Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hãy Làm Người Biết Lắng Nghe

Lắng nghe là cả một nghệ thuật. Đó không chỉ đơn thuần là nghe qua. Nó đòi hỏi người nghe phải biết chủ động trong buổi nói chuyện cũng như biết cách kết hợp một số kĩ năng và kĩ thuật nhất định. Dưới đây là một vài mẹo vặt và những phương pháp bạn có thể áp dụng để trở thành một người biết lắng nghe thực sự, một người mà người khác luôn muốn trò chuyện.   Trong cuộc sống, có những điều tưởng chừng như rất nhỏ mà ta thường dễ bỏ qua, nhưng nếu để ý thì chúng ta lại thấy rằng nó có một ý nghĩa vô cùng lớn. Và lắng nghe là một trong những điều như thế. Vì vậy, mỗi người chúng ta hãy cố gắng học cách lắng nghe để có thể trở thành một người biết lắng nghe. Điều này sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong cuộc sống. *** CHA ĐỪNG ĐI NỮA Một cô giáo nhiều năm đảm nhiệm chức chủ nhiệm lớp nói rằng, hội phụ huynh, nhưng thực tế mỗi lần họp phụ huynh, số bà mẹ luôn nhiều hơn số các ông bố rất nhiều, trong mắt bà, “Hội phụ huynh” nên gọi là “Hội các bà mẹ” mới chính xác. Khi đến thăm các gia đình, cũng rất hiếm khi gặp gỡ cha của các em, phần lớn thời gian là các bà mẹ tiếp cô giáo, cùng trao đổi tình hình học tập của con cái. Có thời gian mấy năm liền bà đảm nhiệm chủ nhiệm lớp một, hội phụ huynh đã tổ chức họp phụ khuynh vô số lần, và bà cũng đến thăm gia đình rất nhiều lần, nhưng có khá nhiều ông bố bà chưa từng gặp. Một tài liệu nghiên cứu cho biết, Trung tâm Nghiên cứu Thiếu niên nhi đồng thành phố Thượng Hải từng làm một đề tài về “Mong muốn của nhi đồng”, trong phiếu điều tra, các cháu bé khi được hỏi “Điều trong lòng mình nghĩ muốn nói cho ai nghe nhất”, số chọn người cha chỉ có 7%, trong khi tỉ lệ chọn người mẹ lên cao đến 61%. Nhưng mà vấn đề tương tự: “Nếu như đã có tâm sự, bạn muốn thổ lộ với ai?” trong khi hỏi 200 học sinh của thành phố Án Sơn tỉnh Liêu Ninh, 58% học sinh muốn đem tâm sự nói với người bạn tốt nhất đầu tiên, 18,9% chọn nói với mẹ, mà chỉ có 4% chọn cách thổ lộ với bố. Cũng giống như ở Án Sơn, có người đã đưa ra một tập câu hỏi điều tra đến phụ huynh của những đứa trẻ mẫu giáo: “Trách nhiệm của cha mẹ đối với nhiệm vụ giáo dục con cái là ai?” Trong một lớp có 41 đứa trẻ thì: chọn “người cha gánh vác trách nhiệm” có 6 em, chọn “ông bà” có 5 em, chọn “người khác” có một em, còn lại đều chọn “người mẹ gánh vác trách nhiệm chủ yếu”. Ngày 13 tháng 2 năm 2006, câu lạc bộ hội phụ huynh đầu tiên của thành phố Án Sơn được thành lập. 50 đại biểu phụ huynh nhận được lời mời tham gia hoạt động ngày hôm đó, trong đó chỉ có 9 ông bố tham gia, nhưng họ quá giữ ý, rất ít hoạt động, phần lớn thời gian các bà mẹ đưa ra các câu hỏi. Từ đó chúng ta có thể thống kê, tại các loại hình hội phụ huynh, các hoạt động của người thân của bọn trẻ, đón tiếp ở gia đình hoặc những bài giảng giáo dục trong gia đình, hoạt động nhiều nhất của người cha không vượt quá ba phần mười số các phụ huynh trong gia đình. Vậy người cha đang làm gì? Khi việc quản lý giáo dục trong gia đình, tham gia các hoạt động đều giao cho người mẹ? “Bố nó hầu như không chăm sóc con cái, từ nhỏ đến lớn đều một tay tôi lo lắng”. Đây là lời bà mẹ của đứa trẻ 13 tuổi, điều này đã cho thấy tình trạng giáo dục trong tuyệt đại đa số các gia đình. Cũng có thể nói rằng, các ông bố rất hiếm khi bỏ công sức để ở bên cạnh con cái. Một đứa trẻ học hết lớp ba nói, công việc của cha bận, trong nhiều năm nay thường vào buổi tối khi cậu đã đi ngủ rồi cha cậu mới trở về nhà, mà buổi sáng khi cậu đi học, cha cậu vẫn chưa ngủ dậy. Đến cuối tuần, cậu cũng rất ít khi gặp cha. Bởi vậy, từ những ngày đi học, đối với việc học khi cần phụ huynh, cậu đều tìm đến mẹ. Những việc khác, cũng đều nói với mẹ. Cậu bé than thở: “Cháu cần một ông bố để làm cái gì? Cứ như là không có vậy!” “Người cha không chăm sóc con cái”, ở các nước Phương Đông dường như đã trở thành một hiện tượng phổ biến. Các ông bố vì sao lại không “nhiệt tình” đối với việc giáo dục con cái như vậy? Thứ nhất, do họ chịu một số ảnh hưởng của quan niệm truyền thống “Nam lo việc xã hội, nữ lo việc gia đình”. Cho dù hiện nay phụ nữ và nam giới cùng ra bên ngoài làm việc như nhau, thế nhưng khi về đến nhà, mọi việc trong nhà vẫn như xưa là do người phụ nữ lo lắng và chủ trì, bao gồm việc chăm sóc gia đình con cái. Do vậy, rất nhiều người nghĩ rằng: quản lý con cái là việc của các bà mẹ, trách nhiệm chủ yếu của người cha là kiếm tiền nuôi gia đình, vì con cái mà tạo ra một môi trường lớn lên tốt, lo lắng tốt cho con cái những chuyện to tát khi lớn lên, vì con cái mà gánh vác trách nhiệm nặng nề. Người đàn ông có quan điểm như vậy, không biết chủ động quan tâm chăm sóc con cái; mà người phụ nữ cũng có quan điểm như vậy, sẽ ngăn cản việc người cha quan tâm chăm sóc con cái, mà là thúc giục người đàn ông đi làm “đại sự”, “chính sự”. Rất nhiều người đã làm cha cho rằng việc nuôi dưỡng gia đình và con cái là việc của người phụ nữ, cho nên đem trách nhiệm giáo dục con cái phó mặc hết thảy cho mẹ chúng. Từ góc độ người phụ nữ mà nói, từ ngày mang thai, rất nhiều phụ nữ dường như đã không muốn các ông chồng nhúng tay vào việc giáo dục con cái, vô hình chung nhận hoàn toàn trách nhiệm giáo dục về mình. Nhà nghiên cứu tâm lí học Đông Tử nói: Tôi đã từng cùng một vị trí thức thảo luận về vấn đề giáo dục gia đình, thấy ông ta có rất nhiều kiến giải, thế là cổ vũ tôi có thời gian viết một cuốn sách về phương diện này, đem những kiến giải của mình công bố cho nhiều vị phụ huynh hơn. Thế nhưng vị trí thức này nhíu mày nói: “ừ, tôi nói thế thôi, không có ý gì đâu. Những kiến giải này của tôi trong gia đình đều không có ai coi trọng, còn có thể được người ngoài coi trọng sao?” Tôi cảm thấy kỳ lạ, ông ta giải thích, trong gia đình, vợ không để cho ông lo vấn đề giáo dục con cái, có những lúc ông muốn nói mấy câu, bà vợ còn không để cho ông nói. Ông ta tự chế giễu mình nói: “về phương diện quản lí và giáo dục con cái, trong gia đình tôi bày đầy một giá toàn là sách. Bà vợ còn tặng tôi một câu ví von rất xác đáng: Trong nồi đầy những bong bóng cá”. Thứ hai, chịu ảnh hưởng của đặc điểm sinh lý. Về mặt dưỡng dục con cái, vì nguyên nhân về mặt sinh lý, nhất định người vợ cũng phải bỏ ra nhiều công sức hơn so với người chồng. Kéo dài thời gian xa hơn một chút, tính từ khi đứa con bắt đầu ở trong bụng người mẹ, có vẻ như không có chuyện của ông bố. Người mẹ 10 tháng mang thai, mang nặng đẻ đau, trong khi ông bố khi cần làm việc thì làm việc, khi cần vui chơi thì vui chơi. Thi thoảng nhàn rỗi ghé sát vào bụng vợ nghe xem động tĩnh của bé cưng, sờ vào cái bụng tròn của vợ cảm nhận tình cảm nồng ấm của bé cưng. Dưa chín thì rụng, khi đứa trẻ ra đời, có thể trong tháng đầu chăm sóc đứa trẻ, giặt tã lót cho uống sữa... một loạt tình cảm đều có một người chuyên giúp việc nếu người cha xắn tay áo giúp đỡ, cũng sẽ có người ngăn trở: “Tránh ra, người cha sao phải làm việc này?” Đứa trẻ dần dần lớn lên biết bò rồi, biết chạy rồi, biết gọi bố gọi mẹ rồi, biết hát rồi, đi nhà trẻ rồi, đi học tiểu học rồi... Phục vụ tất cả việc ăn uống vệ sinh ngủ nghỉ, có mẹ chăm sóc, không có bố, dường như đều sẽ không sao cả. Cho nên dân gian có câu nói rất phổ biến: “Yên ổn theo mẹ có cơm ăn, không theo cha làm quan”. Ý nghĩa của câu nói dưới đây rất rõ ràng, cần có cơm của mẹ mới chăm sóc tốt cho con, cha đi làm quan lại có khả năng con cái bị đói rét. Có như vậy, bởi vì từ khi mang thai cho đến khi đứa trẻ sinh ra lại đến khi dần dần lớn lên, về phương diện chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục của người cha nếu như không chủ động tiếp cận như trước đó chủ động chia sẻ gánh nặng giúp vợ, lâu dần, sẽ hình thành một thứ định hình tư duy: con cái đến khi lớn lên, không muốn cha chăm sóc. Những ông bố này sẽ cho rằng, trong giai đoạn này, người làm cha chỉ lo chuyện kiếm tiền nuôi gia đình; thời kỳ phát huy tác dụng tốt nhất, là sau khi con cái lớn lên thành người, vì những việc lớn trong cuộc sống của nó đưa ra các hoạch định. Thứ ba, chịu ảnh hưởng một số nhân tố khách quan. Ví dụ công việc rất bận, tiếp khách quá nhiều, không có thời gian tham gia vào công việc giáo dục con cái. Có người cha, từ khi đứa con ra đời đến lúc tròn 6 tuổi, thời gian ở bên con cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong tình hình như vậy, công việc giáo dục con cái chỉ có thể dựa vào người mẹ, muốn giúp đỡ cũng không giúp được. Một ông bố từ hai bàn tay trắng làm nên một công ty kinh doanh quy mô lớn, khi nói đến việc giáo dục con cái thì vô cùng ấm ức: “Mẹ đứa trẻ luôn phàn nàn tôi không trông nom bọn trẻ, anh nói xem tôi trông nom thế nào? Đến ăn cơm điện thoại còn không dứt, làm gì có thời gian mà hỏi đến việc của bọn trẻ? Chỉ muốn bận rộn mấy năm, khi đã có cơ sở nhất định, tôi sẽ có thể thoải mái một chút, khi đó con cái đã lên đến cấp hai, tôi lại trông nom nó cũng chưa muộn. Thêm nữa, tôi có tiền gửi con ở nhà trẻ tốt nhất, trường tiểu học tốt nhất, giúp nó tìm trường trung học tốt nhất, làm như vậy có thể nói tôi không trông nom sao được”. Ngược lại, đối với sự giải thích bình thường đó của bố, trong suy nghĩ của con trẻ lại là: “Bố chỉ biết công việc bận bố, cháu trong mắt của bố chẳng là cái gì cả. Hình ảnh cháu nhìn thấy mỗi ngày đều là hình ảnh bố bận rộn, cháu đã quên cảm giác sà vào lòng bố là như thế nào rồi. Cháu thường muốn rằng, đợi đến khi bố có thời gian rảnh rỗi, muốn bố cùng vui chơi vui vẻ với cháu, thế nhưng cháu không biết khi nào bố cháu lại sẽ có thời gian. Không có cách nào, chỉ đành để mẹ cùng chơi. Cháu cảm thấy trong lòng bố hình như không có cháu. Thà rằng cháu không đến học bất cứ trường tốt nào, tiêu ít tiền của bố đi, để hi vọng bố có thể cùng chơi với cháu nhiều hơn”. Kỳ thực, có rất nhiều đứa trẻ có sự than vãn như vậy. Khi hỏi một số đứa trẻ, buổi tối không đợi đến lúc bố trở về nhà thì đã đi