Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vỡ Tổ

Lời giới thiệu của bản tiếng Anh Cuốn tiểu thuyết ngắn Vỡ tổ (tựa tiếng Anh là The Broken Nest hay Nashtanir theo tiếng Bengal) của Rabindranath Tagore ra mắt lần đầu năm 1901 và được đăng nhiều kì trên tờ tạp chí Bharāti [1] . Năm 1909, ông đưa truyện này vào một tập truyện ngắn chọn lọc, và năm 1926, lần đầu tiên Vỡ tổ có mặt trong tuyển tập chính thức các tiểu thuyết ngắn của ông. Bản này là bản dịch tiếng Anh đầu tiên của tác phẩm. Việc The Broken Nest chậm đến với bạn đọc phương Tây như vậy vừa lạ lùng vừa đáng tiếc, vì đây là một trong những tác phẩm hư cấu hay nhất của Tagore. Cuốn truyện lại càng nổi bật hơn nữa vì lần đầu tiên nó xuất hiện bằng tiếng Bengal tại một thời điểm mà truyện ngắn hiện đại như một hình thức văn học đặt ra những câu hỏi sâu xa mà không nhất thiết đưa ra câu trả lời, một thể loại tương đối mới cả ở Ấn Độ lẫn phương Tây. Trong lúc đó, tiếng Bengal đang có nguy cơ thất bại trong cuộc đấu tranh để được thừa nhận như một phương tiện ngữ ngôn văn học nghệ thuật nghiêm túc. Giải thích lí do cho cuộc đấu tranh này và vai trò của Tagore trong đó sẽ cho thấy rõ ý nghĩa văn học và lịch sử của The Broken Nest . Vào đầu thế kỉ 19, văn xuôi Bengal thực ra không tồn tại. Tiếng Bengal chắc chắn là ngôn ngữ nói hằng ngày ở Bengal, nhưng nó không được xem trọng cả trong đời sống lẫn văn học. Người Thổ Nhĩ Kì xâm lược Ấn Độ vào cuối thế kỉ 12 đã mang theo họ tiếng Ba Tư, mà người Ấn thấy dễ học hơn tiếng Ả Rập. Cho đến năm 1834, khi tiếng Anh chính thức thay thế, tiếng Ba Tư vẫn là ngôn ngữ chính của chính phủ và bộ máy hành chính. Thực ra sau năm 1800, Sankrit, tổ tiên của tất cả các ngôn ngữ Ấn Âu, không có đối thủ nào đáng kể ở Bengal, trở thành một phương tiện có uy tín để biểu đạt văn học, triết học và tôn giáo. Tuy nhiên năm 1801, một nhà truyền giáo người Anh tên là William Carey đã đề xuất một chương trình ngôn ngữ tại trường Cao đẳng Fort ở Calcutta, một trung tâm đào tạo nhân viên cho công ty Đông Ấn Độ, nhà cai trị trên thực tế ở Ấn Độ. Chương trình của Carey ban đầu không có ý định dạy tiếng Anh cho người Bengal, mà dạy tiếng Bengal cho những người Anh được bổ nhiệm điều hành công việc tại các công ty ở những vùng xa xôi hẻo lánh. Vì lợi ích của các học sinh này - những thường dân được huy động từ London và Edinburgh, các thành phố công nghiệp ở miền Trung và các làng mạc miền Nam nước Anh, Carey và những cộng sự người Bengal của ông đã sử dụng trong một quá trình thử và sai thô sơ nhưng hiệu quả những công cụ này cho một thứ văn xuôi-viết tiếng Bengal đã được chuẩn hóa: những cuốn sách ngữ pháp, tự điển, những qui tắc cú pháp và một hệ thống chấm câu thống nhất. Việc giáo dục văn học Anh không phải là một phần dự tính trước của chương trình này. Các tác phẩm mà Carey và các cộng sự của ông chọn ban đầu để dịch sang tiếng Bengal vì nội dung đạo đức và mô phạm hơn là những giá trị cổ điển của chúng về văn chương. Nhưng những thanh niên Bengal này, và nhiều người khác giống như họ, đang theo học ở những trường như Cao đẳng Hindu ở Calcutta, đã bắt đầu cảm thấy họ bị cách biệt quá lâu khỏi phần còn lại của thế giới. Vì vậy, họ thôi thúc các đồng sự người Anh nói về văn học Anh, dạy họ về lịch sử của nền văn học này, bày cho họ cách viết những bài xon-nê và những tiểu thuyết lịch sử. Đối thủ chính đầu tiên của Sankrit đã xuất hiện. Cuộc cạnh tranh này có những khía cạnh tâm lí và văn chương. Năm 1835, Thomas Babington Macaulay xoay được một quyết định của chính phủ, chấp thuận việc dùng tiếng Anh để giảng dạy trong các trường học ở Ấn Độ. Sau năm 1844, chính phủ qui định Anh ngữ là điều kiện cần thiết trong việc tuyển dụng người Bengal. Nhiều người trong số những người Bengal này kết luận rằng việc tinh thông ngôn ngữ và cung cách của người Anh là những nấc thang đến thành công, và họ bắt đầu vứt bỏ một cách hệ thống tất cả những gì của Bengal, kể cả tiếng mẹ đẻ của họ. Kết quả thường là đau xót hơn khích lệ, và những kẻ thực nghiệm chỉ khiến bản thân họ trở thành lố bịch trước mắt những người mà họ khao khát gây ấn tượng nhất. Những người Bengal khác, trong đó có Tagore của Calcutta, không chấp nhận kiểu thích nghi mù quáng với lối sống phương Tây. Trái lại, họ đi tìm những cách có tính xây dựng, thoả mãn để kết hợp cái mới và cái cũ. Họ hiểu biết tường tận văn học cổ điển Sankrit, nhưng họ cũng say sưa với sự huy hoàng và sôi động của văn học cổ điển Anh. Họ thống nhất hai truyền thống đó trong câu trả lời cho sự thôi thúc ngày càng mạnh khi tiến lên thế kỷ phía trước, sự thôi thúc củng cố một bản sắc văn học “không Sankrit” cũng “không Anh”, hiện đại nhưng không giả Anh, một bản sắc độc đáo, nhấn mạnh tinh thần Bengal. Còn có gì gắn bó mật thiết với ý thức về bản sắc cá nhân hơn là tiếng mẹ đẻ? Các nhà văn bị lay động bởi sự thôi thúc mới này bắt đầu dùng tiếng Bengal trong những thí nghiệm của họ với các hình thức văn học mới du nhập từ phương Tây: Tiểu thuyết, truyện ngắn hoạt kê, tiểu luận theo sự kiện, bình luận báo chí. Lúc này, cuộc đua tranh không phải giữa tiếng Sankrit và tiếng Anh, mà giữa tiếng Anh và tiếng Bengal, và nó hoàn toàn chưa ngã ngũ khi Tagore bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tiên của ông, có thể gọi là thật sự hiện đại, vào đầu những năm 1890. Đó là thành quả của những năm ông sống ở miền Đông Bengal, cai quản điền trang của gia đình. Tại đó, lần đầu tiên ông quan sát những chotoloc , những người ‘dân quê nhỏ bé’ của Bengal. Những câu chuyện của ông thời kỳ này tràn ngập cảm giác cay đắng về bi kịch của những con người bị lãng quên, thấp cổ bé miệng, vô danh, dưới sự thống trị của những thế lực kinh tế và chính trị cực kì xa cách, khó hiểu. Lấy những tiêu chuẩn ngày nay về phê bình tiểu thuyết để đánh giá thì nhiều truyện ngắn trong số này bị coi là yếu về kết cấu. Cái “tác động duy nhất” mà Edgar Poe nêu lên làm tiêu chuẩn cho một truyện ngắn hay thì thường bị hỏng vì những đoạn lạc đề, những kết thúc lỏng lẻo, và nhiều chỗ tác giả nhảy vào để thuyết giáo. Nhưng nói cho công bằng, những truyện hay nhất của Tagore trong những năm 1890 là một thành tựu tuyệt vời, chúng chứng tỏ rằng tiếng bản xứ Bengal và những sự kiện hằng ngày trong cuộc sống của những người dân vô nghĩa có thể kết hợp để tạo ra những tác phẩm văn chương mang tính nghệ thuật cao. Những người đàn ông, đàn bà và trẻ con tầm thường vô nghĩa, không phải những nhân vật anh hùng ca, là động lực chính trong các truyện hay nhất của Tagore. Trong tất cả những yếu tố của tiểu thuyết như nhân vật, bố cục, cốt truyện, chủ đề, Tagore nhấn mạnh vào nhân vật. Bằng những gì họ nói và làm, hay những gì họ không nói và không làm, bản thân các nhân vật không chỉ tạo nên những sự kiện bên ngoài, trong những thời gian và địa điểm đã định, mà còn ghi lại những diễn biến không nhìn thấy và thường không ngờ tới, trong trí óc và tâm hồn họ. Sự chú ý này đến các chi tiết tâm lí làm cho The Broken Nest thành một tiểu thuyết ngắn hiện đại. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp của ba nhân vật: Bhupati - một người Bengal tuổi trung niên, Charulata - vợ anh, và Amal - em họ anh. Họ là những cư dân giàu có, nhàn rỗi của Calcutta, thành viên của Bhadralok , “những người có văn hóa” của Bengal, bắt kịp theo dòng ảnh hưởng của phương Tây; bắt kịp, nhưng theo sự phân tích cuối cùng là kém hiểu biết. Sự kém hiểu biết của họ là nguyên nhân chính của thế lưỡng nan về lịch sử, và cảm xúc của ba nhân vật này cũng là của toàn Ấn Độ trong bước ngoặt thế kỉ 19. Tagore đã cho chúng ta một bức tranh có tính giai đoạn nhưng đồng thời là phi thời gian, vì câu chuyện của Bhupati, Charu và Amal là câu chuyện về phản ứng của con người trước những biến động xã hội và trước sự khám phá đột ngột những thế giới mới của tưởng tượng. Bối cảnh của The Broken Nest là một ngôi nhà chung của nhiều gia đình, tương tự với ngôi nhà mà ở đó Tagore đã lớn lên. Ông biết tất cả những cái hay cái dở của kiểu nhà như thế, bao gồm nhiều nhánh của một gia tộc sống dưới một mái nhà, dưới quyền hành và sự bảo trợ của người cha hoặc người anh cả. Hệ thống này có vẻ cổ lỗ và tỏ ra khó đứng vững trong một thời đại thành thị hóa nhanh chóng, nhưng trong thế kỉ 19, nó giúp củng cố cơ cấu xã hội và thường cách xa điểm tan vỡ khi thực dân phương Tây đổ vào Ấn Độ qua ngả Bengal. Các gia đình duy trì những kiểu nhà như thế nhằm tìm kiếm một sự an toàn thật sự, cả về tài chính và tâm lí. The Broken Nest là một bi kịch gia đình, nhưng hiện thực chính trị bao trùm lên toàn bộ câu chuyện. Ngay ở câu thứ hai, Tagore đã ám chỉ một cách hóm hỉnh thực tế này khi ông nhận xét rằng Bhupati không phải làm việc để kiếm sống vì anh có nhiều tiền và vì anh sống ở một xứ nóng. Có lẽ những người sống ở xứ nóng sống được vì dễ dàng nhặt quả chín từ những cái cây gần nhất, nhưng phía sau đó mỉa mai, nhắc nhở đến việc hành nghề báo chí của Bhupati có tham dự vào chính trị, cho thấy bầu không khí chính trị của Ấn Độ cũng nóng như khí hậu vậy. Đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ được tổ chức năm 1885, và các lãnh đạo của Đảng đại diện cho các tầng lớp trung lưu mới, hướng theo những tư tưởng phóng khoáng của Anh. Vào thời gian Đại hội lần thứ ba họp năm 1887, thấy rõ tinh thần phục hưng đạo Hindu đang lớn dần lên chống lại ảnh hưởng của Anh. Các nhà cai trị quen nghĩ về Ấn Độ như một đất nước bị đúc khuôn bởi nền văn hóa Mughal [2] và về đạo Hindu như một tôn giáo tiêu cực nếu không phải là lỗi thời, sẽ giật mình khi thấy họ đứng trước một con phượng hoàng vươn lên từ đống tro tàn chưa bao giờ nguội lạnh. Cả những người ôn hoà trong Đảng Quốc Đại lẫn những nhà cai trị người Anh đều hoảng hồn vì những tổ chức khủng bố bí mật nổi lên ở Bengal và nhiều nơi khác tại Ấn Độ. Các quan chức vội vàng áp dụng những biện pháp hạn chế, nhưng đó chỉ là những vận động thử cho mưu đồ của phó vương Lord Curzon, nhằm chia tách Bengal vào năm 1905. Thực ra, việc chia tách đã là một vấn đề nóng bỏng trong vài năm trước thời điểm 1901, vì tỉnh này quá rộng để cai trị một cách hiệu quả. Vấn đề của chia tách là chính sách biên giới đang “nổi lên dữ dội” mà Bhupati, nhân vật chính của Tagore phải lo lắng trong phần đầu của câu chuyện. Khi Nashtanir được xuất bản năm 1909, sự phản đối chống lại sắc lệnh năm 1905 của Curzon không hề giảm xuống, và tính thời sự của câu chuyện vẫn còn nóng hổi. Có lẽ Lord Curzon chắc chắn đã hi vọng đóng vai Hercules và phá hoại tinh thần dân tộc bằng cách chia tách. Ông ta đã không thành công như Hercules, vì dùng chia tách để kiềm chế sự bất bình của những người Bengal khác nào dùng những lời chửi bới thô tục để chinh phục Hydra [3] , và có một thời gian phe Ôn hòa và phe Quá khích đã đoàn kết về vấn đề này. Một dòng thác lũ ngôn từ, thật đúng vậy, đã giúp cho Bengal trở thành chướng ngại và phiền hà hơn với người Anh. Những người dân tộc chủ nghĩa Bengal và Ấn Độ đã nhanh chóng nhận ra rằng việc Macaulay năm 1835 ủng hộ giảng dạy tiếng Anh ở Ấn Độ đã tặng cho họ một phương tiện lý tưởng để vượt qua các hàng rào ngôn ngữ trong nước. Từ Cape Comorin đến Himalaya, người Ấn Độ nỗ lực sử dụng tiếng Anh trong các cuộc mít-tinh, trong phát biểu ý kiến và trong ấn phẩm báo chí. Trong The Broken Nest, sự nghiệp báo chí của Bhupati phần nào biểu lộ thứ tình cảm dân tộc mới này. Nhưng tính khí và học vấn của anh chàng Bhupati ngây thơ, tốt bụng ít thích hợp hơn ai hết để đối phó với thực tế của báo chí chính trị. Tờ báo của anh là một thứ đồ chơi của anh. Tagore nhân từ đã không để độc giả thưởng thức những mẫu văn xuôi làm báo của Bhupati, nhưng có thể suy đoán mà không sợ sai rằng Chính phủ Ấn Độ chẳng hề thấy trong đó có mối đe dọa nào cho Đế quốc. Việc Bhupati dính với tiếng Anh gắn liền với một khía cạnh khác của mối quan hệ văn hóa giữa Ấn Độ và Anh quốc: Đó chính là sự hồ hởi thật sự và cảm giác tự do đến từ cái nhìn lướt qua thế giới mới của một ngoại ngữ. T.S Eliot đã nói về nhân cách bổ sung mà chúng ta có được nhờ học một ngôn ngữ khác, thậm chí chỉ cần nắm được kết cấu và ngữ điệu của nó là đủ, và những xúc cảm mà thơ ca của nó chuyên chở [4] . Nhiều người Ấn Độ đã học để đọc được, tuy chưa hoàn thiện. Shakespeare và Shelley, Byron và Browning, đã say mê với tinh thần Tây phương mà trước đó họ chưa có trải nghiệm gì. “Nó đã đánh thức chúng tôi,” - Tagore nhớ lại, “và làm cho chúng tôi sống động hơn.” [5] Mặc dầu tiếng Bengal chưa đạt được đến tầm văn học, nhưng nghiên cứu văn học đã có uy tín ở Bengal trong nhiều thế kỉ. Những người thông thạo văn học cổ điển và các qui tắc tu từ được coi như những người canh giữ văn hóa quan trọng của Bengal. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi cho rằng người Bengal đã lĩnh hội các tài liệu văn học Anh một cách dễ dàng và nhiệt tình, nếu không muốn nói là luôn luôn tuyệt đối chính xác. Trong truyện, Tagore đã châm biếm một cách sâu cay sự yếu kém về kiến thức văn học của họ bằng cách nhắc đến một nhà phê bình văn học Bengal khi gọi Amal là “Ruskin của Bengal.” Bất kì ai đưa ra một sự so sánh như thế rõ ràng là biết quá ít về các tác phẩm của Ruskin, tuy có nắm được những khái niệm của Ruskin. Cảm giác của ông về quá khứ có sức kêu gọi mạnh mẽ những người Bengal đang hi vọng tạo nên một dấu ấn mới về bản sắc cá nhân và dân tộc như thời hoàng kim trong quá khứ của Bengal trước khi người Anh đến, trước cả Mughal. Hoàn toàn đúng với tính cách của Bhupati khi anh muốn chuyển từ báo chí sang văn học, đọc Tennyson và Byron đồng thời với đọc Bankimchandra Chatterji, những người đương thời lớn tuổi hơn Tagore, những người đến nay vẫn còn được gọi là Walter Scott của Bengal. Bhupati vẫn chưa hoàn toàn nhận thức được những hệ lụy từ cuộc xâm lăng văn học này của người Anh, nhưng làn gió mới của phương Tây đã khiến anh bồn chồn không yên đồng thời mang đến phương hướng cho cuộc đời vô mục đích của anh. Nhận xét của Eliot