Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dấu Binh Lửa

Tác phẩm đầu tay của ông là cuốn Dấu Binh Lửa (1969). Tiếp theo là các tác phẩm: Dọc Đường Số Một, Ải Trần-gian (1970), Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), Dựa Lưng Nỗi Chết (1973) và Tù Binh và Hòa Bình (1974). Những tác phẩm của ông đều lấy Chiến tranh Việt Nam làm bối cảnh. Sau 1975, ông bị bắt giam vào trại tập trung cải tạo 14 năm (1975-1989). Trong nhiều lần bị biệt giam hàng năm trời trong hầm tối, ông cũng làm ra nhiều bài thơ. Tuy sau ông được thả, nhưng lại bị quản chế tại gia ở Lái Thiêu, Bình Dương. Năm 1993 ông sang Mỹ định cư và cho ra mắt những tác phẩm: Những Chuyện Cần Được Kể Lại, Đường Trường Xa-xăm (1995), Đêm Tận Thất-thanh và Mùa Đông Giữ Lửa (1997). Năm 2002 cuốn Những Chuyện Cần Được Kể Lại được phát hành với ấn bản tiếng Anh dưới tựa The Stories Must Be Told. *** Theo lời dặn của C— Anh cố vấn văn chương— Tôi phải viết một cái tựa thật hách, ngắn, cô đọng và hay ho không chịu được... Nhưng viết thế nào để có thể gọi là " hách"? Thôi, tôi mở đầu bằng cách bày tỏ nguyên do đồng thời đề biện hộ cho những dòng viết ở những trang sau. Đến cái tuổi này lẽ tất nhiên tôi chẳng hy vọng gì nơi văn chương nữa, cũng không thể ước mơ nhờ cái ngõ văn chương để kiếm một chút danh gia. Hơn nữa, danh vọng của một người viết văn ở Việt Nam cũng chẳng lấy gì làm sáng sủa. Bao nhiêu năm làm văn nghệ, cũ như Lê Văn Trương, Đinh Hùng, mới như Quách Thoại, đến khi chết đi thì cũng chẳng còn gì - Thế Phong đó - anh chàng làm văn nghệ như một gã tiền phong, "Nửa đường đi xuống" phải đóng bộ ka-ki độ nhật qua ngày với tờ báo của Không Quân. Thế nên tôi chẳng hy vọng gì ở cái "nghề của chàng" nữa. Nhưng vẫn muốn viết, viết như một "nhu cầu", nói cho có vẻ thiết tha. Tôi đâu phải là hoàng tử văn chương ngoại hạng, xem chuyện viết lách như một công việc nghiêm trang giữa người và thế giới bí ẩn của chữ nghĩa, viết đối với tôi đúng ra chỉ là một cách thoát hơi— Viết để khoỉ ấm ức bực mình. Sau tám năm ở lính, thời gian thoải mái thật hiếm hoi, những phiền toái có duyên cớ hay không, chính danh hay ẩn dấu hình như chực sẵn ở trong người, có cơ hội sẽ dấy lên như giông bão. Đôi khi tôi thấy thật yêu cái nghề này, nó tạo cho con người tính kiên nhẫn, lòng vị tha, chế ngự những hèn mọn của mình. Nhưng cũng có lúc tôi thấy nó thật tệ, không có một nghề nghiệp nào ù lì, cứng đọng và thụ động bằng " đi lính ", chỉ cần thừa hành trong một giới hạn thật sít sao, thế là đủ. Có nhiều lúc tôi muốn ném tung hết tôn ti trật tự, bộ quần áo trên người để thong dong giang hồ một chuyến tự do, nhưng đồng thời cũng vừa khám phá, đang bị buộc chặt, đã quen với đời sống này. Thật khó khăn khi phải nói chuyện với một anh dân sự, hình như tôi và hắn ta ở hai thế giới thật khác xa nhau. Tôi cũng muốn viết về đời sống lính với những con người thật lạ. Năm 1966, có gã lính thật trẻ ở đại đội tôi, hắn ta thấp bé da xanh mướt ốm yếu, nhưng uống rượu kinh khiếp, hai lít rượu đế hắn uống tỉnh bơ, hình như rượu không tạo nên phản ứng nào trong người. Ngoài cuộc rượu, y bình lặng kín đáo như một con ốc. Một hôm đứng gác, sẵn súng ở tay, hắn bắn vào đầu tự vận. Tôi không biết nỗi thất vọng kinh khủng nào trong đầu một thằng bé 19 tuổi. Đức " điên " Biệt động quân, quan Ba, Tiểu đoàn phó, đi hành quân mang khẩu M.79 chạy trước hàng lính, về Sài Gòn đi chơi, mặc một chiếc áo bà ba đen, dưới quần lính, chân mang dép Nhật, trang bị thêm một con dao đi rừng. Tôi không hiểu nó nhìn đời thế nào qua cặp kính trắng dày cộm khi trên người trang bị với phụ tùng như thế. Đại khái ở lính có những loại người " bất bình thường " như vậy, và trong đám bất bình thường trên lại chen lẫn vài kẻ bình thường thật kỳ quái. Thiên, anh chàng đi theo tôi trong hai năm, một ngày chỉ nói khoảng hai mươi tiếng: dạ, vâng... Thế là hết. Nó ở xa, tôi gọi đến vỡ phổi không tiếng trả lời, lát sau lặng lẽ đi đến. " Tao kêu mày có nghe không?..". " Dạ có ". " Thế sao mày không trả lời? ". Thiên bóp bóp hai bàn tay đứng im. Thấy những người lính khác bắt gà, nó cũng bắt một con treo trên ba-lô, đi một đoạn vắng người, thả chạy, xong làm dấu Thánh giá đọc kinh. Đi lính tôi có nhiều "thế" sống thật đặc biệt. Chiều 29 Tết năm 1963 ởchân đèo Rọ Tượng, Khánh Hòa, căn cứ Lầy, trời rét như cắt ruột, mưa phùn bay mù mịt, chúng tôi đứng trong nước sình ngập đến ngực, lạnh, đói, đã gần năm ngày liên tiếp mình mẩy không bao giờ được khô. Dân chúng đi từ Ninh Hòa về Nha Trang tưởng chúng tôi là tù binh, ném bánh ú từ trên xe xuống cho, một vài bà già chấm nước mắt khóc vì thương hại. Nhưng chúng tôi vẫn vui như tết, Năng và tôi nhặt bánh ú ngồi ăn ngon lành, cả hai đứa đều là những " Tân Sĩ Quan " vừa quỳ xuống đứng dậy cách đây một tháng để lãnh nhiệm vụ gánh vác non sông! Chúng tôi hãnh diện với nỗi cực khổ của mỗi phút chịu đựng, lòng không một chút ta thán... Nhưng lúc gặp nhau ở Sài Gòn, hai thằng đem nhà binh ra nạo đến sát ván không chút nể nang. Bình Giã đói và khát hai ngày đến nỗi lính phải hút nước ở rễ cây, có tên uống phải rễ cây độc đứng tim chết. Kéo quân ra Phù Mỹ, uống một nón sắt nước ruộng nhưng lòng không phiền hà. Mười chín tháng Ba 1965 kéo về Sài Gòn đóng ở Đài phát thanh, cô-ca lạnh mát nuốt vào khó khăn không làm dịu được nỗi oi ả ở trong lòng. Chính vì những cảnh đời đa đoan này mà tôi phải viết. Không viết thì phí đi, bạn bè bảo tôi như vậy. Thế là tôi viết, và đến bây giờ coi như xong, nhưng chắc rằng chưa đủ. Xem lại chợt thấy bùi ngùi và thương thân. Bao năm tháng tột cùng của cực khổ và gian nan, đầy dẫy tủi nhục để viết được chừng này? Thấy mình tội nghiệp lạ lùng. Rồi kết quả ra sao? Coi chừng lại bị đụng chạm, lôi thôi với chính phủ thì thật là khốn nạn! Người lính đánh máy hộ cảnh cáo. Trong thời gian sau này, thường thường những giấc mơ của tôi cuối cùng dẫn đến một chủ đề - Nước. Tôi mơ thấytrời mưa, mơ thấy được tắm trong dòng suối, được vùng vẫy trong sông lớn. Kỳ cục hơn có hôm tôi mơ bị mắc cạn trong cống rãnh. Về mặt sinh lý người ta bảo đó là hiện tượng yếu thận, tâm lý bảo đấy là ý định muốn giải thoát— Có thể đúng như vậy, vì tôi đang yếu thận đồng thời luôn luôn có cảm giác "lạ" với đời sống này. Tôi không coi những ngày đang sống là sống thực. Sống bây giờ là sống gởi, cõi mơ ước nào đó mới là quê hương thật. Nhưng đúng chỉ là mơ ước, vì còn một nơi chốn nào khác ngoài cuộc đời ngặt nghèo này— Chỉ còn một cõi trong tôi. Nhưng thôi, "tác phẩm" khi đã xong có phần đời của nó - hai mươi sáu tuổi - tám năm lính để lại gia tài trăm trang giấy! Có một vị đắng ở đầu lưỡi. Nhưng nói cùng ai? Tôi cũng trốn tôi trong câu hỏi này. Tuy nhiên khi viết xong, đọc lại thấy vừa lòng nhưng đồng thời một vài ý nghĩ thật lạ xảy đến. Những ý nghĩ trong chiều mưa, mưa thật lớn trên đồi cao, gió thật mạnh, doanh trại vắng vẻ như bãi tha ma. Ngồi một mình nhìn ra khoảng không gian xám đặc... Con chim sẻ trốn mưa bay vào phòng đậu trên thành giường, sù lông rũ nước kêu lên những tiếng nhỏ thật cô đơn. Tôi cũng như con chim nhỏ trong chiều mưa này. Và từ đó thấy trong lòng những tình lạ thật thiết tha, hồn hậu như của những ngày vừa mới lớn. Tôi thấy những điều viết quá hằn học, nhiều thù hận và độc đoán. Trước tiên đối với người Mỹ. Những sự kiện gần đây, cảnh hai phi hành gia bước chập choạng trên mặt trăng. Những bước đi đầu tiên của con người trên một hành tinh khác. Lẽ tất nhiên tôi không a dua theo một phong trào để hoan nghinh sự thành công của Apollo 11, đã từ lâu tôi không xem trọng thí nghiệm này. Chỉ có cảm phục khi nghĩ đến những công tác khoa học tinh vi và chính xác để ráp nối phi thuyền mẹ với Nguyệt xa, tiếng nói của những phi hành gia được chuyền thẳng về trái đất rõ mồm một. Trước thành công như trên làm sao tôi không hoan nghênh? Nhưng tổng quát tôi vẫn không thán phục, kết quả cũng không có gì cụ thể để giúp ích cho một khối dân khốn cùng nằm dài trên hai cõi Á, Phi. Trong khổ cực của quê hương này tôi không thể nào quá ngưỡng mộ thành công ở trời xa. Nhưng tôi chịu nhất là thái độ phóng khoáng, cử chỉ hào hiệp của người Mỹ trong vụ này, họ đã hãnh diện dưới danh nghĩa — Một sự tiến bộ của nhân loại. Sự rộng rãi này làm cho tôi kính phục. Ngoài ra một hôm có việc cần phải vào bệnh viện 3 Dã chiến Hoa Kỳ, thấy một anh lính Mỹ đẩy chiếc xe trên có một anh khác bị thương ở chân, anh chàng đẩy xe cũng là thương binh, gầy ốm, tóc vàng hoe mọc dài xuống gáy, mang đôi kính cận thị dày cộm, nét mặt hồn nhiên và treœ thơ. Và tôi đã nghĩ rằng khuôn mặt trẻo thơ đó, nếu đem biến thành đối tượng cho những nhận xét hằn học đầy thù nghịch của tôi thật đáng tội nghiệp. Chiến tranh đã kéo y qua đất nước này, chịu đựng những khổ cực vượt ra ngoài ý niệm của người Mỹ, nay bị thương đôi mắt vẫn còn trong sáng và trẻ thơ — Dấu hiệu của tâm hồn chưa bị vấy bẩn bởi cuộc chiến này. Nhìn sự ngây thơ trung thực đó, nghĩ đến những phán đoán của mình quả độc đoán và quá độ. Gần hai năm nay, mỗi ngày phải uống tám viên Nevrosvitamin 4 để làm dịu xuống những bứt rứt hiện thành phản ứng không kìm hãm... Thiếu những viên thuốc đỏ đó, người tôi như nung trên một lò lửa đang đỏ, đầu óc muốn nổ tung, chân tay ít nhất phải đập phá một vật gì, tôi sợ tiếng động và chốn đông người một cách bất thường. Nhưng hai tháng sau này tôi bỏ được nhu cầu uống thuốc đó, suốt ngày đánh trần nằm trên bãi cỏ trước phòng ngủ, doanh trại hậu cứ hoang vắng một cách dễ chịu, phía xa những ngọn đồi Tăng Nhơn Phú chạy dài bình yên. Trong sự bình yên này, đọc lại những điều đã viết quá trớn, thấy ân oán giang hồ, đụng chạm đến nhiều giới. Tôi muốn đưa cuốn sách cho những người nhỏ tuổi đọc, để dò xem phản ứng của những người chưa bị ảnh hửơng cuả chiến tranh, nhưng