Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thất Giác Chi (Satta Bojjhanga)

Lời Mở Đầu

Kinh điển Phật Giáo, gồm ba tạng, luôn luôn nhắc đến những yếu tố của sự giác ngộ mà Ðức

Thế Tôn đã nhiều lần giảng giải, trong nhiều trường hợp khác nhà Trong bộ Tăng Nhứt A-Hàm (Samyutta Nikaya, Maha Vagga) có một phần đề tựa là Bojjhanga Samyutta ghi lại những bài thuyết giảng của Ðức Phật về những Giác Chi (Bojjhanga). Phần này có ba bài Kinh mà từ thời Ðức Phật người Phật tử thường được tụng như một loại kinh để bảo vệ (paritta hay pirit) chống lại sự đau khổ, bịnh hoạn, hay một bất hạnh nào của đời sống.

Danh từ Bojjhanga bao gồm hai phần: bodhi và anga. Bodhi bao hàm ý chứng ngộ, hay nói một cách chính xác, là sự hiểu biết sâu sắc liên quan đến sự chứng ngộ Tứ Diệu Ðế, bốn Chơn Lý Cao Quý, tức là Chơn Lý Cao Quý về sự khổ, Chơn Lý Cao Quý về nguồn gốc của sự khổ, Chơn Lý Cao Quý về sự chấm dứt khổ, và Chơn Lý Cao Quý về con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ.

Anga có nghĩa là yếu tố, hay tay chơn (chi). Do đó, Bodhi + anga (bojjhanga) là những yếu tố của sự giác ngộ, hay những yếu tố của tuệ minh sát, hay của trí tuệ. Danh từ nầy thường được dịch là Thất Giác Chi. Tìm mua: Thất Giác Chi TiKi Lazada Shopee

"Bojjhanga! Bojjhanga! Bạch hóa Ðức Thế Tôn, xin Ngài từ bi chỉ dạy, lời dạy nầy có thể được áp dụng đến mức nàỏ" Một thầy tỳ-khưu bạch hỏi Ðức Phật như vậỵ

"Bhodaya samvattantiti kho bhikkhu tasma bhojjhanga ti vuccanti".

"Nó dẫn đến giác ngộ, nầy tỳ-khưu, vì lẽ ấy nó được gọi như thế".

Ðó là lời giải đáp vắn tắt của Ðức Bổn Sư ( trong Samyutta Nikaya). Ở một đoạn khác Ðức Phật dạy:

"Nầy chư Tỳ-khưu, cùng trong một cái nhà nóc nhọn, tất cả những cây kèo đều đâm vào góc nhọn, đều nghiêng về góc nhọn, đều châu đầu vào góc nhọn, và trong tất cả sườn nhà, cái góc nhọn được xem là điểm chánh. Cùng thế ấy, nầy chư Tỳ-khưu, thầy tỳ-khưu trau dồi và chuyên cần phát triển bảy yếu tố của trí tuệ cũng thiên về Niết-Bàn, nghiêng về Niết-Bàn, hướng về Niết-Bàn như vậy".

Bảy yếu tố ấy là:

1. Niệm (Sati)

2. Trạch Pháp (Dhammavicaya)

3. Tấn (Viriya)

4. Hỉ (Piti)

5. An (Passadhi)

6. Ðịnh (Samadhi)

7. Xả (Upekkha)

Ở đây xin ghi lại một trong những bài Kinh về Thất Giác Chi (Bojjhanga). Bài nầy bắt đầu như sau:

"...Ta có nghe như vầy: Một thủa nọ, Ðức Thế Tôn ngự trong thành Vương Xá (Rajagaha), tại Trúc Lâm (Veluvanna), chỗ nuôi sóc. Lúc ấy Ðức Ðại Maha Kassapa lâm bịnh, Ngài lâm trọng bịnh.

Vào lúc hoàng hôn Ðức Phật rời khỏi trạng thái vắng lặng của Ngài, đến thăm Ðại Ðức Maha Kassapa (Ma-ha Ca-diếp), ngồi lại, và ngõ những lời trí tuệ sau đây:

"Nầy Kassapa, hôm nay con đau thế nào? Con có nghe đau đớn quá lắm hay không? Con chịu nổi không? Sự đau đớn có thuyên giảm không, hay vẫn đang tăng thêm? Có dấu hiệu nào cho thấy bớt không, hay vẫn thêm?

-- Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, con rất đau đớn. Con không thể nào chịu nổi. Thật là đau đớn vô cùng. Không có dấu hiệu nào thuyên giảm mà càng lúc càng đau thêm.

-- Nầy Kassapa, bảy yếu tố của sự giác ngộ ấy mà Như Lai đã giảng giải tường tận, Như Lai đã trau dồi và phát triển đầy đủ, và khi đã được trau dồi và phát triển đầy đủ, bảy giác chi này đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. Bảy yếu tố ấy là gì?

1. Niệm. Nầy Kassapa, pháp nầy Như Lai đã giảng giải tận tường, đã trau dồi và đã phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ, tâm niệm đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn.

2. Trạch Pháp...

3. Tinh Tấn...

4. Hỉ...

5. An...

6. Ðịnh...

7. Xả. Nầy Kassapa, pháp nầy Như Lai đã giảng giải tận tường, đã trau dồi và đã phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ, tâm niệm đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn.

Bảy giác chi nầy, quả thật vậy, nầy Kassapa, Như Lai đã giảng giải tận tường. Như Lai đã trau dồi và phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ thất giác chi nầy đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn.

-- Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, quả thật vậy, bảy yếu tố ấy là Thất Giác Chi! Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, quả thật vậy, đó là Bảy Yếu Tố Giác Ngộ!"

Ðó là những lời của Ðức Phật và tiếp theo là lời của Ðại Ðức Maha Kassapa đón mừng tiếp nhận những lời vàng ngọc của Ðức Thế Tôn. Liền sau đó Ðại Ðức Maha Kassapa hết bịnh. Lúc bấy giờ bịnh tình của Ðại Ðức Maha Kassapa liền tan biến". (Samyutta Nikaya V, trang 79)

Bài Maha Cunda Bojjhanga Sutta, một trong ba bài kinh đã được nhắc đến ở phần trên, ghi rằng một lần nọ chính Ðức Phật lâm bịnh và Ðại Ðức Maha Cunda đọc Kinh Bojjhanga, Thất Giác Chi. Sau đó bịnh tình của Ðức Phật liền tan biến. (Samyutta Nikaya V, trang 81).