ngủ rồi chiếm tỷ lệ rất lớn. “Có thời gian mấy ngày cháu không “gặp mặt” bố”. “Bố trở về nhà không buồn đáp lại lời cháu, rồi đi vào phòng ngủ”. Cháu có chuyện muốn nói với bố, bố lúc nào cũng xua tay: Đi đi đi, ngày mai nói...” đây là một đoạn văn của một học sinh viết trong bài văn. “Người cha” thực sự đã đi mất rồi sao?” “Người cha” bận việc ở cơ quan, tan ca bận tiếp khách, cuối tuần bận đánh bài, bận học thêm, bận chơi cổ phiếu, bận tụ hợp, những ngày nghỉ đi tìm niềm vui ở bên ngoài, hoặc là ngủ một giấc dài để sau kì nghỉ tiếp tục công việc... Cho nên, việc giáo dục trong gia đình, “người cha” luôn vắng mặt... Sư thiếu vắng cha là một nỗi đau Minh 14 tuổi học cấp hai, cao hơn 1 mét 8, là nam sinh cao nhất trong lớp, cũng là học sinh nam thường làm thầy giáo phiền lòng. Mối quan hệ của cậu với mọi người trong lớp đều không tốt. Vì vậy mọi người đều cảm thấy cậu không có tác phong của cậu con trai, cậu nói năng nhỏ nhẹ, tính tình còn nhỏ nhen, làm gì cũng giống như một cô gái tính tình ẻo lả, để các bạn nam coi thường và không muốn chơi cùng cậu. Các bạn nữ trong lớp thì thích lấy cậu ra làm trò cười, không có chuyện gì lại giở trò trêu chọc rồi cười ầm lên. Minh trong lòng rất tức giận, thế nhưng cậu chỉ đành biết nhẫn nhịn. Thậm chí, có lúc có người cố ý bắt nạt cậu, cậu cũng cố gắng không chống lại, bạn nam học cùng lớp đánh đạp, cậu cũng chỉ đành né tránh. Gặp phải những ấm ức ở trường, sau khi về nhà Minh vô cớ trút giận lên đầu mẹ. Từ lúc tan học đến khi về nhà, cậu không nói với mẹ một lời tử tế nào, ngược lại còn nói những lời không hay, thức ăn mẹ nấu không hợp khẩu vị, mua thứ hoa quả cậu không thích ăn... Tóm lại, dường như mọi việc mẹ làm cậu đều khó chịu. Mẹ cậu hết sức khổ sở làm mọi cách cho cậu hài lòng. Vì sao ở trường Minh lại nhu nhược, khi về nhà thái độ, tính cách lại khác biệt như vậy? Mẹ Minh cho rằng nguyên nhân là bản thân bà quá nuông chiều con cái. Vì bố của Minh quá bận rộn, từ khi nó chào đời ông thì không chăm sóc không hỏi han đến, tất cả đều là mẹ lo liệu. Mà bà mẹ này 35 tuổi mới có đứa con, vì vậy đặc biệt yêu quý cậu, cứ như là ngậm ở trong miệng sợ mất, nắm ở trong tay sợ rơi. Không chỉ chăm bẵm về cái ăn cái mặc, mà bất kỳ cái gì có thể thỏa mãn con cái, bà sẽ gắng tìm kiếm khắp nơi, cứ như là gà mẹ, dang rộng đôi cánh, che chở bao bọc cho đứa con. Có thời gian Minh đi chơi với bạn ở bên ngoài, bị bắt nạt về nhà mách, mẹ lập tức đi tìm phụ huynh của kẻ bắt nạt con mình để phân tích đúng sai. Thói quen này tiếp tục cho đến hiện nay, không kể Minh đã cao hơn 1 mét 8, chỉ cần nghe nói con ở trường bị bắt nạt bà mẹ con không nói một lời liền chạy đến trường tìm giáo viên trút giận, ăn thua với bọn trẻ. Cứ như vậy, do bà mẹ “giống như gà mẹ” bảo vệ, con cái sẽ ỷ vào mẹ nhưng lại rất xem thường mẹ. Có thể nói, Minh là trường hợp điển hình của đứa trẻ thiếu sự giáo dục của người cha. Như những ví dụ đã đề cập ở trên, các ông bố có đủ mọi lý do, sau khi cho đứa trẻ sự sống, liền để nó vào trong bụng bà mẹ, do bà mẹ toàn lực chăm sóc đứa trẻ. Giáo dục trong gia đình, sự thiếu vắng “người cha”, trong cách nhìn của người cha dường như không quan trọng, dẫu không có sự quan tâm sâu sát của người cha, đứa trẻ vẫn cứ lớn lên. Thế nhưng, trong thế giới của đứa trẻ, đó là sự thiếu vắng tình yêu, chỗ dựa vững chắc của người cha. Có ông bố khi thấy câu nói này có thể sẽ có ý kiến, tôi chỉ không quản lý giáo dục con cái, không thể nào mà nói con cái “thiếu tình yêu thương của người cha”, vì tôi vẫn yêu thương con cái của mình. Chính vì yêu thương con cái, tôi mới đầu tắp mặt tối kiếm tiền, tạo ra những điều kiện lớn lên tốt nhất cho con cái chứ! Đúng vậy, không sai! Không có ông bố nào lại không yêu thương con cái của mình. Đừng quên rằng, từ góc độ của con trẻ, bạn thực sự yêu thực yêu thương con cái, nhưng bạn phải để cho con cái cảm thấy, nếu không đó chính là “sự thiếu thốn tình yêu”. Quá trình trưởng thành trong “thiếu thốn tình yêu thương của người cha” sẽ như thế nào? Trường hợp Minh là một ví dụ, và nó sẽ còn để lại muôn vàn vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển thể xác và tinh thần. Thứ nhất, sự mờ nhạt và thiếu vắng vai trò của người cha, sẽ làm cho tâm lý đứa trẻ cảm thấy không an toàn. Bởi vì, người cha trong con mắt của đứa trẻ đại diện cho những lực lượng siêu nhiên và chỗ dựa vững chắc. Đặc biệt là thời ấu thơ, nhiều đứa trẻ xem người cha như những thần tượng trong mắt chúng. Thời kì còn nhỏ, khi được hỏi ai là người anh hùng trong lòng, tuyệt đại đa số bọn con trai có sự che chở và tình yêu thương của người cha đều sẽ nói, “Cha cháu”. Khi đứa trẻ còn nhỏ, thậm chí là cả cuộc đời, người cha đều có thể là “anh hùng” trong lòng đứa trẻ. Nhưng nếu như không tồn tại hình tượng người anh hùng này, sẽ rất dễ để lại sự trống rỗng trong lòng đứa trẻ trong thời kỳ có tính then chốt trong sự hình thành tính cách đứa trẻ. Cho nên nếu như đứa trẻ không cảm thấy sự mạnh mẽ của người cha, không cảm thấy sự có thể dựa vào bờ vai người cha, như vậy tâm lý đứa trẻ sẽ cảm thấy không an toàn. Cha của Cường đi công tác ở Nga từ khi cậu 4 tuổi, trong thời gian 9 năm mới đảo qua nhà một lần. Nếu như ông bố không thường gửi ảnh về, cậu chắc sẽ quên hình dáng ông bố. Những ngày không có bố không ở bên cạnh, cậu và mẹ dựa vào nhau mà sống. Sức khỏe của mẹ không được tốt lắm, thỉnh thoảng trong nhà treo chai nước truyền lủng lẳng. Mỗi lần tan học đẩy cửa về nhà, đến bên giường mẹ nằm, bên cạnh giường treo chai nước, em đã rất hoang mang, không biết nên làm gì. Mỗi khi đến lúc đó, cậu lại gọi điện cho bố, nghe thấy lời bố nói trong lòng mới yên tâm một chút. Mẹ mở cửa hàng ăn, Cường tan học nếu có thời gian liền chạy đến quán ăn giúp mẹ. Thỉnh thoảng gặp phải những người đến uống rượu rồi làm ầm lên, nhìn thấy mẹ bị người ta ức hiếp, Cường luôn cảm thấy sợ hãi. Cậu thường nghĩ: Nếu như có bố ở đây thì thật tốt. Hoặc là cắn răng tự nhủ với mình: Mau mau lớn lên, có thể bảo vệ được mẹ! Sống với trạng thái tâm lý này trong một thời gian dài, Cường dần dần trở nên trầm cảm. Ở trường học, khi có mâu thuẫn nhỏ gì cùng bạn học, cậu sẽ biểu hiện rất cực đoan, trông có vẻ rất hung dữ. Thầy giáo tìm cậu nói chuyện, cậu nói, cậu cho rằng bạn học ức hiếp cậu, cậu cần phải tự bảo vệ mình. Kỳ thực, tính cách của cậu là bởi vì tâm lý cậu có cảm giác không an toàn. Trong cách nhìn của cậu, cậu là nam tử hán duy nhất trong gia đình, cậu cần đảm nhận trách nhiệm bảo vệ mẹ và trách nhiệm tự bảo vệ mình. Có thể là tuổi của cậu rất nhỏ, tự mình cậu cảm thấy mình không đủ lớn, cho nên luôn ở trong trạng thái lo lắng. Điều này không tốt cho sự trưởng thành của cậu. Thứ hai, con cái thiếu tình yêu thương của cha sẽ cảm thấy lo lắng và cô đơn. Phần lớn những tư liệu nghiên cứu chứng tỏ rằng, con cái ít gần gũi bố, tồn tại những trở ngại tình cảm như lo lắng, lòng tự ái không cao, cô đơn. Có nhà tâm lý học chỉ ra rằng, khi thiếu tình yêu thương của người cha đến một mức độ nào đó, đứa bé trai có khả năng sẽ gặp phải “hội chứng thiếu hụt tình yêu của người cha”. Tức là đến thời kỳ thanh niên, đứa bé trai thiếu vắng tình yêu của người cha thường lánh xa thậm chí căm ghét người cha, sự xa lánh và căm ghét này hòa với nhau do sự thất vọng và lãnh đạm trong tình yêu của người cha. Cậu mù quáng đi thử nghiệm những biện pháp có thể bổ cứu, như hút thuốc, uống rượu, thậm chí chơi bời phóng túng và nghiện ngập. “Chứng bệnh tổng hợp về sự thiếu tình yêu thương của người cha”, được các chuyên gia Mỹ tổng kết tiến hành điều tra gồm 30 chỉ tiêu về hành vi xã hội đối với cuộc sống của những gia đình những đứa trẻ không có bố, phát hiện loại trẻ em này có các hành vi phiền muộn, cô đơn, tính tùy tiện, ỷ lại... tương đối phổ biến. Việt Hoàng 5 tuổi gần đây rất quấy, thường nôn nóng không yên, thường hay cáu kỉnh, đạp phá đồ chơi, khóc to, thở không ra hơi. Buổi tối thường nằm mơ thấy ác mộng, nhiều lúc đang ngủ giật mình tỉnh giấc, sau đó khóc to không dứt. Mọi người trong nhà rất lo lắng, không biết đứa bé bị làm sao. Mấy lần đưa bé đến bệnh viện kiểm tra, điều kì quái là, kiểm tra tất cả các phương diện, đều không có vấn đề gì. Trong khi ông nội bà nội đang rất lo lắng, thì cháu bé phản ánh một vấn đề, nức nở khóc lóc, rồi hỏi: “Tại sao bố luôn vắng nhà? Bố có yêu quý cháu không? Bố không cần cháu!” Mọi người lúc này mới vỡ lẽ, bố cậu bé một năm gần đây do bận làm ăn, ngày nào cũng sáng đi tối về, con cái hầu như không được gặp mặt bố, chỉ thỉnh thoảng nói chuyện mấy câu với bố qua điện thoại. Tình trạng của cháu chính là vì thiếu vắng sự yêu thương của người cha dẫn đến tâm lí xáo trộn khác thường. Thứ ba, con cái thiếu tình yêu thương của cha sẽ dễ sinh ra hành vi tấn công bạo lực, thậm chí dẫn đến con đường phạm tội. Xác suất của hiện tượng này đối với các bé trai càng cao. Nhà tâm lý học của Đại học Havard William Pollack giải thích, người cha đóng vai trò then chốt về phương diện giúp người con trai khống chế tình cảm của mình. Trong tình hình không có người cha, thiếu kỉ luật giáo dục và sự giám sát đôn đốc đối với con cái, cơ hội để đứa thiếu hụt sự giáo dục làm người con trai thế nào. Không có người cha chỉ đạo và dẫn đưa, bé trai gặp phải sự chèn ép thường dẫn đến các loại hành vi bạo lực và các loại hành vi chống lại xã hội. Hiện tượng này không chỉ xảy ra đối với con người, trong một công viên quốc gia ở tây bắc Nam Phi, nhân viên quản lý báo cáo, mấy năm gần đây, những con voi nhỏ trở nên ngày càng nóng nảy, đặc biệt hung hăng đối với tê giác trắng. Trong tình huống không gặp phải sự khiêu khích, một con voi sẽ đánh ngã con tê giác, sau đó giẫm chết nó. Hành vi này mọi người rất ít khi nhìn thấy, nguyên nhân của nó rất khó đưa ra lời giải thích. Sau đó nhân viên quản lý công viên đã tìm ra đáp án. Đáp án của họ chính là, hành vi tấn công này là do cách làm của chính phủ thông qua