Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứng Vững Đến Cùng - Ghêóocghi Xviriđốp

Kế hoạch tiêu diệt Hitler của Tình báo Xôviết Trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Cơ quan tình báo Xôviết đã tổ chức rất nhiều chiến dịch nhằm tiêu diệt các tướng lĩnh, sĩ quan quân đội,cũng như các quan chức cao cấp của đảng và chính phủ phát xít. Tuy vậy, đối tượng chính trong nhiều kế hoạch của tình báo Xôviết là tên trùm phát xít Adolf Hitler… Ý tưởng tiến hành một chiến dịch đặc biệt nhằm tiêu diệt Hitler đã được điện Kremli đưa ra ngay từ mùa thu năm 1941, khi bộ máy quân sự khổng lồ của Đức đang rầm rộ tiến về phía Moskva. Do giới lãnh đạo Xôviết khi đó đã không loại trừ khả năng Thủ đô Moskva bị chiếm, Cơ quan Dân ủy nội vụ Liên Xô (NKVD) - tiền thân của KGB - đã được lệnh chuẩn bị cho việc bước vào hoạt động bí mật cũng như lên kế hoạch đặt mìn tại những cơ sở chính quyền và kinh tế hàng đầu của Thủ đô. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, chỉ huy Phòng 2 của NKVD là Sudoplatov đã đặt ra một nhiệm vụ quan trọng cho các chiến sĩ tình báo dự kiến sẽ ở lại hoạt động bí mật: trong trường hợp Moskva rơi vào tay quân thù và Hitler tới đây, cần phải tổ chức kế hoạch tiêu diệt hắn. Sudoplatov đã kể về kế hoạch này: “Beria chỉ thị cho chúng tôi phải tổ chức một mạng lưới tình báo tại thành phố trong trường hợp bị quân Đức chiếm đóng. Tại Moskva, chúng tôi đã triển khai đến 3 mạng lưới hoạt động độc lập với nhau. Chỉ huy một nhóm là người bạn cũ của tôi từ Ukraina - Thiếu tá Drozdov. Để chuẩn bị cho hoạt động bí mật, anh được tạo vỏ bọc từ trước là Cục phó Cục Dược phẩm Moskva. Nếu Moskva bị chiếm, Drozdov sẽ tìm cách cung cấp thuốc cho Bộ chỉ huy quân Đức để giành được sự tin cậy của chúng. Chỉ huy Fedoseev của Ban Phản gián NKVD đảm trách việc chuẩn bị hoạt động bí mật và nhân sự cho các hoạt động tình báo phá hoại. Nhóm thứ ba hoạt động độc lập, có nhiệm vụ tiêu diệt Hitler và các quan chức cao cấp của hắn, nếu chúng xuất hiện tại Moskva. Chiến dịch này được giao cho nhạc sĩ Knipper (anh của điệp viên nổi tiếng Olga Chekhova). Lãnh đạo nhóm này là Fedotov, chỉ huy Tổng cục Phản gián của NKVD”. Mặc dù quân Đức bị đánh bật ngay tại cửa ngõ Moskva, nhưng các chỉ huy Phòng 2 của NKVD (vào năm 1942 đổi thành Phòng 4 phụ trách trinh sát phá hoại) không từ bỏ ý định tiêu diệt Hitler. Sau khi theo dõi rất chặt chẽ việc đi lại của hắn, các chiến sĩ tình báo đã xác định được, từ nửa cuối tháng 7 - 10/1942, Hitler thường có mặt tại Ban Tham mưu dã chiến Verwolf gần Vinnisia. Chính tại đây, hắn đã trực tiếp chỉ đạo các hoạt động tác chiến, trong khi theo định kỳ thỉnh thoảng bay về Berlin hay khu dinh thự Bertgof tại xứ Bavaria. Nhưng chiến dịch này cuối cùng đã phải từ bỏ, do trong suốt năm 1943, Hitler chỉ tới Verwolf có đúng một lần và không ở lại lâu. Kế