Tâm của con người ảnh hưởng đến thân một cách rất sâu xa và vô cùng kỳ diệu. Nếu ta để tâm buông lung tác hành và duyên theo những tư tưởng ô nhiễm và tồi tệ tâm có thể gây nên tai hại không thể lường được, đến mức độ có thể giết chết một chúng sanh. Tuy nhiên, tâm cũng có thể chữa khỏi một chứng bịnh của thể xác. Nếu ta gom tâm mạnh mẽ vào những tư tưởng chơn chánh, với sự hiểu biết chơn chánh, thì thành quả mà tâm có thể đạt đến thật vô cùng rộng lớn và sâu xa "Tâm không những gây bịnh mà còn có thể chữa bịnh, một bịnh nhơn lạc quan có nhiều hy vọng được chữa trị dễ dàng hơn người luôn luôn lo âu và sầu muộn. Trong những trường hợp đã được ghi nhận, có nơi cho thấy đức tin cũng chữa được hầu như tức khắc những chứng bịnh thuộc cơ hữu" (Aldous Huxley - Ends and Means - London 1946. Trang 259).

Giáo Pháp của Ðức Phật - gọi là Phật Pháp - là những lời dạy sáng suốt, đầy trí tuệ. Những ai có nguyện vọng thành đạt sự giác ngộ, trước tiên nên hiểu rõ ràng những trở ngại đang chặn ngang con đường đưa đến giác ngộ.

Theo sự hiểu biết chơn chánh của Ðức Phật, đời sống là khổ. Và sự khổ nầy nương tựa trên vô minh (avijja). Vô minh là thọ cảm những gì không đang được thọ cảm, tức là điều bất thiện.

Lại nữa, Vô Minh là không nhận thức được bản chất cấu hợp của năm uẩn, là không nhận thức được những căn và những trần (giác quan và đối tượng của giác quan) và bản chất thật sự của chúng, là không nhận thức được tánh cách rỗng không và tương đối của tứ đại (đất, nước, lửa, gió), không nhận thức được bản chất trọng yếu của những khả năng kiểm soát giác quan (ngũ căn), không thể nhận thức tánh cách thực tiễn, không thể sai lầm, của Tứ Diệu Ðế. Và năm pháp triền cái, tức năm chướng ngại tinh thần, là chất dinh dưỡng cho (hay làm duyên tạo nên) cái vô minh ấy. Năm pháp được gọi là triền cái, hay chướng ngại, vì nó hoàn toàn đóng lại, cắt lìa, và chặn ngang. Năm pháp nầy gây trở ngại cho sự hiểu biết con đường giải thoát ra khỏi đau khổ. Ðó là tham dục (kamacchanda), oán ghét (vyapada), dã dượi hôn trầm (thinamiđha), phóng dật lo âu (uddhacca kukkucca), và hoài nghi (vicikicca).

Cái gì nuôi dưỡng năm triền cái nầy? Thân bất thiện nghiệp, khẩu bất thiện nghiệp, và ý bất thiện nghiệp (tini duccaritani) nuôi dưỡng năm pháp nầỵ Còn ba bất thiện nghiệp nầy lại được nuôi dưỡng bằng giác quan không thu thúc (indriya asamvaro). Không thu thúc và sân thâm nhập vào sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm.

Không thu thúc lục căn vì thiếu giác tỉnh, không niệm, không hay biết đầy đủ (asati asampajjanna). Theo đoạn kinh đề cập đến vấn đề dinh dưỡng; để đối tượng bị lôi cuốn đi mất, để sự hiểu biết về ba đặc tính của kiếp sinh tồn (vô thường, khổ, vô ngã) thoát ra khỏi tâm, lãng quên thực chất của sự vật, là lý do làm cho ta không thu thúc lục căn. Chính trong những lúc không nhận thức bản chất vô thường, khổ, vô ngã của sự vật ta tự buông lơi cho bao nhiêu loại tự do thân, khẩu mặc tình tạo bất thiện nghiệp và để cho trí tưởng tượng mặc tình trôi chảy theo dòng tư tưởng bất thiện. Thiếu hay biết đầy đủ là:

1. Thiếu sự hay biết đầy đủ về mục tiêu (sattha sampajjanna);

2. thiếu sự hay biết về tánh cách thích nghi (sappaya sampajjann);

3. thiếu sự hay biết về phương sách (gocara sampajjanna);

4. thiếu sự hay biết về tánh cách sáng suốt, không si mê (asammoha sampajjanna).

Khi ta làm việc gì mà không có mục tiêu chánh đáng, khi ta nhìn sự vật và có hành động không giúp tăng trưởng điều thiện, khi ta làm điều gì không thuận lợi cho sự cải thiện, khi ta quên Giáo Pháp (Dhamma) tức là quên phương sách chơn chánh mà ta đang cố gắng thành đạt, khi ta bám víu vào những vật một cách si mê, mà ta lầm tưởng là đáng được ưa thích, đẹp đẽ, trường tồn, hữu ngã, khi ta làm như vậy là ta nuôi dưỡng sự không thu thúc lục căn.

Nằm bên dưới lớp thiếu tâm niệm và thiếu sự hiểu biết đầy đủ, có sự suy tư không chơn chánh (ayoniso manasikara, chăm chú không chánh đáng). Kinh điển ghi rằng suy tư không chơn chánh là tư tưởng sai lầm, đi ra ngoài con đường chơn chánh, có nghĩ là xem cái vô thường là thường còn, cái khổ là vui thích, vô ngã là linh hồn trường cửu, thiện xem là bất thiện, cái xấu, trái lại, thấy là tốt. Cuộc lặn hụp kéo dài mãi mãi trong vòng luân hồi bắt nguồn từ suy tư không chơn chánh. Suy tư không chơn chánh càng gia tăng, lớp si mê càng gia tăng, và càng bám chặt hơn vào kiếp sinh tồn. Vô minh đã hiện hữu, toàn khối đau khổ do đó cũng phát sanh. Vậy, người suy tư nông cạn cũng tựa hồ như chiếc thuyền trôi giạt theo chiều gió, như đàn cừu bị cuốn trong giòng nước lũ, như bò mang ách, mãi mãi xuôi ngược trong vòng luân hồi.

Kinh sách cũng dạy rằng một niềm tin không trọn vẹn (assaddhiyam) nơi Phật, Pháp, Tăng là điều kiện phát triển suy tư không chơn chánh. Và không có niềm tin trọn vẹn vì không nghe Chơn Lý, Giáo Pháp (Dhamma). Cuối cùng không được nghe Chơn Lý vì không đến gần bậc thiện trí, không kết hợp với người tốt (asappurisa samsevo).