việc giết chết số voi già để giảm thiểu số lượng voi quá lớn. Có lẽ tất cả số voi con trong thời gian ngắn đều trở thành mồ côi, chúng mất đi cơ hội gần gũi với những con voi trưởng thành. Trong tình hình bình thường, voi đực trưởng thành sẽ nuôi dưỡng tốt số voi con đó, đồng thời là kiểu mẫu cho chúng. Trở về sau khi đã không có ảnh hưởng đó, hiện tượng “thanh thiếu niên phạm tội” phát sinh lan tràn trong đàn voi, khiến cho “hàng xóm” của chúng cảm thấy không khác gì khủng bố. Tuy nhiên áp đặt hành vi của động vật để giải thích hành vi của con người là thiếu tính khoa học, thế nhưng cho dù đối với động vật hay là đối với người, “Thiếu sự giám sát đôn đốc và quản thúc kỉ luật trong thời kỳ đầu, thường sẽ mang đến hậu quả tai hại”. Kết luận như thế này là không hề sai. Cho nên có người nói: “Để một đứa bé trai và ở cùng một người đàn ông thích hợp, đứa bé trai này sẽ không đi vào con đường tù tội”. Hơn nữa, còn có nhiều số liệu chứng minh, đứa trẻ không có tình yêu thương của người cha càng dễ phạm tội. Theo một chương trình điều tra của Mỹ cho thấy: Mặc dù chỉ có 20% số trẻ vị thành niên cả nước trong các gia đình chỉ có bố hoặc mẹ, nhưng có đến 70% thiếu niên phạm tội xuất thân từ các gia đình này, 60% trọng phạm toàn quốc, 72% thiếu niên phạm tội giết người, 70% phạm nhân lao dịch thời gian dài đến từ các gia đình không có bố, 90% số trẻ em không có nhà cửa và bỏ nhà đi bụi đến từ các gia đình không có bố. Trung tâm cai nghiện có 75% số thanh thiếu niên nghiện hút đến từ các gia đình không có bố. Thứ tư, thiếu tình yêu thương của người cha rất tạo nên việc hình thành nhân cách một cách méo mó, thậm chí nảy sinh tâm lý bệnh hoạn. Các nhà tâm lý học cho rằng, người cha có vai trò vô cùng quan trọng đối với con trai trong quá trình hình thành nhân cách lành mạnh, trên thực tế nghiêm khắc bồi dưỡng con cái đồng nghĩa với quyền uy, pháp luật, hay chính là gia phong. Gia đình không có tình yêu thương của người cha sẽ mất đi cơ hội tiếp thu loại giáo dục này, bồi dưỡng kiện toàn nhân cách. Đứa trẻ lớn lên trong hoàn cảnh gia đình này thiếu đi sự nhận biết về quyền uy và pháp luật, càng không muốn chấp nhận sự ràng buộc, sẽ xuất hiện hành vi đối kháng, không tuân thủ pháp luật. Đồng thời, đứa trẻ thiếu tình yêu thương của người cha cũng sẽ biểu hiện đặc điểm thiếu sự dũng cảm và quyết đoán. Thứ năm, đứa bé trai thiếu tình yêu thương của người cha, dễ hình thành tình cảm quyến luyến quấn quýt người mẹ. Tùy theo sự lớn dần lên từng ngày của đứa trẻ, loại tình cảm quyến luyến này sẽ có thay đổi, dẫn đến đứa bé trai dù lớn lên thành chàng trai rồi, làm cái gì cũng đều không tách rời mẹ, thiếu sự cứng cỏi. Trường hợp nghiêm trọng, sau khi đến tuổi trưởng thành về mặt tâm lý, đối với người mẹ nảy sinh một loại tình cảm luyến ái vượt quá tình cảm theo quan hệ huyết thống hoặc ham muốn độc chiếm, có người vì vậy đã ảnh hưởng đến cuộc sống yêu đương và hôn nhân bình thường, cả cuộc đời đau khổ sầu não. Tóm lại, “Thiếu đi tình yêu thương của người cha là một loại thiếu hụt và mất cân bằng trong tình cảm của nhân loại”. Vì vậy, có thể nói, thiếu đi “người cha”, là nỗi khổ riêng trong giáo dục gia đình, là sự thiếu vắng tình cảm mà đứa trẻ cả đời cũng không bù đắp được. Mời các bạn đón đọc Hãy Làm Người Biết Lắng Nghe của tác giả Chử Đình Phúc & Hạnh Nguyên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giá Trị Học
Thật là một ngẫu nhiên hiếm có, một may mắn lớn cho tôi làm một số công việc cuối cùng của cuốn sách này vào các dịp kỉ niệm: - 1000 năm Thăng Long – Hà Nội - 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - 65 năm ngày thành lập nước VNDCCH nay là CHXHCNVN - 56 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - 35 năm ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Các sự kiện lịch sử trọng đại này rất gắn bó với nhau trong dòng giá trị tinh thần bất diệt của dân tộc. Và mỗi một chúng ta, trong đó có tác giả các dòng chữ này, là một thành phần, đều có quan hệ keo sơn với các giá trị bất hủ của những chiến công thần thánh đem lại cho chúng ta cuộc sống ngày hôm nay. Tác giả cuốn sách xin được bày tỏ lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới Bác Hồ, Đảng và Nhà nước cùng nhân dân Việt Nam và Liên Xô (cũ) đã đào tạo tôi thành một cán bộ khoa học, các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, các bà mẹ anh hùng, các chiến sĩ, nhất là các bạn cùng trang lứa, trong đó có các nhà giáo đi B và các nhà giáo kháng chiến trong vùng địch tạm chiếm, đồng bào đã hy sinh thân mình hoặc một bộ phận thân thể, đã chịu đựng những năm tháng biết bao gian khổ cực kỳ mà ngày nay không thể tưởng tượng nổi, cho nền độc lập, thống nhất Tổ quốc, cuộc sống hoà bình, an vui, hạnh phúc, cho nền giáo dục nhân dân, nền khoa học nước nhà từng bước sánh vai với bạn bè năm châu, bốn biển, như Bác Hồ hằng mong ước. Nước nhà không được như ngày nay, chắc khó có tác phẩm này. Tác giả hy vọng có đóng góp nhỏ, dù chỉ như hạt cát, giữ gìn và phát triển, phát huy các giá trị của dân tộc và con người Việt Nam. Tôi đi từ giáo dục học, tâm lý học đến với giá trị học trong thời điểm nhấn mạnh hơn bao giờ hết đường lối “giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại” và cũng là lúc trong xã hội, thang giá trị, định hướng giá trị, thước đo giá trị có những biến động mạnh, những thay đổi lớn lao, thậm chí có chỗ đảo lộn, gây nhiều bức xúc, băn khoăn, lo lắng có khi đến cay đắng, đau lòng từ trong nhà ra ngoài ngõ. Người người, nhà nhà quan tâm đến giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, nhân cách. Cuốn sách này mong được đáp ứng, dù phần nhỏ, vào công việc hết sức trọng đại này của dân tộc. Để làm được việc đó, vì là một công trình khoa học, nên lại phải đi từ ngọn nguồn, dù chưa có điều kiện, cả về thời gian cả về tư liệu, có khi cả trình độ cũng có chỗ hạn chế, thực hiện đến nơi đến chốn, mong bạn đọc thông cảm. Thế là một cuộc hành trình không ít gian nan bắt đầu từ tìm tòi xem ý tưởng “Giá trị con người” có tự bao giờ, ai là tác giả, ý tưởng đó phát triển qua vài mốc chính đến khoa học về giá trị hiện đại, quan tâm nhiều hơn tới hệ giá trị một số nơi trên thế giới – châu Âu, Mỹ, Đông Á, Đông Nam Á – bao gồm những gì và tác dụng của chúng đối với tiến bộ xã hội trở thành văn minh, giàu có - mục đích chính của cuốn sách nhỏ này. Cuộc hành trình muốn đến đích này, lại phải dừng lại một số vấn đề cơ bản, như đối tượng và cơ sở triết học của giá trị học, trải nghiệm là cơ chế tạo lập và vận hành của giá trị và thái độ giá trị. Một điều tác phẩm nhất thiết phải đề cập đến, dù chưa được như mong muốn, là tìm hiểu các giá trị chung của loài người và con người: Tính người, tình người, các giá trị “Chân, Thiện, Mỹ”, giá trị sống còn, giá trị lao động, quan hệ người - người, giá trị trách nhiệm xã hội... Tóm lại, giá trị học trình bày trong tập sách này là bước đi mới ban đầu ở nước ta, gắn bó mật thiết với các khoa học: - Đạo đức học, - Văn hoá chính trị học, - Nghiên cứu con người – Nhân học văn hoá, - Tâm lý học – Tâm lý học giá trị, - Giáo dục học – Giáo dục học giá trị. Nội dung sách này có thể hỗ trợ các khoa học kể ra ở đây. Ngược lại, tri thức của các khoa học này có phần trợ giúp đắc lực cho tiếp thu sách này. Nhưng công trình này không nhằm đơn thuần trình bày một số hiểu biết về giá trị học, mà, như tên gọi cuốn sách, chủ yếu nhằm mục đích cung cấp cơ sở lý luận để đúc kết và xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam trong thời đại công nghiệp hoá theo hướng hiện đại, mở cửa hội nhập với khu vực, với thế giới (nói gọn: Thời nay). Vạn sự khởi đầu nan, hy vọng, khó khăn ban đầu được khắc phục, công việc sẽ thu được kết quả. Tiếp nối truyền thống dân tộc, từng người, gia đình và cả xã hội... hơn bao giờ hết giáo dục vun xới giá trị bản thân và cộng đồng, nhất là các nhà chức trách, các tổ chức, doanh nghiệp... thực sự trọng dụng, phát huy giá trị của từng con người, để chúng ta có nguồn nhân lực, “vốn người” hoàn toàn đủ sức (trên thực tế chúng ta có đủ tiềm năng, như lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh) đồng thuận, đoàn kết đưa nước ta thành một nước văn hiến phát triển, độc lập, giàu có, dân chủ, an bình, hạnh phúc. Đây cũng là ước muốn của tác giả, như tất cả các bạn. Như trên đã nói, tác phẩm còn xa mới đạt mức hoàn thiện, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Chỉ mong sao có bạn đọc và chờ đợi các bạn chỉ giáo những khiếm khuyết. Được vậy, tôi xin vô cùng cảm ơn! Hà Nội những ngày lịch sử năm 2010 TÁC GIẢ *** Bài mục thứ nhất Đi vào nghiên cứu giá trị học: Ý tưởng và triển khai Cuốn sách này viết về Giá trị học là Khoa học về Giá trị. Bài mục này (mục lục sách không theo “Phần...”, “Chương...”, mà theo “Bài mục...”) trình bày “lịch sử” quá trình lao động viết nên công trình này. Trong quá trình viết luận án Tiến sĩ khoa học “Hành vi và hoạt động” ở khoa tâm lý học, trường Đại học Tổng hợp Lômônôsốp (1973-1977), tôi đã quan tâm đến Giá trị học - Khoa học về Giá trị. Nhưng hồi ấy ở Liên xô chưa cho phép trình bày suy nghĩ đó, mãi khi về nước, tại Hội thảo tâm lý học toàn quốc tổ chức năm 1978 tại Nha Trang, trong báo cáo khoa học “Tâm lý học và khoa học nghiên cứu con người” tôi mới có thể trình bày khẳng định: “... tâm lý học phải coi trọng giá trị và quy luật giá trị đang tồn tại một cách khách quan...”, coi đó là “nội dung cơ bản của cuộc sống thực, trong đó đời sống người nảy sinh và phát triển...”