của bà Hiêu Đất lại tạo cho làng Cuội ta một khí thế tưng bừng sôi nổi, rất là tự hào. Sau hàng tháng trời lơ lửng trong nỗi buồn ngơ ngác “được phân phối hụt” do huyện chỉ đạo tháo đê quai, cái xác trôi lênh phênh của bà Đất dạt về bến Chợ Quán như nắp thùng tô-nô đựng đầy ám khí được bung ra. Tiết trời mấy ngày nay cũng quang quẻ hẳn. Xa xôi quá thì ít người am tường, chỉ tính năm sáu chục năm đổ lại đây, kể từ năm Quý Dậu, năm cuối cùng của hội thi nói khoác ở miếu Ông Cuội cũng là năm cô Đất bỏ làng đi biệt tăm, đến bây giờ làng mới lại có một vẻ mặt đồng loạt buồn. Nhưng mà sôi động. Khi nào làng có chung một khuôn mặt buồn đều ào ào náo nhiệt và thì thào còn chán. Thế lại hoá vui. “Tuổi Mão đi năm Mùi là đúng cách. “Hợi Mão Mùi”, “Nam xung nữ hợp”, nhất định bà lão phải “đi” vào năm nay. Ông đã biết từ lâu rồi. Nhưng bà lão này thiêng lắm. Không à? Ông dám chắc bà ấy mà dạt về đúng quê, nhất định làng Cuội có sự. Đại sự”. Ông thống Bứt vừa liêu xiêu đi ra phía bờ sông vừa quát lác. Không cần có ai, hoặc giả trong cơn say ông đã nhìn thấy một thằng người cứ theo ông, ông bước bước nào nó bước bước nấy, nên ông cứ tự hỏi rồi tự giả nhời như thế. Hôm nay ông phải làm một việc hệ trọng. Bắc cầu cho mẹ đồng chí Lưu Minh Hiếu phó chủ tịch tỉnh lên bờ. Khổ thân bà lão. Suốt đời long đong tủi nhục, được lúc con cái ăn nên làm ra, đi Tây đi Tàu như đi chợ lại lăn xuống sông mà chết. Cũng là số trời run rủi. Đồng chí Hiếu là hiếu nghĩa với bố mẹ, đời nào để bà lão chết nhục nhã đến nỗi thế này. Xác bà lão được vớt lên từ trưa hôm qua. Một cái xác trương phềnh. Cả mặt và hai cánh tay xước tướp táp, không hiểu do cá rỉa hay mắc mớ vào đâu mà không còn một mảng da nào nguyên. Trưa hôm qua, chiếc tàu chở khách từ Hà Nội xuôi, sóng rào rạt xô vào bờ một người mặc quần đen, áo nái vàng, tóc xoã như là ma nhoài lên nằm nghiêng ở bờ cát một tay dang ra như là cố bám lấy cát để khỏi trụt xuống. Các cô bé đang đập chiếu tàm tạp trông thấy thế, kêu lên thất thanh, chạy lao lên ngã dúi dụi vào quán bà Cu Từ. Tiếp theo là ông Cu Mỡ, em ruột ông Cu Từ, vác một manh chiếu xuống bờ sông đắp lên cái xác cũng với câu: “Đ. mẹ nó, điềm này, làng Cuội lại ăn cứt”. Rồi đám người gỡ dây khoai, những người gieo ngô, đám đốt lò vôi, dân thợ xẻ, lò rèn bỏ hết đồ nghề, giống má, chạy túa lại quán bà Cu Từ và ông Cu Mỡ đứng nhìn xuống sông và nghe các cô gái thuật lại “đầu đuôi”. Mấy anh thợ “phơ” đóng gạch, cầm kéo cắt đất táo tợn chạy đến hất chiếu ra, lấy tay kéo lật ngược mặt bà lão lên nhìn: “Đếch phải người làng này”. “Chắc lại oan khuất gì, tự vẫn đây”. “Có khi bị trấn, lấy của rồi nó cho xuôi”. Khách qua đò ùn tắc lại. Trẻ con tan học hổn hển chạy đến rào rào như gió. Chả mấy chốc bến đò Chợ Quán nghìn nghịt như một cái chấm đen khổng lồ tụ giữa cánh đồng làng Cuội bát ngát phù sa. Quán nhà bà Cu Từ, ông Cu Mỡ nứt nở kẻ đứng người ngồi. Cho đến 10 giờ đêm các đồng chí Đảng uỷ, uỷ ban, hợp tác xã, công an, bàn bạc trong quán bà Cu Từ hết 37 bìa đậu phụ, một bình lạc rang, gọi tròn năm chục chén, mười ba cút rượu, tám gói thuốc lào hội nghị mới ra được một quyết định: lập biên bản báo cáo lên huyện chờ xin ý kiến. Cần nghiên cứu thêm ý kiến của trưởng ban thông tin văn hoá: có thể đưa lên “quảng cáo” trên ti vi. Độ này người ta quảng cáo tất tần tật, không thiếu thứ gì. Dễ lắm. Thân nhân của họ về nhận sẽ phải tính công vớt từ giữa sông lên rồi công của mấy chục con người canh giữ suốt 24 trên 24 không để thi hài thất thoát. Biết đâu lại chả trúng quả đậm. “Có gì ta làm bữa thả phanh cho bõ công đêm hôm lăn lội, ngồi suông”. Mặt khác, ngày mai, uỷ ban thảo một công văn lên phòng thương binh xã hội xin duyệt một cỗ ván. Việc này có trở ngại là: muốn được duyệt nhanh chóng thì phải có dăm bao ba số, thậm chí còn phải kéo ra cửa hàng lòng lợn, hoặc “cầy tơ”. Kinh phí lấy vào khoản nào? Vậy, tất cả cứ chờ ý kiến của huyện và chờ đồng chí chủ tịch đi thăm bố vợ ốm trên tỉnh, nội nhật ngày mai về. Tối mai ta hội ý lại rồi quyết định sau. Đằng nào bà ta cũng rữa ra rồi. Cho anh em bảo vệ hắt mấy xẻng đất xơ xơ cho đỡ bốc mùi, rồi thù lao cho anh em. Cũng chả cần trông nom gì. Ai họ lấy đi cho là phúc. Đúng là cái vạ cho xã ta. Đồng chí Nạc – anh đã đổi cái phụ âm đầu nhưng chỉ có cấp trên gọi anh là Lạc còn bà con trong xã vẫn gọi anh là Nạc. Ở vùng này thường lấy tên con đệm trước tên bố mẹ hoặc đẻ con trai đầu gọi là cu, con gái là đĩ. Anh Cu Từ, cụ Cu Từ, ông Cu Mỡ là thế. Bà Hiêu Đất cũng vì con là Hiếu (họ bỏ dấu sắc đi để gọi cho tiện chứ không hẳn là tin theo kẻ xấu bụng, đổi họ và tên anh từ Lưu Minh Hiếu thành Lưu Manh Hiêu). Đồng chí Nạc cầm quyển sổ có treo bút chì bằng dây gai, ghi các khoản nợ của tối hôm nay. Bà Cu Từ hấp háy đưa ra trước ánh đèn soát lại. Trên mặt chõng cũng nhẵn hoén không còn sót lấy một viên lạc, gói thuốc. Bà yên trí “xin phép các cụ” “cứ tự nhiên” để bà ngả cái nong xuống nằm khoanh tròn trong ấy. Bí thư Đảng uỷ ngồi chồm hỗm trên những đoạn tre đóng vào hai đầu cọc hàng giờ không biết tê, lúc anh thả hai chân xuống, phủi đít quần đứng dậy thì Nạc lại có một sáng kiến mới. Nghiêng tai nghe tiếng ngáy rất dư dật của bà bác dâu, anh vươn người về phía bí thư nói nhỏ nhưng mọi người đều nghe. Anh nói rằng tình hình này sự đồn đại thất thiệt sẽ còn lan đi ghê lắm. Nhưng có lợi cho ta. Ai cũng bịa tạc những tin giật gân, bí hiểm nên người tò mò kéo đến đây xem càng đông. Nhất là cho lên ti vi thì sẽ không biết cơ man nào là người từ các