Rốt cùng, sự thiếu bạn lành (kalyana mittata) là lý do căn bản sanh ra những tệ hại trên thế gian. Và ngược lại, nền tảng và chất dinh dưỡng của điều tốt là tình bằng hữu trong sạch, kết bạn với người lành, người cho ta thức ăn làm bằng chất liệu của Giáo Pháp cao thượng, những gì tạo cho ta niềm tin nơi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng.

Khi ta có niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo ta sẽ có suy tư sâu xa và chơn chánh, có tâm niệm và sự hay biết đầy đủ, có thu thúc lục căn, có thân, khẩu, ý thiện nghiệp, có tứ niệm xứ, có bảy yếu tố của sự giác ngộ và có trí tuệ đưa đến giải thoát, tuần tự điều nầy kế tiếp điều kia.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thất Giác Chi PDF của tác giả Satta Bojjhanga nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Quản Lý Nghiệp (Geshe Michael Roach)
Nhân dịp này, chúng tôi gửi lời cám ơn tới rất nhiều thân hữu mà nỗ lực của họ đã giúp cuốn sách này được ra mắt. Người biên tập cho chúng tôi ở Doubleday, Trace Murphy, là người đã có lòng tin vào chúng tôi để cuốn sách kinh doanh đầu tiên của chúng tôi được xuất bản - Năng đoạn Kim cương nay đã được hàng triệu người trên khắp thế giới đọc; kết quả này chịu ơn rất nhiều từ sự khích lệ của ông. Jon Sheer để chúng tôi núp dưới đôi cánh của ông và hướng dẫn chúng tôi trong những bản hợp đồng và những thủ tục cuối cùng với lòng tử tế đầy nhẫn nại. Heather Gordon đã cẩn thận biên tập lại bản cuối cùng của cuốn sách và đưa ra rất nhiều đề nghị quý giá, Catherine Thrasher cũng vậy trong lần biên tập thứ hai. Sau đó Rebecca Vinacour và Grant Burn đã đưa ra thêm những ý kiến chuyên môn vào bản in thử cuối cùng, trong khi Rob Ruisinger đã phù phép một lần nữa trong việc thiết kế cuốn sách, đặc biệt với những minh hoạ rất khó. Lillas Marie Hatala đã giúp xem lại bản in thử. Steve Hiett đã giúp làm bìa và Robin Saidman đóng góp vào việc chụp ảnh. Muhammad Salam và Rob Hou đã làm việc vất vả để phát triển những khoá học và đoạn phim trực tuyến trên toàn thế giới trong khi Huang Jin của công ty truyền hình văn hoá Witway ở Thượng Hải đã là nguồn hỗ trợ và cảm hứng bất tận cho việc phổ biến cuốn sách và những việc khác của chúng tôi tại Châu Á.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Quản Lý Nghiệp PDF của tác giả Geshe Michael Roach nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Năng Đoạn Kim Cương (Geshe Michael Roach)
S uốt mười bảy năm từ 1981 đến 1998, tôi đã được hân hạnh làm việc với Ofer và Aya Azrielant, hai vị sở hữu chủ của Tập đoàn kim cương quốc tế Andin (Andin International Diamond Corporation) và với ban nhân sự cốt cán để thành lập một trong những xí nghiệp kim cương và kim hoàn lớn nhất thế giới. Doanh nghiệp khởi đầu với số tiền vay 50.000 Mỹ kim và chỉ với ba hay bốn nhân viên, kể cả tôi nữa. Vào lúc tôi rời bỏ để dành hết thì giờ cho Học viện đào tạo mà tôi sáng lập ở New York, doanh số bán của chúng tôi đã lên đến hơn 100 triệu đô la Mỹ mỗi năm, với hơn năm trăm nhân viên tại các văn phòng ở khắp thế giới. Suốt thời gian tôi làm doanh nghiệp Kim cương, tôi đã sống một cuộc sống đôi. Bảy năm trước khi vào ngành kinh doanh, tôi đã tốt nghiệp đại học Princeton với hạng danh dự và trước đó tôi đã vinh hạnh nhận được Huy chương Học tập của Tổng thống do Tổng thống Hoa Kỳ tặng và phần thưởng học bổng Mc Connell của Học viện Quốc tế vụ Woodrow Wilson của Princeton. Một tài trợ của Học viện này đã cho phép tôi sang châu á để học với các Lạt -ma Tây Tạng tại trú sở của Đức Đạt-lai Lạt-ma. Việc học hành của tôi về trí tuệ cổ xưa của Tây Tạng đã khởi đầu như thế và kết thúc vào năm 1995, khi tôi trở thành người Mỹ đầu tiên hoàn tất hai mươi năm học tập kiên trì và hoàn tất các kỳ sát hạch cần thiết để nhận được văn bằng Geshe hay Thạc sỹ Phật học. Tôi đã sống trong nhiều tu viện Phật giáo cả ở Hoa Kỳ lẫn châu á từ khi tôi tốt nghiệp Princeton và vào năm 1983, đã phát nguyện của người tu sĩ Phật giáo. Khi tôi đã đạt được một căn bản vững chắc trong việc đào tạo Tăng sĩ, vị thầy chính của tôi - Khen Rinpoche, hay "Quý Hoà thượng" khuyến khích tôi vào lĩnh vực kinh doanh. Ngài bảo tôi rằng dù tu viện là một nơi lý tưởng để học những tư tưởng lớn của Trí tuệ Phật giáo, một văn phòng nhộn nhịp của Mỹ cũng có thể cung cấp một "phòng thí nghiệm" toàn hảo để thực sự trắc nghiệm những lý tưởng này trong đời sống thực tế. Mới đầu tôi không chấp thuận lời khuyên ấy, ngại phải rời bỏ sự yên tĩnh của tu viện nhỏ của chúng tôi, và bối rối về hình ánh các nhà doanh nghiệp Mỹ vẫn ám ảnh tâm trí tôi: tham lam, tàn nhẫn, phóng dật. Nhưng một hôm, sau khi nghe được một buổi nói chuyện đầy cảm hứng của thầy tôi trước một số sinh viên đại học, tôi nói với ngài rằng tôi thuận theo lời ngài dạy sẽ tìm kiếm một công việc trong kinh doanh. Tìm