(1). Khi nghiên cứu Tâm lý học Hành vi ở Mỹ - nơi có nền kinh tế thị trường từ lâu và đã thu được nhiều thành quả phát triển kinh tế rất khả quan - tôi ngày càng thấy rõ việc nghiên cứu tâm lý người trong trường tác động của quy luật giá trị, chính là con đường nghiên cứu tâm lý, như Các Mác đã chỉ ra, của “... những cá nhân hiện thực..., hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ”(2). Tuy nhiên, cuối thập kỷ 70 và suốt thập kỷ 80 thế kỷ trước, tôi được giao một số đề tài nghiên cứu khoa học khác, nên chưa đi vào đề tài giá trị học được, ngoại trừ dịp tôi nhận làm Tổng chủ biên tập sách “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục” (Viện Khoa học Giáo dục, Bộ Giáo dục, 1981). Khi lập đề cương cho tập sách trên, tôi vẫn đeo đuổi ý tưởng đưa giá trị học vào khoa học giáo dục nên đã giao cho PGS. TS. Trần Tuấn Lộ viết một bài theo hướng này. Rất tiếc bài viết đó lại chủ yếu nói về các giá trị thẩm mỹ. Kể từ sau “Đổi Mới”, Đảng và Nhà nước ta mới quan tâm thực sự thích đáng (cả về lý luận và thực tiễn) đối với quy luật giá trị, được tính đến không phải chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà cả trong nhiều lĩnh vực khác, nhất là đối với con người. Chính sách sử dụng nhân lực đã tạo thêm cơ sở xã hội thôi tôi thúc suy nghĩ tìm cách triển khai ý tưởng nghiên cứu giá trị học. Rất may mắn, những năm 1989 và 1990 tôi được Uỷ ban Khoa học - Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học – Công nghệ) mời tham gia vào Tiểu ban chuẩn bị một số chương trình nghiên cứu khoa học, rồi tiếp đó làm Chủ nhiệm Chương trình khoa học – công nghệ Nhà nước (KHCN NN) KX-07 “Con người - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” theo tư tưởng ghi trong Cương lĩnh của Đảng ta (1991). Phải nói thêm rằng đây là lần đầu tiên trong khoa học nước nhà có chương trình KHCN NN về con người: Cách tiếp cận mới với “nhân tố con người”, nhấn mạnh vai trò quan trọng của “nhân tố con người”. Với tư cách là Chủ nhiệm chương trình, tôi đề xuất 19 đề tài, được Ban chủ nhiệm chương trình nhất trí thông qua. Trong đó có đề tài về “Nhân cách”(3). Khi triển khai đề tài này cùng với đề tài “Phương pháp luận”, Chương trình đã vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị học vào triển khai; đồng thời, có đề tài nhánh nghiên cứu “Định hướng giá trị nhân cách” và “Giáo dục giá trị” (một đề tài do PGS (nay là GS) TSKH. Thái Duy Tuyên, một đề tài do PGS. (nay là GS.) TS. Nguyễn Quang Uẩn phụ trách(4). Có thể nói, KX – 07 là công tình đầu tiên triển khai ý tưởng đi vào nghiên cứu khoa học về giá trị (giá trị học) ở Việt Nam và đã đạt được một số kết quả ban đầu. Trong đó, đặc biệt, đã nêu lên nhận định khái quát về những biến đổi rất đáng kể trong định hướng giá trị ở thanh niên ta (nhận định này lần đầu tiên được công bố trong sách “Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới”, Phạm Minh Hạc, KX – 07, Hà Nội, 1994) và khẳng định một số giá trị chung của thế giới, như: Hoà bình, Phát triển, Dân chủ... và một số giá trị của dân tộc ta, như: Yêu nước, Cần cù, Hữu nghị... Giai đoạn những năm 2000-2006, theo tư tưởng bên cạnh cột trụ chính trị, cột trụ kinh tế, cột trụ xã hội, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh cột trụ “văn hoá, con người và nguồn nhân lực”. Chương trình KHCN NN “Phát triển văn hoá, con người và nguồn lực trong thời kỳ CNH, HĐH” do tôi làm Chủ nhiệm, có ba mảng: Văn hoá - Con người - Nguồn nhân lực, rất gắn bó với nhau và do đó phải có sự kết nối trong quá trình nghiên cứu. Chương trình đưa ra kết luận: từ giá trị văn hoá đến giá trị con người, cuối cùng ra giá trị nhân lực chứa đựng “lực lượng bản chất của con người” (Các Mác) là một dòng chảy - sức mạnh vô tận quan trọng nhất của nội lực dân tộc. Đây chính là ý nghĩa của giá trị học đối với cuộc sống, cũng như với chính trị học, ngày nay thường gọi là giá trị quan: vận dụng quan điểm giá trị vào văn hoá chính trị. Chương trình có cơ hội vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị học vào tâm lý học khi dành hẳn một đề tài nghiên cứu “giá trị nhân cách” theo phương pháp thực nghiệm đang dùng rộng rãi trên thế giới, kết quả phản ảnh trong một tập sách khá dày(5) những số liệu và nhận định rất lý thú, phần nào được giới thiệu ở bài mục Tâm lý học giá trị trong tác phẩm này. Do những kết quả nghiên cứu về con người trong mười năm (1990-2000), nhất là với sự kiện ngày 20 tháng 9 năm 1999, Viện nghiên cứu Con người (NCCN) thuộc Viện Khoa học Xã hội (KHXH) Việt Nam, Dự án Điều tra Giá trị Thế giới (ĐTGTTG) - viết tắt là WVS - đã quyết định kết nạp Việt Nam vào Dự án ĐTGTTG. Với việc tham gia hai đợt điều tra vào năm 2001 và 2006 theo một phương pháp chung, tham gia một số hội thảo quốc tế trong khuôn khổ Dự án (có báo cáo khoa học) và công bố một số kết quả nghiên cứu trên sách và tạp chí quốc tế nên chúng tôi có thêm nhiều thông tin mới để cập nhật hơn về lý luận và phương pháp nghiên cứu. Nói theo ngôn ngữ thường nhật bây giờ, đề tài của chúng tôi đã “hội nhập” với thế giới. Thực ra, khoa học từ sau thời Cổ đại, đặc biệt từ giữa thiên niên kỷ trước, luôn luôn mang tính quốc tế. Ở ta, khoa học còn mới mẻ, chắc có thể tính từ sau Cách mạng tháng Tám hoặc chính xác hơn từ sau năm 1954. Từ lâu chúng ta đã nói về các giá trị di sản văn hoá - lịch sử - cách mạng, nhưng chủ đề Giá trị học, như trình bày trong sách này, mới được đề cập lần đầu tiên trong thời kì Đổi mới và mãi sang đầu thế kỷ XXI chúng tôi mới có điều kiện bước đầu tìm hiểu lịch sử khoa học này: Năm 2004 công bố bài đầu tiên và phần lớn các bài mục trong tập sách này đã công bố trong 6 năm qua (2004 - 2010) trên tạp chí Nghiên cứu Con người, đôi bài trên tạp chí Giáo dục, Khoa học giáo dục, Tuyên giáo. Ngày 25 tháng 4 năm 2008 đánh dấu một mốc đáng ghi nhớ của công trình này: Theo sự phân công của Hội đồng lý luận Trung ương (HĐLLTƯ) và Viện KHXH Việt Nam, với tư cách nguyên là Viện trưởng Viện NCCN, tôi được trình bày báo cáo khoa học “Vấn đề xây dựng con người và nguồn nhân lực: Quan niệm, chính sách” với Bộ Chính trị. Báo cáo rút ngắn đã được HĐLLTƯ in trong một tập sách(6) và Viện NCCN đăng tải trong sách nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện(7). Trong phần cuối của báo cáo chúng tôi đề xuất và kiến nghị Đảng và Nhà nước công bố đúc kết Hệ giá trị Việt Nam. Được chính thức báo cáo như vậy đối với chúng tôi hết sức có ý nghĩa: đó là đã có “đầu ra” (phục vụ xã hội) có ý nghĩa quan trọng nhất đối với công trình khoa học – điều mà ai trong giới khoa học cũng mong muốn. Triển khai kết luận của Bộ Chính trị, tháng 9 năm 2008, Viện KHXH VN đã giao cho tôi đề tài NCKH cấp Bộ “Những luận cứ khoa học của việc xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập dưới tác động của toàn cầu hoá”, thực hiện trong 2 năm 2009 và 2010, theo đó tập trung vào cơ sở lý luận, chủ yếu sử dụng các cứ liệu của các chương trình, đề tài kể trên và chỉ điều tra định tính bổ sung cứ liệu cần thiết. Đề tài đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn tất bản thảo cuốn sách này; mạnh dạn đề xuất đúc kết, xây dựng Hệ thống giá trị chung của Việt Nam thời nay; thử đưa ra một phương án để xin ý kiến rộng rãi, phát huy tác dụng của Giá trị học, hy vọng có đóng góp - dù rất nhỏ nhoi - vào giữ gìn và xây đắp nền tảng tinh thần của dân tộc, từng cộng đồng..., đặc biệt, giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ, làm sao mỗi người đều tự mình, cũng như nhà trường, gia đình, xã hội giúp từng người kiến tạo nên những giá trị bản thân – giá trị nhân cách: Tâm lực, trí lực, thể lực; Phát huy các giá trị này, đồng thời (yêu cầu này rất quan trọng) cộng đồng xã hội tạo môi trường (điều kiện) lành mạnh cho mọi người tạo lập và sử dụng các giá trị bản thân: Quý trọng con người, đề cao, tận dụng giá trị con người (nguồn nhân lực - vốn người), nhất là trọng dụng nhân tài - đầu tàu của nguồn nhân lực, tạo nên cuộc sống an bình, thịnh vượng, hạnh phúc. Đóng góp nhỏ bé này, nếu thực hiện được, là mục tiêu tối thượng của tập sách và nói chung, của cả cuộc đời làm khoa học của tác giả. Lời nói đầu tiên không thể thiếu: tự đáy lòng tôi muốn được bầy tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các đồng chí lãnh đạo Đảng, các cán bộ quản lý khoa học nước nhà, các cơ quan chủ trì chương trình, đề tài cùng các bạn đồng nghiệp cộng tác trong các chương trình, đề tài do tôi phụ trách, các nhà xuất bản, các tạp chí đã công bố các sản phẩm của tôi trong suốt 20 năm qua (1990 - 2010) - nhờ vậy mà hôm nay có tác phẩm này. Giá trị học là một lĩnh vực khoa học rất phức tạp, khá nhạy cảm, đặc biệt trong thời gian này, lại là một chủ đề mới đối với tôi, nhiều chỗ có tính chất nêu vấn đề hơn giải quyết vấn đề. Cho nên không tránh khỏi thiếu sót, rất mong các bạn gần xa chỉ giáo. TÀI LIỆU THAM KHẢO (TLTK) 1. Phạm Minh Hạc. Tuyển tập tâm lý học. tr.493, tr.647, NXB. Giáo dục (GD), Hà Nội (HN), 2001; NXB. Chính trị quốc gia (CTQG), HN, 2005. 2. Các Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập, t.3, tr.28. NXB. CTQG, HN,1995. 3. Phạm Minh Hạc. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH. NXB. CTQG, HN, 2001. 4. Thái Duy Tuyên (Chủ biên), Lê Đức Phúc, Nguyễn Đức Uy, Đặng Thành Hưng, Nguyễn Đức Thạc, Nguyễn Thanh Hoàn, Nguyễn Thế Hùng. Giá trị Định hướng giá trị - Sự biến đổi định hướng giá trị con người Việt Nam hiện nay (tư liệu). KX-07-10.HN, 1993. Phạm Minh Hạc. Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới. KX- 07, HN, 1994. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang. Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị. KX- 07 – 04, HN, 1995. 5. Phạm Minh Hạc (Chủ biên), Vũ Thị Minh Chi, Nguyễn Văn Huy, Lê Thanh Hương, Phạm Mai Hương, Đào Thị Minh Hương, Nguyễn Công Khanh, Lê Đức Phúc. Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp NEO PI-R cải biên. NXB. Khoa học xã hội (KHXH), HN, 2007. 6. Hội đồng lý luận Trung ương. Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình hiện nay. Tập I. NXB. CTQG, HN, 2008. 7. Mai Quỳnh Nam (Chủ biên). Con người, Văn hoá - Quyền và phát triển. NXB. Từ điển bách khoa, HN, 2009. Công trình 20 năm 1991 - 2010 --------------- 3 Chương trình KHCN NN 1 đề tài cấp Bộ: Kết quả bước đầu Mời các bạn đón đọc Giá Trị Học của tác giả Phạm Minh Hạc.