về lợi ích của việc biết ngoại ngữ đi kèm với một lời cảnh báo: người ta không bao giờ được chìm đắm vào một ngôn ngữ khác đến mức mất đi khả năng nghĩ và cảm bằng tiếng mẹ đẻ. Việc Bhupati mê đắm tiếng Anh đã khiến anh lơ là việc nhà và những gốc rễ văn hóa. Anh đã bỏ rơi cả người vợ lẫn tiếng mẹ đẻ và sau đó phát hiện ra rằng anh lênh đênh trôi dạt đến mức không thể tìm đường trở về với một trong hai điều đó. Anh chưa học đủ để theo chân những người tìm nơi trú ẩn trong Sankrit cổ điển, và anh không có đủ trí tưởng tượng để nối gót những người, giống như Tagore, quay trở về với việc mô tả hiện thực Bengal hoặc bất cứ thứ gì họ quan sát thấy trong cuộc sống hằng ngày. Amal và Charulata thì may mắn hơn, ít nhất ở khía cạnh này. Khi họ bắt đầu theo đuổi văn chương, Amal bắt chước những nhà văn cổ điển tiếng Sankrit. Tu từ của cậu quá lố và những ẩn dụ của cậu ngớ ngẩn, nhưng ít nhất, cậu còn cố gắng vay mượn phong cách và những biểu tượng của các nhà văn lớn trong quá khứ. Charu trong sự đơn giản của nàng, vô tình gia nhập vào chủ nghĩa hiện đại và viết bằng ngôn ngữ thông dụng thường ngày những sự việc hằng ngày. Việc Charu đứng ngang hàng với những người hiện đại là một trong những điều trớ trêu của The Broken Nest . Sự phụ thuộc của nàng vào ngôn ngữ thông tục và những sự kiện bình thường là kết quả tự nhiên của vai trò phụ nữ trong một hệ thống gia đình khiến chúng ta ngạc nhiên về bất cứ điều gì ngoài tính hiện đại. Giống như phần lớn những vùng đất phải trải qua một thời kì nào đó trong lịch sử dưới sự thống trị của chính quyền Hồi giáo, Bengal đã áp dụng nhiều qui ước của đạo Hồi, đòi hỏi phụ nữ ở những giai cấp xã hội nhất định phải sống qua tuổi trẻ và tuổi trưởng thành của họ bên trong những căn phòng riêng tách biệt của ngôi nhà. Từ Urdu thông dụng zenana vẫn còn để biểu thị khu vực phụ nữ ở [6] . Tagore dùng từ Bengal antahpur , được dịch là “bên trong của ngôi nhà.” Khu vực này được chia thành các phòng hay các nhóm phòng được giao cho các nhánh của gia đình. Đàn ông gặp gỡ vợ mình chỉ trong bữa ăn hoặc ban đêm, việc tiêu quá nhiều thời gian ở đây trong ngày làm sinh ra những sự chỉ trích và ngồi lê đôi mách. Một người phụ nữ không ra khỏi antahpur . Nếu cô ta muốn nói chuyện với các thành viên là đàn ông trong gia đình, cô ta sẽ sai một người đày tớ đưa lời nhắn hoặc thu hút sự chú ý của họ như Charu thu hút sự chú ý của Amal bằng cách vỗ tay hoặc lắc chùm chìa khóa mà họ buộc vào sari cho kêu leng keng. Một bộ qui tắc hành vi ứng xử được qui định rõ ràng, đặt ra khuôn mẫu cho những mối quan hệ trong những gia đình như thế. Một người vợ Hindu chính thống không bao giờ nói với chồng hoặc nhắc về chồng bằng tên riêng của anh ta, cô nói về anh là “chồng tôi” hoặc dùng dạng kính trọng của đại từ này hoặc dạng tương ứng của động từ. Bhupati gọi vợ là “Charu” nhưng nàng không bao giờ gọi anh là “Bhupati”. Amal là em họ ở quê của Bhupati và là thành viên của gia đình khi theo học trường cao đẳng ở Calcutta, được coi như người con nhỏ trong gia đình. Với cương vị như thế, cậu có thể đến và đi khỏi antahpur một cách tự do, tại đó cậu được những người phụ nữ bà con nuông chiều hết mức. Chị dâu và em họ trong lứa tuổi của cậu được phép là những bạn tâm tình. Tuy nhiên không bao giờ Amal gọi Charu bằng tên riêng. Nàng lớn hơn cậu một hoặc hai tuổi và hơn nữa nàng là bà chủ nhà. Cậu gọi nàng là “Chị dâu” hay “Chị”. Cậu cũng không gọi Bhupati bằng tên, cậu gọi “Anh” và dùng từ d ā d ā , một từ thương yêu và kính trọng đối với người anh. Việc dùng những tiếng như “anh”, “chị” trong những gia đình hỗn hợp thường làm những người không phải Ấn Độ nhầm lẫn. Một người Bengal khi bắt buộc phải giải thích tại sao con của bà cô có thể là anh em với anh ta, thường trả lời, “À, anh ấy không phải là anh ruột tôi đâu. Anh ấy là anh họ tôi.” Do đó, Bhupati trong quan hệ với Amal là vai anh họ, và Charu là chị dâu (họ). Qui ước xưng hô này trong tiếng Bengal được điều chỉnh một cách tế nhị. Nó cung cấp những từ ngữ mô tả rõ ràng về xưng hô và sự phân biệt giữa những người họ hàng già hơn hay trẻ hơn, họ nội hay họ ngoại. Nhưng mẫu đời sống thật sự có ý nghĩa đối với những người phụ nữ sống trong ngôi nhà của Bhupati ở Calcutta được thể hiện ở cách Tagore dùng một từ không liên quan gì đến tính trang trọng trong xưng hô. Từ quan trọng ấy là shangsh ā r . Nó được dùng lặp lại nhiều lần trong Nashtanir . Nó có thể có nghĩa là “thế giới”, “những công việc trần tục, vật chất”, “việc nhà, nội trợ” hay “gia đình” và được dịch bằng nhiều cách khác nhau tùy theo ngữ cảnh. Dù ở ngữ cảnh nào trong câu chuyện này, những nghĩa rộng của từ shangsh ā r đều mang sắc thái mỉa mai, vì từ này nhấn mạnh rằng phần của phụ nữ trong một ngôi nhà như thế này là một thế giới nhỏ bé chật hẹp, mà lí do tồn tại của họ là phục dịch và dâng hiến cho những thành viên đàn ông của gia đình. Đối với những phụ nữ như thế, shangsh ā r - “thế giới” hoàn toàn tương đương với shangsh ā r “nội trợ”. Người phụ nữ có thể đôi khi đột nhập vào thế giới bên ngoài, nhưng ước lệ này đã được qui định chặt chẽ. Khi Charu đến thăm một gia đình khác, nàng phải đi trên chiếc xe ngựa có che rèm kín, và chỉ được vào thăm trong antahpur, chơi với phụ nữ của nhà đó. Đám cưới là sự kiện xã hội lớn của những khách phụ nữ, và việc Charu không đi dự lễ cưới của Amal nhấn mạnh chiều sâu những rối loạn cảm xúc ở nàng trước việc cậu ra đi. Các gia đình tiến bộ có thể cung cấp cho các thành viên phụ nữ của họ giáo dục sơ yếu thông qua dịch vụ của một “thầy giáo zenana ”. Chị của Tagore, Svarna Kumari Ghosal, là một nhà văn, một biên tập viên và nhà hoạt động từ thiện tài trợ cho những chương trình đào tạo giáo viên như thế. Nhưng ngay cả với bà, một phụ nữ thông minh và tài năng trong gia đình tiến bộ độc đáo, việc học lên những lớp cao, chính qui cũng không được bàn đến. Việc Charu theo đuổi văn chương xem ra có vẻ ngây thơ khi nhìn trên một bối cảnh như thế. Thật ra, nàng đã can đảm và có óc sáng kiến khác thường so với những phụ nữ trẻ ở vào thời đại của nàng, địa vị của nàng và tuổi của nàng. Cả Bhupati nữa, cũng thật đặc biệt khi anh sẵn lòng khuyến khích vợ học văn chương, nhiều người chồng Bengal khác chắc không dung tha việc này. Tagore hết sức quan tâm đến những thất bại của những phụ nữ như thế. Năm 1883 ông viết Cuốn sổ tay - một câu chuyện khác về một cô vợ trẻ con, đam mê đọc và viết của cô đã bị bóp chết bởi anh chồng hiểu biết lơ mơ và các bà chị chồng vô học [7] ; mãi đến năm 1914 ông còn viết Bức thư của một người vợ , câu chuyện về một người vợ mà những tình cảm phong phú được đánh thức và nuôi dưỡng bởi thơ ca, nhưng đã phải chiến đấu vô vọng chống lại sự phản đối của gia đình và việc chồng nàng không nhìn nhận nàng như một nhân cách [8] . Bên cạnh những người chồng như thế thì Bhupati, với tất cả sự chậm hiểu những nhu cầu tri thức và tình cảm của Charu, là mẫu mực của một tâm hồn rộng lượng. Đáng tiếc là sự