ngần ngại vì thấy những điều mình viết không trong sáng. Lẽ tất nhiên một cuốn bút ký không thể nào nằm dưới kìm kẹp của ý thức luân lý bình thường được, hơn nữa bút ký về cuộc chiến tranh nhọc nhằn. Nhưng nhìn thấy toàn bộ những điều đã viết chỉ có một nỗi hằn học, uất hận nên tự hỏi rằng có quá đáng hay không? Thấy đàn trẻ đi thi tú tài, nhớ lại mười năm trước cũng ở trong nguồn trong sáng đó, thế tại sao có những đổi thay tàn bạo và quá đáng như kia? Tôi lại gặp Banh, người bạn cũ ở Đà Nẵng, gặp Banh để nhớ lại một cái Tết thật tang thương, hai mươi chín Tết không thức ăn - hai mươi chín tết - thời gian thật khó thể đi kiếm một bữa cơm. Banh đạp xe trên hai mươi cây số về làng quê Quảng Nam xin mươi quả trứng vịt, và hai đứa đã đón xuân bằng những quả trứng trong suốt ba ngày Tết. Gặp Banh để nhớ rằng trong những ngày khốn khó đó, tôi vẫn luôn luôn thắp sáng cho mình ngọn lửa hy vọng và những tình cảm tốt đẹp. Những sự kiện kể trên gây cho tôi cảm giác ngại ngùng khi đọc lại những điều ghi được của tám năm binh lửa. Không lẽ suốt đoạn đời này tôi chỉ có khốn khó và thù hận thôi sao? Từ đó phát sinh ra những ý hướng chối bỏ, như dấu chàm của một niềm tuỉ hổ, và ao ước được thấy điều mình viết mang niềm vui hồn nhiên trong sáng. Nhưng tám năm lính của tôi niềm vui quả thật ít, ít đến tội nghiệp khi đem so sánh với nhọc nhằn đằng đẵng. Tám năm, thời gian gần bằng đoạn đời của gã nông phu Johann Moritz lang thang qua các trại tù của giai đoạn Âu Châu máu lửa, nhưng trước và sau tám năm đó, anh bạn Lỗ còn có những ngày vui hy vọng. Tôi có gì vui trước tám năm này và hy vọng nào về một Việt Nam hậu chiến. Nhưng thôi, có nói hoài thì cũng chỉ kéo dài thêm lời than thở hèn mọn. Điều mong ước là được xóa đi những hằn học và thù hận. Sự đụng chạm nếu có ở một vài đối tượng nào đó thì xin nghĩ rằng đây chỉ là những ý nghĩ của một người muốn chân thật với mình trong hoàn cảnh khắt khe. Lỗi không phải là ở sự thành thật đó. Đây là lỗi của một cảnh đời. Tội của những người trong chúng ta đã bất lực trước định mệnh, để bị cuốn trôi hết tình người — Thôi, đây là tội trong mỗi chúng ta. 10 tháng 9 năm 1969 Long Bình Việt Nam *** Tiếng Việt qủa thần diệu, có những chữ thật đơn sơ cũng đủ sức để tạo thành hình ảnh linh động. Những chữ với âm thanh tầm thường khô cứng như tiếng gõ vô nghĩa trên mặt bàn của một bàn tay nhàn rỗi, trong giây phút trống rỗng. "ở lính" nghe buồn buồn, nhạt nhạt, vô nghĩa nhưng chất chứa chịu đựng ngặt nghèo lặng lẽ. Tôi đã ở lính tám năm, sau thời gian đằng đẵng đó những danh từ to lớn như đầu quân, gia nhập quân đội, người chiến binh, đời quân ngũ hay thời thượng vụng về như tuổi lính, tuổi chiến trường đối với tôi vô duyên như sau lần ân ái ngượng ngùng. Tôi ở lính tám năm, năm nay hai mươi sáu, đi lính năm mười tám. Suốt tám năm của thời lớn lên tôi đem tặng hết cho quân đội, và không phaỉ đến bây giờ vì thất vọng, chán nản do công danh không toại ý, cuộc sống bị ép buộc không đúng như mơ ước nên cay cú hằn học với nhà binh. Không như vậy, tôi đi lính năm mười tám tuổi vào học trường tình nguyện ra làm ông quan Một. Chẳng có ai lôi kéo tôi vào trường ấy, tôi tự động hăng hái, hãnh diện để trở thành một sinh viên sĩ quan với ý nghĩ đã chọn đúng cho mình hướng đi, một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Tôi có những rung động thật thành thực khi đi trong rừng thông, hương nhựa thông toả đặc cả một vùng đồi, sung sướng vì thấy đã đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ mơ mộng và cứng rắn, một thế giới pha trộn những ước mơ lãng mạn hào hùng... Chuyển quân đi trong sương đêm, giữa mây mù, ánh lửa mục tiêu đêm đông trong hốc núi hoang vắng, thế giới mạo hiểm giang hồ của Jack London phảng phất đâu đây. Tôi say mê, thích thú với những khám phá mới mẻ đó. Nắng cao nguyên những ngày cuối năm vàng tươi rực rỡ, đứng ở đồi nhìn xuống hồ suối Vàng trong vắt yên lặng... Người như muốn tan vỡ thành muôn ngàn mảnh nhỏ theo cơn gió bay chập chờn qua vùng đồi trùng điệp và loãng tan đi cùng nước hồ xanh ngắt. Cũng phảii nói thật những ngày đầu đời lính của tôi đầy trong sáng và đẹp đẽ. Trong sáng như giấc mơ của tuổi mười chín, giấc mơ mù mờ giăng cánh chim trắng bay chậm rãi qua rừng thông... Nhưng đời sống nhà binh không hẳn chỉ vậy, nó còn có sĩ quan cán bộ, nghi lễ, có đủ những phiền toái hỗn độn mà đời sống dân sự không ai nghĩ ra được; nên khung trời đầy sương mù bí ẩn ngoài khung của sổ hiện ra như một thách thức đối với đời sống kìm kẹp của tôi hiện tại. Đây cũng là một thời gian thật khủng hoảng, mỗi đêm nhìn về phía thành phố đầy ánh đèn tôi không ngủ được, tươœng như có một tiếng gọi cuœa đời sống ơœ bên ngoài quân ngũ đang nhắc nhơœ thúc giục, một đời sống thực sự tôi không có. Từ khung cửa sổ nhìn những giàn đồi im lặng thấp thoáng giữa thung lũng sương mù và đằng xa ánh đèn xanh vườn Bích Câu ma quái, diễm ảo, tôi thấy rõ trong tôi nỗi cô đơn khủng khiếp hiện hình sừng sững. Những lúc ấy tôi thấy được con người thật của mình, một gã trai trẻ, vô định hướng. Những cười đùa ban ngày, những buổi học, bữa ăn tập thể không ảnh hưởng gì đến con người trong tôi. Không thể có được một ý niệm về chuyên môn quân sự mà bằng tất cả mọi cách nhà trường cố nhét vào trong đầu óc. Đội hình tác chiến, cung cách chỉ huy, chi tiết kỹ thuật về vũ khí trôi qua trí não mơ hồ như một cơn gió nhẹ. Hai năm sống ở mái trường đó như một cơn phiếm du. Chỉ thật thắm thiết rung động khi nửa đêm về sáng dưới ánh đèn pha vọng gác kho đạn tôi khám phá được thế giới của cây cỏ đang thở, đang lớn lên. Những giây phút khoảng năm giờ sáng, sau phiên gác, nhìn xuống phòng sĩ quan trực, người lính kèn im lặng đưa lên môi thổi hồi kèn báo thức. Và không gì hơn suốt ngày chủ nhật một mình một ngựa chạy như bay vào hướng đồn Daksard. Con đường đỏ còn ướt sương đêm, trời chưa tan hẳn mù, ngựa phi như gió cuốn, ngựa đi vào trong một vùng mù đặc, rừng thông chuyển động ào ào, cả trời cao nguyên tan biến chập chờn theo vó ngựa. Kết quả sau hai năm ăn nhờ chánh phủ tôi được trở thành ông quan một, ra trường đi binh chủng hung hãn nhất. Tôi biến thành một người lính thực thụ, trận lớn, trận nhỏ, chiến dịch hai tháng, ba tháng, dài ngắn, từ Sài Gòn ra Bến Hải, tôi đi đủ. Những địa danh xa xôi bất kỳ một xó xỉnh hẻm hóc nào của miền Nam này tôi cũng có thể biết rõ một cách tường tận. Từ những miền nổi tiếng như Khe Sanh, Cồn Tiên đến những làng nhỏ từ cửa Việt đi ra - Diêm Hà Trung, Diêm Hà Nam - cái làng nhỏ cuối thung lũng sông Kim Sơn, làng Hà Tây, đèo ông Hổ đổ xuống Phù Củ ra Phù Ly, Phù Cát thẳng đến biển là núi Lồi, đầm Trà Ổ, xuống phía Nam, đầm Nước Ngọt. Lên đến Pleiku, trực thăng vận xuống phía Nam biên giới Lào-Việt, đầu ngọn sông Ia-Drang... Đâu đâu tôi cũng đến. Năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba tôi sống thoải mái, vì đã đi đủ, nhìn đủ. Tôi cũng chấp nhận cho sự góp mặt ở chiến cuộc, góp mặt để chấm dứt chiến tranh. Thắng bại không kể, nhưng cốt yếu là không ở ngoài, không chạy trốn trong khi bạn bè những người cùng trang lứa đang tham dự, đang ngã chết. Dù chết bên này hay bên kia, chết trong thù hận hay chết tình cờ. Những người đi tìm cái chết để biện giải cho đời sống. Tôi tham dự vào cuộc hành trình khốn nạn này. Giải thích này làm tôi yên ổn. Cũng trong những tháng năm đằng đẵng gian khổ ấy, tôi khám phá ra được hạnh phúc của đời người. Hạnh phúc thật sự không có, chỉ có những hạnh phúc tương đối và giản dị. Hạnh phúc là bếp lửa thật nóng, bữa cơm có canh, một mái lều tranh không dột, căng được chiếc võng, uống ly cà phê, đọc tờ báo, sau năm ngày vượt ba mươi cây số đường rừng, rừng thật dầy không thấy trời, trong rét cóng của miền Trung vào những ngày cuối năm. Hạnh phúc nồng nhiệt khi trở về nhà trong đêm khuya gõ cửa, vợ ra đón với con nhỏ ba tháng, kể từ ngày sinh chưa được nhìn bố. Hạnh phúc là cái gì chắc chắn, nắm được ở trong tay khi cánh cửa chiếc phi cơ đóng lại và thân thể được nhấc lên trong độ cao, nhìn lại thành phố Huế đang âm ỉ cháy. Đấy - đời lính - đã dạy cho tôi biết được giá trị của những sung sướng tầm thường đó. Chỉ có thế mà tôi phải trả giá trong tám năm thật dài với tận cùng của khổ cực và căng thẳng. Nhưng đến hôm nay, bước vào năm thứ mười hai đời lính tôi lại rơi vào sự khủng hoảng của những năm đầu tiên. Nỗi khủng hỏang tàn tệ tội nghiệp gấp vạn lần trước. Thời gian ở quân trường, tôi còn có thế giới kỳ ảo thiên nhiên, những ngày mới ra đơn vị, tôi tham dự để biện minh thái độ dấn thân, lao vào lửa đạn không thắc mắc, không ngần ngại — Tôi dấn thân để tìm kiếm niềm an ủi do tham dự hết lòng, đồng thời còn có điều khôn ngoan đã tìm ra những hạnh phúc tương đối — Loại thực phẩm trần gian hợp với khẩu vị. Nhưng đến những tháng ngày hôm nay thì qủa thực tôi bất lực. Bất lực để giaœi thích cho chính bản thân, sự có mặt tham dự trong dòng đời hỗn loạn và mệt nhọc này. Những chốn trú ẩn xưa bị phá vỡ tan hoang, nếu không nói đến những phản ứng trái ngược đã xảy ra. Trên đường đi đến Lái Thiêu, vườn dừa xanh ngắt, hoa huệ trắng tỏa hương thơm ngát không gợi nên một thiên nhiên an lành mơ mộng nhưng trái lại như một đối tượng đang phải chịu sự tàn phá sắp tới của chiến tranh; một đối tượng đau đớn của thiên nhiên không được thụ hửơng sắp sửa bị tiêu hủy. Những ngày dài hành quân không gây chịu thích thú, không tạo mới lạ, chỉ còn lại chịu đựng... Chịu đựng im lìm trong một niềm bất mãn đến ngộp thở. Tám năm lính, tôi hai mươi sáu tuổi, số tuổi gần ba mươi, không bạn bè, xa bằng hữu, số tuổi cuả nỗi cô đơn kinh khiếp biến con người hững hờ, tàn ác như một lát dao. Tôi hai mươi sáu tuổi để thấy rõ cái mặc cảm phạm tội trước kia chỉ là một ảo tưởng xa xỉ của tuổi mới lớn, ảo tưởng về