Cách Sống Từ Bình Thường Trở Nên Phi Thường
Cuốn sách "Cách sống" của tác giả Inamori Kazuo gồm những triết lý, tư tưởng về cách sống được chính ông đúc rút từ thực tế sau nhiều năm lăn lộn trên thương trường. Trước thực tại trong xã hội hiện đại, nhiều người đang đánh mất dần phương hướng cuộc đời mình, không nhìn thấy giá trị cũng như ý nghĩa cuộc sống. "Chúng ta đang sống trong một thời đại lo âu, đầy biến cố, tương lai bất định. Vật chất đầy đủ nhưng tinh thần không thanh thản. Ăn ngon mặc đẹp nhưng vẫn thiếu quốc pháp gia phong. Tự do cởi mở nhưng đây đó vẫn tồn tại những vùng khép kín. Chỉ cần có ý chí là có thể làm được tất cả và có trong tay mọi phương tiện vậy mà con người vẫn bi quan chán chường, không ít những vụ bê bối, thậm chí tội ác. Vì sao lại có tình trạng tiêu cực như vậy trên phạm vi toàn xã hội? Có lẽ, do nhiều người không tìm thấy ý nghĩa và giá trị cuộc đời, đánh mất phương châm sống. Theo tôi, những hỗn loạn trong xã hội hiện nay bắt nguồn từ việc thiếu vắng nhân sinh quan. Mà không chỉ riêng tôi nghĩ như vậy. Điều khẩn thiết nhất trong thời đại hiện nay chẳng phải là câu hỏi cơ bản - Lẽ sống của con người là gì? - hay sao? Trước hết phải thiết lập nền tảng triết học cho cuộc đời và phải dũng cảm đối mặt với mọi vấn đề. Từ 'triết học' tôi nói ở đây có thể thay bằng các từ 'quan điểm' hoặc 'tư tưởng' đều được". Không ít bạn sẽ đặt ra câu hỏi ta sống để làm gì? Mục đích sống của cuộc đời ngắn ngủi này là gì? Thành công liệu có được định nghĩa bằng số lượng vật chất có được ở đời này?... Inamori Kazuo sẽ cho chúng ta biết câu trả lời qua hơn 200 trang sách. Trong Cách sống, Inamori Kazuo nêu rõ thành công của một con người dựa vào cách sống của người đó và đưa ra 5 nguyên tắc để thành công gắn liền với đạo làm người. Biến suy nghĩ thành hiện thực Inamori Kazuo khẳng định rằng tâm thức là yếu tố quyết định vận mệnh của mỗi người, khi tâm tiêu cực thì sẽ gọi hiện thực tiêu cực đến. Bên cạnh đó, tác giả đưa ra lời khuyên tới tất cả bạn đọc hãy suy nghĩ không ngừng nghỉ, ngay cả trong giấc ngủ. Bởi chúng ta không thể có ý tưởng và sáng tạo hay nếu lười suy nghĩ. Và khi ta hình dung ra mọi chi tiết của công việc,lên kế hoạch và chuẩn bị thực hiện chúng chắc chắn thành công sẽ đến với bạn. Những nỗ lực không ngừng nghỉ sẽ biến điều bình thường trở nên phi thường. Đừng để cuộc đời ta trở nên vô nghĩa, hãy ôm ấp hoài bão cho mình và một lần cố gắng thực hiện chúng, dù khó khăn cũng không bỏ cuộc. Suy nghĩ từ nguyên lý đến nguyên tắc Inamori Kazuo khuyên xây dựng những nguyên lý, nguyên tắc cơ bản đúng với đạo làm người và sử dụng nó làm kim chỉ nam cho bất cứ hành động nào. Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta hãy tập trung công sức cho công việc của mình. Mỗi khi khó khăn ập đến, bạn hãy nhìn lại và bám theo những nguyên lý, nguyên tắc đã đặt ra trước đó. Có thể coi đây là yếu tố quan trọng cả trong lĩnh vực kinh doanh và cuộc sống. Mài giũa nhân cách và nâng cao tâm hồn Inamori Kazuo quan niệm trong suốt cuộc đời, quá trình mãi giũa nhân cách, tâm hồn không bao giờ ngừng nghỉ. Theo ông, năng lực có thể do bẩm sinh, nhiệt huyết tìm thấy trong quá trình lao động nhưng nếu đi sai hướng thì không thể thành công. Trong xã hội, thực tế đã chứng minh rằng địa vị càng cao thì nhân cách càng lớn. Bản thân chúng ta cảm thấy hạnh phúc khi được làm việc nhưng đừng quên luôn phải sửa mình, bỏ bớt lòng tham, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng nói câu cảm ơn. Nếu trong thâm tâm bạn cảm thấy cần phải thay đổi bản thân hãy làm ngay hôm nay đừng đợi đến ngày mai. Sống với lòng vị tha Vị tha không phải là cái gì quá cao xa, nó đơn giản chỉ là những hành động suy nghĩ cho người khác, cống hiến hết mình cho nhân loại, cho xã hội. Chỉ khi nào ta sống hết mình vì người khác thì bản thân mới cảm thấy hạnh phúc. Vậy nên trước khi làm việc gì, bạn hãy tự hỏi mình hành động đó có động cơ gì? Hòa hợp với dòng chảy của vũ trụ Có 2 bàn tay vô hình chi phối cuộc đời con người, đó là “số mệnh” và “luật nhân quả báo ứng”. Con người sẽ nhận lãnh đúng với những gì mình đã làm, đã bỏ ra. Tuy mỗi người có mệnh sẵn nhưng nếu biết vận dụng luật nhân quả có thể thay đổi vận mệnh cho mình. Đừng vội chờ đợi luật nhân quả ứng dụng, hãy sửa đổi nó bằng cách nghĩ điều thiện, làm việc thiện. Như vậy bản thân ta cũng cảm thấy thanh thản hơn và tránh được tai họa xảy ra. Toàn bộ tư tưởng trong Cách sống không hề khô khan, giáo điều. Những kinh nghiệm, câu chuyện mang đầy tính thuyết phục. Và bản thân ông là minh chứng sống chân thực nhất về mối quan hệ giữa thành công và cách sống của một người. *** Nhìn lại cách sống của chúng ta trong thời hiện đại Chúng ta đang sống trong một thời đại lo âu, đầy biến cố, tương lai bất định. Vật chất đầy đủ nhưng tinh thần không thanh thản. Ăn ngon mặc đẹp nhưng vẫn thiếu quốc pháp gia phong. Tự do cởi mở nhưng đây đó vẫn tồn tại những vùng khép kín. Chỉ cần có ý chí là có thể làm được tất cả và có trong tay mọi phương tiện vậy mà con người vẫn bi quan chán chường, không ít những vụ bê bối, thậm chí tội ác. Vì sao lại có tình trạng tiêu cực như vậy trên phạm vi toàn xã hội? Có lẽ, do nhiều người không tìm thấy ý nghĩa và giá trị cuộc đời, đánh mất phương châm sống. Theo tôi, những hỗn loạn trong xã hội hiện nay bắt nguồn từ việc thiếu vắng nhân sinh quan. Mà không chỉ riêng tôi nghĩ như vậy. Điều khẩn thiết nhất trong thời đại hiện nay chẳng phải là câu hỏi cơ bản – Lẽ sống của con người là gì? – hay sao? Trước hết phải thiết lập nền tảng triết học cho cuộc đời và phải dũng cảm đối mặt với mọi vấn đề. Từ “triết học” tôi nói ở đây có thể thay bằng các từ “quan điểm” hoặc “tư tưởng” đều được. Đó có thể là hành động vô vọng giống như tưới nước cho sa mạc, khó khăn chẳng khác nào đóng cọc xuống đáy biển khi thuỷ triều dâng. Tuy vậy, đây lại là câu hỏi thẳng thắn, rõ ràng và có ý nghĩa lớn lao trong thời đại mà đây đó có xu hướng khinh thường những người lao động miệt mài thầm lặng. Nếu chúng ta không nhìn lại cách sống của mình từ gốc thì tình hình sẽ ngày càng trầm trọng, hỗn loạn trong xã hội ngày càng lan rộng, tương lai ngày càng mờ mịt. Chắc chắn rằng không phải riêng tôi cảm nhận được nguy cơ và mang trong lòng nỗi lo lắng bồn chồn như vậy. Trong cuốn sách này, tôi muốn nhìn lại cách sống của con người từ chính diện, xem xét bản chất sự vật từ cốt lõi và nói thẳng thắn những suy nghĩ của mình. Tôi muốn xem xét lại từ cội nguồn, ý nghĩa cuộc sống và định hướng tương lai, muốn đóng một cây cọc nhỏ bé xuống dòng nước chảy xiết của thời đại. Đối với tôi, không có gì vui hơn khi bạn tìm thấy niềm vui trong đời sau khi đọc xong cuốn sách này hoặc lời giải đáp cho những vấn nạn để sống hạnh phúc. Mời các bạn đón đọc Cách Sống Từ Bình Thường Trở Nên Phi Thường của tác giả Inamori Kazuo.