bao dung của anh lại bắt nguồn từ việc anh đắm chìm trong tờ báo của anh và việc anh dễ dàng chấp nhận “niềm tin phổ biến rằng một người đàn ông luôn có sẵn những gì cần đòi hỏi ở người vợ của mình.” Tagore không nói đến tuổi của Charu và Bhupati. Sẽ hợp lí nếu giả sử rằng Bhupati bắt đầu làm tờ báo của anh khi hai mươi tuổi và lấy vợ vào tuổi hai lăm. Charu có thể mười ba tuổi khi lấy chồng. Từ đó suy ra Bhupati ba mươi hai khi câu chuyện bắt đầu, và Charu hai mươi [9] . Trong những gia đình Bengal tương đối tiến bộ ngày nay, Charu dễ dàng có học vấn đại học và tiền đồ của nàng cũng rộng mở một cách tương ứng, nhưng với Charu của năm 1901, phạm vi bên ngoài antahpur, trong đó Bhupati sống thế nào nàng không hề hay biết, shangsh ā r là toàn bộ thế giới. Thật ra, Bhupati bị hạn chế bởi lòng tin ngây thơ vào người khác, bởi cái chất tỉnh lẻ và trí tưởng tượng vụng về của anh cũng như Charu bị hạn chế trong những chấn song cửa sổ và luật lệ xã hội thịnh hành. Tagore chọn những cái tên cho nhân vật của ông hoàn toàn có chủ ý. Tên đầy đủ của Charu là Charulata. Trong tiếng Bengal c ā ru có nghĩa là đẹp, và l ā ta có nghĩa là dây leo trong rừng, một thứ nho leo. Phong tục xã hội và cái nhìn của Bhupati về vợ anh như một đồ vật yêu quí trong tài sản đã làm tê liệt ở nàng sự hiểu biết vững vàng về những tài năng của nàng. Hoàn cảnh của nàng càng phức tạp, nàng càng ít khả năng đối phó với nó. Trong sự thiếu vắng hoàn toàn những mối tiếp xúc xã hội mới và thiếu sự hiểu biết của Bhupati sau khi Aman ra đi, Charu ngày càng lẩn sâu dưới cái bóng những kí ức của nàng. Tính không thực của chúng càng được tôn lên bởi sự tương phản ngầm với đời sống của Aman ở Anh, vì cậu đang thật sự trải nghiệm shangsh ā r như một thế giới rộng lớn – cái thế giới mà lịch sử đang kéo Ấn Độ vào. Quan hệ của Aman và Charu với truyền thống văn học Bengal bây giờ bị đảo ngược. Aman đã vứt bỏ văn học cổ điển và bây giờ đang đắm mình trong lối sống Tân Thời , trong đó cậu hi vọng tìm thấy chỗ đứng của mình như một luật sư. Trong khi đó thì Charu rút lui về Thời Hoàng kim của Ấn Độ và cố gắng sống với lí tưởng anh hùng ca của mọi người vợ, như một nàng Sita giữ cho ngọn đèn đêm cháy sáng đợi Rama [10] của nàng trở về. Nhưng Thời Hoàng kim ấy đã qua rồi, như Charu phát hiện cho nỗi buồn của nàng; chỉ lí tưởng không thôi thì không thể nâng đỡ một tâm hồn khao khát tình yêu. Bhupati, người không phân biệt được nhu cầu yêu đương với tình yêu văn chương – đúng như anh không phân biệt được văn chương hay với văn chương dở, là một chỗ dựa tồi cho Charulata. Lòng tốt không phân biệt của anh biến anh thành một thứ anh hùng, nhưng nhược điểm chủ yếu của anh là cứ luôn luôn đặt sự hào phóng của anh nhầm chỗ. Trên cơ sở truyền thống xã hội và các lí tưởng tôn giáo, anh cho rằng sự ổn định của gia đình là điều khoản của một học thuyết vững vàng. Giả định của anh vỡ tan khi đụng độ với những thực tế về nhu cầu tình cảm - của bản thân anh và của Charu. Chữ bhupati có nghĩa là “cột trụ xã hội” nhưng cho đến cuối cùng anh chàng Bhupati lơ lửng trên mây vẫn không hiểu được nguyên nhân thảm họa gia đình anh. Đã có lúc động lực muốn nâng đỡ Charu thắng thế, nhưng bản năng tự bảo toàn mạnh hơn. Thời khắc ấy qua đi, để lại Bhupati và Charu đối mặt với một tương lai trống rỗng. Chữ amal có nghĩa là “trong trắng”, “tinh khiết”. Liệu hạnh kiểm của Aman có thể được coi là hoàn toàn trong trắng được không? Cậu tầm thường và phù phiếm, vô tâm và non nớt, chưa trưởng thành. Nhưng sự non nớt của cậu không đáng trách trừ phi nó được làm thành công cụ phá hoại. Trong ba người của tam giác này, Aman là người đi gần nhất đến con đường hiểu được tình thế, và trong khoảnh khắc loé sáng nhìn rõ bản chất sự vật, dù chỉ một phần, cậu bắt đầu trưởng thành. Đối với một thanh niên dấn mình vào lối sống Tân Thời , việc chấp nhận một cô dâu chưa biết mặt mà không hề băn khoăn thắc mắc có thể cũng đáng trách như việc cậu không thấy trước những trò chơi văn chương nuôi dưỡng tính tự phụ nơi cậu làm nỗi cô đơn nơi Charu nặng thêm khi nuôi dưỡng trí tưởng tượng của nàng. Tuy nhiên, căn cứ vào địa vị xã hội, cuộc hôn nhân của cậu có thể được hiểu như một hành động danh dự. Nhiều cuộc hôn nhân ở Ấn Độ đã và vẫn đang là sắp đặt, và khi nước Anh còn là bí ẩn đối với nhiều người Ấn hơn ngày nay, luôn luôn có hi vọng một người vợ kiên nhẫn chờ chồng ở nhà sẽ là bảo đảm chắc chắn để người trai trẻ trở về, “vượt qua những đại dương xa thẳm”. Aman đã làm một cuộc vượt thoát khỏi tình thế khó xử được xã hội chấp nhận và minh chứng cho hành động của cậu bằng quyết định trở về giúp Bhupati, người có hình ảnh như một người cha trong đời cậu. Có thể nào ba người này không biết gì về những tình cảm của mình lâu đến thế? Một lần nữa, căn cứ vào hoàn cảnh xã hội và những nhánh tâm lí của nó, sự mù quáng rõ ràng của ba nhân vật chính có thể hiểu được thông qua việc họ dần dần gắn mình vào những biến động xã hội to lớn đang diễn ra. Báo chí hiện đại lọt vào Bengal một cách tình cờ, thậm chí nếu Bhupati thật sự có tài năng trong nghề, thì anh vẫn chưa tiếp cận đến những bí thuật của nó. Việc Charu tiếp xúc với những trào lưu mới trong văn học phải được thực hiện thông qua người khác, và được hưởng trong hoàn cảnh tương đối cách biệt. Amal là một cậu bé nhà quê tình cờ lọt vào xã hội thượng lưu trí thức của Calcutta. Trong ba người không ai có hình ảnh đầy đủ về hoàn cảnh sống của hai người kia. Mỗi người trong trạng thái bị kìm hãm trưởng thành; hoàn cảnh này góp phần vào thế lưỡng nan của họ và là một chủ đề chính của The Broken Nest . Bhupati, Charulata, và Aman lơ lửng trong trạng thái bối rối chung diễn ra trước khi những cơ hội mới có thể dạy họ những bổn phận mới. Tagore đã điều hòa giọng điệu của câu chuyện cho hợp với sự tiến triển mà tại đó họ bắt đầu ngờ ngợ, nếu không phải là hiểu rõ, rằng họ sắp đối mặt với những bổn phận mới. Giọng điệu bắt đầu thay đổi khi Aman nhận ra tình cảm của Charu đối với cậu. Những chuyện trò thơ mộng kiểu trẻ con nhường bước cho xung đột cảm xúc nghiêm trọng không tránh khỏi cũng như khu vườn không thực tế của họ nhường bước trước thực tế về kinh tế. Đã rõ rằng những ghen tuông của họ chẳng dính gì mấy đến văn chương, rằng những mưu mẹo vô lí nhưng lõi đời của Manda, chị dâu của Charu, sẽ có những hậu quả nguy hiểm, và rằng lòng tốt không phân biệt của Bhupati sẽ đem lại những kết quả chẳng có gì tốt đẹp. Những đụng độ đầu tiên của Bhupati và Aman với thực tế diễn ra ở nhịp độ nhanh chóng. Một tai nạn bên ngoài ngôi nhà của anh đã khiến Bhupati sững lại, và bộc lộ cho anh thấy anh kém phù hợp như thế nào với vai trò mà anh định mang là một con người của xã hội. Khi anh bạn Motilal của anh giả vờ không biết gì về những món nợ chưa trả, Bhupati theo bản năng chạy về nhà, “giống như một người sợ hãi trước trận lũ đột ngột, tìm một mô đất cao và lao đến đó.” Nhưng về tình hình ở nhà anh vẫn chưa biết chút gì, dù sao chăng