Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nguyễn Trường Tộ Với Triều Đình Tự Đức (Nguyễn Đình Đầu)

Từ xưa đến nay, giới nghiên cứu vẫn “chia hai phe” khi luận bàn về công/tội của danh sĩ Nguyễn Trường Tộ (1830?-1871). Có một thời, phái luận tội thắng thế. Những năm gần đây thì tình thế có thay đổi, khi mà nền học thuật nước nhà đã có nhiều bước chuyển biến tích cực và khách quan hơn trong đánh giá.

Tác phẩm Nguyễn Trường Tộ với triều đình Tự Đức (NXB Trẻ, 2013) của Nguyễn Đình Đầu, với nhiều sử liệu khả tín, là một công trình đi theo hướng tích cực này.

Bằng cách bám sát vào nhiều nguồn sử liệu và tài liệu, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã chỉ ra rằng việc quy kết Nguyễn Trường Tộ “tay sai, bán nước” là quá ấu trĩ. Lật giở lại hành trình tri thức và thái độ khoa học của Nguyễn Trường Tộ, sách không chỉ chứng minh được tài năng vượt bậc, tư duy táo bạo, quan điểm cấp tiến, canh tân… mà còn gián tiếp cho thấy lý do vì sao ông bị cô lập.

Như tựa đề, sách gồm hai câu chuyện song hành, một là về nhà canh tân bất thành Nguyễn Trường Tộ, một là về triều đình nhà Nguyễn thời vua Tự Đức, vốn khá bảo thủ, lạc hậu. Để qua đây, sách một lần nữa cho thấy sự tiếc nuối của hậu bối với tiền nhân, bởi tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ mà được áp dụng ngay đương thời thì tình thế của Việt Nam đã có nhiều thay đổi lớn lao.

Theo TS Giáp Văn Dương, cùng thời và cùng tư tưởng canh tân với Nguyễn Trường Tộ, nhưng Fukuzawa Yukichi (1835-1901) đã thành công rực rỡ vì bối cảnh xã hội Nhật Bản đã sẵn sàng cho điều này từ lâu. Tìm mua: Nguyễn Trường Tộ Với Triều Đình Tự Đức TiKi Lazada Shopee

Với kiến thức sâu rộng, kết hợp được tư tưởng Đông Tây, các sách lược canh tân của Nguyễn Trường Tộ đi thẳng vào các lĩnh vực từ nông nghiệp, thương mại, quốc phòng… cho đến ngoại giao, văn hóa, giáo dục, xã hội, kiến trúc, xây dựng…

“Bi kịch của Nguyễn Trường Tộ, ngẫm ra là một nghịch lý khó tin nhưng có thật. Yêu nước nhưng không được giúp nước vượt qua đại họa ngoại xâm; thực sự có tài năng xuất chúng nhưng vấp phải vật cản quá lớn - sự trì trệ bảo thủ, dị ứng với chủ trương duy tân, tự cường của triều đình Tự Đức và sự nghi ngờ dai dẳng của họ với những người tin theo Kitô giáo. Bi kịch lớn lao ấy bình thường ra có thể nhấn sâu những con người nặng lòng với đất nước vào tình trạng trầm cảm, u uất, bế tắc. Nhưng với Nguyễn Trường Tộ thì không. Ông đã bộc lộ một phẩm chất đáng tôn trọng: sự kiên trì nhẫn nại - nhẫn nại đến mức phi thường” - PGS.TS Trần Hữu Tá viết.

Và ông khẳng định: “Giờ đây, trong hoàn cảnh đất nước đang quyết tâm đổi mới, tự cường, khắc phục nguy cơ tụt hậu, đọc lại tập Điều trần của Nguyễn Trường Tộ, tin rằng mỗi trí thức cao cấp cũng như mỗi độc giả bình thường đều sẽ có những cảm nhận đặc biệt. Có thể đó là sự xúc động về lòng yêu nước chân thành nồng nhiệt của người đã khuất. Dường như ông không phải viết bằng mực bình thường mà bằng máu từ chính trái tim mình - một trái tim luôn quặn thắt trước tình hình ngày càng bi đát của đất nước”.