mua: Năng Đoạn Kim Cương TiKi Lazada Shopee Vài năm trước, trong lúc thiền định hàng ngày tại tu viện, tôi đã có một cái gì đó về sự thấy và từ lúc ấy tôi biết tôi sẽ chọn doanh nghiệp nào để theo đuổi: chắc chắn tôi sẽ vào ngành kim cương. Tôi chẳng có kiến thức nào về các thứ đá quý này và quả tình chẳng có dính dự gì đến ngành kim hoàn; chẳng có ai trong gia đình tôi từng được vào ngành kinh doanh này. Cho nên, giống như anh chàng Candide ngây ngô, tôi bắt đầu tham quan một cửa hàng kim cương sau khi đã tham quan một cửa hàng khác, hỏi xem có ai chịu nhận tôi làm người tập sự không. Cố gắng vào việc kinh doanh kim cương theo cách này cũng gần như toan tính gia nhập tổ chức Mafia: việc mua bán kim cương thô thuộc một hội nhóm rất kín đáo và riêng biệt, thường chỉ giới hạn trong thành viên gia đình. Vào thời ấy, những người Bỉ kiểm soát các kim cương cỡ lớn -những viên một ca-ra hay hơn nữa; những người Israel cắt hầu hết những viên đá nhỏ; và những người Do Thái Hassid ở Quận Diamond của New York, đường Bốn mươi-bảy nắm giữ phần lớn việc mua bán sỉ trong nội địa Mỹ. Cần nhớ rằng toàn bộ số lượng kim cương của những cơ sở lớn nhất cũng chỉ có thể được chứa đựng trong một ít thùng chứa nhỏ y như những hộp đựng giày thông thường. Và không có cách gì để phát hiện một vụ trộm kim cương trị giá hàng triệu đô la: bạn chỉ cần bỏ vào túi một hay hai nắm kim cương rồi bước ra cửa không có thứ gì như máy dò kim loại có thể phát hiện ra các viên đá được. Cho nên hầu hết các xí nghiệp chỉ thuê con, cháu hay anh em họ chứ không bao giờ thuê một anh chàng Ireland cù bơ cù bất ưa chơi với kim cương. Tôi nhớ rằng tôi đã viếng chừng mười lăm cửa hàng để xin một chỗ quèn, rồi đều bị đuổi ra tức khắc. Một ông cụ sửa đồng hồ trong một thị trấn gần đó khuyên tôi nên theo một số khoá học về phân loại kim cương tại Học viện Đá quý Mỹ tại New York, tôi sẽ có nhiều cơ may hơn để có việc làm nếu tôi có được một văn bằng và nếu tôi gặp được ai đó trong lớp học có thể giúp đỡ tôi. Chính tại Học viện này, tôi gặp ông Ofer Azrielant. Ông cũng đang học một lớp về phân loại kim cương cao cấp, được gọi là đá "được xác nhận" hay "được cấp chứng chỉ". Việc phân biệt một viên kim cương "chứng chỉ" vô cùng giá trị với một viên đá giả mạo hay đã được xử lý bao gồm trong khả năng phát hiện ra được những lỗ li ti hay nhưng khuyết điểm khác, kích cỡ mũi kim, trong khi hàng chục hạt bụi bám trên mặt viên kim cương hoặc trên chính kính hiển vi, cứ nhiễu quanh và gây lẫn lộn lung tung. Cho nên cả hai chúng tôi đều ở đấy để học làm sao cho khỏi bị rạch túi. Tôi bị ấn tượng ngay bởi những câu Ofer hỏi thầy giáo, bởi cách ông xem xét và cật vấn từng khái niệm được trình bày. Tôi quyết định thử nhờ ông giúp tôi tìm một việc làm hoặc chính ông mướn tôi làm việc, và do đó mà làm quen với công việc. Vài tuần sau, vào ngày tôi hoàn tất các bài sát hạch cuối khoá về phân loại kim cương tại các phòng thí nghiệm của GIA ở New York tôi bịa ra lí do để vào văn phòng của ông và xin ông một chỗ làm. May mắn làm sao, đúng vào lúc ông ta đang mở một văn phòng chi nhánh tại Mỹ, trong khi ông ta đã lập được một xí nghiệp nhỏ ở Israel, quê hương của ông. Cho nên tôi bảo rằng tôi muốn làm việc ở Văn phòng ông và xin ông dạy tôi về kinh doanh kim cương: "Tôi sẽ làm bất cứ thứ gì ông cần, hãy cho tôi thử thách. Tôi sẽ dọn dẹp văn phòng, lau cửa sồ, làm bất cứ điều gì ông sai bảo". Và ông ta đáp: "Tôi không có tiền để mướn anh! Nhưng hãy yên tâm, tôi sẽ nói với người chủ của văn phòng này tên ông ta là Alex Rosenthal -và chúng tôi sẽ tính xem ông ta và tôi có thể chia nhau trả lương cho anh được không. Rồi thì anh sẽ lo các việc lặt vặt cho cả hai chúng tôi". Thế là tôi khởi sự với tư cách một anh giúp việc, thù lao bảy đô la một giờ, một người tốt nghiệp Princeton lê đôi chân suốt những mùa hè ẩm thấp và những cơn bão tuyết mùa đông của New York, lên tới quận Diamond, mang các túi vải bạt đựng đầy vàng và kim cương chờ được đúc và chế tạo thành nhẫn, vòng. Ofer, vợ ông là Aya, và một người thợ kim hoàn ít nói năng và rất giỏi người Yemen tên là Alex Gal sẽ ngồi quanh cái phòng việc lẻ được thuê, cùng với tôi phân loại kim cương theo từng hạng, phác họa những mẫu mới và đi chào hàng. Tiền lương ít ỏi, lại thường được trả chậm trong khi Ofer có vay mượn thêm ở các bạn bè của ông ở London, nhưng ít lâu sau tôi cũng đủ sắm cho mình một bộ y phục của các nhà doanh nghiệp mà tôi vẫn mặc mỗi ngày trong suốt nhiều tháng. Chúng tôi thường làm việc đến quá nửa đêm, và tôi phải đi bộ suốt một quãng dài về căn phòng nhỏ của tôi tại một tu viện nhỏ trong cộng đồng Phật giáo châu á ở Howell, New Jersey. Ngủ được vài giờ, tôi lại phải thức dậy và đáp xe buýt đi MahattanĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Năng Đoạn Kim Cương PDF của tác giả Geshe Michael Roach nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Năng Đoạn Kim Cương (Geshe Michael Roach)