trách nhiệm con người đối với nhau. Tôi hai mươi sáu tuổi đủ để nhận rõ rằng: Hạnh phúc quả là một vật ít ỏi tương đối, nhưng nếu mua bằng giá của đời sống mình thì thật vô lý. Đành rằng sống chẳng là một cái gì rực rỡ nhưng nếu đánh giá đời sống bằng khổ cực và cái chết thì thật là một việc rồ dại và ngu xuẩn. Như vậy tôi hai mươi sáu tuổi có được gì? Tôi có được một cái nhìn thông suốt hết cả. Nói như thế có vẻ tự kiêu và lố bịch. Nhưng nếu trung thực hơn: Sau tám năm ở lính, tôi hết còn là vùng đất để nghiệm và chịu ảnh hưởng. Tám năm ở lính để biết mình là một cánh chim tự do nhưng đã bị chặt cánh. Chính thương tích này làm sáng tỏ khả năng tự do bi đát của đời người. Gần đây báo Sống tục bản dưới hình thức báo Công Chúng có đặt câu hỏi: Người thời đại nghĩ gì? Trong đó có nêu lên chi tiết ai là thần tượng cho tuổi trẻ hôm nay? Tôi hai mươi sáu không trẻ lắm nhưng chưa già, cố tìm cho mình một thần tượng? Không có, làm gì có thần tượng cho tuổi trẻ khốn khổ của tôi. Làm sao tôi có được một thần tượng sau tám năm đằng đẵng đầy thù nghịch và ngặt nghèo. Người ta chỉ tìm được thần tượng khi lòng còn rung động. Bây giờ tôi có rung động nào trong tâm hồn? Năm vừa rồi đi đưa đám tang những thằng bạn thân, chỉ thấy trong lòng một thoáng bâng khuâng, chả bù trước đây tôi ôm xác của Phương, của Dũng chạy như điên trên sườn đồi nước mắt chảy dài trên má. Chiều trở về chỗ đóng quân nhìn chiếc võng của người chết tưởng chừng như thân thể sụp xuống tan đi trong vũng phiền buồn. Bây giờ tôi làm sao khóc được, làm sao để phẫn nộ, để nhớ thương, để mong ước. Thần tượng bây giờ là gì? Lãnh tụ? Lãnh tụ cỡ nào? Nhìn ảnh phó Tổng Thống Humphrey trong báo US News & Report cùng những câu trả lời của ông ta trong thời kỳ tranh cử Tổng Thống. Cái mồm nhỏ, trán hói, vẻ trai trẻ gỉa vờ khi xắn quần chạy trên bãi biển thấy ngượng ngùng đến khó chịu. Hay loại chính khách local?! Ô thần tượng cái khổ nào ở thứ lãnh tụ và chính khách hạng nhì này... Hay là Mao Trạch Đông? Không được nốt, cái mặt ị, đôi mắt ti hí, cuốn sách nhỏ chỉ hú hồn được thanh niên ở các nước Tây phương. Tôi cố tìm suốt một dãy các danh nhân còn sống hay đã chết để tìm cho được một người để ngưỡng mộ. Churchill? Cũng không được, đọc Mémoire của ông ta, cuốn L’Étau se referme không chịu được thái độ bất nhân đối với Nam Tư. Đến Exodux thì người Anh, ôi cũng là lũ thực dân. Nhớ đến lần hành quân ở Long Khánh thì Úc hay Anh cũng vậy, cũng là God save our King. Chả ra cái thống thế gì. Thế thì hết. Hết tiệt cái thế kỷ thần tượng, vì nếu qủa thật còn một chút thần tượng nào vất tưởng ở trên hành tinh này thì Jackie đã không xóa tan hình ảnh ông chồng rực rỡ để đi theo ông thương gia có phòng tắm lót vàng. Sống bên cạnh một thần tượng còn cho thần tượng đó "de" thì huống gì tôi, một kẻ da vàng xa xứ của ông thì ngưỡng mộ gì ông được, hở ông Kennedy. Đó là chưa kể đến nỗi hằn học mà ông Bob Kennedy để lại trong lòng những người lính Việt Nam. Hay thần tượng ỏ một anh nhược tiểu? Ché Guévara cũng không được. Đây chỉ là một loại James Bond cộng với Trần Độ mà thôi. Tóm lại thần tượng tất cả đều bị chôn chặt, bị cuốn hút, bị xóa tên, chỉ còn lại một vài thần tượng què quặt trên óc não bệnh hoạn, yếu đuối của một số người chưa sống đủ, thần tượng của những kẻ nổi loạn thành phố, những kẻ mang tâm trạng "bão tố trong cốc nước" những gã Mỹ con tóc dài, hippy, biểu tình chống đối trước trường Sĩ Quan Trừ Bị Hoa Kỳ. Sau tám năm ở lính, tôi mệt mỏi vô ngần. Mời các bạn đón đọc Dấu Binh Lửa của tác giả2 Phan Nhật Nam.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đời Như Một Trò Đùa
Bạn đã bao giờ nghe câu chuyện về người đàn ông một mực tin rằng mình đã chết? Hay về một con ếch không thể thuyết phục gã kỹ sư bắt được mình tặng cho một nụ hôn để trở lại thành công chúa? Hay một con lợn quên thân cứu chủ, và người chủ đã cảm kích đến nỗi mỗi lần chỉ chặt một phần cơ thể nó để ăn, thay vì làm thịt nó luôn một lúc? Hay một gã buôn lậu xe đạp qua mặt cảnh sát nhờ luôn vác hai bao cát trên vai. Hay người vợ nhất định không cho ông chồng sắp chết ăn chiếc bánh mà ông ta đang thèm, vì chỗ bánh đó là để dành cho đám tang ông… Đời quả đúng như một trò đùa! Chẳng phải hầu hết các tình huống éo le chúng ta gặp trong đời đều chứa đựng khía cạnh khôi hài hay sao? Chúng ta vốn quen với việc rút ra bài học kinh nghiệm sau thất bại, đắng cay, thậm chí là nước mắt và mất mát; nhưng ở đây, chúng ta sẽ học lối tư duy mới mẻ có phần lạ lẫm của anh em nhà Javna, tìm ra những bài học cuộc sống qua tiếng cười. *** Điều khác biệt giữa một trò đùa thú vị và một trò đùa tuyệt đỉnh là gì? Trò đùa tuyệt đỉnh không chỉ khiến bạn cười – nó làm bạn suy nghĩ. Trong nhiều năm, chúng ta vẫn dùng những câu chuyện cười để truyền tải các bài học cuộc sống thực tiễn cho con cái và bạn bè. Và nó thật sự hiệu quả. Khi cười, người ta cởi mở với các ý tưởng mà có thể họ chỉ đơn giản là lờ đi khi được đưa ra dưới dạng lời khuyên “nghiêm túc”. Một số chỗ, nó xuất hiện trước chúng ta có thể dưới dạng nội dung chính của một cuốn sách đơn thuần – thậm chí có thể là một thể loại hoàn toàn mới như một sự kết hợp giữa chuyện cười và sách self-help. Đó chính là cách Đời như một trò đùa ra đời. Tập hợp này gồm rất nhiều câu chuyện cười yêu thích của chúng tôi, cùng với một số chuyện từ gia đình, bạn bè… thậm chí từ các nhà tâm lý học. Bạn có thể đã từng được nghe một số chuyện – chúng đã là kinh điển rồi – nhưng chúng tôi cá rằng bạn chưa bao giờ nhìn chúng theo cách này. Chúng tôi nghĩ bạn sẽ ngạc nhiên trước việc chúng có thể liên quan tới cuộc sống thường nhật như thế nào. Chúng tôi cũng đã ngạc nhiên như vậy. Chúng tôi phát hiện ra mình đang đưa ra vô số chiêm nghiệm đằng sau câu chuyện thể hiện những trải nghiệm cá nhân – chúng tôi thường trích dẫn những dòng yêu thích nhất từ các bài hát hoặc bộ phim. Hóa ra chuyện cười và bài học từ chúng thực sự là một truyền thống của con người. Tất cả các nền văn hóa đều sử dụng những câu chuyện nho nhỏ để dạy dỗ và truyền lại các tri kiến. Ví dụ như Aesop đã viết những truyện ngụ ngôn ở Hy Lạp cổ đại từ 2.500 năm trước. Và Phật giáo Trung Hoa bắt đầu sử dụng những lời đàm luận được gọi là những công án (koan) khoảng 1.000 năm trước, tiết lộ sự thật về thế giới. Vì vậy, chúng tôi nghĩ những truyện cười tuyệt đỉnh chính là những công án của phương Tây. Hoặc có thể là Phật giáo Do Thái. *** “Hài hước là một yếu tố quan trọng để thành công” không còn quá xa lạ với các bạn trẻ. Việc hài hước hiện nay đang chiếm xu thế bởi những hành động ngộ nghĩnh, những lời nói ngô nghê, giản dị hay có thể đan xen vài yếu tố thô tục,… đều khiến cho mọi người lăn đùng ra cười, bầu không khí trở nên náo nhiệt. Nhưng ít ai biết rằng, những trò đùa thú vị ấy chỉ mang tính giải trí trong ngắn hạn, chỉ có thể phá tan khoảng không gian lạnh giá trong khoảng thời gian nhất định. Với Anh em nhà Javna - Gordon và John, việc hài hước trong con chữ và những câu truyện cười lại mang đến lợi ích to lớn hơn hết. Điều khác biệt giữa trò đùa thú vị và trò đùa tuyệt đỉnh là gì? Trò đùa tuyệt đỉnh không chỉ khiến bạn cười – nó làm bạn suy nghĩ.  Đời như một trò đùa. Tác giả: Gordon và John Dịch giả: Đặng Ly Gồm 341 trang, 100 câu chuyện kèm theo bài học cuộc sống và chiêm nghiệm. Nội dung – Ý nghĩa sách Chúng ta có thể làm bất cứ thứ gì điên rồ, nói những điều tào lao nhất trên đời để khiến những người ta yêu thương nở nụ cười. Chúng ta cũng đã quen với nụ cười tinh thần sau những vấp ngã và rút ra hàng loạt những bài học kinh nghiệm, mất mát, khó khăn. Nhưng để tiếng cười của ta kết thúc ở vị trí nhân văn, con đường chúng ta đi qua tốt hơn hết là những suy nghĩ và chiêm nghiệm trong những câu chuyện, lời kể…đặc biệt là truyện ngụ ngôn, truyện cười… Khi cười, chúng ta sẽ cởi mở hơn với các ý tưởng mà ta có thể lờ đi với dạng lời khuyên “nghiêm túc”. Đó là lí do trong suốt nhiều năm, mọi người vẫn dùng những câu truyện cười để truyền tải những bài học cuộc sống có ý nghĩa lớn lao. Cuốn sách là tập hợp những câu chuyện hài hước trong tất cả lĩnh vực cuộc sống, từ gia đình, bạn bè, xã hội đến cả tâm lí học, đạo đức học. Bạn sẽ rất ngạc nhiên với việc chúng có liên quan đến cuộc sống thường nhật như thế nào. Bởi vì chúng được đúc kết từ những kinh nghiệm cá nhân và các hành trình tác giả đã đi qua. Đối tượng nên đọc sách Cuốn sách là sự kết hợp giữa những chuyện cười và sách self-help. Qua những câu chuyện nhân văn và ý nghĩa, tác giả sẽ cung cấp cho chúng ta những bài học cuộc sống và những chiêm nghiệm quý giá. Từ đó giúp các bạn có đam mê với việc “hài hước có ý thức”, các bạn đang chập chững bước vào nghề viết lách có thêm những kiến thức, vốn từ vựng và cách diễn đạt. Đối với những bạn đang tìm kiếm những câu chuyện ngắn có tính giáo dục và muốn truyền đạt với thế hệ trẻ, cuốn sách là một lựa chọn không thể bỏ qua. Hơn nữa, ngay chính một người đã trưởng thành và đứng tuổi cũng phải cần suy ngẫm và học hỏi rất nhiều từ những câu chuyện trong sách. Suy cho cùng, với những câu truyện cười ngắn và lối dẫn dắt độc giả đến suy ngẫm, cuốn sách phù hợp với mọi lứa tuổi. Một trong những câu chuyện đáng suy ngẫm TRONG “NGUY” CÓ “CƠ” “Tất cả chúng ta đều đối mặt với hàng loạt cơ hội lớn được ngụy trang tài tình như những tình huống bất khả thi.” -Charles Swindoll- Một người đàn ông trẻ từ một thành phố lớn đến vùng nông thôn và mua một con lừa của người nông dân địa phương với giá 200 đô la. Người nông dân cầm tiền và nói rằng ngày hôm sau ông ta sẽ mang con lừa tới. Chiều hôm sau người nông dân đến nhà người đàn ông với một chiếc xe ba gác trống không. “Xin lỗi, thưa ông. Tôi có tin xấu,” người nông dân nói. “Con lừa chết rồi.” “Ồ, vậy thì hãy trả tôi 200 đô la