Văn Bảy

Thể thao & Văn hóa

***

Năm 2011, Đức giám mục Vinh - Nguyễn Thái Hợp có thiện ý muốn tổ chức kỷ niệm 140 năm (1871-2011) ngày qua đời của nhà yêu nước Nguyễn Trường Tộ ngay tại quê hương và phần mộ ở Xã Đoài, huyện Nghi Lộc, thành phố Vinh nay. Nhiều học giả đã tán thành và gửi bài tham luận. Rất tiếc năm 201 là năm có nhiều vấn đề nhạy cảm mà vấn đề Nguyễn Trường Tộ nằm trong số đó! Nên không có gì để kỷ niệm Nguyễn Trường Tộ cho đáng với một nhân vật lịch sử lớn như ông.

Tôi cũng được vinh dự đóng góp một báo cáo nhỏ. Đó là bài Giả như kế hoạch đánh úp Gia Định của Nguyễn Trường Tộ được thi hành![1]. Tất nhiên, không có tọa đàm hay nghi thức kỷ niệm thì bài này không được ra mắt quý bạn đọc.

Sau ngày 30.4.1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, giới Công giáo thành phố Hồ Chí Minh thường biểu lộ lòng mến quê hương với bài ca rất phổ biến Trước khi là Công giáo tôi là người Việt Nam. Công giáo hay không, đều là người Việt Nam, đều có nghĩa vụ và quyền lợi của một công dân trung thành với tổ quốc dân tộc.

Thiển nghĩ Nguyễn Trường Tộ là nhân vật Công giáo nêu tấm gương yêu nước tuyệt vời ấy ngay từ thời “trung quân ái quốc”, trong một giai đoạn lịch sử cực kỳ phức tạp và đen tối. Ông đã điều trần Tự do tôn giáo[2]là quyền thiêng liêng, nhưng nhiệm vụ phụng sự đất nước cũng là bất khả kháng. Ngay từ khi Công giáo truyền vào Việt Nam hơn 400 năm trước, một sáng kiến thần học đã lập thuyết Tam phụ tức phải tôn kính ba cha: Trời, (thượng phụ). Vua (trung phụ) và đấng sinh thành (hạ phụ). Như vậy, càng kính Chúa và hiếu hạnh thì càng phải “trung quân ái quốc”. Lý thuyết đâu có trái nghịch với thực tế! Trong một điều trần, Nguyễn Trường Tộ giải thích về thuyết Tam phụ rất minh bạch và hấp dẫn, trước khi sáng tác điều trần Ngôi vua là quý, chức quan là trọng [3]. Tuy nhiên, với tư cách một thường dân tha thiết tới vận mệnh dân tộc, Nguyễn Trường Tộ đã đệ đạt lên triều đình Tự Đức những bài học lịch sử và thời sự quốc tế nhằm canh tân xứ sở và cứu nguy dân tộc.

Nhân dịp kỷ niệm này, tôi đã mạo muội viết một số bài trên tuần báo Công giáo và Dân Tộc ngõ hầu giới thiệu Nguyễn Trường Tộ như một tấm gương ái quốc chói sáng cho tín hữu chúng tôi. Từ xưa đến nay đã có nhiều học giả hay tác giả viết về Nguyễn Trường Tộ. Tôi đã học hỏi được nhiều, song tôi không thể trích dẫn hết các điều trần và những nhận xét sâu sắc của quý vị. Tôi chỉ dám lựa chọn một góc nhỏ: Nguyễn Trường Tộ với triều đình Tự Đức (1861-1871) và đặc biệt sử dụng tư liệu tổng hợp về Nguyễn Trường Tộ của Trương Bá Cần[4]cùng bộ chính sử Đại Nam thực lục chính biên[5].