nữa, anh cũng không thể đối mặt với nó một cách dứt khoát, thậm chí sau cú đụng độ thứ hai của anh với thực tế dưới dạng âm mưu thống thiết của Charu để liên lạc với Aman ở Anh. Lòng kính trọng và tình thương thật sự của Aman đối với Bhupati là tác nhân để cậu hiểu rằng nguy hiểm đã gần kề. Một chớp loé nhận thức cho cậu thấy Charu hoàn toàn không biết gì về những rắc rối tài chính của Bhupati cũng như về những tình cảm của nàng. Ngay khi Aman nhận ra vai trò của mình, cậu cố gắng rũ bỏ nó. Thậm chí sau khi Charu nhận ra rằng sự thiếu vắng Aman là nguyên nhân nỗi đau khổ của nàng, nàng đã hợp lí hóa cảm xúc của mình bằng cách buồn rầu về sự kiện dường như cậu đã ra đi trong giận dữ. Sự hiến mình thờ phụng chồng là hành động duy nhất mở ra cho nàng phương kế xua đuổi nỗi đau buồn. Nói rằng mặc cảm tội lỗi trong lương tâm nàng cũng cần xua đuổi là nói quá; nàng chẳng biết đường nẻo nào trong cuộc đời cũng như những hoạt động của trái tim nàng. Nàng đã sống trong một thế giới tưởng tượng. Nàng đã “quyết định”, nàng đã “nhất quyết”, nàng đã “hình dung” Aman hay Bhupati hành động theo những vai trò mà nàng phân cho họ. Cả họ nữa, cũng đã phân nàng vào một vai định trước. Khi không biết tại sao và như thế nào nàng không sắm được vai trò đó, họ bỏ mặc nàng. Việc Bhupati từ bỏ địa vị gia trưởng hầu như chắc chắn có nghĩa là Charu sẽ mất chút tự do mà nàng đã có. Những ông chú đến ở trong nhà sẽ mang theo vợ con của họ, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong số họ sẽ là bà chủ ngôi nhà. The Broken Nest không phải là câu chuyện của Aman, cậu chỉ là chất xúc tác cho một thảm họa mà những yếu tố của nó đã từ lâu là một phần kết cấu xã hội. Việc nó là câu chuyện của Charu hay của Bhupati phụ thuộc vào thiên hướng của độc giả. Tagore không nói ông có ý định cho nó là câu chuyện của ai. Ông không nói ông có ý định chỉ ra một đạo đức trong những ngẫu nhiên của cuộc đụng độ văn hóa, hoặc văn chương tầm thường là thứ nguy hiểm. Ông đặt các nhân vật ra trước độc giả, Bhupati, Charu và Aman sống qua một giai đoạn không thể đảo ngược và không có cách khắc phục có thể thấy trước. “Cái tổ bị vỡ” không phải là lỗi của ai mà là bi kịch của mọi người, một bi kịch của những tình thương lạc lối và những tài năng chưa phát triển. Như vậy, Tagore đã đặt ra một câu hỏi chi phối nhiều truyện ngắn của ông: liệu Ấn Độ có biết nó đang bỏ phí một kho tàng vô giá như thế nào không? Ông đặt câu hỏi liên hệ với những tài năng và những tình cảm phong phú của phụ nữ đặt Charu ngang hàng với những phụ nữ nổi bật trong văn học phương Tây: Emma Bovary trong Bà Bovary của Flaubert, Dorothea Brooke trong Middlemarch của George Eliot, và Nora Helmer trong vở kịch Nhà búp bê của Ibsen. Với The Broken Nest , Tagore mang tiểu thuyết Bengal hiện đại đầy đủ vào cuộc thảo luận về một đề tài đã và vẫn là một ưu phiền nhức nhối cho các xã hội hiện đại ở khắp nơi. Ông cũng không tụt lại đằng sau các nhà văn Anh trong việc nhận thức và xử lí chủ đề này. Năm 1906 nhân vật đáng nhớ Irene Forsyte trong Một người đàn ông giàu có của John Galsworthy có tính cách táo bạo, hành vi vượt ra khỏi lối sống xã giao kiểu cách của Irene thật sự gây choáng váng. Một người phụ nữ vẫn bị coi là bất nhã và không xứng đáng là một quí bà nếu cô ta dám nói lên những khao khát một điều gì đó vượt ra ngoài mái ấm gia đình. Charu không nói lên những khao khát của nàng, thậm chí không ý thức về chúng một cách rõ rệt, nhưng chúng có sức mạnh như một cái cây đang lớn lên cuối cùng làm nứt toác nền đá rắn. Tagore hết sức can đảm khi viết The Broken Nest và đã bị phê bình gay gắt về nó. Câu chuyện dường như là một âm mưu làm xói mòn hòn đá tảng trên đó thiết lập xã hội Bengal: gia đình. Vào năm 1901 những bất đồng về lối sống hiện đại đã chia lìa nhiều gia đình Bengal. Tagore để ngỏ cái kết câu chuyện làm nhiều độc giả hoang mang và phẫn nộ, vì ông cho thấy quá rõ rằng nếu có cách nào đó để sửa chữa cái tổ bị vỡ, thì Charu và Bhupati (và, nói rộng ra, cái xã hội mà trong đó họ sống) không biết cách nào tìm ra nó. Nhiều bạn đọc cảm thấy không thoải mái nhưng không thể nhầm lẫn những thành tố tạo nên tấn bi kịch tương tự trong cuộc sống của chính họ. Giống như Bhupati, họ ớn lạnh vì nhận ra sự ổn định của gia đình hoàn toàn không phải là một điều khoản của học thuyết đã được mọi người thừa nhận, mà phải giành lấy thông qua những cố gắng liên tục và có ý thức. Họ không hiểu rằng chủ đề thật sự của Tagore là sự bền vững của gia đình và nhu cầu của các thành viên trong gia đình là được hiểu như một con người, được tạo những cơ hội lớn hơn trong một thế giới đang rộng mở. The Broken Nest là tiếng kêu từ trái tim của một nhà văn, bằng cách thay cho những người thấp cổ bé miệng, nói với toàn xã hội. Mary M. Lago Tháng 6, 1969 Columbia, Missouri Hoa Kỳ Mời các bạn đón đọc Vỡ Tổ của tác giả Rabindranath Tagore.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac - Jules Verne
Trong một chuyến thám hiểm và lòng Châu Phi, đoàn thám hiểm với người đứng đầu là Barsac đã cóchuyếnduhành vào một thành phố bí ẩn giữa lòng sa mạc Sahara.  Thành phố phát triển này là do một nhà khoa học thông minh nhưng đầy tham vọng đen tối xây nên. Sức tưởng tượng của Jules Verne kết hợp với kiến thức khoa học đã tôn vinh những thành tựu tuyệt diệu của con người, và cũng cho thấy những thành tựu ấy chỉ nở hoa và trường tồn khi phục vụ cho mục đích tốt đẹp. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. *** Sau khi đã khóa chặt cửa, những người trốn chạy lo săn sóc các thương binh. Với sự giúp đỡ của Barsac và Amédée Florence – chính anh cũng bị thương nhẹ. – Jane chăm sóc những người mà số phận trớ trêu đã đưa đẩy họ đến chỗ ở của kẻ thù tàn bạo của họ. Khi việc băng bó đã xong, thì cô gái lại phải lo cho những người bất hạnh, bị cái đói hành hạ mấy ngày nay, ăn uống. Sau hồi lùng sục thức ăn ở khắp tất cả các tầng, mọi người cũng đã được ăn uống chút đỉnh. Nhưng tình thế vẫn hết sức nghiêm trọng, giờ cáo chung không thể tránh khỏi dường như chỉ kéo dài thêm mấy tiếng đồng hồ. Mười một giờ trưa. Các vụ nổ vẫn tiếp tục, trên bãi đáp nghe rõ tiếng la hét của các Chàng trai Vui tính, thỉnh thoảng chúng lại phí công công phá cánh cửa, còn từ trên sân hiên thì vọng xuống tiếng chửi bới của William Ferney và đồng bọn của hắn, song những người chạy trốn ý thức được rằng pháo đài của họ gần như là bất khả xâm phạm. Vừa mới được rảnh tay là Jane Buxton hỏi ngay Amédée Florence lý do họ rời khỏi nhà máy và đánh nhau trong điều kiện không cân sức như thế ngoài bãi đáp. Chàng phóng viên kể lại những gì đã xảy ra sau khi nàng đi khỏi. Anh kể rằng cuối cùng Tongané đã phát tín hiệu hằng mong đợi và Marcel Camaret đã chuyển sang khu giữa một vài gói thuốc nổ cùng với nhiều gươm đao, giáo mác. Sau đó những người bị bao vây tập trung đến cửa chính, sẵn sàng lao vào trận đánh khi nó bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac của tác giả Jules Verne.