S uốt mười bảy năm từ 1981 đến 1998, tôi đã được hân hạnh làm việc với Ofer và Aya Azrielant, hai vị sở hữu chủ của Tập đoàn kim cương quốc tế Andin (Andin International Diamond Corporation) và với ban nhân sự cốt cán để thành lập một trong những xí nghiệp kim cương và kim hoàn lớn nhất thế giới. Doanh nghiệp khởi đầu với số tiền vay 50.000 Mỹ kim và chỉ với ba hay bốn nhân viên, kể cả tôi nữa. Vào lúc tôi rời bỏ để dành hết thì giờ cho Học viện đào tạo mà tôi sáng lập ở New York, doanh số bán của chúng tôi đã lên đến hơn 100 triệu đô la Mỹ mỗi năm, với hơn năm trăm nhân viên tại các văn phòng ở khắp thế giới. Suốt thời gian tôi làm doanh nghiệp Kim cương, tôi đã sống một cuộc sống đôi. Bảy năm trước khi vào ngành kinh doanh, tôi đã tốt nghiệp đại học Princeton với hạng danh dự và trước đó tôi đã vinh hạnh nhận được Huy chương Học tập của Tổng thống do Tổng thống Hoa Kỳ tặng và phần thưởng học bổng Mc Connell của Học viện Quốc tế vụ Woodrow Wilson của Princeton. Một tài trợ của Học viện này đã cho phép tôi sang châu á để học với các Lạt -ma Tây Tạng tại trú sở của Đức Đạt-lai Lạt-ma. Việc học hành của tôi về trí tuệ cổ xưa của Tây Tạng đã khởi đầu như thế và kết thúc vào năm 1995, khi tôi trở thành người Mỹ đầu tiên hoàn tất hai mươi năm học tập kiên trì và hoàn tất các kỳ sát hạch cần thiết để nhận được văn bằng Geshe hay Thạc sỹ Phật học. Tôi đã sống trong nhiều tu viện Phật giáo cả ở Hoa Kỳ lẫn châu á từ khi tôi tốt nghiệp Princeton và vào năm 1983, đã phát nguyện của người tu sĩ Phật giáo. Khi tôi đã đạt được một căn bản vững chắc trong việc đào tạo Tăng sĩ, vị thầy chính của tôi - Khen Rinpoche, hay "Quý Hoà thượng" khuyến khích tôi vào lĩnh vực kinh doanh. Ngài bảo tôi rằng dù tu viện là một nơi lý tưởng để học những tư tưởng lớn của Trí tuệ Phật giáo, một văn phòng nhộn nhịp của Mỹ cũng có thể cung cấp một "phòng thí nghiệm" toàn hảo để thực sự trắc nghiệm những lý tưởng này trong đời sống thực tế. Mới đầu tôi không chấp thuận lời khuyên ấy, ngại phải rời bỏ sự yên tĩnh của tu viện nhỏ của chúng tôi, và bối rối về hình ánh các nhà doanh nghiệp Mỹ vẫn ám ảnh tâm trí tôi: tham lam, tàn nhẫn, phóng dật. Nhưng một hôm, sau khi nghe được một buổi nói chuyện đầy cảm hứng của thầy tôi trước một số sinh viên đại học, tôi nói với ngài rằng tôi thuận theo lời ngài dạy sẽ tìm kiếm một công việc trong kinh doanh. Tìm mua: Năng Đoạn Kim Cương TiKi Lazada Shopee Vài năm trước, trong lúc thiền định hàng ngày tại tu viện, tôi đã có một cái gì đó về sự thấy và từ lúc ấy tôi biết tôi sẽ chọn doanh nghiệp nào để theo đuổi: chắc chắn tôi sẽ vào ngành kim cương. Tôi chẳng có kiến thức nào về các thứ đá quý này và quả tình chẳng có dính dự gì đến ngành kim hoàn; chẳng có ai trong gia đình tôi từng được vào ngành kinh doanh này. Cho nên, giống như anh chàng Candide ngây ngô, tôi bắt đầu tham quan một cửa hàng kim cương sau khi đã tham quan một cửa hàng khác, hỏi xem có ai chịu nhận tôi làm người tập sự không. Cố gắng vào việc kinh doanh kim cương theo cách này cũng gần như toan tính gia nhập tổ chức Mafia: việc mua bán kim cương thô thuộc một hội nhóm rất kín đáo và riêng biệt, thường chỉ giới hạn trong thành viên gia đình. Vào thời ấy, những người Bỉ kiểm soát các kim cương cỡ lớn -những viên một ca-ra hay hơn nữa; những người Israel cắt hầu hết những viên đá nhỏ; và những người Do Thái Hassid ở Quận Diamond của New York, đường Bốn mươi-bảy nắm giữ phần lớn việc mua bán sỉ trong nội địa Mỹ. Cần nhớ rằng toàn bộ số lượng kim cương của những cơ sở lớn nhất cũng chỉ có thể được chứa đựng trong một ít thùng chứa nhỏ y như những hộp đựng giày thông thường. Và không có cách gì để phát hiện một vụ trộm kim cương trị giá hàng triệu đô la: bạn chỉ cần bỏ vào túi một hay hai nắm kim cương rồi bước ra cửa không có thứ gì như máy dò kim loại có thể phát hiện ra các viên đá được. Cho nên hầu hết các xí nghiệp chỉ thuê con, cháu hay anh em họ chứ không bao giờ thuê một anh chàng Ireland cù bơ cù bất ưa chơi với kim cương. Tôi nhớ rằng tôi đã viếng chừng mười lăm cửa hàng để xin một chỗ quèn, rồi đều bị đuổi ra tức khắc. Một ông cụ sửa đồng hồ trong một thị trấn gần đó khuyên tôi nên theo một số khoá học về phân loại kim cương tại Học viện Đá quý Mỹ tại New York, tôi sẽ có nhiều cơ may hơn để có việc làm nếu tôi có được một văn bằng và nếu tôi gặp được ai đó trong lớp học có thể giúp đỡ tôi. Chính tại Học viện này, tôi gặp ông Ofer Azrielant. Ông cũng đang học một lớp về phân loại kim cương cao cấp, được gọi là đá "được xác nhận" hay "được cấp chứng chỉ". Việc phân biệt một viên kim cương "chứng chỉ" vô cùng giá trị với một viên đá giả mạo hay đã được xử lý bao gồm trong khả năng