đây,” người đàn ông nói. “Xin lỗi ông,” người nông dân trả lời. “Tôi không thể trả lại tiền được – tôi đã tiêu hết rồi.” Người đàn ông nghĩ một lát rồi nói. “Thôi được rồi, vậy thì hãy trả lại con lừa chết cho tôi.” “Ông định làm gì với nó?” người nông dân hỏi. “Tôi sẽ đem nó ra làm phần thưởng cho trò xổ số,” người đàn ông trả lời. “Ông không thể đem một con lừa chết ra để chơi xổ số được,” người nông dân kêu lên. “Chắc chắn là tôi có thể,” người đàn ông bình tĩnh trả lời. “Tôi sẽ không nói cho bất cứ ai biết rằng nó đã chết.” Vài tuần sau đó, người nông dân bất ngờ gặp lại người đàn ông và hỏi chuyện gì đã xảy ra với con lừa chết. “Tôi đã đem nó ra làm phần thưởng cho trò xổ số,” người đàn ông nói với người nông dân. “Tôi đã bán được 300 vé với giá 2.5 đô la/vé và thu được tiền lãi là 547.5 đô la.” Choáng váng, người nông dân thốt lên, “Trời! Không có ai phàn nàn gì ư?” “Chỉ có gã trúng số,” người đàn ông đáp lời. “Vì vậy, tôi trả lại cho hắn ta 2.5 đô la.” BÀI HỌC CUỘC SỐNG - CHIÊM NGHIỆM Điều gã trai kia làm trong câu chuyện trên là trái đạo đức và pháp luật, nhưng bạn không thể làm gì ngoài việc ấn tượng với khả năng của gã trong việc xoay chuyển tình thế - nghĩa là biến tình huống tệ hại thành một cơ hội thành công. Đối mặt với một tình huống khó khăn, tất cả chúng ta có khuynh hướng nói rằng, “Thế đấy, mình hết cửa rồi!” Nhưng như gã trai kia đã chứng tỏ vẫn có một lựa chọn. Thay vì từ bỏ, hãy nắm lấy cơ hội để làm cho nổi kinh hoảng lắng xuống và cho bản thân mình một cơ hội để thích ứng với hoàn cảnh mới. Sau đó hãy hướng vào sự sáng tạo của bạn và xem những ý tưởng nào sẽ xuất hiện. Làm như vậy vài lần và nó sẽ bắt đầu thành bản năng thứ hai. Bạn sẽ ngạc nhiên và hài lòng trước tài khéo léo của mình. Đây là một trong những câu chuyện theo format của sách. Một câu chuyện kèm theo sau đó là bài học cuộc sống và chiêm nghiệm. Bố cục sách rất rõ ràng và dễ hiểu, nhưng để đọc sách thêm hiệu quả bạn cần cân nhắc một vài mẹo nhỏ. Một vài mẹo nhỏ khi đọc sách Mặc dù các câu truyện được đánh số nhưng đó không thực sự là xếp hạng của chúng. Bạn có thể tự do chọn những câu chuyện với những tiêu đề thu hút để đọc và nghiền ngẫm. Theo kinh nghiệm đọc sách của mình, mình xin khuyến khích các bạn chỉ đọc một câu chuyện mỗi lần để có thêm thời gian ngẫm nghĩ và nhấm nháp bài học. Điều này có thể giúp ta nhớ lâu hơn lời răn dạy của chuyện và khiến cho cuốn sách được đọc trong khoảng thời gian dài. Đời như một trò đùa bởi vì chỉ có những trò đùa tạo nên cuộc đời Khá là phi lý nhưng hoàn toàn là sự thật rằng khi ai đó được hỏi “Bạn nghĩ như thế nào là cuộc đời?” Hầu hết mọi người đều đánh giá: Cuộc đời là những chông gai, khó khăn, cạm bẫy, rào cản…ở phía trước, “Cuộc đời chưa bao giờ là những lời mời ngọt ngào” của bất kì ai. Nhưng mấy ai hiểu được rằng, cuộc đời của chúng ta vốn dĩ rất yên bình và nhẹ nhàng…nếu như chúng ta nghĩ thế. Một tinh thần sống lạc quan và một hành trang vững trãi sẽ không bao giờ là thừa nếu bạn sẵn lòng bước trên con đường của bạn. Suy cho cùng, những chông gai, khó khăn, cạm bẫy, rào cản ấy cũng chỉ là những trò đùa của cuộc đời sẵn sàng ngăn cản sự sẵn lòng của bạn. Đừng để những trò đùa ấy khiến bạn gục ngã nhé! Vì rốt cuộc, Đời chỉ là một trò đùa thôi! Review chi tiết bởi: Trịnh Cát Viên – Bookademy Mời bạn đón đọc Đời Như Một Trò Đùa của tác giả Anh Em Nhà Javna.
Ba Gã Say Luận Đàm Thế Sự
Ba gã say luận đàm thế sự ra đời năm 1887, đúng thời điểm đất nước Nhật Bản đang đứng giữa ngã ba đường của lịch sử, loay hoay tìm đường hướng phát triển quốc gia: Phải lựa chọn chế độ chính trị như thế nào? Cần theo đuổi chính sách ngoại giao ra sao để có thể trở thành một cường quốc ở châu Á? Là xác lập chủ nghĩa lý tưởng Tây phương, qua hình tượng chàng Thân sĩ Tây học, sống trong “khuê các tư tưởng”? Là đi theo chủ nghĩa quốc quyền, qua hình tượng vị Hào kiệt, con người của hành động, thao thao bất tuyệt về mưu toan bành trướng Trung Hoa? Hay là chủ nghĩa hiện thực với đường lối trung dung, tùy thời tiến thoái, như hình tượng vị Nam Hải tiên sinh? Được cấu tứ dựa trên ý tưởng một cuộc luận đàm về chính trị giữa ba gã say, Ba gã say luận đàm thế sự đã chỉ ra những ưu nhược điểm của chủ nghĩa phương Tây, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa quốc quyền, bành trướng, như một lời chỉ dẫn về con đường Nhật Bản nên đi và cũng được xem như điềm báo về sự thịnh suy của đế quốc Nhật Bản trong tương lai. Với văn phong cổ kính, ngôn từ hàm súc, sử dụng nhiều điển tích Đông Tây kim cổ, cuốn sách đã khắc họa một bức tranh đa diện, nhiều màu sắc về lịch sử văn minh thời Minh Trị, về những vấn đề mà giới tinh hoa Nhật Bản đang đau đáu bận tâm. Tác phẩm được coi như một danh tác tiêu biểu cho văn minh thời Duy tân Minh Trị. “Nói rằng nhiều vấn đề trọng đại của Nhật Bản hiện tại như hòa bình, tự do, phòng vệ, tiến bộ - bảo thủ, dân quyền - quốc quyền… được gói gọn trong Ba gã say luận đàm thế sự cũng không phải quá lời.”       --- Kuwabara Takeo *** VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM   Nakae Chōmin tên thật là Tokusuke, sinh ngày 1 tháng Mười một năm 1847 tại Kochi phiên Tosa (nay là tỉnh Kochi). Cha của ông là Tameshichi (sau đổi thành Motosuke, Yasosuke), mẹ là Yanagi và một người em trai tên Kōma. Tổ tiên của nhà Nakae có thể tính lùi về đến ông cố của Tokusuke là Densaku. Không có nhiều thông tin về lai lịch của Densaku, chỉ biết vào năm 1766 ông được tuyển làm Ashigaru của phiên Tosa, được cấp sinh hoạt phí gấp đôi và nhận bổng lộc bốn thạch lúa gạo. Tokusuke là đời thứ tư, sau người ông Katsuji và cha Tameshichi. Cha ông bị ràng buộc ở Edo nên thời thơ ấu được một tay mẹ nuôi dưỡng. Người ta truyền rằng ông vốn trầm tính như con gái và rất thích đọc sách. Năm 1861, cha mất, ông kế tục làm một Ashigaru. Năm sau, ông vào học Bunbukan (Văn Võ quán) khi nơi này vừa được thành lập, rồi nhận được sự chỉ dạy của Hosokawa Junjiro, một nhà Tây dương học nổi tiếng, người này sau làm Viện trưởng Đế quốc học sĩ. Nhờ sự tiến cử của Hosokawa, ông được gửi đến Nagasaki với tư cách là du học sinh của phiên và học tiếng Pháp với Hirai Gijūrō. Hai năm sau, ông lên Edo, theo học bậc thầy Pháp học Murakami Hidetoshi nhưng vì quá phóng đãng nên đã bị khai trừ. Khi Công sứ Léon Roches xuống phía tây vì vấn đề mở cửa Hyogo, ông đi theo với vai trò là tùy viên hỗ trợ phiên dịch. Trước và sau Minh Trị Duy tân, Chōmin không có hành động của một chí sĩ, ông chỉ học tiếng Pháp và nghiên cứu Pháp điển đồng thời khổ luyện âm khúc truyền thống Edo như Nagauta. Sau Duy tân, ông là học trò tại trường tư của Mitsukuri Rinsho, rồi trở thành người đứng đầu trường tư Nisshinsha (Nhật Tân xã) của Fukuchi Gen’ichirō, sau đó nhận giảng dạy tiếng Pháp tại Đại học Nankō (Nam Hiệu, sau là Đại học Tokyo). Năm Minh Trị thứ 4 (1871), ông có nguyện vọng sang Pháp du học, nhờ sự tận tình của Ōkubo Toshimichi, ông vào phục vụ ở Tư pháp sảnh [Bộ Tư pháp], rồi đồng hành cùng Iwakura Tomomi với tư cách là Đại sứ toàn quyền sang Tây dương. Trong thời gian lưu trú tại Pháp, ông từng giao du với Saionji Kinmochi và Komyoji Saburō, học hỏi nhà tư tưởng chính trị cấp tiến Acollas. Năm 1874, ông về nước và mở “Pháp Lan Tây học xá” để dạy Pháp học tại nhà, nhưng đến năm Minh Trị thứ 8 (1875) ông đến nhậm chức Hiệu trưởng trường Ngoại ngữ Tokyo. Chōmin nhận chức hiệu trưởng này chưa được ba tháng đã từ chức, có thuyết cho rằng vì ông chủ trương giáo dục Nho giáo nhưng bị phản đối. Việc này không có chứng cứ xác thực, nhưng có một sự thật là sau này vì yêu thích Hán học ông đã vào trường tư thục của Okamatsu Ōkoku. Genrōin (Nguyên lão viện) được thành lập, ông được thư ký quan của viện mời về làm việc, công việc ở đây cũng nhàn, lại thuận tiện cho việc kinh doanh “Pháp Lan Tây học xá” nên ông chuyển việc đến đó cũng là lẽ tự nhiên. Nhưng ở Genrōin, ông lại xung đột với Mutsu Munemitsu, nên đã từ chức vào năm 1877. Sau đó, ông vẫn nhận công việc phiên dịch do chính phủ ủy thác nhưng không thuộc chế độ phục vụ suốt đời. Có vẻ như khí chất ông không thể chịu được cuộc sống viên chức. Cuộc vận động tự do dân quyền cũng bắt đầu vào năm Chōmin về nước, nhóm người Itagaki Taisuke dâng bản điều trần [kiến bạch thư] thiết lập dân tuyển nghị viện. Chōmin không lập tức tham gia cuộc vận động này, ông phổ cập tư tưởng chủ nghĩa dân chủ, xây dựng cơ sở lý luận cho nó dựa vào Pháp học. Ông thử nghiệm việc dịch Khế ước Xã hội, nhưng rồi sau đó ông cùng Saionji Kinmochi sáng lập tờ báo Tōyō Jiyū shimbun(Đông Dương Tự do tân văn), do Saionji làm chủ tòa soạn, còn bản thân ông thì làm chủ bút. Số đầu tiên ra ngày 18 tháng Ba năm Minh Trị thứ 14 (1881). Đây là lần đầu tiên từ “Tự do” xuất hiện trên mặt báo ở Nhật Bản. Chính phủ lo sợ cuộc vận động tự do dân quyền lan rộng, bèn dựa vào uy quyền của Thiên hoàng đàn áp tờ báo, ép Saionji từ chức, tờ báo không tránh khỏi bị đình bản sau khi đã ra được 34 số. Cuộc vận động dân quyền phát triển đến mức, Iwakura Tomomi cho rằng “dù là thời điểm trước cách mạng Pháp, e cũng không sánh được với tình thế hiện tại”. Thế nhưng phe phản chính phủ cũng có nhiều yếu điểm nên cuộc vận động sớm nảy sinh chia rẽ, một bộ phận phần tử cấp tiến đã tự ý hành động trực tiếp, chẳng hạn như các vụ bạo động ở Gunma, Kabasan; hệ quả tất yếu là trung ương bộ của Đảng Tự do tự giải tán (tháng Mười năm 1884). Trước sự kích động như thế, Chōmin hầu như chưa có hoạt động chính trị nào. Ông phản đối đường lối khởi sự thô bạo mà chỉ muốn đào sâu về lý luận, ông dốc sức dịch sách L’Esthetique của Eugene Veron (1883), Histoire de la Philosophic của Alfred Jules Émile Fouillee (1886) và viết Rigaku Kogen(Lý học câu huyền) và Kakumeizen France Niseki Kiji (Ký sự hai thế