Báo Cáo Chính Phủ - Hàn Thiếu Công
Bất ngờ bị bắt khi vô tình dính líu vào một vụ án, “tôi” buộc phải đối diện với một cuộc đời hoàn toàn xa lạ – cuộc sống trong nhà tù tăm tối chỉ có một mảnh trời nhỏ hình vuông. “Tôi” ước sao thời gian quay ngược lại, những quản giáo, đầu gấu, đòn trừng phạt dã man kia chỉ là một giấc mơ. Ba năm sau, được trả lại tự do hằng khao khát, “tôi”, giống như khi đã xếp hàng quá lâu, cuối cùng mới tới được quầy mua hàng, lại không biết mình phải mua cái gì, không biết đồ trong quầy có giá trị gì. “Tôi” lạc lõng trong chính thứ tự do ấy. Dũng cảm rời xa văn phong tinh tế, ngôn từ đậm chất trí thức quen thuộc trong Từ điển Mã Kiều, Hàn Thiếu Công dùng danh xưng ngôi thứ nhất, lấy giọng điệu kể truyện của chính nhân vật chính, một người tù bình thường, để thuật lại một cách tự nhiên cuộc sống tù ngục tăm tối, xót thương, và làm rúng động sâu sa. Báo cáo chính phủ là sự thử nghiệm một cách viết khác của tác giả, trình hiện một cái nhìn mới mẻ đối với thế giới của những con người bị kết tội. *** Tối hôm đó trời oi bức. Cảnh sát đưa bạn tôi vào phòng giam số 2, và dẫn tôi tới trước cửa phòng số 9. Còn đang mường tượng ánh mắt sợ hãi vừa rồi khi bạn tôi quay đầu lại, thì đã nghe một tiếng quát: “Vào đi!” Tiếng khóa cửa loảng xoảng sau lưng đẩy tôi loạng choạng vào bóng tối. Tôi mò mẫm trong tối tăm, mất một lúc lâu đồng tử mới quen với ánh sáng nhờ nhờ, những bức tường gạch dần dần hiện rõ. Buồng giam cao như một cái giếng vuông, một vài sinh vật chìm đọng nơi đáy giếng bừng tỉnh, xôn xao ngồi dậy hoặc đứng hẳn lên. Trong số đôi ba chục thân người ở trần, người trẻ đông hơn, cũng có vài gương mặt đã nhăn nheo. Bọn họ phần đông đầu cạo trọc lóc, ánh mắt đổ dồn vào tôi, cái nhìn lộ vẻ khoái trá thèm khát như phát hiện ra con mồi. “Lại tới một món nữa.” Có người ngáp. “Có mang gì nguy hiểm không?” Câu này hình như hỏi tôi. Tôi lắc lắc đầu. “Mày là người của lão Bí đao à?” Tôi vẫn lắc đầu. Một người giằng mất mảnh chăn chiên đang kẹp dưới nách tôi. Một người bắt đầu lục lọi túi quần áo, lần hai bên hông và đũng quần tôi, nắn đến tận gót chân. Chắc chắn bọn họ rất thất vọng, giống như cảnh sát viên khám người tôi hồi nãy, vừa khám vừa chửi rủa. Quả tình tôi cũng muốn mình phức tạp hơn một chút, tỉ dụ có cả đống tiền bạc biển thủ bị họ khui ra, hay bét nhất cũng phải có tí hung khí hoặc bột trắng gì đấy khiến họ thêm phần mãn ý chứ. Đương nhiên, tôi trong sạch vô tội, nhưng như thế thì tội nghiệp khác nào một gã ăn mày đây? Đáng tiếc, tôi quả là giống gã ăn mày, chả có thể diện, chả có gì, mới lĩnh được mảnh chăn chiên cũ, chiếc bàn chải đánh răng mất cả cán cầm. Cảnh sát cảnh giác với mọi thứ đồ vật kim loại, sợ cái cán bàn chải đánh răng có thể đem mài nhọn, độ dài vừa đủ chạm tới tim, nên chỉ cho tôi một cái bàn chải không cán. ... Mời các bạn đón đọc Báo Cáo Chính Phủ của tác giả Hàn Thiếu Công.
Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ)
Nguyên tác : A Portrait Of The Artist As a Young Man Tác giả : James Joyce Dịch giả : Nguyễn Thế Vinh Thể loại : Tiểu thuyết Văn Học Nước Ngoài Nhà xuất bản : Thế giới Ngày xuất bản : 06/2005 Số trang : 320 Kích thước : 14 x 20,5 cm Số quyển / 1 bộ : 1 Số ấn bản : 300 cuốn Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ) là câu chuyện kể về cuộc sống và môi trường xung quanh của Stephen Dedalus - một chàng trai trẻ người Ireland. Stephen Dedalus hiện lên là người tràn đầy sức mạnh của tuổi trẻ, nhân cách, sự thông minh, tâm hồn nhạy cảm một cách khác thường. Stephan Dedalus được sinh ra và lớn lên tại Ireland, chịu sự ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo, chính trị Ireland nhưng luôn gặp phải sự mẫu thuẫn giữa nghệ thuật và luân thường đạo lý. Chàng trai đã đặt ra rất nhiều câu hỏi, đứng lên chống lại những công ước Công giáo và sau đó quyết định rời Ireland lên đường sang châu Âu, bước chân ra thế giới để rèn giũa lương tâm và tâm hồn mình. Điểm đặc biệt của tiểu thuyết này còn ở chỗ tác giả cũng chính là một người dân Ireland và tiểu thuyết được viết theo hình thức bán tự truyện. *** James Augustine Aloysius Joyce là một nhà văn và nhà thơ biệt xứ Ireland, được đánh giá là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Ông nổi tiếng nhất với tiểu thuyết bước ngoặt Ulyxơ. Các tác phẩm chính khác của ông là tập truyện ngắn người Dublin (1914), các tiểu thuyết Bức họa người nghệ sĩ là thanh niên (1916) và Finnegans Wake (1939). J. Joyce còn là tác giả của các tập thơ Nhạc thính phòng (Chamber Music, 1907), Thơ một xu một bài (Poems Pennyeach, 1927), Colleted Poems, 1936. Dù số lượng không nhiều nhưng thơ của James Joyce có sự ảnh hưởng rất lớn đến các nhà thơ Anh phái Hình tượng. Có thể coi Joyce là một trong những nhà văn hàng đầu của lối viết "dòng ý thức" với bút pháp độc thoại nội tâm chân thật nhất trong văn học hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại hay chính là James Joyce - không chấp nhận lối sáng tác giống các thể loại văn học truyền thống. Nhà văn phá bỏ hoặc tưởng tượng lại các cấu trúc đã được nhận thức và nỗ lực tạo ra chính xác những dòng suy nghĩ theo quy luật hàng ngày với những gì xảy ra. Trong bài viết của nhà nghiên cứu Paul Gray về James Joyce đăng trong tuyển tập 100 con người tạo nên thế kỷ XỬ do báo Time (the Time 100, ngày 6 tháng 8 năm 1998) bình chọn, ông cho rằng chính Ulysses đã mở đường và in dấu sâu đậm trong tác phẩm của nhiều nhà văn lớn của thế giới sau đó như William Faulkner, Albert Camus, Samuel Beckett, Saul Bellow, Gabriel Garcia Marquez và Toni Morrison. Các tác giả này, Paul Gray viết một cách châm biếm, không như Joyce, đều đoạt giải Nobel văn học. James Joyce từng nói "Một trong những điều khi còn trẻ tôi không tài nào quen được là sự khác biệt tôi nhận thấy giữa cuộc sống và văn chương" (trích từ bài của Paul Gray). Joyce dường như đã dành cả sự nghiệp của mình để xóa bỏ sự khác biệt này, đồng thời cách mạng hóa cả nền văn chương thế kỷ XX. Cuộc sống trong tác phẩm của Joyce phần lớn là cuộc đời của chính ông. *** James Augustine Aloysius Joyce (tiếng Ireland: Seamus Seoighe; 2 tháng 2 năm 1882 – 13 tháng 1 năm 1941) là một nhà văn và nhà thơ biệt xứ Ireland, được đánh giá là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Ông nổi tiếng nhất với tiểu thuyết bước ngoặt Ulyxơ (1922). Các tác phẩm chính khác của ông là tập chuyện ngắn người Dublin (1914), các tiểu thuyết Bức họa người nghệ sĩ là thanh niên (1916) và Finnegans Wake (1939). J. Joyce còn là tác giả của các tập thơ Nhạc thính phòng (Chamber Music, 1907), Poems Pennyeach, 1927, Colleted Poems, 1936. Dù số lượng không nhiều nhưng thơ của James Joyce có sự ảnh hưởng rất lớn đến các nhà thơ Anh phái Hình tượng. Mặc dù phần lớn quãng đời trưởng thành của ông là ở nước ngoài, kinh nghiệm Ailen của Joyce vẫn rất tinh tế trong các bài viết của ông và nó cung cấp tất cả nền tảng cho tưởng tượng của ông và các vấn đề chủ thể nó. Không gian tưởng tượng trước tiên khởi điểm tại Dublin và phản ánh cuộc sống gia đình của ông và các sự kiện và bạn bè (và kẻ thù) từ những ngày ở trường phổ thông và trường đại học. Dù vậy, ông trở thành người chủ nghĩa toàn cầu nhất và là một trong số những người địa phương nhất của tất cả phạm vi tiếng Anh hiện đại. Kinh nghiệm Ailen của Joyce tạo thành một phần tử tinh tế trong các tác phẩm của ông và cung cấp nền tảng cho trí tượng tượng của ông và rất nhiều các vấn đề chủ thể. Tập truyện ngắn trong ấn bản đầu tay Người Dublin đã tập trung phân tích sự đình trệ và sự tê liệt của xã hội Dublin. Các câu truyện kết hợp chặt chẽ The stories incorporate sự hiện thân, một từ được sử dụng riêng bởi Joyce, với ý nghĩa là ý thức bất chợt của "tâm hồn" một thứ gì đó. Câu truyện cuối cùng và nổi tiếng nhất trong tập truyện, "Cái chết", được John Huston đạo diễn như là phim đặc trưng cuối cùng của ông vào năm1987.   Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ) xếp thứ 3 trong bảng xếp hạng 100 cuốn tiểu thuyết hay nhất , và xếp thứ  57 trong bảng xếp hạng do độc giả bình chọn "Đọc các tác phẩm của Joyce đã thay đổi cuộc đời tôi như thế nào?” là tên một cuộc thi dành cho học sinh năm cuối bậc phổ thông của thành phố New York do những người bạn Mỹ của James Joyce tổ chức năm 2005. Đây cũng là một trong những hoạt động dành cho lễ kỷ niệm Bloomsday năm 2005 vừa qua để tưởng nhớ James Joyce.  Đây là bài tiểu luận đạt giải nhất với tựa đề “Chân dung nghệ sĩ” của một học sinh có tên là Mara Wishingrad. eVăn đặt lại đầu đề. Khi cố gắng lý giải sự hình thành của tài năng, nền văn hóa của chúng ta đã mang ra hình ảnh thần thoại Hy Lạp của Aphrodite1 , tượng trưng cho nữ thần của Tình yêu và Cái đẹp. Nếu như ai đó tin tưởng vào các phương tiện truyền thông đại chúng, họ sẽ cho rằng người nghệ sĩ, cũng giống như Aphrodite được tạo thành từ miếng bọt biển với một tài năng đã phát triển đầy đủ và chỉ cần có một cơ hội đúng thời điểm là có thể bộc lộ năng khiếu bẩm sinh sẵn có đó. Trái lại, James Joyce miêu tả sự phát triển và hình thành nên một người nghệ sĩ trong cuốn tiểu thuyết Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ) và minh họa rằng ý thức của người nghệ sĩ phát triển theo thời gian và cần phải có rất nhiều năm để trưởng thành. Do đó, Joyce chọn một thần thoại khác để tượng trưng cho câu chuyện của mình, đặt tên người hùng của mình là Stephen Dedalus - cái tên được lấy từ một anh hùng trong thần thoại Hy Lạp - Daedulus2 , người đã khôn khéo sử dụng tài năng để tìm được tự do cho chính mình.    Trong Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ), Joyce miêu tả một quan sát những bước phát triển trong trí óc của một nghệ sĩ bằng cách mô tả sự đấu tranh và phát triển nội tâm của một chàng trai trẻ, Stephen Dedalus. Thông qua kỹ thuật “dòng ý thức”, Joyce trực tiếp ghi lại những cảm xúc, suy tư, trăn trở của Stephen thay bằng mô tả thông qua quan điểm của một người khác.           Bằng cách sử dụng ngôn từ mà ngày càng trở nên lưu loát và trí tuệ khi Stephen trưởng thành, Joyce chỉ ra cách tư duy của Stephen phát triển khi cậu là một thanh niên đã chín hơn. Và kết quả là, người đọc cảm nhận rằng Joyce đang chia sẻ cuộc sống nội tâm của Stephen, hơn là chỉ quan sát anh ta từ bên ngoài. Mặc dù hoàn cảnh sống xung quanh và các sự kiện xảy ra với cuộc đời của Stephen không có nhiều điểm chung với tôi, thế nhưng đời sống nội tâm của tôi và cậu ấy lại giống nhau đến bất ngờ. Cũng giống như Stephen, tôi luôn luôn cảm nhận rằng tôi nhìn nhận thế giới bên ngoài một chút khác biệt so với những người xung quanh.          Ngay từ khi tôi còn bé, đời sống nội tâm cũng như thế giới bên ngoài luôn luôn thực và quan trọng đối với tôi. Tất cả những gì cuốn hút tôi đều là những hoạt động dựa trên trí tưởng tượng của tôi hơn là các thử thách về sức mạnh hay hình thể. Trong lúc những người khác hài lòng và thích thú để trở thành những người tham gia tích cực và năng động, thì tôi lại thường xuyên đứng ở ngoại biên nghiên cứu họ và các sự việc diễn ra xung quanh tôi. Thông qua chân dung Stephen mà Joyce vẽ ra, tôi nhận ra rằng những gì làm tôi khác với mọi người là cái gì đó tôi nên chấp nhận chứ không phải cái gì đó tôi cần phải xa lánh. Tuy nhiên, cũng không dễ dàng gì để tin vào bản thân mình khi lớn lên với một ý thức trong đầu rằng người nghệ sĩ được sinh ra vốn dĩ đã hình thành đầy đủ tài năng. Khi so sánh bản thân mình với những thần tượng văn học, những nỗ lực của tôi thường không đạt tới cái gì cả. Không ai chỉ cho tôi biết rằng những nhà văn tài năng đó không phải lúc nào cũng có những trang viết tuyệt vời. Không ai nói cho tôi biết rằng họ đã phải dành hàng giờ đồng hồ, nỗ lực viết, viết và viết lại nhằm tạo nên những câu chữ tưởng chừng như chỉ cần rất ít nỗ lực. Trong khi đó, có những ngày tôi cảm tưởng rằng mình không thể làm được một việc gì cả và thường xuyên tôi cảm thấy những mục đích của mình thật quá xa xôi. Tuy nhiên, hình ảnh sự phát triển của Stephen trong Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ) đã truyền cho tôi nguồn cảm hứng, đưa đến cho tôi một lựa chọn khác với vị thần Aphrodite. Trong thần thoại Hy Lạp mà Joyce lựa chọn, người anh hùng Daedalus lại trái ngược với con trai của mình - Icarus. Daedalus, một bậc thầy lành nghề, tạo cho chính mình và con trai mình những đôi cánh để họ có thể bay và trốn thoát khỏi hòn đảo Crete nơi họ bị vua Minos giam trong ngục tù. Icarus, trẻ tuổi, nông nổi, cẩu thả, say sưa tự do tới quá mức tự chủ đến nỗi đã không nghe lời cha dặn rằng không được bay quá gần với mặt trời và kết quả là đã bị mặt trời thiêu cháy đôi cánh và chết đi. Không giống như Icarus, Stephen chuẩn bị trí tuệ, kinh nghiệm và tinh thần cho chính mình để cất cánh. Thông qua cả giáo dục chính thống và sự tự vấn nghiêm túc, Stephen đã có thể xây dựng cho mình một hệ thống niềm tin, đạo đức, và triết lý về mỹ học của riêng mình. Cậu đã phát triển và nhận ra mình là ai và mình muốn gì. Khi cuốn tiểu thuyết gần khép lại, có người cảm nhận rằng Stephen đã sẵn sàng rời bỏ mảnh đất an toàn của nhà trường, gia đình và tổ quốc để đề ra kế hoạch của chính mình như là một nghệ sĩ. Có người thì cho rằng Stephen đã đạt tới sự trưởng thành về mặt trí tuệ và óc thẩm mỹ qua sự giằng xé nội tâm, và rằng đó không phải là một con đường thẳng tắp mà là một con đường ở phía trước với rất nhiều khúc quanh và chướng ngại vật. Hình ảnh Stephen phát triển để trở thành một nghệ sĩ dưới ngòi bút của James Joyce đã động viên tôi trên hành trình đi tìm cái đẹp của chính mình. Bằng văn phong miêu tả đầy thuyết phục và hấp dẫn của Joyce, những cảm xúc, suy nghĩ của Stephen đã thay đổi lối tư duy để trở thành người nghệ sĩ và người sáng tạo cái đẹp trong tôi. Khi tôi tìm kiếm và tạo nên thần thoại của chính mình, ý thức của tôi chấp nhận một điều rằng chúng ta sinh ra không phải là nghệ sĩ mà chúng ta trở thành nghệ sĩ. 1 : Trong thần thoại Hy Lạp, Aphrodite là vị thần biểu tượng cho tình yêu và sắc đẹp. 2 :  Trong thần thoại Hy Lạp, Daedalus bị vua Minos giam trong hòn đảo Crete. Nhưng bằng tài năng và trí thông minh, Daedalus đã tự tạo cho mình đôi cánh và thoát ra khỏi nhà tù đó. Mời các bạn đón đọc Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ) của tác giả James Joyce.