thành phố kéo về đây. Thành phố bây giờ họ có làm gì đâu. Một người ngã xe máy còn xúm đông xúm đỏ lại xem, huống hồ nghe tin có ma hiện lên ở bờ sông làng Cuội. Bí thư cắt ngang. - Lạy bố. Thế thì rách việc lắm. Mà hơi sức đâu lại đi tìm hiểu để báo cáo nguyên nhân từ đâu có cái tin ấy. Rồi còn phải giải quyết tư tưởng cho bà con. Chết, chết! - Thiên hạ họ đồn mắc mớ gì đến mình. Biên bản mình sẽ gửi đi. Pháp y họ về, họ làm gì kệ xác họ. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ ấy. Anh không hiểu ý tôi. Tôi hỏi các anh: Các anh có công nhận là mới từ trưa đến giờ đã bao nhiêu người bổ về đây xem thực hư? Đấy là chưa kể bao nhiêu người ở bên kia không có đò sang. - Đúng rồi – Gần như mọi người cùng trả lời. - Tôi quả quyết ngày mai còn đông hơn. - Nhất trí! - Trời nắng này, người như nêm ấy, có cần uống nước, hút thuốc không? - Có quá chứ lị. Mời các bạn đón đọc Chuyện Làng Cuội của tác giả Lê Lựu.
Tỳ Vết Tâm Linh
Vào khoảng đầu thập niên 70, Nguyễn Nam Anh của tạp chí Văn ở Sài Gòn có hỏi Bình-nguyên Lộc trong một cuộc phỏng vấn về tác phẩm ưng ý nhất của ông, Bình-nguyên Lộc cho biết, trong tất cả những gì đã viết, ông thích nhất ba cuốn : Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình-nguyên Lộc, Cuống rún chưa lìa và Tỳ vết tâm linh. „Tại chủ quan tôi thấy nó hay. Nhưng người khác chưa chắc đã thấy như tôi. Tỳ vết tâm linh là cuốn truyện dày về một thiếu nữ bị bệnh tâm trí. Cùng một chủ đề tâm trí, ông còn nhiều truyện ngắn. Cái cảm tình „chủ quan“ của ông đối với cuốn truyện dày kia có chỗ thương tâm.             Chúng ta chắc chắn là chưa kiểm điểm dược mọi nỗi niềm tâm sự của Bình-nguyên Lộc : đời có ai thấu hết được lòng ai. Tưởng không nên tham lam quá. *** Ra khỏi trại bịnh hơn mười phút đồng hồ rồi mà Lưu còn nghe choáng váng bàng hoàng.  Chàng vừa trải qua những phút chấn động tâm thần mãnh liệt, nó suýt dìm chàng vào cõi bất thức giác y như người em gái của chàng, con bịnh mà chàng vừa thăm.  Ba tháng trước, ngày Bích lên cơn điên, chàng ở trên Đà Lạt. Cha mẹ chàng đã đưa Bích vào nhà thương Chợ Quán rồi đánh điện cho chàng hay tin.  Chàng đã thăm Bích hai lần, khi về Sàigòn, lúc ấy thì Bích đập phá, la hét rầm trời nhưng chàng không hề bối rối hay hoảng sợ chút nào. Chàng đã nghe sách vở và bạn hữu của chàng, những người bạn nghiên cứu chuyên khoa về khoa tâm bịnh, nói rằng những con bịnh làm ồn và phá phách, coi vậy mà rất mau khỏi.  Vả lại, lúc ấy Bích còn tươi tốt hồng hào lắm, hồng hào quá, và rất hung hăng, trông Bích như một con ác thú, như một người say rượu, không gợi tình thương xót bao nhiêu.  Rồi thì Bích được đưa lên đây, lên dưỡng trí viện nầy mà tục thường gọi là nhà thương điên Biên Hòa.  