kỷ nước Pháp trước cách mạng), quyển Ba gã say luận đàm thế sự này cũng là một trong những thử nghiệm đó. Chúng tôi sẽ bàn về điều này sau. Tuy nhiên, trong thư phòng của Chōmin chắc chắn sẽ không có những nghiên cứu thấu triệt mà chuyên sâu làm thỏa mãn việc tranh luận về lý luận chính trị. Sau khi quyển sách này xuất bản không lâu, nhân dịp Ngoại tướng [Bộ trưởng Bộ Ngoại giao] Inoue Kaoru phản đối kế hoạch Cải chính Điều ước*, cuộc vận động tổng lực của phái tự do dân quyền đã bùng nổ trở lại, đả đảo chính phủ phiên phiệt. Chōmin tham gia tích cực vào cuộc vận động này, đóng vai trò chỉ đạo, chấp bút thượng tấu buộc tội chính phủ thay cho Gotō Shōjirō. Thế nhưng chính phủ lo sợ cuộc vận động này nên đã công bố Điều lệ Bảo an vào cuối năm Minh Trị thứ 20 (1887), liệt ông cùng 570 người nhóm Ozaki Yukio, Hoshi Tooru vào thành phần nguy hiểm và bị trục xuất khỏi Tokyo, ông đành phải dời về Osaka. Nhưng, ở Osaka ông lại lập tức thành lập và kiêm chủ bút tờ Shinonome shimbun (Đông Vân tân văn), ra sức phổ cập tư tưởng dân quyền, ủng hộ việc thiết lập quốc hội. Mạch chính trong chủ trương của Chōmin là đưa việc khâm định hiến pháp vào quốc hội, cho phê duyệt từng hạng mục [điểm duyệt], qua đó có thể thực hiện được chủ trương dân chủ hóa. Nhờ đợt ân xá vào thời điểm công bố Hiến pháp, lệnh trục xuất Chōmin được giải trừ, ông quay lại Tokyo, ra ứng cử Khu số 4 Osaka và trúng cử trong cuộc tuyển cử Chúng nghị viện lần thứ nhất. Trong quốc hội, thành phần chống đối chiếm đa số nhưng không thể gắn kết trong một chiến tuyến thống nhất, bị chia rẽ bởi chính sách mua chuộc của chính phủ, tháng Hai năm Minh Trị thứ 24 (1891), dự toán thỏa hiệp với chính phủ được xác lập do phe Tosa phản bội, Chōmin giận dữ, nộp đơn từ chức “Tiểu sinh sắp tới đây e là phát bệnh do trúng độc rượu, không tiện đi lại, khó tham dự cuộc bỏ phiếu, vậy nay trình đơn này xin phép được từ chức” và rời bỏ quốc hội. Dù rất nhiệt tâm nhưng ông không thành công trong cuộc vận động thực tiễn có tính tổ chức. Đó phần nào cũng do tính cách cá nhân của riêng ông, nhưng cũng là bởi tình hình quá tệ, ông từng mắng những nghị viên nhút nhát là bọn sâu mọt không máu, cuối cùng lại phải ôm mối tuyệt vọng với giới chính trị hủ bại và dời về Hokkaido, ông làm chủ bút tờ Hokumon Shinbo (Bắc Môn tân báo) ở thành phố Otaru. Mùa hè năm Minh Trị thứ 25 (1892), ông rút khỏi tờ Hokumon Shinbo,sau đó bắt đầu sự nghiệp kinh doanh. Xét thấy nếu không có tiền thì cả hoạt động chính trị lẫn sáng tác đều mất tự do và suy thoái, ông quyết định sẽ kiếm tiền trước, ông cai rượu, quyết tâm dấn thân vào nhiều ngành nghề nhưng phần nhiều bị cho là mang tính môi giới. Tất cả liên tục bị thất bại, Chōmin rơi vào cảnh nghèo túng. Trong thời gian kinh doanh ông đã dịch lại Die beiden Grundprobleme der Ethik của Authur Schopenhauer từ tiếng Pháp nhưng trước sự can thiệp của ba nước sau chiến tranh Nhật-Thanh, ông đã phẫn uất thốt lên rằng “đó là vết nhơ lớn hằn sâu vào trang sử của Đế quốc Nhật Bản chúng ta”. Sau đó vào năm Minh Trị thứ 31 (1898), hầu như một mình ông tự sáng lập Kokuminto (Quốc dân đảng), phát hành bản tin Hyaku rei ichi (Bách linh nhất). Tuy nhiên, cương lĩnh đó không phải là chủ nghĩa quốc quyền mà là chủ nghĩa tự do tiến bộ, là yêu sách về tuyển cử phổ thông, miễn phí giáo dục tiểu học, tự do ngôn luận, xuất bản. Năm Minh Trị thứ 33 (1900), ông gia nhập Kokumin Domeikai (Quốc dân Đồng minh hội) của Konoe Atsumaro nhằm tiến vào đại lục, đồng thời khích lệ Risodan (Lý tưởng đoàn) của Kuroiwa Shuroku, Uchimura Kanzo cân nhắc đến việc bãi bỏ quyền sở hữu đất đai và quyền kế thừa tài sản, lại gia nhập “Phổ thông tuyển cử kỳ thành Đồng minh hội” (1901). Qua đó để thấy có không ít hành động trong cuộc đời ông bộc lộ sự mâu thuẫn. Tháng Ba năm Minh Trị thứ 34 (1901), Chōmin đến Osaka vì công việc kinh doanh và ngã bệnh, ông được chẩn đoán là ung thư thực quản, thời gian còn lại chỉ là một năm rưỡi. Sau khi làm phẫu thuật, ông viết lchinen yūhan(Nhất niên hữu bán) và Zoku lchinen yūhan (Tục nhất niên hữu bán) trong cơn đau bệnh. Ngày 13 tháng Mười hai, ông kết thúc cuộc đời 54 năm tại nhà riêng ở quận Koishikawa, thị trấn Takeshima. Mời bạn đón đọc Ba Gã Say Luận Bàn Thế Sự của tác giả Nakae Chōmin & Nguyễn Mạnh Sơn , Võ Vương Ngọc Chân (dịch).
Cảnh Đồi Mờ Xám
Nhận được tin Keiko, con gái lớn của mình tự tử, Etsuko, một phụ nữ Nhật Bản sống một mình ở Anh đã bắt đầu cuộc hành trình chìm đắm vào những kí ức về một mùa hè ở Nagasaki hậu chiến. Trung tâm của những kí ức mơ hồ ấy là một tình bạn lạ lùng với Sachiko, người đã bị cuộc chiến tranh tước đi tất cả trừ đứa con gái nhỏ cùng một khao khát mãnh liệt phải đến nước Mỹ bằng mọi giá. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Kazuo Ishiguro đã khắc họa nên bức tranh những số phận ở nước Nhật Bản bại trận, nơi các nhân vật của ông vật lộn, xoay xở, dằn vặt với những thay đổi đến quá nhanh và quá dữ dội. Nhưng sâu hơn, cuốn sách còn là một cuộc thăm dò đầy tinh tế cái bí ẩn của kí ức. Cuộc sống hiện tại đặt nền móng trên kí ức, nhưng đến lượt mình, chính kí ức lại vô cùng bất trắc, khó lường. *** Chương một Niki, cái tên chúng tôi rốt cuộc đặt cho con gái út của mình, không phải tên tắt mà là một thỏa hiệp giữa tôi với cha con bé. Trái khoáy ở chỗ, anh lại là người muốn chọn một cái tên Nhật Bản cho nó, còn tôi - có lẽ vì một mong muốn ích kỷ không muốn gọi lại quá khứ - nên cứ nhất quyết đòi một cái tên Anh. Cuối cùng thì chồng tôi cũng đồng ý với Niki, vì tin rằng có đôi chút Đông phương phảng phất trong đó. Con bé về thăm tôi hồi đầu năm nay, vào tháng Tư, khi ngày vẫn trôi qua trong lạnh giá và mưa phùn. Có thể nó vốn định ở lại lâu hơn. Tôi không biết nữa. Nhưng ngôi nhà thôn quê và sự tĩnh lặng xung quanh khiến nó bức bối, chẳng bao lâu sau, tôi thấy rõ nó đã rất nóng lòng muốn trở về cuộc sống của mình ở London. Nó nghe các đĩa hát cổ điển của tôi với vẻ bồn chồn, lật vội qua biết bao cuốn tạp chí. Điện thoại thường xuyên đổ chuông, nó vội bước qua tấm thảm, thân hình mảnh dẻ siết trong bộ quần áo bó, cẩn thận đóng cánh cửa sau lưng để tôi không nghe được cuộc nói chuyện. Nó rời đi sau năm ngày. Phải tới ngày thứ hai nó mới nhắc đến Keiko. Hôm ấy là một buổi sáng hút gió ảm đạm, chúng tôi đã kê ghế bành ra gần cửa sổ để ngắm mưa rơi xuống mảnh vườn nhà. “Mẹ có nghĩ con sẽ đến không?” nó hỏi. “Ý con là đến lễ tang ấy.” “Không, mẹ nghĩ là không. Mẹ không thực sự nghĩ con sẽ tới.” “Nghe tin về chị ấy, con cũng buồn. Con đã suýt đến đấy.” “Mẹ chưa bao giờ nghĩ con sẽ tới.” “Mọi người không ai hiểu con bị làm sao,” nó nói. “Con không hề nói với bất kỳ ai. Chắc vì con thấy xấu hổ. Quả thực họ sẽ không hiểu được, họ sẽ không thể hiểu cảm giác của con về chuyện ấy. Chị em gái lẽ ra phải là người ta thấy gần gũi, đúng không. Có thể ta không thích họ lắm, nhưng ta vẫn gần gũi với họ. Nhưng sự thực lại không phải thế. Đến bây giờ, con thậm chí còn không nhớ chị ấy trông thế nào.” “Đúng thế, lần cuối cùng con gặp chị cũng đã khá lâu rồi.” “Con chỉ nhớ chị ấy luôn khiến con khổ sở. Con chỉ nhớ có thế về chị ấy. Nhưng mặc dầu vậy, con vẫn buồn khi nghe tin.” Có lẽ điều thôi thúc con gái tôi quay trở lại London không chỉ là sự tĩnh lặng. Vì dù chúng tôi không bao giờ nói chuyện lâu về cái chết của Keiko, chủ đề ấy không bao giờ khuất dạng, luôn lảng vảng bất cứ khi nào chúng tôi trò chuyện với nhau. Không giống Niki, Keiko là người Nhật thuần và hơn một tờ báo đã mau mắn bám vội lấy chi tiết này. Người Anh thích nghĩ rằng tự vẫn đã ăn sâu vào máu người Nhật chúng tôi, cứ như thể chẳng cần phải giải thích gì thêm; vì đó là tất cả những gì họ đưa lên mặt báo, rằng con bé là người Nhật và nó đã treo cổ trong phòng riêng. ⁎ ⁎ ⁎ Cũng chính buổi tối hôm ấy, khi đang đứng cạnh các ô cửa sổ đưa mắt nhìn ra bóng tối ngoài kia, tôi bỗng nghe tiếng Niki sau lưng mình: “Mẹ đang nghĩ gì thế?” Nó đang ngồi vắt ngang người trên ghế trường kỷ, một cuốn sách bìa mềm đặt trên đầu gối. “Mẹ đang nghĩ về một người mẹ từng quen. Một phụ nữ mẹ từng quen.” “Một người mẹ quen hồi mẹ… Trước khi mẹ đến Anh?” “Mẹ quen cô ấy hồi mẹ sống ở Nagasaki, nếu đó là điều con muốn hỏi.” Thấy nó tiếp tục nhìn mình, tôi nói thêm, “Đã lâu lắm rồi. Rất lâu trước khi mẹ gặp cha con.” Có vẻ hài lòng với câu trả lời nên sau khi buông một lời bình luận bâng quơ, nó quay lại với cuốn sách. Nói chung, Niki là một đứa trẻ biết quan tâm. Nó đến đây không chỉ để xem tôi đón nhận tin về cái chết của Keiko thế nào; nó đến thăm tôi xuất phát từ cảm giác sứ mệnh. Vì trong mấy năm gần đây, do quyết định cảm phục một số khía cạnh nhất định trong quá khứ của tôi, nó đã chuẩn bị tinh thần để nói với tôi rằng mọi chuyện đến giờ không có gì thay đổi, rằng tôi không nên ân hận vì những lựa chọn trước đây của mình. Nói ngắn gọn, để trấn an rằng tôi không phải chịu trách nhiệm trước cái chết của Keiko. Lúc này, tôi hoàn toàn không muốn nói nhiều về Keiko vì điều ấy không an ủi tôi là mấy. Tôi nhắc đến Keiko ở đây chỉ vì chuyện đó liên quan đến chuyến thăm của Niki hồi tháng Tư này, và vì chính trong chuyến thăm ấy, tôi lại nhớ đến Sachiko sau ngần ấy thời gian. Tôi chưa bao giờ thực sự thân với Sachiko. Trên thực tế, tình bạn của chúng tôi chỉ kéo dài có vài tuần lễ, không hơn, trong một mùa hè đã nhiều năm về trước. ⁎ ⁎ ⁎ Lúc ấy, những ngày khủng khiếp nhất đã qua. Lính Mỹ vẫn đông như trước - vì đang có chiến trận ở Triều Tiên - nhưng ở Nagasaki, sau những gì đã xảy ra trước đó thì đó là những tháng ngày yên ả và nhẹ nhõm. Có cảm giác thế giới đang thay đổi. Tôi và chồng sống tại một khu vực ở phía Đông của thành phố, chỉ cách trung tâm một chuyến xe điện ngắn. Gần chỗ chúng tôi ở có một con sông, có lần tôi nghe nói từng