Chúng ta đều biết khoảng giữa thế kỷ XIX, sau khi thôn tính được nhiều thuộc địa trên thế giới, đế quốc Pháp khởi công xâm chiếm nước ta và các tiểu quốc thuộc quyền bảo hộ Việt Nam ở Đông Dương, với lý do Việt Nam không tôn trọng tự do tôn giáo! Ngày 19.6.1988, Tòa thánh phong hiển thánh cho 117 tín hữu, mà dưới ba triều Minh Mạng - Thiệu Trị - Tự Đức có tới 111 vị (58+3+50) tuẫn tử trong thời gian từ 1833 đến 1862. Đó là những năm Pháp đem tàu chiến và quân lực đến uy hiếp và đánh phá Việt Nam. Tín hữu hy sinh thực sự vì trung thành với đức tin, nhưng chính quyền cấm đạo và tàn sát tín hữu có lẽ vì lý do chính trị hơn tín ngưỡng. Tôi đã cố giải thích khúc mắc này qua tập sách nhỏ Tiểu sử Cha Khâm - Đặng Đức Tuấn[6].

Dẫu chỉ lựa chọn nghiên cứu vấn đề ở một góc hẹp và đa phần là trích dẫn các tư liệu chính xác, nhưng chúng tôi vẫn thành thực xin quý độc giả nhắc nhở cho biết những gì còn sai nhầm hay thiếu sót. Xin trân trọng cám ơn.