Kỹ Năng Ra Quyết Định Hiệu Quả
Về phương pháp, có lẽ có một triệu hoặc thậm chí hơn, nhưng các nguyên tắc thì rất ít. Người nắm bắt được các nguyên tắc có thể thành công trong việc tìm ra phương pháp cho riêng mình. Người thử các phương pháp, nhưng lại bỏ qua các nguyên tắc, thì chắc chắn sẽ gặp rắc rối." — RALPH WALDO EMERSON Các quyết định có tầm quan trọng đáng kể trong hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống. Về mặt chuyên môn, chúng được cho là một thứ tạo ra sự khác biệt đối với mức độ thành công mà chúng ta đạt được, bởi vì chúng quyết định cách mà chúng ta áp dụng những kỹ năng của mình. Kỹ năng ra quyết định cũng chứng minh quy mô và thể loại vấn đề chúng ta có thể giải quyết, do đó có liên quan chặt chẽ tới việc chúng ta có thể tiến bao xa và phát triển bao nhiêu. Không có lý do gì để nghĩ rằng tầm quan trọng của việc ra quyết định sẽ bị giảm đi trong thời gian tới. Khi tôi đang viết cuốn sách này, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã tiết lộ danh sách 10 kỹ năng hàng đầu mà họ tin là chúng ta cần có ở nơi làm việc đến năm 20201. Ba kỹ năng đầu tiên là “giải quyết vấn đề phức tạp”, “tư duy phản biện”, “sáng tạo”, tất cả đều là những yếu tố quan trọng để ra các quyết định hiệu quả (đừng lo, nếu bạn không nhận ra sự sáng tạo là một khía cạnh cơ bản của ra quyết định, bạn sẽ nhận ra ở cuối Phần 1 của cuốn sách này). Trong khi đó, “sự suy xét và quyết định” được liệt kê ở vị trí thứ sáu, và “linh hoạt trong nhận thức”, nếu thiếu nó thì không có được sự sáng tạo thì lại nằm ở vị trí số 10. Bởi vậy, nếu muốn thành công, bạn nên đảm bảo rằng mình là một người ra quyết định tốt. Hãy xem nhanh những nội dung liên quan. Mặc dù việc ra quyết định xảy ra ở một thời điểm cụ thể, nhưng để hiểu rõ hơn về những thách thức có liên quan, chúng ta cần xem xét toàn bộ quá trình. Đây là một cách tiếp cận khá chuẩn xác: 1. Hiểu vấn đề 2. Tập hợp thông tin liên quan 3. Phân tích các thông tin đó 4. Rút ra điều gợi ý từ kết quả 5. Xác định các phương án 6. Quyết định phương án thực hiện 7. Hành động Theo lịch sử, các chuyên gia tìm ra được kỹ năng thực hiện quá trình này một cách nhanh chóng và chắc chắn. Kinh nghiệm trước đây cho phép họ hoàn thành một cách hiệu quả ba nhiệm vụ đầu tiên, bởi vì họ biết những gì cần tìm kiếm. Họ sẽ hiểu được những thông tin và có thể áp dụng trong những tình huống khác nhau mà vẫn không vượt ra ngoài khuôn khổ. Đó là bản chất của sự hiểu biết “cách làm tốt nhất”, và nó được đánh giá cao, vì lí do chính đáng. Họ có sự đánh giá sâu sắc về cách thực hiện kế hoạch. Kỹ năng ra quyết định có vai trò quan trọng đối với tất cả các ngành nghề như luật sư, kỹ sư, nhà khoa học, bác sỹ, kiến trúc sư, tư vấn viên, doanh nhân hay những nhà lãnh đạo trong kinh doanh. Đây là con đường đến với sự công nhận và tôn trọng, và là yếu tố to lớn trong việc chứng minh giá trị của một người trong thương trường. Hiện tại, chúng ta đang đứng giữa ranh giới của sự chuyển đổi. Tôi biết rằng, cụm từ “chuyển đổi” đã bị quá lạm dụng khi dùng để mô tả về sự thay đổi nhỏ của các công ty. Chuyển đổi thực sự là khi một tờ giấy được đặt trên một ngọn lửa - không thể quay trở lại như ban đầu. Tôi sử dụng từ “chuyển đổi” một cách có chủ ý, bởi vì sẽ không có đường lùi cho những gì đang diễn ra. Nó đã bắt đầu, và đến khi nó thực sự kết thúc, về cơ bản nó sẽ thay đổi cách chúng ta tạo nên giá trị. Câu hỏi đặt ra là, bạn sẽ theo kịp chứ? Năm 1987, với vai trò là một sỹ quan mới tốt nghiệp ở Lực lượng Không quân Hoàng gia, chịu trách nhiệm liên lạc và trợ giúp điều hướng trong một căn cứ không quân, tôi từng cập nhật các kế hoạch dự phòng để giải quyết thiệt hại có thể gây ra bởi cuộc không kích của địch. Khi hoàn thành từng phần, nó sẽ được gửi tới cho văn phòng đánh máy; sau đó, khi nó được trả lại, tôi đọc để tìm lỗi và gửi lại trang nào có lỗi để đánh máy lại một lần nữa. Việc đó tốn nhiều thời gian, không hiệu quả và khá tẻ nhạt, nhưng tôi đã không nhận ra rằng, sau đó – tôi chỉ đang làm công việc của mình thôi. Đó là khoảng thời gian tôi nhận được chiếc máy tính đầu tiên của mình, khi đó tôi đã nghĩ, “Mình cần làm gì với nó?” Tôi am hiểu tương đối về công nghệ khi có một tấm bằng kỹ sư, với đồ án tốt nghiệp liên quan đến việc viết mã máy tính, để tôi có thể kiểm soát một phần của hệ thống sản xuất, nhưng tôi vẫn không thể dự tính được mình sẽ sử dụng một chiếc máy tính trong công việc như thế nào, chưa kể đến việc công suất tính toán có thể thay đổi thế giới công việc ra sao (tôi sẽ nói về thách thức này đối với việc ra quyết định của chúng ta, điều được gọi là Nhận thức bị giới hạn (sẽ được đề cập ở phần sau của cuốn sách). Nhưng sự thiếu nhận thức trong những trường hợp như thế này sẽ ảnh hưởng tới kết quả làm việc, và chúng ta, đặc biệt là những nhân viên đánh máy kia, đều buộc phải thay đổi. Sau này, khi máy tính cách mạng hóa quy trình sản xuất, sử dụng rô-bốt thay thế trong nhiều khâu, thì đối với nhiều chuyên gia và những người trong ngành công nghiệp dịch vụ, tác động của nó lại tương đối nhỏ. Không có nhiều người bị mất việc làm hay phải thay đổi bản chất công việc – họ chỉ làm việc nhanh hơn thông qua giao diện máy tính. Hiện tại với sự hỗ trợ của máy tính, chúng ta sẽ tiếp cận được với nhiều dữ liệu hơn. Tuy nhiên nếu dự đoán sai, sự thay đổi sẽ chỉ giống như một gợn sóng trên đại dương, bởi Trí tuệ nhân tạo (AI) đang đến, và với sự xuất hiện của nó, nhiều công việc sẽ nhanh chóng mất đi. Chỉ cần nghĩ xem một cái máy thông minh sẽ làm gì để đưa ra quyết định. Chúng có thể sẽ vượt trội hơn cả những chuyên gia thuộc giai đoạn hai và ba của quá trình ra quyết định, 2 giai đoạn mà có nhiều chuyên gia có kỹ năng nhất. Chúng có thể tiếp thu nhanh hơn và chính xác hơn, không cạn kiệt năng lượng, chúng có khả năng ghi nhớ hoàn hảo, thậm chí, chúng còn có tư duy thông minh hơn cả con người trong những tình huống nguy cấp như chẩn đoán y khoa. Hơn nữa, chúng không chịu sự tác động của những vấn đề có thể ảnh hưởng đến con người. (tôi sẽ giới thiệu với bạn trong cuốn sách này). Còn bao lâu nữa trước khi các vấn đề kinh doanh phức tạp được phát hiện, các hành động được đề xuất, bởi một bộ máy. Nếu đó là toàn bộ câu chuyện, thì chúng ta sẽ gặp rắc rối lớn. Sự suy giảm trong khả năng tạo ra giá trị của chúng ta hầu như hoàn toàn không thể tránh khỏi – câu hỏi là “khi nào”, chứ không phải “nếu”. Tuy nhiên, có những thứ mà chỉ con người mới có khả năng làm; các kỹ năng mà máy móc không có khả năng thực hiện trong một thời điểm cụ thể, hoặc là vô thời hạn. Chúng bao gồm khả năng hiểu những khái niệm và tình huống mới, khả năng kết nối với con người ở mức độ tình cảm, và khả năng sáng tạo, đổi mới và phát minh. Chúng ta cần nắm được những thế mạnh này, và điều thú vị là vì nhịp độ thay đổi của thế giới đang tăng, dẫn đầu bởi các công nghệ tiên tiến như là các hệ thống AI, cho nên yêu cầu về những khả năng này của con người cũng tăng. Điều này đặc biệt đúng trong việc ra quyết định ở các lĩnh vực khác nhau, nơi mà việc đáp ứng được những nhu cầu và thách thức của thế giới mới sẽ không chỉ giới hạn trong những vấn đề bạn có thể xử lý mà còn nhiều hơn thế. Những biến động phức tạp và mơ hồ này, đã trở thành chủ đề phổ biến cho các bài báo về lãnh đạo và kinh doanh trong những năm qua. Trong cuốn sách này, tôi sẽ chỉ cho bạn biết tại sao những thách thức tạo ra bởi một môi trường khó lường thì không thể được đáp ứng bởi hình thức ra quyết định như đã nói ở trên, và điều mà bạn cần làm để thay thế. Chúng ta sẽ xem xét một vài khả năng mà bạn có thể làm gia tăng giá trị, cho dù công nghệ có mang tới bất cứ điều gì. Điều mà tôi hy vọng thể hiện một điều rằng khả năng nhận thức và tư duy khác biệt nằm trong tầm tay của chúng ta đang dần trở nên quan trọng trong việc ra quyết định hơn bất cứ sự hiểu biết nào của bạn từ trước tới nay. Đó là tin vui. Tin không vui là không có nhiều cố gắng phát triển khả năng cần có trong thế giới mới này, hoặc thậm chí biết cách để bắt đầu làm như vậy. Để thành công, bạn sẽ cần sự tập trung khác biệt vào những điều bạn được dạy từ khi còn ngồi ở ghế nhà trường, và những điều đã được xã hội công nhận và tưởng thưởng. Bạn cũng sẽ cần đến một cách tiếp cận khác với những điều chúng ta vẫn luôn được dạy. Nó không thực sự là “phương pháp” hay “kỹ thuật” - cách tiếp cận này cần một cuốn bách khoa toàn thư bao gồm tất cả các khía cạnh. Nó là sự tổng hợp của các nguyên tắc, dựa trên những kiến thức đáng tin cậy về cách trí não chúng ta hoạt động, cho bạn biết những gì đang diễn ra và những gì sẽ tới. Tôi sẽ tìm cách giải quyết vấn đề đó trong cuốn sách này. Mỗi chương sẽ giới thiệu một nguyên tắc, tôi tin mỗi nguyên tắc đều quan trọng cho việc phát triển các kỹ năng ra quyết định cần có trong tương lai. Chúng được trình bày theo một cấu trúc khuôn khổ sẽ giúp bạn thấu hiểu sâu sắc về mối liên hệ của chúng. Với những hiểu biết ngày càng tăng cao, bạn sẽ biết phải làm gì, tại sao, còn việc thực hiện chúng “như thế nào” để dễ dàng hơn sẽ được tôi mô tả trong Phần 3. Tôi hi vọng bạn sẽ thích cuốn sách này, thấy nó thú vị và rằng nó sẽ thách thức một số niềm tin đã hình thành trong bạn, bởi là cách hữu hiệu để thúc đẩy sự học hỏi. Quan trọng hơn, đây là thời đại chỉ biết không thôi là chưa đủ - chúng ta phải hành động - nên tôi mong cuốn sách sẽ truyền cảm hứng cho bạn thực hiện các công việc cá nhân cần thiết để đưa ra các nguyên tắc mà bạn sẽ áp dụng vào thực tế. Hãy biết rằng nếu bạn không làm gì cả, thì đó cũng vẫn là một quyết định – một quyết định ủng hộ nguyên trạng. Đó là một quyết định đặt sự thoải mái lên trước cơ hội. Và sau này bạn sẽ nhận ra rằng, đó là một quyết định sẽ đặt bạn vào nguy cơ thức dậy vào một ngày và nhận ra rằng thế giới đã và đang thay đổi, rằng bạn không tận dụng được nó. Hoặc, thay vào đó, bạn có thể quyết định đón đầu, từ đó bắt đầu tích lũy lợi ích và sẵn sàng lực lượng khi sự biến đổi sắp tới “va” vào chúng ta. Ghi chú: 1. www.weforum.org/agenda/2016/01/the-10-skills- you-need-tothrive-in-the-fourth-industrial- revolution/. *** Những lời khen dành cho cuốn sách “Michael Nicolas đã tạo ra một tác phẩm hấp dẫn. Cuốn sách này thách thức bạn theo nhiều cách - đặc biệt là cách bạn đưa ra quyết định trong mọi lĩnh vực cuộc sống chứ không chỉ riêng trong việc kinh doanh. Cuốn