phát hiện ra được những lỗ li ti hay nhưng khuyết điểm khác, kích cỡ mũi kim, trong khi hàng chục hạt bụi bám trên mặt viên kim cương hoặc trên chính kính hiển vi, cứ nhiễu quanh và gây lẫn lộn lung tung. Cho nên cả hai chúng tôi đều ở đấy để học làm sao cho khỏi bị rạch túi. Tôi bị ấn tượng ngay bởi những câu Ofer hỏi thầy giáo, bởi cách ông xem xét và cật vấn từng khái niệm được trình bày. Tôi quyết định thử nhờ ông giúp tôi tìm một việc làm hoặc chính ông mướn tôi làm việc, và do đó mà làm quen với công việc. Vài tuần sau, vào ngày tôi hoàn tất các bài sát hạch cuối khoá về phân loại kim cương tại các phòng thí nghiệm của GIA ở New York tôi bịa ra lí do để vào văn phòng của ông và xin ông một chỗ làm. May mắn làm sao, đúng vào lúc ông ta đang mở một văn phòng chi nhánh tại Mỹ, trong khi ông ta đã lập được một xí nghiệp nhỏ ở Israel, quê hương của ông. Cho nên tôi bảo rằng tôi muốn làm việc ở Văn phòng ông và xin ông dạy tôi về kinh doanh kim cương: "Tôi sẽ làm bất cứ thứ gì ông cần, hãy cho tôi thử thách. Tôi sẽ dọn dẹp văn phòng, lau cửa sồ, làm bất cứ điều gì ông sai bảo". Và ông ta đáp: "Tôi không có tiền để mướn anh! Nhưng hãy yên tâm, tôi sẽ nói với người chủ của văn phòng này tên ông ta là Alex Rosenthal -và chúng tôi sẽ tính xem ông ta và tôi có thể chia nhau trả lương cho anh được không. Rồi thì anh sẽ lo các việc lặt vặt cho cả hai chúng tôi". Thế là tôi khởi sự với tư cách một anh giúp việc, thù lao bảy đô la một giờ, một người tốt nghiệp Princeton lê đôi chân suốt những mùa hè ẩm thấp và những cơn bão tuyết mùa đông của New York, lên tới quận Diamond, mang các túi vải bạt đựng đầy vàng và kim cương chờ được đúc và chế tạo thành nhẫn, vòng. Ofer, vợ ông là Aya, và một người thợ kim hoàn ít nói năng và rất giỏi người Yemen tên là Alex Gal sẽ ngồi quanh cái phòng việc lẻ được thuê, cùng với tôi phân loại kim cương theo từng hạng, phác họa những mẫu mới và đi chào hàng. Tiền lương ít ỏi, lại thường được trả chậm trong khi Ofer có vay mượn thêm ở các bạn bè của ông ở London, nhưng ít lâu sau tôi cũng đủ sắm cho mình một bộ y phục của các nhà doanh nghiệp mà tôi vẫn mặc mỗi ngày trong suốt nhiều tháng. Chúng tôi thường làm việc đến quá nửa đêm, và tôi phải đi bộ suốt một quãng dài về căn phòng nhỏ của tôi tại một tu viện nhỏ trong cộng đồng Phật giáo châu á ở Howell, New Jersey. Ngủ được vài giờ, tôi lại phải thức dậy và đáp xe buýt đi MahattanĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Năng Đoạn Kim Cương PDF của tác giả Geshe Michael Roach nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Khi Hơi Thở Hóa Thinh Không (Paul Kalanithi)
ĐỀ TỰA --ABRAHAM VERGHESE hi viết những dòng này, tôi chợt nảy ý nghĩ lời nói đầu có nhẽ tốt hơn được hiểu là lời bạt cuối sách. Bởi vì khi nhắc đến Paul Kalanithi, mọi cảm giác về thời gian đều trở nên thật khác biệt. Trước tiên là - hoặc cuối cùng là - tôi chỉ được biết Paul sau khi anh đã qua đời. (Xin độc giả hãy kiên nhẫn). Bởi chỉ đến khi anh không còn nữa, tôi mới biết Paul một cách tường tận nhất. Tôi gặp anh trong một buổi chiều đáng nhớ ở Stanford vào đầu tháng Hai năm 2014. Khi đó anh vừa gửi đăng một bài báo trên tờ New York Times có tựa: “Tôi Còn Lại Bao Nhiêu Thời Gian?” - một tiểu luận thu hút làn sóng phản hồi và thổ lộ lớn từ độc giả. Những ngày kế tiếp, bài báo đó lan truyền theo cấp số nhân. (Tôi là chuyên gia về bệnh truyền nhiễm, do đó xin hãy cáo lỗi cho việc không so sánh sự việc này với khái niệm ‘viral’ - lan truyền như virus). Sau đó, Paul đến gặp tôi để nói chuyện, xin lời khuyên về đại diện giữa nhà văn và nhà xuất bản, biên tập viên và quá trình xuất bản - bởi anh có một khao khát được viết sách. Chính là cuốn sách này, cuốn sách mà bạn hiện đang cầm trên tay. Tôi nhớ lại ánh mặt trời xuyên qua tàng cây mộc lan ngoài văn phòng đã rọi sáng khung cảnh lúc bấy giờ: Paul ngồi ngay trước mặt tôi, đôi bàn tay đẹp đẽ hoàn toàn bất động, với bộ râu rậm rạp của một giáo đồ, đôi mắt sậm âm thầm quan sát và đánh giá tôi. Trong ký ức của mình, bức tranh này đạt chất lượng Vermeer1, sắc như trong hộp tối camera obscura2. Tôi còn nhớ mình đã tự nhủ, mày phải ghi nhớ khung cảnh này, bởi vì những gì hiện lên trên võng mạc lúc này thật sự quý giá. Và bởi vì, trong hoàn cảnh về căn bệnh của Paul, tôi không chỉ nhận thức được cái chết của anh mà còn của chính bản thân mình. Chúng tôi đã nói rất nhiều trong buổi chiều ấy. Anh là bác sĩ nội trú năm cuối về phẫu thuật thần kinh. Trên hành trình sự nghiệp của mình, chúng tôi có lẽ đã gặp nhau đâu đó nhưng chưa từng có chung bệnh nhân nào theo như trí nhớ. Anh nói rằng từng theo chuyên ngành Anh ngữ và Sinh học thời đại học ở Stanford, sau đó tiếp tục làm thạc sĩ về văn học Anh. Chúng tôi hàn huyên về tình yêu trọn đời của anh đối với việc đọc sách và viết lách. Tôi