Cuối thu năm 2012

Nguyễn Đình Đầu

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nguyễn Trường Tộ Với Triều Đình Tự Đức PDF của tác giả Nguyễn Đình Đầu nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Cuộc Chiến Không Kết Thúc (Anton La Guardia)
Cuộc Chiến Không Kết Thúc - Người Israel & Palestine Trong Cuộc Chiến Giành Vùng Đất Hứa. - Một vùng đất hứa ( Israel - Palestine) của ba tôn giáo lớn trên thế giới - Kitô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo - lại là nơi lửa đạn như luôn rình rập bất cứ tín đồ nào của một trong ba tôn giáo ấy! - Chính ở miền đất thiên đó, một trong những dân tộc bản địa - người do Thái - phải lang thanh khắp thế giới hàng ngàn năm nay. Và cũng chính nơi đó - sau Thế chiến II - quốc gia Do Thái ra đời, cũng là lúc người Palestine lại phải rời bỏ nhà cửa, đất đai ra đi. - Cả hai dân tộc Do Thái - Palestine đều không muốn bánh xe lịch sử quay những vòng lịch sử quay những vòng nghiệt ngã để luân phiên nhau tồn tại, trên mảnh đất nhỏ đẹp như thế. Cả hai phải cùng tồn tại, cộng sinh. Nhưng tồn tại như thế nào? Đó là vấn đề nan giải làm cho cả thế giới phải quan tâm... - Một cuộc chiến vì chính nghĩa đối với cả hai dân tộc, nhưng nghịch lý thay, tại sao chẳng biết bao giời mới kết thúc!*** Tìm mua: Cuộc Chiến Không Kết Thúc TiKi Lazada Shopee Cuốn sách là một thiên phóng sự sinh động của nhà báo người Ý Anton La Guardia giới thiệu bao quát lịch sử và những biến động triền miên của Vùng đất hứa, hay còn gọi là “Kingdom of Heaven” giữa người Israel và người Palestine từ hàng ngàn năm trước Công nguyên cho tới ngày nay. Một dải đất ngang không quá 75 dặm và dài chưa tới 260 dặm, với dân số hơn 5 triệu người Do Thái và hơn 4 triệu người Palestine, nhưng là nơi mà hơn 1 tỉ người Hồi giáo, 1,7 tỉ người Kitô giáo và khoảng 13 triệu người Do Thái khắp thế giới hướng về. Làm thế nào để hai dân tộc Israel và Palestine có thể cùng tồn tại trong hoà bình? Đó vẫn còn là câu hỏi chưa có lời đáp. ***Lúc đăng ký chuyến bay ở phi trường Ben-Gurion, một phụ nữ trẻ dẫn các hành khách vào những hàng cách nhau để khám xét về an ninh. Những người Do Thái đứng ở một hàng còn những người không phải Do Thái đứng ở hàng khác. Những người nói tiếng Hebrew (tiếng Do Thái cổ) đọc lướt bảng câu hỏi. Những người còn lại thường đợi ở hàng để hướng về dãy câu thẩm vấn, từ thông thường đến gay gắt. Ông (bà) có mang đồ hộ ai không? Ông (bà) có quen ai ở Israel không? Tên của họ là gì? Ông (bà) có đi tới Bờ Tây không? Ông (bà) có người bạn Ả Rập nào không? Tên họ là gì? Và vân vân. Mặc dù có vẻ qua loa nhưng phải nói là "tôi cảm thấy khó chịu" cái kiểu hạch hỏi khó ưa ấy. Nó có nghĩa là điều tra nhân dạng của khách hàng, đâm chọc vào chuyện của du khách. "Còn ông là nhà báo à? Có gì chứng minh không? Vui lòng mở máy tính của ông và chỉ cho tôi những gì ông đã viết." Có khi người thẩm vấn bỏ đi, nhưng một người khác đến và bắt đầu hỏi lại. Tôi lại bị hỏi, hết sức nghiêm túc: "Ông không phải người Do Thái, vậy tại sao ông tới Israel?" Ở đây chẳng làm gì phải lo ngại về chuyện "ghi hình", hỏi về sắc tộc hay điều gì khác. Những phụ nữ nước ngoài tự đi còn bị xăm xoi rất kỹ, kể từ khi Nizar Hindawi, một người Jordan làm việc cho cơ quan tình báo Syria, đã gửi cô bạn gái có thai người Ireland trên chuyến bay E1 Al mà không nói cho chị ta biết là anh ta đã giấu quả bom Semtex ở đáy giả cái túi của chị ta. Một lính gác của El Al tinh ý đã phát hiện