có một ngôi làng mọc lên ven bờ sông hồi trước chiến tranh. Nhưng rồi bom giội xuống và tất cả những gì còn sót lại chỉ là những đống đổ nát cháy đen. Việc tái thiết đã được tiến hành và chẳng bao lâu sau, bốn tòa nhà bê tông đã mọc lên, mỗi tòa có khoảng bốn mươi căn hộ riêng biệt. Trong số bốn tòa nhà tập thể ấy, tòa của chúng tôi được xây sau rốt, cũng chính vào thời điểm chương trình tái thiết bị tạm hoãn; vậy là giữa chúng tôi và con sông là một vùng đất trống vài mẫu toàn bùn khô và mương rãnh. Rất nhiều người phàn nàn coi ni đó là một mối đe dọa về mặt sức khỏe, và quả thật việc thoát nước ở đó rất kinh khủng. Quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng có những hố đầy nước tù đọng, vào những tháng mùa hè, muỗi nhiều đến mức không ai chịu nổi. Thỉnh thoảng cũng thấy các viên chức tới sải chân đo đạc hoặc nguệch ngoạc ghi chép, nhưng rồi nhiều tháng trôi qua mà đâu vẫn hoàn đấy. Cư dân của khu tập thể cũng là những người như chúng tôi - các cặp vợ chồng trẻ, chồng tìm được công việc khá khẩm tại những công ty đang lên. Các công ty là chủ sở hữu của nhiều căn hộ, họ cho nhân viên của mình thuê lại với giá rất hào phóng. Căn hộ nào cũng giống nhau; sàn tatami, nhà tắm và bếp theo thiết kế phương Tây. Chúng đều nhỏ và rất khó giữ cho mát mẻ trong những tháng nóng nực, nhưng về tổng thể, các cư dân ở đây dường như đều có chung cảm giác hài lòng. Tuy vậy, ở đó, tôi vẫn còn nhớ rõ một bầu không khí tạm bợ không lẫn đi đâu được, như thể tất cả chúng tôi đang chờ đến ngày được chuyển tới sống ở một nơi khác tiện nghi hơn thế. Có một ngôi nhà gỗ nhỏ vẫn tồn tại qua sự tàn phá của cả chiến tranh lẫn những cỗ xe ủi đất của chính quyền. Tôi có thể thấy ngôi nhà từ cửa sổ căn hộ của mình, đứng lẻ loi cuối bãi đất trống rộng lớn, gần như ngay sát bờ sông. Đó là một ngôi nhà nhỏ kiểu thường gặp ở nông thôn, mái ngói dốc xuống gần sát mặt đất. Trong những khoảnh khắc trống rỗng, tôi vẫn thường đứng bên cửa sổ trân trân nhìn ngôi nhà đó. Nếu xét tới những chú ý mọi người dành cho sự xuất hiện của Sachiko, thì tôi không phải người duy nhất để mắt đến ngôi nhà ấy. Người ta bàn tán rất nhiều về hai nam công nhân một ngày nọ làm việc ở đó - những chuyện như không biết họ có phải viên chức nhà nước hay không, về sau người ta đồn rằng có người phụ nữ và đứa con gái nhỏ đến sống tại ngôi nhà, chính tôi cũng đã vài dịp thấy hai mẹ con đi qua bãi đất đầy mương rãnh. Lúc ấy là đầu hè - tôi đang mang bầu được ba hoặc bốn tháng - khi tôi lần đầu tiên để ý thấy chiếc xe Mỹ to đùng màu trắng và móp méo đang xóc nẩy chạy trên khu đất, hướng về phía bờ sông. Lúc đó trời đã sẩm tối, mặt trời đang lặn xuống sau căn nhà, thoáng chốc lóe lên trên lớp vỏ xe bằng sắt. Rồi một buổi chiều nọ, tôi nghe thấy hai phụ nữ ở trạm chờ xe điện nói chuyện về người đàn bà đã chuyển tới căn nhà vô chủ bên sông. Một người kể cho người kia mình đã nói chuyện với người ấy vào sáng hôm đó và được đáp lại bằng một thái độ khinh khỉnh không lẫn đi đâu được. Người đi cùng đồng ý rằng người mới đến có vẻ thiếu thân thiện - thậm chí có khi là kênh kiệu nữa. Cô ta trẻ lắm cũng phải ba mươi tuổi, vì con gái cô ta ít nhất cũng đã lên mười. Người phụ nữ thứ nhất bảo cô ta nói giọng Tokyo và chắc chắn không phải dân Nagasaki. Họ bàn tán một lúc về “người bạn Mỹ” của cô, rồi người phụ nữ nhắc lại thái độ kém thân thiện người lạ mặt dành cho mình sáng hôm đó. Tôi không nghi ngờ gì rằng trong số các phụ nữ cùng sống ở khu tập thể vào thời điểm đó, có những người đã phải chịu đau khổ, mang trong mình những ký ức buồn thương và kinh hoàng. Nhưng khi chứng kiến cảnh họ từng ngày bận bịu với chồng con, tôi thấy thật khó tin họ đã từng có lúc sống cuộc đời chất chứa những thảm kịch và ác mộng thời chiến. Tôi không bao giờ cố ý tỏ ra thiếu thân thiện, nhưng nếu bảo tôi không cố chứng minh điều ngược lại thì chắc cũng chẳng sai. Vì vào thời điểm ấy trong đời mình, tôi vẫn còn muốn mọi người để mình được yên. Vậy là tôi chăm chú lắng nghe hai phụ nữ nói chuyện về Sachiko. Tôi có thể hồi tưởng lại một cách sống động buổi chiều hôm ấy ở trạm chờ xe điện. Đó là một trong những ngày rực rỡ ánh nắng đầu tiên sau mùa mưa tháng Sáu, và quanh chúng tôi, các bức tường gạch và bê tông dầm nước đang dần khô ráo. Chúng tôi đang đứng trên cây cầu xe lửa và ở một bên đường ray ngay dưới chân đồi, ta có thể thấy một đám mái nhà tụm lại một chỗ, như thể các ngôi nhà đã xô nhau cùng trượt xuống dốc. Xa hơn một chút là khu tập thể của chúng tôi, nhìn như bốn cột bê tông. Lúc đó, tôi thấy đồng cảm với Sachiko, thấy phần nào hiểu được thái độ xa lánh tôi đã nhận ra khi quan sát cô từ xa. Chúng tôi rồi sẽ trở thành bạn bè với nhau vào mùa hè ấy và tôi sẽ được cô gửi gắm tâm sự riêng, ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn. Giờ thì tôi không nhớ chúng tôi đã gặp nhau lần đầu tiên như thế nào. Chỉ nhớ một chiều nọ tội nhận ra cô đang đi trước mình trên con đường nhỏ dẫn ra khỏi khu dân cư. Tôi vội vã đuổi theo, còn Sachiko cứ bình thản bước. Chắc hẳn lúc ấy chúng tôi đã biết tên nhau rồi, vì tôi nhớ đã gọi cô khi đến gần. Sachiko quay lại chờ tôi bắt kịp. “Có chuyện gì sao?” cô hỏi. “Thấy chị ở đây em mừng quá,” tôi nói, có chút hụt hơi. “Con gái chị, lúc em ra khỏi nhà, nó đang đánh nhau. Ở đằng kia, gần mấy rãnh nước ấy.” “Nó đánh nhau sao?” “Với hai đứa trẻ khác. Một đứa là con trai. Chúng đánh nhau dữ lắm.” “Vậy hả.” Sachiko bắt đầu đi tiếp. Tôi đi bên cạnh cô. “Em không muốn làm chị hoảng hốt,” tôi nói, “nhưng hình như chúng đánh nhau dữ lắm. Em còn thấy một vết cắt trên má con gái chị nữa thì phải.” “Vậy sao.” “Ở đằng kia, phía cuối bãi đất.” “Chúng nó vẫn đang đánh nhau à?” Cô tiếp tục đi lên đồi. “Không. Em thấy con gái chị bỏ chạy.” Sachiko mỉm cười nhìn tôi. “Em không quen thấy trẻ con đánh nhau phải không?” “Trẻ con đánh nhau thì cũng không tránh được. Nhưng em nghĩ nên nói cho chị biết. Và em nghĩ nó không định đến trường đâu. Mấy đứa kia tiếp tục đi về phía trường học, nhưng con gái chị lại quay về phía bờ sông.” Sachiko không trả lời, chỉ tiếp tục đi lên đồi. “Sự thực là,” tôi tiếp tục, “em đã định nói với chị chuyện này từ trước. Chị thấy đấy, dạo này em đã nhiều lần bắt gặp con gái chị. Hình như con bé trốn học chút ít hay sao ấy.” Con đường chia ngả trên đỉnh đồi. Sachiko dừng lại, chúng tôi nhìn nhau. “Em quan tâm đến con gái chị như vậy thật tử tế quá, Etsuko ạ,” cô nói, “hết sức tử tế. Nhất định em sẽ trở thành một bà mẹ tuyệt vời.” Cũng như hai phụ nữ ở trạm chờ xe điện, trước đây tôi vẫn nghĩ Sachiko khoảng ba mươi tuổi. Nhưng có lẽ dáng người trẻ trung của cô đã đánh lừa chúng tôi, vì nét mặt cô già dặn hơn nhiều. Cô đang nhìn tôi với vẻ thích thú thoáng hiện trên khuôn mặt, cái nhìn của cô có gì đó khiến tôi phải lúng túng cười trừ. “Chị rất cảm ơn khi em tìm chị thế này,” cô nói tiếp. “Nhưng như em thấy đấy, giờ chị đang bận chút việc. Chị phải vào Nagasaki.” “Không sao. Em chỉ nghĩ tốt hơn cả là đến nói cho chị hay, chỉ vậy thôi.” Trong khoảnh khắc, cô lại tiếp tục nhìn tôi vẫn với ánh mắt thích thú ấy. Rồi cô nói, “Em mới tử tế làm sao. Giờ thì chị xin phép. Chị phải vào thành phố.” Cô cúi chào, sau đó quay sang ngả đường dẫn lên trạm chờ xe điện. “Chỉ vì nó có vệt xước trên má thôi,” tôi nói, hơi cao giọng. “Còn con sông nữa, nhiều khúc rất nguy hiểm. Em chỉ nghĩ tốt nhất nên tìm gặp chị rồi nói cho chị hay.” Cô quay lại nhìn tôi một lần nữa. “Etsuko này, nếu em không còn việc gì để làm,” cô nói, “thì chắc hôm nay em sẽ không ngại trông con bé giúp chị đâu nhỉ. Buổi chiều chị sẽ về. Chị tin chắc em với nó sẽ rất hợp nhau.” “Em sẽ không phản đối, nếu chị muốn thế. Em phải nói là em có cảm giác con gái chị vẫn còn quá nhỏ để ở một mình suốt ngày.” “Em mới tử tế làm sao,” Sachiko nhắc lại. Rồi cô mỉm cười một lần nữa. “Đúng thế, chị tin rằng em sẽ trở thành một bà mẹ tuyệt vời.” Sau khi chia tay Sachiko, tôi xuống đồi, đi qua khu dân cư để quay về nhà. Chỉ một lúc sau, tôi thấy mình đã về đến bên ngoài tòa nhà nơi mình ở, nhìn ra dải đất trống. Không thấy bóng dáng con bé đâu, đang định quay vào thì tôi bỗng phát hiện có thứ gì đó di chuyển dọc bờ sông. Chắc con bé chỉ vừa mới đứng lên, vì giờ tôi có thể thấy rõ bóng dáng bé bỏng của nó bên kia khoảng đất đầy bùn. Thoạt đầu, một cảm giác hối thúc dâng lên trong lòng, khiến tôi những muốn quên hết chuyện này đi để quay về làm việc nhà. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn tiến về phía con bé, cẩn thận tránh những rãnh nước tù. Theo những gì tôi nhớ thì đó là lần đầu tiên tôi nói chuyện với Mariko. Cách hành xử của nó vào buổi sáng hôm ấy chắc cũng không có gì quá bất thường, vì thực ra tôi cũng chỉ là một người lạ mặt. Nó hoàn toàn có quyền ngờ vực tôi. Và nếu quả là tôi có cảm giác bất an lạ lùng nào đó vào hôm ấy, thì có lẽ cũng chỉ là phản ứng bình thường trước thái độ của Mariko. Sau mùa mưa vài tuần trước, nước sông sáng hôm ấy vẫn khá cao và chảy xiết. Bờ đất dốc thẳng xuống mặt nước, bùn ở chân dốc nơi con bé đang đứng trông sũng nước hơn hẳn. Mariko mặc một chiếc váy bông đơn giản, dài tới gối, mái tóc cắt ngắn khiến nó có vẻ giống con trai. Không cười, nó ngẩng lên nhìn tôi đang đứng trên đỉnh con dốc bùn. “Chào cháu,” tôi nói, “cô vừa nói chuyện với mẹ cháu xong. Cháu là Mariko phải không?” Cô bé tiếp tục nhìn tôi không chớp mắt, chẳng nói một lời. Vệt trên má khi nãy tôi tưởng là máu, giờ hóa ra chỉ là một vết bùn. “Giờ này lẽ ra cháu phải ở trường chứ, đúng không?” tôi hỏi. Nó im lặng một lát. Rồi lên tiếng: “Cháu không đi học.” “Nhưng trẻ em là phải đi học. Cháu không thích đi học à?” “Cháu không đi học.” “Nhưng mẹ cháu không gửi cháu tới trường nào ở đây sao?” Mariko không đáp. Thay vào đó, nó lùi lại một bước. “Cẩn thận đấy,” tôi nói. “Không là cháu sẽ ngã xuống nước mất. Trơn lắm đấy.” Nó tiếp tục đứng dưới chân dốc nhìn lên chỗ tôi đứng. Tôi thấy đôi giày nhỏ xíu của nó nằm ngay cạnh. Cả giày và đôi chân trần của nó đều lấm lem bùn. “Cô vừa nói chuyện với mẹ cháu,” tôi nói, mỉm cười mong nó yên tâm. “Mẹ cháu nói sẽ rất vui nếu cháu lên nhà cô chờ mẹ về. Nhà cô đằng kia kìa, ở khu tập thể ấy. Cháu có thể lên nhà với cồ, ăn thử bánh cô làm hôm qua. Cháu có thích không, Mariko? Rồi cháu có thể kể chuyện của cháu cho cô nghe nữa.” Mariko vẫn nhìn tôi đầy cảnh giác. Rồi không rời mắt khỏi tôi, nó cúi xuống nhặt giày. Lúc đầu, tôi cứ tưởng điều đó có nghĩa nó chuẩn bị đi theo mình. Nhưng khi thấy nó vẫn tiếp tục nhìn mình, tôi mới hiểu ra nó nhặt giày lên là để sẵn sàng bỏ chạy nếu cần. “Cô không làm hại cháu đâu,” tôi nói rồi cười một cách căng thẳng. “Cô là bạn của mẹ cháu mà.” Theo những gì tôi nhớ, hai chúng tôi chỉ nói với nhau có thế vào buổi sáng hôm ấy. Không muốn làm con bé hoảng sợ thêm nên chỉ một lúc sau, tôi đã quay người, vượt qua bãi đất trống về nhà. Quả thực, phản ứng của con bé có phần khiến tôi phật ý; vì trong khoảng thời gian ấy, những điều tuy nhỏ nhặt vậy thôi nhưng lại khơi dậy trong tôi biết bao nỗi e sợ về bổn phận làm mẹ. Tôi tự nhủ chuyện vừa xảy ra chẳng có gì to tát và dù sao chăng nữa, trong những ngày tiếp theo, thế nào cũng có thêm nhiều cơ hội để tôi kết bạn với nó. Nhưng hóa ra, phải đến một buổi chiều khoảng hai tuần sau đó, tôi mới lại nói chuyện với Mariko. ⁎ ⁎ ⁎ Trước chiều hôm ấy, tôi chưa bao giờ đặt chân vào bên trong ngôi nhà nhỏ và đã khá ngạc nhiên khi được Sachiko mòi vào. Trên thực tế, tôi đã lập tức nhận ra cô mời mình là có mục đích gì đó. Quả đúng như vậy, tôi không nhầm. Căn nhà rất gọn gàng, nhưng tôi vẫn nhớ nó tỏa ra một vẻ tồi tàn ảm đạm; xà nhà bằng gỗ trên trần nhìn cũ kỹ và thiếu an toàn, chỗ nào trong nhà cũng phảng phất một mùi ẩm thấp. Cửa trượt ở mặt trước ngôi nhà đã được mở tung cho ánh sáng mặt trời tràn qua hiên vào trong. Mặc dầu thế, phần lớn ngôi nhà vẫn chìm trong bóng tối. Mariko đang nằm ở góc nhà cách xa nguồn sáng mặt trời nhất. Dù rất tối, tôi vẫn thấy có gì đó đang cựa quậy cạnh nó. Lại gần, tôi nhận ra đó là một con mèo lớn đang cuộn tròn trên mặt sàn tatami. “Xin chào, Mariko,” tôi nói. “Cháu có nhớ cô không?” Nó ngừng vuốt ve con mèo và ngước lên. “Cô cháu mình gặp nhau hôm nọ,” tôi nói tiếp. “Cháu không nhớ sao? Ở bờ sông ấy.” Con bé không có vẻ gì đã nhận ra tôi. Nó nhìn tôi một lúc, sau đó lại bắt đầu vuốt ve con mèo. Sau lưng mình, tôi nghe tiếng Sachiko đang pha trà trên bếp đặt ở giữa phòng. Đang định lại chỗ cô thì đột nhiên Mariko lên tiếng, “Nó sắp đẻ rồi.” “Thật sao? thế thì thích thật.” “Cô có muốn một con mèo con không?” “Cháu thật tốt, Mariko. Để cô xem thế nào đã nhé. Nhưng cô tin chắc thế nào lũ mèo con cũng tìm được một mái nhà tử tế.” “Sao cô không lấy một con mèo con?” cô bé hỏi. “Cô kia bảo sẽ lấy một con.” “Để cô nghĩ đã nhé, Mariko. Cô nào cơ?” “Cô bên kia sông. Cô ấy bảo sẽ lấy một con.” “Nhưng cô không nghĩ có ai sống ở bên kia sông, Mariko. Bên ấy chỉ toàn cây cối với rừng thôi mà.” “Cô ấy nói sẽ dẫn cháu đến nhà cô ấy. Cô ấy sống bên kia sông. Cháu không đi theo cô ấy.” Tôi nhìn cô bé trong giây lát. Rồi chợt nghĩ ra, tôi cười phá lên. “Nhưng đó chính là cô mà, Mariko. Cháu không nhớ sao? Cô bảo cháu lên nhà cô chờ mẹ cháu từ thành phố về mà.” Mariko lại ngẩng lên nhìn tôi. “Không phải cô,” nó nói. “Mà là cô kia. Cô ấy sống bên kia sông cơ. Tối hôm qua cô ấy đến đây. Khi mẹ cháu đi vắng.” “Tối hôm qua? Khi mẹ cháu đi vắng?” “Cô ấy nói sẽ dẫn cháu sang nhà cô ấy, nhưng cháu không chịu. Vì lúc ấy trời đã tối. Cô ấy nói thế thì cầm đèn theo” - con bé đưa tay chỉ chiếc đèn xách tay treo trên tường - “nhưng cháu không đi theo cô ấy. Vì lúc ấy trời đã tối.” Phía sau tôi, Sachiko đã đứng dậy và đang nhìn con gái. Mariko trở nên im lặng, sau đó ngoảnh đi và tiếp tục vuốt ve con mèo. “Ra ngoài hiên đi,” Sachiko nói với tôi, tay bê khay trà. “Ngoài ấy mát hơn.” Hai chúng tôi làm theo lời cô, để Mariko lại một mình ở góc nhà của nó. Từ ngoài hiên, tuy không thể nhìn thấy dòng sông, nhưng tôi vẫn thấy rõ nơi triền đất dốc xuống và lớp bùn càng gần mặt nước trông càng ẩm ướt hơn hẳn. Sachiko ngồi lên một tấm đệm và bắt đầu rót trà. “Ở đây nhan nhản mèo hoang,” cô nói. “Chị không thấy lạc quan cho lắm về tương lai của lũ mèo con này đâu.” “Đúng thế, có quá nhiều mèo hoang,” tôi đáp. “Thật đáng thương. Mariko tìm thấy con mèo mẹ ở đây hả chị?” “Không, mẹ con chị mang nó theo. Nếu là chị thì chị đã bỏ nó lại rồi, nhưng Mariko nhất quyết không chịu nghe lời.” “Chị đưa nó về đây từ tận Tokyo sao?” “Không. Chị với con bé đã sống gần một năm trời ở Nagasaki mà. Ở phía bên kia thành phố.” “Ôi vậy sao? Em không biết đấy. Chị sống ở đó cùng… cùng bạn à?” Sachiko ngừng rót trà và nhìn tôi, hai tay ôm ấm trà. Tôi thấy trong ánh nhìn của cô biểu cảm thích thú từng toát ra khi cô quan sát tôi vào lần gặp trước. “Chị e là em nhầm rồi, Etsuko ạ,” cuối cùng cô cũng lên tiếng. Rồi lại tiếp tục rót trà. “Chị sống ở nhà bác trai chị.” “Chị yên tâm, em chỉ…” “Ừ, tất nhiên rồi. Thế nên không việc gì phải ngại ngùng, đúng không?” Cô cười to rồi đưa tôi một chén trà. “Chị xin lỗi, Etsuko ạ, chị không định đùa em. Sự thật là, chị có việc này muốn hỏi em. Muốn nhờ vả em một chút.” Sachiko bắt đầu rót trà cho chính mình, và khi làm việc đó, dường như thái độ cô trở nên nghiêm túc hơn trước. Rồi cô đặt ấm trà xuống, nhìn tôi. “Em thấy đấy, Etsuko, một vài dự tính của chị không tiến triển như đã định. Vì thế nên hiện tại chị cần tiền. Không nhiều lắm, em hiểu không. Chỉ cần một chút.” “Em hiểu,” tôi nói, hạ thấp giọng. “Chắc chị rất vất vả khi phải lo cho Mariko.” “Etsuko này, chị nhờ em việc này được không?” Tôi cúi người. “Em có chút tiền tiết kiệm,” tôi nói, gần như thì thầm. “Em sẽ rất vui nếu giúp được chị phần nào.” Tôi rất ngạc nhiên khi Sachiko cười to. “Em tốt quá,” cô nói. “Nhưng thực ra, chị không muốn mượn tiền của em. Chị đang nghĩ đến việc khác. Hôm nọ em có nhắc tới một việc. Em có một người bạn có quán mì.” “Ý chị là bác Fujiwara?” “Em bảo chị hình như bác ấy đang cần người giúp việc. Một công việc nhỏ như vậy sẽ giúp được chị rất nhiều.” “À,” tôi đáp, hơi do dự. “Nếu chị muốn, em sẽ hỏi giúp.” “Thế thì tuyệt lắm.” Sachiko nhìn tôi trong giây lát. “Nhưng hình như em hơi lưỡng lự về chuyện đó, đúng không Etsuko?” “Hoàn toàn không. Bao giờ gặp bác ấy, em sẽ hỏi giúp chị. Nhưng em chỉ băn khoăn” - tôi lại hạ giọng - “ai sẽ trông con gái chị vào ban ngày?” “Mariko hả? Nó có thể giúp chị ở quán mì. Nó cũng khá được việc đấy.” “Em tin thế. Nhưng như chị thấy đấy, em không biết chắc bác Fujiwara sẽ nghĩ thế nào. Dù sao thì ban ngày Mariko nên tới trường mới phải.” “Chị đảm bảo với em, Etsuko ạ, Mariko sẽ không gây ra một phiền toái nào, dù chỉ là nhỏ nhất. hơn nữa, tuần sau là hết năm học rồi. Chị sẽ đảm bảo nó không làm vướng chân ai. Em có thể yên tâm về điều đó.” Tôi lại cúi người. “Em sẽ hỏi khi gặp bác ấy.” “Chị rất cảm ơn em.” Sachiko nhấp một ngụm trà. “Thực ra, chị muốn nhờ em hỏi bác ấy ngay trong vài hôm tới.” “Em sẽ cố.” “Em thật tốt.” Chúng tôi ngồi im một lát. Nãy giờ, tôi vẫn mải chú ý đến ấm trà của Sachiko; nhìn có vẻ là một sản phẩm cao cấp làm từ sứ trắng. Cả chén trà tôi đang cầm trong tay cũng được làm từ cùng một thứ vật liệu tinh tế ấy. Lúc này khi đang ngồi uống trà cùng nhau, đây không phải lần đầu tiên tôi sửng sốt về sự tương phản kỳ cục giữa bộ ấm chén với vẻ tồi tàn của ngôi nhà cùng mặt đất lầy lội đầy bùn dưới hiên. Khi ngẩng lên, tôi nhận ra Sachiko đang quan sát mình. “Chị quen dùng đồ sứ chất lượng cao rồi, Etsuko ạ,” cô nói. “Em biết đấy, cuộc sống của chị không phải lúc nào cũng giống…” - cô khoát tay về phía ngôi nhà - “thế này. Tất nhiên là chị không ngại một chút bất tiện. Nhưng có một số thứ chị vẫn không thể xuê xoa cho được.” Tôi cúi đầu, không nói gì. Cả Sachiko cũng bắt đầu ngắm nghía chén trà của mình. Cô tiếp tục xem xét, cẩn thận xoay nó trong tay. Rồi cô đột nhiên nói, “Chị nghĩ nói mình lấy trộm bộ ấm chén này cũng chẳng sai. Cơ mà, chắc bác chị cũng không quá nhớ nhưng bộ ấm chén này đâu.” Tôi nhìn cô, hơi ngạc nhiên. Sachiko đặt chén trà xuống trước mặt, phẩy tay xua ruồi. “Có phải chị nói chị sống ở nhà bác chị?” tôi hỏi. Cô chậm rãi gật đầu. “Một ngôi nhà xinh đẹp vô cùng. Với ao cá trong vườn. Khác xa với quang cảnh xung quanh đây.” Trong giây lát, cả hai chúng tôi cùng đưa mắt nhìn vào trong. Mariko vẫn nằm nguyên ở góc nhà từ khi chứng tôi ra ngoài, xoay lưng về phía chúng tôi. Dường như nó đang thì thào nói chuyện với con mèo. Chúng tôi lại ngồi im lặng một lúc lâu, rồi tôi lên tiếng. “Em không biết có người sống bên kia sông.” Sachiko quay ra nhìn những rặng cây ở bờ bên kia. “Không, chị cũng chưa bao giờ thấy ai bên ấy.” “Nhưng cô trông trẻ của chị. Mariko lúc nãy bảo cô ấy đến từ bên kia sông.” “Chị làm gì có người trông trẻ, Etsuko. Ở đây chị không quen ai.” “Mariko có nói về một người phụ nữ nào đó…” “Em đừng để ý đến nó.” “Ý chị là nó bịa ra sao?” Hình như Sachiko thoáng cân nhắc gì đó. Rồi cô nói, “Đúng, nó chỉ bịa chuyện ra thôi mà.” “Vâng, em đoán trẻ con thường hay làm thế.” Sachiko gật đầu, “Khi nào làm mẹ, Etsuko ạ,” cô mỉm cười nói, “em sẽ phải quen dần với những chuyện như thế.” Sau đó, chúng tôi chuyển sang các chủ đề khác. Dạo ấy là thời kỳ đầu trong tình bạn của chúng tôi và chúng tôi chủ yếu chỉ nói về những chuyện vặt vãnh. Phải đến một buổi sáng vài tuần sau đó, tôi mới nghe Mariko nhắc lại về người phụ nữ đã tìm đến nó. Mời bạn đón đọc Cảnh Đồi Mờ Xám của tác giả Kazuo Ishiguro & Lan Young (dịch).