đã rất ngạc nhiên bởi anh có lẽ đã dễ dàng trở thành một giáo sư Anh ngữ - mà quả thực, trong một thời điểm trong đời, anh có vẻ từng định theo đuổi con đường đó. Sau rồi, hệt như người cùng tên trên hành trình tới Damacus, anh cảm thấy ‘tiếng gọi’. Thay vào đó, anh trở thành một bác sĩ, nhưng là một bác sĩ vẫn hằng mơ trở lại với văn học theo một cách nào đó. Một cuốn sách chẳng hạn. Một ngày nào đó. Anh nghĩ anh có thời gian, vậy tại sao lại không chứ? Cho dù thời gian là thứ mà anh chỉ còn rất ít đi chăng nữa. Tìm mua: Khi Hơi Thở Hóa Thinh Không TiKi Lazada Shopee Tôi nhớ nụ cười khẽ nhếch, bộc lộ một chút tinh quái ngay cả khi khuôn mặt anh hốc hác và phờ phạc. Mặc dù trải qua một khoảng thời gian khó khăn do căn bệnh ung thư nhưng liệu pháp sinh học mới đã đem lại phản ứng tốt, cho phép Paul lạc quan về tương lai một chút. Anh nói trong suốt quãng thời gian ở trường Y, anh thường mặc định rằng mình sẽ trở thành một bác sĩ tâm thần học để rồi cuối cùng lại say mê phẫu thuật thần kinh. Trên cả niềm say mê đối với những phức tạp của não bộ, trên cả sự thỏa mãn khi rèn luyện đôi bàn tay đạt được những ngón nghề điêu luyện - đó là tình yêu và sự cảm thông đối với những người đang đau đớn, với những gì họ cam chịu và những gì anh có thể phải vận dụng. Tôi không nghĩ Paul là người hay nói với tôi về phẩm chất này, mà chủ yếu tôi được nghe về nó qua một sinh viên từng phụ giúp cho anh: về niềm tin mãnh liệt của anh trong chiều kích đạo đức của công việc. Và sau đó chúng tôi đã nói về cái chết của anh. Sau buổi gặp đó, chúng tôi giữ liên lạc qua email, nhưng không gặp nhau thêm lần nào nữa. Không hẳn là do tôi đã biến mất vào thế giới của tiêng tôi với những thời hạn, trách nhiệm công việc, mà còn là ý thức mãnh liệt của bản thân tôi về việc buộc phải tôn trọng thời gian của anh ấy. Sẽ hoàn toàn là quyết định nơi Paul nếu anh muốn gặp tôi hay không. Tôi cảm thấy bổn phận phải chăm chút cho một tình bạn mới là thứ cuối cùng anh cần đến. Tôi nghĩ về anh rất nhiều và về vợ anh nữa. Tôi muốn hỏi không biết anh có còn đang viết không. Liệu anh có thời gian cho việc đó không? Rất nhiều năm rồi, trong vai trò của một bác sĩ bận rộn tôi đã vùng vẫy để tìm chút thời gian viết lách. Tôi muốn nói với anh rằng, có một nhà văn nổi tiếng rất ái ngại cho vấn đề muôn thuở này có lần đã nói với tôi: “Nếu tôi mà là nhà phẫu thuật thần kinh và cáo với khách khứa rằng mình phải rời đi ngay để thực hiện một ca phẫu thuật mở hộp sọ, sẽ chẳng có ai nói gì cả. Nhưng nếu tôi nói với họ cứ ngồi phòng khách chơi để tôi lên tầng viết lách một chút…” Tôi không biết Paul có thấy buồn cười không. Suy cho cùng thì anh thực sự có thể nói rằng anh sắp phải làm một ca phẫu thuật sọ! Quá là hợp lý! Rồi thay vào đó, anh có thể ngồi viết. Khi Paul đang viết cuốn sách này, anh gửi đăng một bài tiểu luận ngắn đáng chú ý trên tờ Stanford Medicine trong một kỳ báo dành nói về ý niệm thời gian. Tôi cũng có một bài tiểu luận trên đó, ngay kề với bài của anh và tôi chỉ biết điều này khi đã cầm tờ tạp chí trên tay. Đọc những dòng anh viết, tôi lại một lần nữa nảy ra ý tưởng thoáng qua nhưng sâu sắc hơn về điều gì đó từng đã được bộc lộ trong bài tiểu luận ở tờ New York Times dạo trước: cách viết của Paul đơn giản là quá tuyệt. Anh ấy có thể viết về bất kỳ thứ gì, và chúng đều rất có uy lực. Nhưng Paul không phải viết về bất kỳ điều gì - anh chỉ viết về thời gian và việc thời gian có ý nghĩa như thế nào đối với anh trong tình cảnh bệnh tật của mình. Đó là điều khiến bài viết trở nên vô cùng thấm thía. Nhưng đây mới là điều tôi cần phải nhắc lại: bài văn đó là điều không thể quên được. Từ cây bút của mình, anh viết ra châu ngọc. Tôi đã đọc đi đọc lại tác phẩm của Paul, cố gắng hiểu xem anh mang đến điều gì. Đầu tiên, đó là nhạc kịch. Nó có âm hưởng của Galway Kinell, gần như một bài thơ văn xuôi. (“Nếu một ngày điều đó xảy đến/ bạn thấy mình bên cạnh người thương/ trong quán cà phê ở ngay cuối đường/ Pont Mirabeau, quầy bar kiểu Pháp/ rượu vang chứa trong những cốc thuỷ tinh mở thẳng…” trích dẫn Kinnel trong một bài thơ tôi từng nghe ông trích đọc ở thành phố Iowa mà không cần nhìn vào giấy). Nhưng tôi cũng nếm thấy một điều gì khác nữa, điều gì đó từ vùng đất lỗi thời, trước cả thời các quán bar toàn bằng kẽm kiểu Pháp. Vài ngày sau đó khi đọc lại bài tiểu luận của Paul một lần nữa, tôi khám phá ra nó: bài viết của Paul gợi nhớ tới bài viết của Thomas Browne. Browne đã viết Religio Medici (Tín ngưỡng của một Y sĩ) trong một bài văn xuôi năm 1642, đều theo lối đánh vần và cách nói cổ xưa. Là một bác sĩ trẻ, tôi bị ám ảnh bởi cuốn sách đó, kiên trì với nó như thể một người nông dân ra sức làm tiêu nước cho cái đầm lầy mà trước đó bố anh ta đã thất bại. Đó là một công việc vô ích, nhưng tôi khao khát đến tuyệt vọng nhằm nắm