thiết bị này, cứu được mạng của 375 người vào bữa đó, hồi tháng Tư 1986. Cả khi ở nước ngoài, lúc bạn bước lại gần quầy, bạn đã đi vào sự kiểm soát của Israel, lúc nào cũng nghĩ có mối đe dọa khủng bố và chiến tranh. Ở một số nước châu Âu, một nhân viên an ninh ngồi cạnh tài xế xe bus đưa khách từ nhà khách tới máy bay. Những nhân viên mật vụ khác rải khắp nơi, bảo vệ cầu thang lên xuống hoặc dắt con chó đánh hơi trên hành lý. Đôi khi một xe bọc sắt theo dõi chiếc máy bay hạ cánh đang chạy trên đường băng. Mỗi chuyến bay E1 Al đều có lính gác vũ trang và các buồng lái ngăn được đạn.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cuộc Chiến Không Kết Thúc PDF của tác giả Anton La Guardia nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội (Leon Trotsky)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội PDF của tác giả Leon Trotsky nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Con Người Trở Thành Khổng Lồ (M. I-Lin)
Vào năm 1936, hai tác giả đã bắt tay vào viết cuốn truyện về sự xuất hiện của con người, về việc con người tập làm việc, tập suy nghĩ, rồi tìm ra lửa, ra sắt, về việc con người đã chinh phục được thiên nhiên, đã nhận thức được thế gới và cải tạo thế giới. Thuở sơ khai, con người vốn dĩ cũng ở trên cây, nhưng con người không chấp nhận đời sống an nhàn như loài chim kia. Sức mạnh của con người nằm ở chỗ, dám trèo xuống khỏi cành cây đó, và đối mặt với bao loài thú ăn thịt dữ tợn. Vì Tạo Hoá không trao tặng cho con người khả năng bay lượn, nên Ngài bù lại cho họ khối óc tinh quái của lão Tôn, để con người tự chắp cánh cho chính mình. Quá trình trở thành "khổng lồ" của con người, được khởi đầu từ bước chân đầu tiên họ đặt lên mặt đất, và vốn chưa bao giờ kết thúc, ngay cả tại thời điểm bạn đang đứng. Và rằng khó khăn, chỉ là một nấc thang đưa chúng ta lên vị trí cao hơn mà thôi. Vì chúng ta sinh ra là dòng dõi khổng lồ, nên hãy làm cho tổ tiên ta tự hào hơn nữa, bạn nhé!***Thời xưa, con người chưa phải là khổng lồ, mà còn là một con vật nhỏ bé, chẳng những không làm chủ được tự nhiên, mà chỉ là một kẻ nô lệ ngoan ngoãn. Tìm mua: Con Người Trở Thành Khổng Lồ TiKi Lazada Shopee Con người hầu như không có quyền lực gì đổi với thế giới, cũng như chẳng có tự do y như muôn thú trong rừng, chim chóc trên trời.Người ta thường hay nói: “Tự do như chim”.Nhưng thực ra con chim có hoàn toàn tự do đâu!Đúng là nhờ đôi cánh, chim có thể bay qua các khu rừng, vượt biển cả, núi cao. Chúng ta ai mà chẳng thèm muốn được như những đàn sếu, cứ mùa thu đến là bay đi tìm những xứ sở ấm áp để tránh giá rét mùa đông. Chúng lũ lượt kéo đi từng đàn trên trời cao tít, khiến mọi người ngửa cổ nhìn theo mà nhủ thầm: “Chao ôi, loài chim sung sướng quá! Chúng tha hồ muốn bay đến đâu thì bay!”.Nhưng có loài chim thật như thế không? Có phải là đàn chim kia bay đi chỉ vì chúng thích những cuộc viễn du hay không? Chắc chắn không phải như vậy! Chúng bay đi từng đàn như thế đâu phải là để thỏa cái thích riêng của chúng. Chúng bay đi là một điều tất yếu để gìn giữ sự sinh tồn mà biết bao thế hệ các loài chim đã làm trong suốt bao nghìn năm.Loài chim di chuyển dễ dàng đến nỗi ta có thể tưởng rằng giống chim nào cũng có thể sinh sôi nảy nở khắp mọi nơi trên trái đất.Nếu quả đúng như vậy thì ta sẽ gặp chú vẹt với bộ lông xanh đỏ ở trong các rừng thông và rừng bạch dương, sẽ nghe thấy tiếng chim sơn ca hót cả ở trong các rừng cây lớn. Nhưng sự thật lại khác: loài chim