21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21
Sau khi tìm hiểu quá khứ và tương lai của nhân loại qua hai cuốn sách gây tiếng vang là Sapiens và Homo deus, Yuval Noah Harari đi sâu vào các vấn đề “ngay tại đây” và “ngay lúc này”, tức các sự kiện hiện tại và tương lai gần nhất của xã hội loài người. Những triển vọng đầy hứa hẹn của công nghệ sẽ được đưa ra bàn luận bên cạnh những hiểm họa như “đứt gãy” do công nghệ gây ra, việc kiểm soát thế giới bên trong dẫn tới sự sụp đổ của hệ thần kinh hay “tự do trong khuôn khổ”. Chính trị và tôn giáo có còn bắt tay nhau như trong quá khứ hay sẽ thao túng con người theo những cách riêng rẽ, mới mẻ hơn? Và những vấn đề toàn cầu ấy liên quan mật thiết tới hành vi và đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ như thế nào? Xét cho cùng, những thách thức lớn nhất và những lựa chọn quan trọng nhất của ngày nay là gì? Ta cần chú ý đến điều gì? Ta nên dạy con cái ta những gì? “Cuộc khủng hoảng sinh thái đang lấp ló, mối đe dọa của các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt [...] và sự trỗi dậy của các công nghệ đột phá mới” là những nỗi lo không của riêng ai; và Harari sẽ đồng hành cùng bạn trên con đường bóc tách từng vấn đề một cách thấu đáo. *** Khác với nội dung hai tác phẩm nổi tiếng được bạn đọc săn tìm vừa qua là Sapiens lược sử về loài người và Homo Deus lược sử tương lai, lần này là một quyển sách đề cập trực diện những vấn đề có tính toàn cầu nhưng rất sát sườn với số đông người đọc. 21 bài học cho thế kỷ 21 là phần việc như chính tác giả bộc bạch: "Tôi muốn xoáy ống kính vào vấn đề "ngay tại đây" và "ngay lúc này". Tiêu điểm của tôi đặt ở các sự kiện hiện tại và tương lai gần nhất của xã hội loài người. Điều gì đang xảy ra ngay lúc này? Những thách thức lớn nhất và những lựa chọn quan trọng nhất của ngày nay là gì? Ta cần chú ý đến điều gì? Ta nên dạy con cái ta những gì?". Sự sát hợp của quyển sách này còn ở chỗ: bản thảo được bắt đầu từ những thắc mắc của độc giả và các đồng nghiệp mà tác giả có điều kiện ghi nhận được. Nhưng điều đặc biệt quan trọng chính là khả năng của tác giả trong nhìn nhận bao quát vấn đề và trình bày trong phương pháp biện giải nhân quả, cùng với phân tích định lượng các biến cố xã hội đang xảy ra. Có thể hình dung công chúng đang nhìn thấy cây, còn Noah Harari chỉ ra đây là một khu rừng loại gì, đang ở đâu trên bản đồ toàn cầu, nó vừa bị cơn bão nào tràn qua và sắp sửa có những cơn lũ nào quét tới. Quan trọng hơn nữa, Harari không đơn thuần chỉ ra một cách xác đáng những vấn đề mà nhiều người còn chưa tường tận, vị giáo sư năm nay ở tuổi 43 còn đề xuất các hướng tiếp cận chuyên biệt để cải thiện tình hình. Đơn cử một phát biểu của Harari về chủ nghĩa khủng bố: "Chủ nghĩa khủng bố vừa là một vấn đề chính trị toàn cầu vừa là một cơ chế tâm lý học nội tại. Chủ nghĩa khủng bố hoạt động bằng cách nhấn một cái nút sợ hãi thẳm sâu trong tâm trí ta và cướp đi những tưởng tượng riêng tư của hàng triệu người". Với cách hiểu như vậy, có lẽ phải cần một ít thời gian nữa, để những ai ngày ngày theo dõi tin tức qua tivi và cả những nhà làm chính sách của các quốc gia "đàn anh thế giới" đang thương lượng các khoản ngân sách để chi cho công cuộc chống khủng bố có thể đồng cảm và nhìn thấy từ đó một hướng ra bền vững hơn. Trở lại với 21 bài học cho thế kỷ 21, ở đây công chúng sẽ được dịp nghe đề cập hàng loạt câu chuyện tối quan trọng đang diễn ra, đang song hành với con người và còn có nguy cơ tiếp diễn trong tương lai. Trong ngồn ngộn dữ kiện và chằng chịt các mối quan hệ, bạn đọc vẫn tìm được cảm giác thích thú và bị hấp dẫn do lẽ tác giả đã rất tài tình trong sử dụng ngôn ngữ diễn đạt: trong sáng, logic và cả dí dỏm hồn nhiên. Cho nên những vấn đề to tát được trình thuật một cách rất giản dị, "sự nổi lên của Donald Trump nói lên điều gì? Ta có thể làm gì với vấn nạn "tin giả"? Tại sao nền dân chủ tự do lại lâm vào khủng hoảng? Chúa đã trở lại rồi chăng? Một cuộc thế chiến mới đang đến? Nền văn minh nào thống trị thế giới: Phương Tây, Trung Quốc hay Hồi giáo? Châu Âu có nên mở cửa cho người nhập cư? Chủ nghĩa dân tộc có giải quyết đươc các vấn đề bất bình đẳng và biến đổi khí hậu không? Ta nên làm gì với chủ nghĩa khủng bố". Nhưng có những dự liệu của Harari có thể khiến người đọc rùng mình: "Các thuật toán Big Data có thể tạo ra những "nền độc tài số", mọi quyền lực tập trung trong tay một nhóm tinh hoa cực nhỏ trong khi hầu hết những người khác phải gánh chịu, không phải sự bóc lột mà là một thứ tồi tệ hơn: sự vô dụng". Và như thế, những trang viết của Harari có thể cùng cư dân toàn cầu mở rộng vấn đề đến vô lượng vô biên... *** Bạn đọc Việt Nam đã biết đến cây viết thể loại lịch sử-triết học Yuval Noah Harari qua hai tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt của ông là Sapiens và Homo Deus. Lần này chúng tôi xin giới thiệu tiếp cuốn thứ ba có tựa đề: 21 bài học cho thế kỷ 21. Trong cuốn sách này, tác giả xuất phát từ góc nhìn của một nhà tương lai học để hình dung ra thế giới hiện đại trong kỷ nguyên số sẽ vận hành ra sao. Từ đó, ông nêu ra các giả thiết về sự tác động to lớn của kỷ nguyên số tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người, cũng như các quan niệm truyền thống về tự do, hy sinh, dân tộc, tôn giáo, v.v. Cũng giống như Newton đã thắc mắc khi nhìn thấy quả táo rơi xuống đất - mà người bình thường khác thì không để ý – để từ đó làm tiền đề cho sự phát hiện ra định luật hấp dẫn, tác giả Yuval Noah Harari luôn “lật ngược lại vấn đề” để có một cái nhìn “trái chiều”, khác lạ với cách nhìn quen thuộc từ xưa đến nay. Chính điều này làm cho nội dung cuốn sách trở nên cuốn hút người đọc. Tuy nhiên, tác giả cũng thừa nhận mình là người đa nghi và không muốn mọi người có ấn tượng sai lầm rằng cái gì có tác dụng với ông thì cũng sẽ có tác dụng với tất cả mọi người, bởi lẽ các cá nhân không ai giống ai, cả về cấu tạo cơ thể, hệ thần kinh lẫn duyên nghiệp, v.v. ông cũng không ngần ngại tuyên bố là độc giả cũng nên biết cặp kính ông dùng “để nhìn thế giới, từ đó bóp méo tầm nhìn cũng như những viết lách của tôi, có màu gì” và ông cũng sẵn sàng đặt mình vào “tầm ngắm” để độc giả phán xét. Do vậy, độc giả hãy đọc cuốn sách với tinh thần phản biện vì không phải tất cả các luận thuyết của tác giả đều đã, hay sẽ là đúng đắn, là chân lý, là khách quan. Cấc triết gia cứ việc luận bàn, còn thế giới sẽ vận hành theo quy luật riêng của nó! Nhà xuất bản Thế giới *** Xin chào ACE, tôi thực hiện cuốn sách này chủ yếu do sở thích. Thế nên tôi không cần phải động viên hay phải có một lợi ích nào cả. Ở Việt Nam tôi thấy tri thức, sách vở đúng giờ là thoải mái nhất, chỉ cần lên mạng và tải là có. Người làm sách thì có hẳn một cộng đồng, nhưng chả ai cần donate hay phải trả giá mới làm cả. Có người còn mua sách rồi xé ra làm. Riêng cá nhân tôi chỉ làm những sách mình cảm thấy hứng thú, và cũng không muốn OCR sách mới cho lắm. Nhưng với cuốn này nó hợp với tôi, cho nên tôi đã quyết định OCR lại và làm một mình, vì một số lần trước cũng muốn thắp lên phong trào làm sách cho group mà tôi đang tham gia. Nhưng có vẻ như là một trò đùa thôi. Dù sao, việc làm nó có ý nghĩa với riêng bản thân tôi, nên chả sao cả. Tôi sẽ làm vì bản thân, và chia sẻ cho những người cần đến. Và tôi có một mục tiêu mà muốn đạt đến là làm 100 cuốn sách song ngữ A-V, về nhiều thể loại khác nhau. Để cho nếu như có người thích học TA bằng cách này luôn tìm được một số cuốn nào đó hợp với sở thích để tìm đọc. Nhưng mục tiêu này là rất xa khi mới đến cuốn thứ 7. Thế nên để chờ đến sách mà bạn cần, khi 7 cuốn này không có cuốn nào bạn thích thì sẽ rất lâu. Các bạn chỉ có thể dùng tạm mà thôi. Rất cảm ơn ý tưởng của các bạn trên group, đã giúp tôi có được cách làm dạng sách này. Tôi không phải người nghĩ đến đầu tiên, nhưng hiện nay là người tìm ra giải pháp để biến nó thành hiện thực và người duy nhất làm ra loại sách như thế này. Về cách làm thì tôi đã chia sẻ rồi, mong là có một ai đó cùng làm với một ý thức tốt để cho ra cùng dòng sách có chất lượng tốt. Tôi tự tin là để bằng được tôi cũng phải đầu tư công sức lớn đấy. Dù sao, có người làm thì mục tiêu 100 chỉ là con số nhỏ. Lời cuối, vì sách mới nên sau 2 năm tôi mới tung ra bản ebook sách tiếng Việt. Các bạn có thể đọc thuần Việt bằng cách đọc trong note. Với mục đích tôn trọng NXB và tác giả. Muốn cái gì tồn tại thì đều cần có tiền, mà sách mới ra đã chia sẻ tràn lan thì sách mới sẽ không thể có nữa. Thế nên tôi đã làm cho các bạn không làm lại được bản TV từ bản SN này hoặc phải tốn công nhiều mới làm lại được. Tháng 12, năm 2019 Lamtaxy Mời bạn đón đọc 21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21 của tác giả Yuval Noah Harari.