được những bí mật, để rồi thất vọng ném nó sang một bên, rồi lại cầm nó lên, không chắc rằng điều đó có ích gì cho mình, nhưng khi đọc lên từng từ, lại có cảm giác là hữu ích. Tôi cảm thấy mình thiếu mất bộ thụ cảm quan trọng để khiến các con chữ có thể hát, truyền tải ý nghĩa của chúng. Cho dù cố gắng thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn u mê. Bạn hỏi, tại sao? Tại sao tôi lại kiên trì như vậy? Ai thèm quan tâm đến Religio Medici cơ chứ? Có, đó là người hùng của tôi, William Osler. Osler là cha đẻ của y học hiện đại, ông mất năm 1919. Ông rất yêu cuốn sách này và giữ nó ngay cạnh chiếc bàn đầu giường. Ông đã từng đề nghị được chôn chung với một bản Religio Medici. Suốt cuộc đời mình, tôi không thể hiểu được những gì Osler thấy được qua đó. Sau rất nhiều lần thử sức - và sau vài thập kỷ - cuốn sách cuối cùng đã trở nên sáng tỏ. (Rất may là những bản in gần đây đã có cách đánh vần hiện đại hơn). Tôi phát hiện ra mẹo là phải đọc to lên, như vậy mới không để tuột mất nhịp văn của nó “We carry with us the wonders, we seek without us: There is all Africa, and her prodigies in us; we are that bold and adventurous piece of nature, which he that studies, wisely learns in a compendium, what others labour at in a pided piece and endless volume.”3 Khi bạn đọc tới đoạn cuối trong sách của Paul, hãy đọc lên thành tiếng và bạn sẽ nghe thấy một dòng dài tương tự, cái nhịp văn mà bạn có thể gõ nhịp chân theo cùng… nhưng với Browne, bạn có lẽ sẽ muốn bay lên. Còn Paul, đối với tôi, chính là Browne hồi sinh. (Hay nếu thời tương lai chỉ là một ảo giác, có lẽ Browne lại là hồi sinh của Kalanithi. Thật nhức đầu). Khi Paul mất. Tôi tới dự lễ truy điệu anh ở nhà thờ Stanford, một nơi thật lộng lẫy tôi thường đến ngồi lúc vắng vẻ, để ngưỡng mộ thứ ánh sáng, sự tĩnh lặng nơi đây và cũng là nơi tôi luôn tìm thấy sự tái sinh. Bên trong nhà thờ đã chật cứng người để sẵn sàng cho buổi lễ. Tôi ngồi dạt ở một bên, lắng nghe những câu chuyện cảm động và đôi khi là dữ dội từ những câu chuyện cảm động và đôi khi là dữ dội từ những người bạn thân nhất, mục sư và anh trai anh. Đúng, Paul đã đi, nhưng thật lạ kỳ, tôi cảm thấy mình mới chớm hiểu anh, ngoài lần gặp gỡ ở văn phòng, ngoài những bài tiểu luận mà anh viết. Anh thành hình trong những câu chuyện kể ở nhà thờ tưởng niệm Stanford. Trong mái vòm vút cao ở một không gian vừa vặn, chúng tôi tưởng nhớ người đàn ông này, thân thể anh đã nằm sâu trong đất nhưng sự sống vẫn đang hiển hiện. Anh thành hình trong dáng người vợ hiền và cô con gái nhỏ, trong dáng bậc sinh thành và người thân đau đớn khôn nguôi, trong khuôn mặt của vô số bạn bè, đồng nghiệp và những bệnh nhân cũ đang làm đầy không gian ấy; anh nằm đó trong buổi lễ đưa tang tổ chức sau đó ngoài trời, trong khung cảnh tất cả mọi người xích lại bên nhau. Tôi thấy những khuôn mặt bình thản, mỉm cười, như thể họ đang chứng kiến điều gì đó đẹp tuyệt vời nơi nhà thờ. Có lẽ khuôn mặt tôi cũng vậy; chúng tôi tìm thấy ý nghĩa trong nghi lễ tưởng niệm, trong lời tán dương, trong những giọt nước mắt được san sẻ. Có một ý nghĩa khác sâu thẳm hơn ngay tại buổi đón tiếp này nơi chúng tôi được làm dịu cơn khát, nuôi dưỡng cơ thể và nói chuyện với những người hoàn toàn xa lạ, kết nối với nhau mật thiết thông qua Paul. Vậy nhưng chỉ đến khi nhận được những trang sách mà bạn hiện đang cầm trên tay, hai tháng sau khi Paul qua đời, tôi mới cảm thấy mình cuối cùng cũng đã hiểu được Paul, hiểu được anh nhiều hơn những gì ở một người bạn - nếu tôi có cái số may mắn được gọi anh là bạn. Sau khi đọc xong cuốn sách mà bạn sắp đọc, tôi thừa nhận tôi thấy mình không tương xứng: có một sự chân thành, một sự thật trong cuốn sách khiến tôi sững sờ. Hãy sẵn sàng. Hãy ngồi xuống. Để xem dũng khí là như thế nào. Để một người thật dũng cảm biết bao khi bộc lộ bản thân theo cách ấy. Trên hết thảy, để thấy được bằng từ ngữ của mình, một người vẫn tiếp tục sống, tiếp tục ảnh hưởng tới cuộc đời của những người khác ngay cả khi ra đi là thế nào. Trong một thế giới thông tin thiếu đồng bộ, khi chúng ta vùi mặt vào những cái màn hình, mắt dán chặt vào những thiết bị chữ nhật trên tay, sự chú ý của chúng ta bị thiêu trụi bởi những phù du, xin hãy dừng lại để trải nghiệm cuộc đối thoại này với anh bạn đồng nghiệp trẻ vừa lìa đời của tôi, nay không tuổi và mãi hiện trong ký ức. Hãy lắng nghe Paul. Trong những khoảng lặng giữa câu chữ của anh, hãy lắng nghe những gì bạn muốn đối thoại lại với anh. Ngay tại đó là thông điệp anh muốn nói. Tôi đã nắm được nó. Tôi hy vọng bạn cũng trải nghiệm điều này. Đây là một món quà. Hãy đừng để tôi sẽ đứng chắn giữa bạn và Paul.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Khi Hơi Thở Hóa Thinh Không PDF của tác giả Paul Kalanithi nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.