không được tự do như ta tưởng. Mỗi giống chim có một chỗ ở nhất định trên trái đất. Có giống ở trong rừng, có giống ở thảo nguyên, có giống ở bờ biển.Hãy lấy đại bàng làm ví dụ. Cánh nó khỏe biết bao. Thế nhưng ngay cả đại bàng cũng chọn một khu vực nhất định để sinh sống, khu vực ấy có thể khoanh lại dễ dàng trên bản đồ. Giống đại bàng lông vàng không bao giờ làm tổ ở thảo nguyên ít cây cối. Giống đại bàng thảo nguyên, thì chẳng khi nào làm tổ trong rừng.Hầu như giữa rừng và thảo nguyên có một bức tường vô hình ngăn cách; bức tường này không phải mọi giống thú và loài chim đều có thể vượt qua được.Không bao giờ các bạn có thể thấy ở thảo nguyên những muông thú trong rừng như sóc, gà rừng, chim chích. Trái lại trong rừng thì không thấy những giống vật sống ở thảo nguyên như chim báo, chuột nhảy chẳng hạn.Và ngay cả ở trong rừng và ở thảo nguyên cũng có những bức ngăn vô hình phân chia thành muốn vàn thế giới nhỏ riêng biệt.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Người Trở Thành Khổng Lồ PDF của tác giả M. I-Lin nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Côn Lôn Sử Lược (Trần Văn Quế)
LỜI NÓI ĐẦU Trong bất cứ quyển Việt-Sử nào khi nói đến Hòa-ước Versailles được ký kết năm 1787 giữa Pháp Hoàng Louis thập lục và chúa Nguyễn-Ánh do Đức Cha Bá-Đa-Lộc đại-diện, có khoản nói vua Annam nhường cho Pháp nhiều nơi trong đó có Quần-đảo Côn-Lôn hay là Côn-Lôn. Nhưng trong Hòa-ước 5-6-1862 lại không thấy nói đến quần-đảo ấy nữa. Tại sao đảo Côn-Lôn hay là Côn-Lôn tượng-trưng cho toàn thể quần đảo tuy là không lớn hơn đảo Phú-Quốc, lại được Pháp-Quốc đặc biệt chú ý? Tại sao trong Hòa ước 5-6-1862 Triều-đình Huế nhượng cho Pháp ba tỉnh Biên-Hòa, Gia-Định, Định-Tường của Nam-Kỳ Lục-tỉnh mà không thấy nói đến Quần-đảo Côn-Lôn? Đó là những câu mà bất cứ một độc giả nào của quyển Việt-Sử đều tự hỏi. Tìm mua: Côn Lôn Sử Lược TiKi Lazada Shopee Các thắc mắc ấy sẽ lần lượt được giãi bầy trong quyển sách « Côn-Lôn Sử-Lược » này để giúp độc giả biết thêm những chi tiết của một giai đoạn lịch-sử nước nhà và đồng thời nhận thức rõ rệt tính cách quan trọng của Quần đảo Côn-Lôn về ba mặt: Chính-Trị, Quân-Sự và Kinh-Tế.TÁC-GIẢ***Nói tóm lại giữa lúc người Việt-Nam không mấy để ý đến quần đảo Côn-Lôn, thì trái lại, trên hai trăm năm, hai đại cường quốc Âu-Châu là Anh và Pháp đã để ý một cách đặc biệt đến quần đảo này. Anh quốc để ý đến quần đảo Côn-Lôn là vì cần phải bảo vệ sự phồn thịnh của Tân-Gia-Ba thuộc Anh bằng cách chiếm quần đảo này, để nó khỏi rơi vào tay một cường quốc khác như Pháp, chẳng hạn, và có thể trở nên một hải cảng cạnh tranh với Tân-Gia-Ba được. Lại nữa, con đường Tân-Gia-Ba đi Hương-Cảng cần được bảo vệ bằng cách chiếm quần đảo Côn-Lôn và cản ngăn không cho một cường quốc nào làm trở ngại sự đi lại trên con đường ấy. Các lý do vừa kể trên đều ở trong phạm vi một chính sách bành trướng và bảo vệ đế quốc Anh trên khắp các mặt biển, giữa lúc mà trên các lục địa Âu-Châu, các cường quốc tranh giành nhau từng tấc đất. Sự chiếm các đảo Malte, Chypre ở Địa-Trung-Hải, đảo Cey-Lan (Tích-Lan) và nhiều đảo nhỏ ở Ấn-Độ-Dương và sau cùng Hương Cảng ở biển Trung Hoa đủ chứng minh cách liên tục và trường kỳ của chính sách ấy. Trong thời gian hằng mấy trăm năm, các Chính-Phủ kế tiếp nhau giữ chính quyền ở Anh đều đồng ý tiếp tục thi hành chương trình này. Vì lẽ đó mà trong hai thế kỷ vừa qua, thập bát và thập cửu thế kỷ và đầu thế kỷ thứ hai mươi, Anh Quốc