sách sẽ đưa người đọc qua một cuộc hành trình hợp lí, giàu dữ liệu và đã được khoa học chứng minh, khiến bạn tạm dừng lại và suy ngẫm về vô số sự kiện. Nếu một năm bạn chỉ đọc một cuốn sách, tôi chân thành khuyên bạn nên đọc cuốn sách này - bạn sẽ không cảm thấy thất vọng đâu.” STEPHEN MURPHY, Giám đốc Kinh doanh Quốc tế của DJO Global “Tôi thường không bao giờ quá phấn khích về mô hình ra quyết định hay cách viết nào, tuy nhiên, đây là một tài liệu tuyệt vời của Michael Nicolas. Cuốn sách là sự hợp lý toàn diện về lịch sử và giải thích về việc ra quyết định dựa trên cơ sở khoa học được minh họa bằng các ví dụ với những thông tin tuyệt vời, đúng thời điểm một cách kỳ diệu. Sau đó nó kết luận khá thuyết phục rằng theo cách thức mới, bất chấp sức mạnh của các giải pháp dựa trên trí tuệ nhân tạo đang nổi lên, vẫn cần tập trung vào tác động con người chứ không phải máy móc, và tiếp cận có ý thức làm cốt lõi. Tôi đặc biệt thích chương ‘Thử thách từ-trong- ra-ngoài’.” BEN BENGOUGAM, Phó giám đốc nhân sự cao cấp của EMEA, Hilton “Trong vài năm qua, chánh niệm đã trở thành một phần quan trọng trong kinh doanh. Để có được hiệu quả cao, chúng ta cần đưa nó đến cuộc sống theo cách giúp chúng ta thay đổi tư duy và hành vi, giống như một giáo viên có ảnh hưởng tốt tới học sinh vậy. Michael làm được điều này trong cuốn sách mới của anh ấy, tạo ra một lý lẽ có sức thuyết phục rằng, chánh niệm có thể là người cầm lái chính trong việc cải thiện một trong những kỹ năng quan trọng nhất của việc lãnh đạo – kỹ năng ra quyết định. Nó mới mẻ, kích thích tư duy và rất lý thú. Đây chắc chắn là cuốn sách mà tôi sẽ giới thiệu cho những người khác.” ROBBIE FEATHER, Giám đốc Thương mại của Argos Ra quyết định dựa trên lý trí từ lâu đã trở thành một cách tiếp cận tự nhiên được các nhà chiến lược và các nhà lãnh đạo kinh doanh cùng đồng thuận. Nhưng trong cuốn sách này, một điều đã được chứng minh rằng khi tốc độ kinh doanh tăng lên và môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn thì cách tiếp cận trên dần mất đi sự tin sự tin cậy. Trong tương lai, kinh doanh sẽ chú trọng vào việc học phát triển các khía cạnh về tư duy và phán đoán, chứ không đơn thuần chỉ tập trung vào các kỹ năng cũ dựa trên kinh nghiệm. Quan trọng là, cuốn sách này sẽ mách nước cho bạn.” ROB WOODWARD, Giám đốc Điều hành, STV Group plc “Cuốn sách này chứa đầy những suy nghĩ và thông tin sẽ thay đổi hiểu biết của bạn về việc ra quyết định, cho bạn thấy rằng với việc ra quyết định một cách tự phát, bản năng sẽ không đưa bạn đến đâu cả. Michael đã cung cấp đầy đủ những thông tin - từ việc học hỏi từ những sai lầm và phá vỡ các quy tắc để nhận thức được việc tập trung chú ý có thể định hình lại khả năng ra quyết định như thế nào. Hãy tận hưởng nó!” KAI BOSCHMANN, Giám đốc Điều hành và Truyền thông, SOS quốc tế “Không còn nghi ngờ gì rằng số lượng các quyết định chúng ta phải thực hiện và số lượng thông tin sẵn có để xem xét trong một quá trình, đều tăng trưởng theo cấp số nhân. Vậy làm thế nào chúng ta tổng hợp và giải quyết những mối phức tạp này một cách nhanh chóng và tự tin? Cuốn sách này sẽ cung cấp cho bạn những kiến thức hoàn toàn mới về cách sử dụng bộ não một cách khác biệt để tạo ra các quyết định nhanh hơn và tốt hơn. Hơn nữa, không giống như nhiều cuốn sách kinh doanh khá khoa trương và không gây được hứng thú khác, cuốn sách này đã giải quyết được một vấn đề phức tạp theo chiều sâu, nhưng vẫn dễ đọc, dễ tiếp nhận và tạo hứng thú. Một cuốn sách xuất sắc!” RHIAN BARTLETT, Giám đốc cấp cao, Tập đoàn eCommerce đa quốc gia “Cuốn Kỹ năng ra quyết định hiệu quả dạy bạn cách rèn luyện để thành công bằng việc cải thiện đáng kể sự tự nhận thức và tập trung chú ý hơn. Bởi vì tôi có thể chứng thực từ kinh nghiệm bản thân, và vì khi làm như vậy, bạn sẽ có khả năng phản hồi hơn là phản ứng, cho phép bạn đưa ra các quyết định linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với thách thức phải đối mặt. Giống như tất cả mọi thứ đáng giá khác, việc ứng dụng các ý tưởng trong cuốn sách này sẽ cần một vài nỗ lực, đặc biệt ở mức độ tinh thần, nhưng kết quả – bao gồm sự phán xét hợp lý hơn, các mối quan hệ tốt hơn, cả trong công việc và trong cuộc sống của bạn nói chung – sẽ rất xứng đáng.” RICHARD CRAMPTON, Giám đốc Quản lý, tập đoàn Bán lẻ và dịch vụ “Cuốn sách này sẽ khiến bạn ngạc nhiên nếu bạn chưa bao giờ nhìn vào chiều sâu của sự ảnh hưởng mà thế giới bên trong tác động tới cách chúng ta nhận thức và đánh giá các sự kiện bên ngoài. Nó là một trong những cuốn sách tốt nhất mà tôi từng đọc, giúp giải quyết không chỉ về ‘cái gì’ mà còn ‘như thế nào’ trong việc ra quyết định, trong đó hiệu quả là khi các vấn đề được cải thiện bắt đầu từ bên trong. Cuốn sách này sẽ giúp bạn làm điều đó.” AIDAN NEILL, Giám đốc Điều hành, Bitposter “Tìm hiểu cách thức giúp bạn thành công trong môi trường không ngừng thay đổi hiện nay. Nếu như bạn đã đọc bất kỳ cuốn sách nào về nhận thức nhưng vẫn chưa có câu trả lời cho mình về việc làm thế nào để cải thiện kỹ năng ra quyết định, thì cuốn sách này dành cho bạn. Sử dụng những kiến thức khoa học mới nhất để lý giải nguyên nhân tại sao những khuynh hướng nhận thức mà chúng ta biết hiếm khi giúp chúng ta giải quyết vấn đề một cách hiệu quả, và chúng ta phải làm gì để phát triển kỹ năng nhận thức, tập trung vào những yếu tố quan trọng. Đây không phải là cuốn sách mà bạn nghĩ rằng chỉ cần xem qua là đủ – nó sẽ buộc bạn phải tư duy. Đối với tôi, đó là một điều tốt. Tôi yêu thích nó. Michael là một nguồn cảm hứng thực sự, cả trong vai trò là một huấn luyện viên hay một tác giả.” MICHELLE BURTON, Giám đốc nhân sự, Poundland “Nếu bạn muốn tiến bộ vượt bậc, và hiểu rõ các cách tiếp cận để ra quyết định mà chúng ta đã trở nên quen thuộc, cho tới các cấp độ cao nhất cần thiết cho lãnh đạo, hãy đọc cuốn sách này. Nó trình bày một cách sâu sắc vấn đề tại sao và khi nào cần thay đổi, và sẽ chỉ cho bạn cách biến những kiến thức thành kết quả vượt xa các quy chuẩn thông thường.” PAUL, SAGO, Giám đốc Điều hành, Lemon Group “Cuốn Kỹ năng ra quyết định hiệu quả trình bày chi tiết về các yếu tố bên trong và bên ngoài định hướng các quyết định. Bạn đã từng coi bản thân là một người đưa ra quyết định theo lý trí hay chưa? Đọc cuốn sách này, bạn sẽ dừng lại để suy nghĩ rằng rốt cuộc mình có tiềm năng cải thiện óc phán xét hay không. Bằng cách hướng sự chú ý vào bên trong, nó cũng chỉ ra cách hướng tới nguồn động lực và tư duy, chúng ta có thể gia tăng sự tự nhận thức và do đó tạo ra sự cải thiện kết quả bên trong. Một tài liệu thật hấp dẫn và sâu sắc.” JAT SAHOTA, Trưởng phòng Thương mại và Bán lẻ, Land Securities “Michael cung cấp một mức độ hiểu biết khác về lí do chúng ta quyết định theo cách chúng ta đã làm, những ‘quy luật của trò chơi’ thay đổi như thế nào và, quan trọng hơn, cách chúng ta có thể cải thiện việc ra quyết định của mình. Tôi nghi ngờ rằng liệu đây có phải là cuốn sách bạn muốn xem qua vào buổi tối hay không, bởi vì dành thời gian cho việc suy nghĩ sâu hơn có thể mang tới những lợi ích to lớn về mặt tự nhận thức, giá trị của điều này chỉ là một trong nhiều nguyên tắc mà cuốn sách sẽ giải quyết. Một công cụ tuyệt vời, và hiệu quả!” DARREN SINCLAIR, Giám đốc Quản lý khu vực, Sainsbury’s “Các quyết định là thiết yếu đối với cách chúng ta điều hướng cuộc sống hằng ngày, cả ở nơi làm việc và cuộc sống bên ngoài. Chúng ta quyết định hàng trăm, hàng ngàn việc quan trọng khác nhau mỗi ngày, và có bao nhiêu người trong số chúng ta thực sự dừng lại để suy nghĩ về việc làm thế nào để cải thiện việc ra quyết định của mình. Cuốn sách của Michael Nicholas thách thức tất cả chúng ta suy nghĩ về điều gì là trung tâm của quyết định và hiểu được cách thức giúp chúng ta cải thiện chất lượng của các quyết định thông qua sự tự nhận thức về vai trò của ý thức và tiềm thức trong quá trình tư duy. Nói một cách đơn giản, bí quyết để đưa ra quyết định tốt bắt đầu từ trong ra ngoài, là sẵn sàng hiểu và thay đổi bản thân.” GARETH CAMPBELL, Đối tác cao cấp, Công ty tư vấn quốc tế “Cuốn sách này là một tài liệu vô cùng thú vị và kích thích tư duy - khám phá và phát triển một cách tiếp cận mang tính thách thức mà phần lớn chúng ta mới chỉ bắt đầu nhận ra và thấu hiểu. Dĩ nhiên nó không chỉ là một cuốn sách quản lý trong công việc, với những thông tin sâu sắc về các cách thức tư duy và cảm xúc, nó còn giúp ích cho những vấn đề khác trong cuộc sống. Cụ thể, nó nhắc nhở tôi về sự thiết yếu của việc luôn luôn học hỏi, nó cho tôi sự tự tin để phát triển, và dẫn đường để tôi thực hiện mọi thứ một cách hiệu quả.” CHRIS GREEN, Giám đốc Điều hành, Arcus *** Michael Nicholas dành cả sự nghiệp của mình để làm lãnh đạo, đồng thời giúp đỡ những nhà lãnh đạo khác thay đổi trong việc tác động đến người khác, nâng tầm ảnh hưởng, khả năng sáng tạo và thích nghi của họ. Ông liên tục thách thức bản thân và người khác đặt câu hỏi về sự hiểu biết thông thường và cách mạng hóa tư duy và hành vi. Từng làm việc trong những môi trường có nhiều thách thức, Michael thấu hiểu việc cần phải học cách quản lý những áp lực, điều mà các khách hàng của ông phải giải quyết để đáp ứng được kỳ vọng về hiệu suất công việc. Quan trọng hơn, ông có một khả năng đã được chứng minh là có thể truyền tải những điều ông đã học hỏi được cho người khác. Điều này cho phép những rào cản, và những yêu cầu về hiệu suất cao được giải quyết tận gốc rễ, tạo chất lượng cao, thay đổi về lâu dài và cải thiện kết quả theo hướng bền vững. Bắt đầu công việc đào tạo từ năm 2004, Michael trở thành một huấn luyện viên giàu kinh nghiệm và là một diễn giả chuyên nghiệp với nhiều giải thưởng. Ông chuyên về mảng ra quyết định, trí tuệ cảm xúc và gắn kết nhân viên, với phạm vi khách hàng từ các công ty FTSE hàng đầu, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho tới các doanh nghiệp năng động. Cách đào tạo sâu sắc và hướng đến kết quả của ông có cơ sở vững chắc từ kinh nghiệm thực tế 30 năm thu thập được khi làm việc với các nhà lãnh đạo đến từ nhiều ngành công nghiệp khác nhau, nắm giữ vị trí kinh doanh cấp cao, phục vụ tại ngũ như một sỹ quan quân đội, và hoàn thành khóa đào tạo khoa học nghiêm ngặt bắt buộc để trở thành một kỹ sư đủ tư cách hành nghề.   Mời các bạn đón đọc Kỹ Năng Ra Quyết Định Hiệu Quả của tác giả Michael Nicolas.