Đường xa, chàng bận học, cha mẹ chàng, nhứt là mẹ chàng, cứ giành đi thăm Bích mãi nên chàng không thấy mặt Bích đã hơn mười tuần lễ rồi.  Cứ theo lời mẹ chàng thì Bích đã đỡ nhiều, không la, không cười vô cớ nữa, cũng không đánh đập, cào cấu cắn xé ai nữa. Nhưng chàng ngờ 1ắm. Người ta đưa Bích lên Biên Hòa, sự kiện ấy chứng tỏ một tình trạng ngược lại mà bà cụ không dè.  Chàng thì chàng biết, cũng cứ qua sách vở và lời của bạn hữu. Nhưng chàng chỉ biết vậy... vậy thôi, cho đến cái giây phút đầu mà chàng thấy mặt đứa em gái thân yêu của chàng ở lần thăm đầu, hôm tuần trước.  Lưu trông Bích không khác ngày thường bao nhiêu. Nàng giống một thiếu nữ vừa qua một cơn ốm nặng, cảm cúm, hay sốt rét rừng gì đó, nước da xanh mét, thân thể tiều tụy. Chỉ có thế thôi. Mà với sinh lực hai mươi, sự suy đồi của cơ thể của Bích không đáng ngại, hễ ăn ngon ngủ kỹ vài hôm, hoặc tiêm độ năm bảy mũi thuốc nước cốt gan là lại sức ngay. Nhưng mà …  Bích chỉ còn là một con hình nộm không hồn mà thôi. Đôi mắt lờ đờ, mất thần của nàng trước người anh ruột của nàng, nhìn chàng trân trân mà không thấy, đôi môi cứ mấp máy, lẩm bẩm những gì không nghe được, bốn ngón tay cứ xe mãi một sợi chỉ vô hình rất dài, tất cả những thứ ấy làm cho chàng thấy em gái của chàng xa chàng vạn dặm.  Chàng đã mất Bích rồi, mất hẳn, không sao tìm lại được, vì chàng lo rằng Bích đã bước qua cái giai đoạn khó khăn nhứt trong các chứng bịnh tâm trí, giai đoạn mà bản ngã của con người co rút lại để không bao giờ mở ra được nữa cả.  Lưu đã khóc, đó là những giọt lệ đầu tiên của người con trai nầy, kể từ khi hắn rời bỏ tuổi thơ ấu.  Thật ra thì chàng đã khóc ngày chàng vừa được điện tín của cha mẹ chàng đánh lên Đà Lạt. Chàng biết em chàng đau khổ từ ngày vị hôn phu của nó bỏ rơi nó để cưới con gái một triệu phú.  Cái anh vị hôn phu ấy là bạn của chàng, hắn tới lui nhà chàng thường lắm nên hai đứa nó yêu nhau, và Bích mới yêu vỡ lòng nên yêu nhiều lắm.  Chàng đã khóc hôm ấy, nhưng rồi chàng buồn cười cho chàng lắm, bật cười ra và hết buồn ngay. Chàng cứ ngỡ Bích nó trẻ con nên đau tương tư bậy bạ vậy thôi rồi vài ngày nó sẽ nguôi.  Lần thăm trước thì chàng khóc nghẹn ngào. Và lần nầy nữa, vì đây là lần thứ nhì mà chàng đi thăm Bích. Không dám đứng lâu nơi cửa phòng bịnh để nhìn mãi cái cảnh đau lòng mà chàng hoàn toàn bất lực cứu vãn, Lưu bước ra ngoài, đi thơ thẩn trên con đường viền cỏ vú sữa, bần thần như là chính mình đang đau ốm.  Khi chàng lần bước ra tới ngã ba mà con đường nhỏ nầy gặp con đường lớn, con đường chánh của nhà thương, thì chàng thoáng thấy hai người đi thăm bịnh cũng vừa bước tới đó.  Hôm nay là một ngày thường, tức ngày làm việc, nên người thăm bịnh thưa thớt lắm.    Mời các bạn đón đọc Tỳ Vết Tâm Linh của tác giả Bình Nguyên Lộc.