Mở Mắt Trời Vẫn Xanh
Cuốn sách kể về cuộc sống của Russell Ammiano bị đảo lộn hoàn toàn sau vụ khủng bố 11/09. Hôm đó là 1 ngày kinh hoàng,  bắt đầu bằng việc muộn giờ một cuộc họp quan trọng; rồi anh nhận được điện thoại báo tin mẹ mình đột ngột qua đời; và Russell cần thu xếp về quê ngay lập tức để chăm sóc cho người anh trai bị bại não; sau đó, anh tận mắt chứng kiến cảnh tòa nhà nơi anh làm việc bị khủng bố, và tất cả bạn bè đồng nghiệp cũng như công ty anh đều bị vùi sâu dưới đống đổ nát. Cuốn sách xoáy sâu vào tâm lý xã hội Mỹ sau vụ khủng bố kinh hoàng ấy. Khủng hoảng tinh thần, kì thị người Hồi giáo... Loay hoay trong nỗi ám ảnh; mất mát, lại phải lo toan cuộc sống cho người em trai mắc bệnh bại não, Russell Ammiano đã có lúc tưởng như gục ngã. May sao, cô gái  Anat Nazir xuất hiện và chính tình yêu đã giúp Russell học được cách xây dựng lại cuộc đời mình từ con số Không. Đây là một cuốn sách gây tiếng vang tại quê nhà, và chắc chắn với đề tài đậm chất nhân văn, Mở mắt trời vẫn xanh sẽ chạm đến nơi sâu thẳm nhất của mỗi con người - đánh thức trong họ tình yêu cuộc sống và trân trọng những giờ phút quý giá bên người thân. *** [Review] – Mở Mắt Trời Vẫn Xanh – Catherine Ryan Hyde Sau một loạt những mất mát kinh hoàng của sự kiện 11/9/2001 ở Mỹ, Russell gần như bị quẳng vào vực thẳm với cái chết đột ngột của người mẹ cùng trách nhiệm chăm sóc người anh trai bị bại não. Bắt đầu một cuộc sống mới không hề dễ dàng, tại một vùng đất cũ không còn quen thuộc, với những con người gần như mới lạ, Russel sẽ phải xoay sở thế nào đây? Vào ngày 11/09/2001, một vụ khủng bố khủng khiếp đã gây chấn động toàn bộ nước Mỹ và dấy lên hàng loạt làn sóng phẫn nộ từ dân chúng. Russell, chàng nhân viên quảng cáo, đã may mắn thoát chết do muộn giờ làm nhưng lại tận mắt chứng kiến tòa tháp mình đang làm việc sụp đổ cùng với mạng sống của những người sếp, người đồng nghiệp của mình. Chưa hết, anh còn nhận được tin mẹ mình đã qua đời khiến anh phải mau chóng về lại quê nhà để chịu tang và thay mẹ chăm sóc người anh trai bị bại não của mình. Khoảng thời gian anh ở tại quê nhà với Ben, người anh trai ấy, đã gần như đẩy Russell vào tuyệt vọng khi mà nỗi ám ảnh vẫn còn, những rắc rối phát sinh, những trách nhiệm phải gồng gánh và tỷ tỷ thứ phải đối mặt khác. Nhưng định mệnh cũng không lấy đi tất cả của anh mà còn cho anh gặp gỡ Anat Nazir, một cô gái Ai Cập cũng chịu nhiều rắc rối sau sự kiện khủng bố ấy. Tình yêu, tình thương còn sót lại là ánh sáng, là động lực mới để Russell làm lại cuộc đời, viết lại một cái kết tốt đẹp hơn mà anh xứng đáng nhận lấy. Sau tất cả, “Mở mắt trời vẫn xanh”, màu xanh của hi vọng, của sự sống mới, của một khởi đầu mới dành cho Russell.  [Image: [Review] - Mở Mắt Thấy Trời Vẫn Xanh - Catherine Ryan Hyde] [Review] – Mở Mắt Thấy Trời Vẫn Xanh – Catherine Ryan Hyde Đọc hết phần đầu câu chuyện, tôi tự hỏi liệu nếu là mình, làm sao mình có thể vượt qua được quãng thời gian ấy chứ. Khi bạn chưa kịp hồi phục sau những thương tổn thì những tai ương đồng thời ập đến. Rồi những ngày sau đó, bạn còn bị “khủng bố tinh thần” bởi những người dân sinh sống xung quanh với đủ thứ rắc rối phát sinh, với những tư tưởng khá cực đoan. Chính điều đó đã dẫn đến sự xung đột giữa Russel và gia đình Nazir cũng như mối quan hệ giữa anh và Anat. Nhưng rất may, sau cùng, tác giả vẫn mở cho anh một con đường hoàn hảo, dù rằng mình mong đợi nó…bi thảm hơn một chút. Câu chuyện được kể bởi giọng văn khá mạch lạc, đầy gợi mở, lúc là giọng của Russel, lúc như của một người thứ 3 vậy. Tuy nhiên, mình thực sự chưa cảm nhận được nỗi đau tinh thần của Russel cho lắm (vì có lẽ mình mong đợi nhiều xung đột về nội tâm hơn) nhưng có lẽ câu chuyện thiên hướng về các mối quan hệ giữa người với người nhiều hơn nên mình cũng cho qua luôn. Dù vậy,truyện vẫn có những phân đoạn để thể hiện cảm xúc tích cực lẫn tiêu cực của mỗi nhân vật và những chi tiết đó cũng khá đắt giá để người đọc hiểu hơn về tâm lý nhân vật. Cách kể theo lộ trình thời gian tựa như một quyển nhật ký cũng khiến người đọc thấy lạ lẫm lúc đầu vì nó không giống văn phong khi viết nhật ký cho lắm nhưng cũng khiến người ta hứng thú hơn khi đọc sách. Càng về sau thì quay lại mạch truyện tự sự nhiều hơn cho nên mất đi vẻ “nhật ký” ban đầu khiến mình cuốn hút. Đánh giá: 7,5/10 *** Review Sách “Mở Mắt Trời Vẫn Xanh” - Câu Chuyện Nhân Văn Sau Khủng Bố 11/9 Một cuốn sách thắt ruột về một người vừa thoát chết sau sự kiện 11/9, mất mẹ ngay trong buổi sáng hôm đó và tiếp nhận một người anh không-bình-thường. Nếu bạn đã chán những cuốn truyện về tình yêu nam nữ đơn thuần, hay những cuốn sách giáo điều triết lý, thì Mở mắt trời vẫn xanh sẽ là một làn gió mới độc đáo dành cho bạn. Mở mắt trời vẫn xanh là câu chuyện kể về cuộc sống trong bốn tháng của Russell Ammiano, kể từ ngày 11/9/2001, ngày đã xoay chuyển cả cuộc đời anh. Ngủ dậy muộn, trễ mất cuộc họp quan trọng ở công ty, Russell đã tưởng rằng ngày hôm đó của anh không thể nào tệ hơn, cho đến khi nhận được điện thoại từ quê nhà thông báo: Mẹ anh vừa đột ngột qua đời, và anh cần thu xếp công việc, về quê ngay lập tức để chăm sóc cho người anh trai bị tổn thương não của mình. Mọi chuyện còn trở nên tồi tệ hơn khi Russell tận mắt chứng kiến cảnh chiếc máy bay khủng bố lao thẳng vào tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới – nơi anh đang làm việc, cũng là mục tiêu cả cuộc đời anh. Russell thực sự suy sụp. Cuộc sống mơ ước mà anh cố gắng bấy lâu trong phút chốc chỉ còn là đống đổ nát. Tất cả bạn bè của anh đều ra đi trong cuộc khủng bố. Và giờ đây, người thân duy nhất anh còn là Ben – người anh trai bị tổn thương não, có tâm trí như một đứa trẻ con. Mở mắt trời vẫn xanh là câu chuyện về cách Russell đã từng bước đối diện với thực tế đau khổ của mình, và dần dần tìm ra con đường để bước tiếp, để hướng về bầu trời xanh trước mặt. Xuyên suốt câu chuyện của nhân vật chính, tác giả Katherine Ryan Hyde đã khéo léo lồng ghép phản ứng rất thực của người dân nước Mỹ trước vụ khủng bố: có những người đồng cảm, giúp đỡ lẫn nhau, cũng có những người dè chừng hơn với người khác, và không thể không kể đến những phần tử yêu nước đến mù quáng, để sự sợ hãi và thù ghét chiếm mất lí trí mà hành động điên rồ. Tất cả những cảm xúc, tích cực lẫn tiêu cực, đều được thể hiện rất chân thực qua các nhân vật dù chỉ xuất hiện trong một thoáng chốc. Một ông chú nóng nảy bênh vực mọi điều về nước Mỹ và sẵn sàng cáu kỉnh với những người mà theo ông là không-yêu-nước; một cô gái mạnh mẽ và cá tính lên tiếng phản đối chiến tranh và những hành động trả thù; cụ bà hơn tám mươi tuổi yếu ớt và không thường giúp đỡ người khác, lại sẵn sàng cho một cậu thanh niên đi nhờ xe bởi “tôi chỉ đang cố gắng giúp đỡ thôi” – khi cậu thanh niên ấy không thể bắt nổi một chuyến bay về quê hương sau vụ khủng bố, v…v… Câu chuyện được viết theo dạng hồi ký qua từng ngày, dần hé lộ những bí mật trong quá khứ khi Russell còn nhỏ, và nguyên do khiến anh muốn chối bỏ vùng quê Norville của mình; cùng những bí mật đầy bất ngờ về một tuổi thơ không êm đẹp với người anh trai – đã từng vô cùng mạnh mẽ, lanh lợi. Giữa sự hỗn loạn của xã hội, Russell gần như lạc lối trong đống đổ nát của nước Mỹ và của chính đời mình. Nhưng rồi sau tất cả, anh vẫn tìm được cách bắt đầu lại tất cả từ con số 0, và tìm được hạnh phúc của riêng mình. Bởi vì dù thế nào, thì bầu trời vẫn luôn xanh.   Theo Bookaholic.vn Mời các bạn đón đọc Mở Mắt Trời Vẫn Xanh của tác giả Catherine Ryan Hyde & Kiệm (dịch).