đứng đầu trong số các đế quốc trên hoàn cầu. Khắp năm châu, không nơi nào mà không có thuộc địa, căn cứ, hải-cảng và thương điếm của Anh. Về phần nước Pháp, nếu nước này đặc biệt để ý đến quần đảo Côn-Lôn là không ngoài ý định tìm những đất đai mới để bù lại sự mất về tay Anh quốc một vùng rất lớn ở Ấn-Độ, dưới chiêu bài là vùng ảnh hưởng của Đông-Ấn Công Ty Pháp. Việc xâm chiếm toàn cõi bán đảo Ấn-độ - China đã được để ý từ lâu và việc chiếm quần đảo Côn-Lôn thuộc về giai đoạn đầu của chương trình ấy. Quần đảo Côn-Lôn một khi đã thuộc Pháp, sẽ là một đầu cầu cần thiết cho sự tấn công bán đảo nói trên sau này. Quan niệm ấy đã được thực hiện ngay khi đức cha Bá Đa Lộc đã dùng quần đảo Côn-Lôn làm nơi tập trung các lực lượng hải và lục quân để giúp chúa Nguyễn Ánh trên lục địa. Lại nữa, muốn làm chủ vĩnh viễn Nam Kỳ lục tỉnh và gián tiếp chi phối nền độc-lập của hai nước Lục Chân Lạp (Cambodge) và Ai Lao (Laos) thì Pháp trước phải chiếm quần đảo Côn-Lôn, pháo đài tiền tuyến của các xứ ấy. Vì vậy trước khi cử binh vào chiếm ba tỉnh phía đông của Nam Kỳ, Pháp đã chiếm trước quần đảo Côn-Lôn để thực hành ý định của Hoàng-đế Nã Phá Luân Đệ Tam (Napoléon III). Sự thực, đó là ý định của các triều vua trước kể từ Louis Thập lục trở về sau. Sau khi Pháp đã chiếm quần đảo Côn-Lôn, Chánh Phủ Anh toan phản đối cho rằng việc ấy không đúng với công pháp quốc-tế là vì Hòa Ước Versailles 1787 đã không được đem ra thi hành ngay lúc đầu và như thế nó đã bị coi là lỗi thời rồi. Nhưng sau khi Pháp chiếm ba tỉnh phía đông Nam Kỳ và ký với Triều Đình Huế Hòa Ước 5-6-1862 thì Anh không còn nghĩ đến chuyện phản kháng Pháp nữa. Dù sao Anh cũng đã để cho Pháp tự rửa mặt lấy với Năm Châu thế giới sau khi đã thất bại nặng nề trong trận giặc 7 năm vừa qua. Giữa Ấn-Độ, Miến Điện và Mã Lai thuộc Anh và bán đảo Ấn-Độ Chi-na, nước Xiêm đã được Anh-Pháp để yên để đóng vai nước hoãn xung (nước trái độn: Etat tampon). Sự quan trọng của quần đảo Côn-Lôn một lần nữa đã được làm nổi bật lên là khi quân đội Nhật biến đảo Côn-Lôn thành một quân cảng vừa cho Hải quân vừa cho Không quân Nhật trong những cuộc tấn công các nước miền Đông-Nam-Á. Trong giai đoạn lịch sử khởi đầu từ cuộc đảo chính Nhật tại đảo ngày 9-3-1945 đến năm 1947 là ngày mà chính quyền Pháp được tái lập trên quần đảo, có lắm chuyện làm cho độc giả cười ra nước mắt. Không ai ngờ rằng ở một vùng rộng không quá 100 cây số vuông, đông không quá 2000 dân mà đã có liên tiếp ba cuộc đảo chánh và một cuộc xưng vương! Trong giai đoạn lịch sử này quần đảo Côn-Lôn quả đã có tính cách hoàn toàn tiểu thuyết! Mà thật thế. Những kép đóng vai trên sân khấu Côn-đảo thời ấy quả đã sống một đời sống mơ mộng và phiêu lưu từ lâu. Thất bại chua cay trên lục địa, họ bị đưa ra đây và cơ hội đã giúp họ thực hiện cái mộng đẹp của họ trong một thời gian mặc dầu là ngắn ngủi! Rốt cuộc: những sự kiện lịch sử diễn ra trên quần đảo Côn-Lôn, tốt đẹp nên thơ cũng có mà bi đát đau thương cũng có, đã nhắc cho mọi người dân Việt nhớ rằng: quần đảo này rất quan trọng cho nước nhà về ba mặt: chính trị, quân sự và kinh tế, nhất là về phương diện đối ngoại. Lại nữa, nó là một trong các địa điểm của non sông đất nước, được tẩm bằng máu, tô điểm bằng xương của ức vạn chiến sĩ ưu tú Việt!Viết xong tại Saigon, ngày 3-5-1961Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Côn Lôn Sử Lược PDF của tác giả Trần Văn Quế nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.