Góc Nhìn Của Người Thông Thái
Những câu chuyện của Fulghum hết sức bình thường và đơn giản như “Bộ sưu tập trên cánh cửa tủ lạnh”, nhưng với góc nhìn của Fulghum, ông cho rằng: “Khi bạn không còn được nhìn thấy những tác phẩm nghệ thuật mới bổ sung vào bộ sưu tập trên cánh cửa tủ lạnh, điều đó đánh dấu sự trưởng thành của con cái bạn. Vài năm sau đó, khi tủ lạnh nhà bạn lại đầy ắp những tác phẩm nghệ thuật mới, nghĩa là con cái của bạn đã trở thành những bậc phụ huynh. Khi đã lên chức ông, chức bà, bạn sẽ càng say mê hơn với các tác phẩm nghệ thuật trên cánh cửa tủ lạnh và sẵn sàng dán lên đó bất cứ thứ gì mà lũ cháu nội, ngoại yêu cầu.” Hay trong “Trường học, trẻ con, người lớn và những điều phải học”, tác giả đưa ra một vấn đề mà khiến ta ngạc nhiên vì nó hẳn thế nhưng ta đã không để ý, đã để nó bị lấp đi:” Khi được hỏi tại nhà trẻ: “Bao nhiêu bạn ở đây có thể vẽ?”, mọi cánh tay đều giơ lên. Tất nhiên là tất cả chúng con đều biết vẽ. Thế các con có thể vẽ cái gì? Tất cả mọi thứ! Thế cảnh một con chó đang nuốt chiếc xe cứu hỏa trong rừng thì sao? Dĩ nhiên rồi. Thầy muốn con chó to cỡ nào?“Ai trong số các con có thể hát?”. Tất cả đều giơ tay. Tất nhiên là chúng con có thể hát! Các con biết hát bài gì nào? Tất cả các bài ạ! Nhưng nếu các con không thuộc lời thì sao? Không sao, chúng con sẽ tự chế lời. Có vấn đề gì đâu, bây giờ chúng ta hãy cùng hát nhé! Bây giờ ư? Tại sao không!(…) Câu trả lời của bọn trẻ luôn là “Có ạ!”. Lặp đi lặp lại như thế. Trong mỗi đứa trẻ luôn có một sự tự tin bẩm sinh, một nguồn vui vô tận và khát khao học tập không ngừng. Với chúng, mọi thứ đều có thể thực hiện được.Thử hỏi với cùng những câu hỏi trên tại các trường đại học, cao đẳng. Chỉ một số rất nhỏ những cánh tay đưa lên khi sinh viên được hỏi họ có thể vẽ, có thể nhảy, có thể hát, có thể sơn màu, có thể diễn kịch hay chơi một nhạc cụ không. Không hiếm các trường hợp giơ tay đã trả lời cùng với một hạn định kiểu như: “Tôi chỉ chơi đàn piano, tôi chỉ vẽ về loài ngựa, tôi chỉ nhảy với nhạc rock and roll hay tôi chỉ hát dưới vòi hoa sen”.”Vậy điều gì đã tạo nên sự khác biệt ấy? Và vì sao chúng ta dần mất hết sự tự tin khi lớn lên? Fulghum đưa ra vấn đề, và không ai khác là chính bạn phải có câu trả lời cho riêng mình.Những mẩu chuyện dung dị dưới nhãn quan rộng mở của Fulghum trong “Góc nhìn của người thông thái” đã được viết bằng một phong cách gần gũi và khiêm nhường, dí dỏm và hấp dẫn với sự thông thái của riêng ông. “Góc nhìn của người thông thái” đem lại cảm giác ấm áp như thể ta đang ngồi dưới mái hiên nhà bà mình vào một chiều chủ nhật, thong thả nhấm nháp từng ngụm kem mát lành… *** Góc Nhìn Của Người Thông Thái gồm có: Thế à Bộ sưu tập trên cánh cửa tủ lạnh Món bánh thịt và bữa ăn vào lúc hai giờ sáng Bài kiểm tra hudson’s bay Start "Cô bé lọ lem", nhân vật chú heo con và một nửa câu chuyện cười với giá 5 xu Điếu xì gà ngon nhất của tôi Ý nghĩa xã hội của chứng nấc cụt Hãy kể về những câu chuyện tình Ngày của lửa Triết lý đom đóm Vụ ném trứng lịch sử Bán chim ở đền - cho đi và nhận lại Lợi nhuận và thua lỗ - nguyên tắc cơ bản nhất trong kinh doanh Cách duy nhất để ra ngoài là bước vào trong Lão già quái chiêu Howard và Chúa trời Bạn có biết hát không? Câu chuyện về bài hát "Home on the Range" Những nghi thức đón chào năm mới Grady và hai thùng sơn màu vàng chanh Học cách phân biệt phiền phức và khó khăn thực sự Gyda - con chó trinh nữ Khu nhà kho ẩn dật Fulghum và Quán trọ Một người Đội Quân Cứu Tế và cậu bé rung chuông Những tang lễ ấn tượng Ba bức ảnh đặc biệt Anh chàng Cỗ máy Thời Gian Nếu bạn trở về với một thời kỳ lịch sử nào đó… Anh hề xiếc Trường học, trẻ con, người lớn, và những điều phải học Emily phipps - sự tồn tại của một nhân vật hư cấu Chiếc bát chứa đựng tư duy *** THẾ À Từ "Thế à" không có trong các từ điển thông dụng cũng như chuyên ngành, và rất hiếm khi hiện diện trong văn viết. Tuy nhiên, những âm tiết này lại được chúng ta sử dụng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, cho đến tận khi xuôi tay nhắm mắt. "Thế à" là một trong những cách thức truyền đạt ngôn từ đầu tiên mà đứa trẻ học được. "À" hay những âm tiết đại loại như thế sẽ còn được sử dụng chừng nào loài người còn tồn tại. Có lẽ đây cũng là từ đầu tiên mà Adam thổ lộ với Eva ngay sau khi cắn quả táo. Và Eva biết chính xác những suy nghĩ đang diễn ra trong đầu Adam. Xuyên suốt lịch sử tiến hóa của loài người, có hàng triệu, hàng triệu âm tiết đã xuất hiện rồi biến mất trong khi chúng ta vẫn không ngừng có được những cách thức để giao tiếp với nhau. Thông thường, những âm tiết dùng để biểu cảm không được xem là một từ có nghĩa, mà chỉ là những âm thanh ngắn đại diện cho những suy nghĩ phức tạp. Đó là những tiếng càu nhàu, tiếng than vãn, tiếng khịt mũi tỏ ý chê bai, tiếng tặc lưỡi, tiếng huýt sáo kết hợp với những biểu hiện phức tạp trên gương mặt hay ngôn ngữ hình thể: ừ, à, ừm, hừ, hey, oh, ok… Những âm tiết này thường vô nghĩa và xét về mặt chính tả thì không thể ký âm trên giấy. "Thế à" đứng đầu danh sách những âm tiết nhỏ nhưng có nhiều ý nghĩa. Chúng ta nói "Thế à" với một đứa bé khi nó ngã, bị cụng đầu hay bị kẹp tay. Điều đó có nghĩa là chúng ta biết đứa trẻ có bị đau, nhưng nỗi đau này sẽ nhanh chóng qua đi, đứa trẻ có nguồn an ủi để chịu đau, có thể tiếp tục đứng lên và bước tiếp. Về phía đứa trẻ, nó có thể hiểu rằng tiếng "Thế à" của cha mẹ đồng nghĩa với việc nó không nhất thiết phải chạy ngay đến chỗ cha mẹ mỗi khi bị đau để được nhận những cái hôn xoa dịu, và cần phải biết tự mình đi lấy bông băng khi cần thiết. "Thế à" có thể được coi là bước đầu tiên trong việc tách dần đứa trẻ ra khỏi cha mẹ để nó trở nên độc lập hơn. Chúng ta ngày một nhiều tuổi, kiến thức và kinh nghiệm cũng ngày một phong phú hơn, và chúng ta sẽ ngày càng hiểu được đâu chỉ là những khó khăn nhất thời trong muôn vàn khó khăn ở đời. Không phải bất kỳ việc nào cũng cần đến 911 (số khẩn cấp của cảnh sát Mỹ), đôi khi chỉ cần "Thế à" là vấn đề có thể được giải quyết. Nếu tôi bị đau ngực, có lẽ tôi sẽ nghĩ ngay đến việc đi cấp cứu với tâm trạng lo sợ "Chúa ơi! Mình đang lên cơn đau tim!". Nhưng cũng với những triệu chứng ấy, bác sĩ của tôi chỉ "ừ, à" cho qua, bà ấy có thể nghĩ do bị đầy hơi, nên chỉ cần uống một viên thuốc làm giảm nồng độ axit trong dạ dày rồi lại tiếp tục công việc của mình. Tương tự, khi chiếc xe tải cũ của tôi bị chết máy, tôi nghĩ là nó tiêu đời rồi, nhưng đối với người thợ máy của tôi thì đó chỉ là một hỏng hóc nhỏ về điện. "À, chẳng qua do dây đánh lửa bị chập thôi". Đây cũng có thể là từ để chỉ thái độ buông xuôi với những sự việc mà chúng ta không thể ứng phó được. Từ khi còn nằm nôi, chúng ta đã biết Rock-a-bye-baby[1] và điều gì sẽ xảy ra nếu cành cây bị gãy. Ở trường mẫu giáo, chúng ta được nhắc nhở về bài học tình thế. Tất cả những con ngựa của nhà vua và tất cả những người đàn ông của nhà vua đều không thể cùng nhau đặt cậu bé trứng Humpty Dumpty[2] thêm một lần nào nữa. Tôi quen thuộc với sự chết chóc, thường xuyên thấy nó trong các bệnh viện và nghĩa trang. Nếu tôi nhận thấy cái chết của chính mình đang đến gần, phản ứng của tôi lúc đó có thể sẽ là "Thế à". "Thế à" trong trường hợp này chính là một trạng thái tinh thần, một triết lý sống. Đây cũng là một cách nói để đón nhận những điều không mong đợi trong cuộc sống, và khả năng đón nhận cái chết cho dù nó xảy ra vào bất cứ thời điểm nào trong đời. Khi nói "ừ, à", người ta dường như không chỉ mong đợi sự bất ngờ, mà họ còn tin là nó sẽ xảy ra, như thể sự bất ngờ chính là một khía cạnh của sự tồn tại. "Thế à" có nghĩa là "Chúng tôi vẫn đang bước tiếp", "Gì nào?", "Bạn không bao giờ có thể nói về điều sẽ xảy ra", "Thế là quá nhiều cho một kế hoạch", "Chú ý, chúng ta sắp đi qua hầm", "Không sao", "Ngày mai sẽ là một ngày mới", "Bạn không thể hàn gắn trở lại quả trứng vỡ", "Suốt hàng trăm năm nay, điều đó chưa có gì thay đổi". "Thế à" không chỉ là một phản ứng tức thời trước những chuyện vặt vãnh. "Thế à" là một thái độ, một quan điểm về vũ trụ. Nó chính là một phần trong phương trình tóm tắt quan điểm của tôi về điều kiện của sự tồn tại: "à há" + "ôi chao"+ "thế à" + "Chúa ơi" = "a ha!". Mời các bạn đón đọc Góc Nhìn Của Người Thông Thái của tác giả Robert Fulghum.