hoạch ngay trên đất Đức Những sự kiện chính sau đó không diễn ra tại Vinisia, mà ngay tại nước Đức. Chính tại đây, theo dự tính của Sudoplatov và chỉ huy phó Eitingon của ông, cần phải tổ chức một chiến dịch tiêu diệt tên trùm phát xít Hitler. Họ cho rằng phải cử tới Đức một điệp viên để trực tiếp tổ chức chiến dịch ám sát mà không gây cho Gestapo phải nghi ngờ. Nhân vật được chọn chính là Igor Miclashevski. Miclashevski sinh năm 1918 trong gia đình nữ nghệ sĩ nổi tiếng Avgust Miclashevskaia (từng có thời được nhà thơ Sergey Esenhin yêu say đắm). Chị chồng của Avgust là Inna đã lấy một nghệ sĩ có tên Bliumental-Tamarin. Mùa thu năm 1941, khi quân Đức tiến sát tới Moskva, Bliumental-Tamarin đã đầu hàng và đi theo chúng và được sử dụng cho các chiến dịch tuyên truyền - bằng việc lên đài phát thanh kêu gọi các chiến sĩ Hồng quân đầu hàng. Ngoài ra, Bliumental-Tamarin còn dàn dựng một loạt các chương trình xuyên tạc những cuộc họp của Bộ Chính trị, trong đó trực tiếp lồng tiếng của Stalin. Theo khẳng định của Đại tá Victor Baranov, Stalin đã rất tức giận khi lần đầu nghe những chương trình của Bliumental-Tamarin. Ông đã dùng bút chì đỏ (dấu hiệu của mệnh lệnh đặc biệt quan trọng) để viết một chỉ thị: “Đồng chí Beria - cần áp dụng mọi biện pháp loại bỏ ngay tên phản bội này cũng như cả đài phát thanh”. Tuy nhiên, việc hoàn thành nhiệm vụ của Stalin trở nên rất khó khăn do quân Đức vào cuối năm 1941 đã đưa Bliumental-Tamarin về Berlin. Tại đó, hắn lại tiếp tục làm công cụ tuyên truyền trên đài phát thanh. Tương kế tựu kế, Sudoplatov đã quyết định lợi dụng sự phản bội của Bliumental-Tamarin để cài cắm điệp viên của mình vào Đức. Igor Miclashevski được giao nhiệm vụ thực hiện kế hoạch này. Đầu năm 1942, Miclashevski được lệnh tới mặt trận phía Tây dưới sự hộ tống của một đơn vị đặc biệt do Đại tá Lomidze chỉ huy. Vào một trận chiến lúc nửa đêm, anh chạy sang phía quân Đức và tuyên bố, từ lâu đã tìm kiếm cơ hội để đầu hàng. Ban đầu, bọn Đức không tin những lời khai của Miclashevski. Miclashevski đã phải trải qua rất nhiều thủ đoạn kiểm tra của Cơ quan Phản gián Đức - bị giam chung phòng với những kẻ khiêu khích và thậm chí có lần bị đưa đi xử bắn giả. Nhưng Miclashevski đã vượt qua được mọi thử thách. Đến năm 1942, anh được trả tự do và gia nhập vào Quân đoàn Phương Đông của Đức. Khi Bliumental-Tamarin được tin cậu cháu trai của mình đã chạy sang phía quân Đức, ngay lập tức hắn tới gặp và đưa về Berlin. Tại đó, Miclashevski được gia nhập Ủy ban nước Nga nhưng ít tham gia hoạt động chính trị. Anh chỉ tỏ vẻ ham mê môn quyền Anh hơn cả. Khi đã hợp thức hóa được tại Berlin, Miclashevski báo về trung tâm về việc đã sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ. Chẳng bao lâu, một nhóm ba điệp viên có kinh nghiệm từ Nam Tư được cử tới Berlin. Cả ba người này trong quá khứ đều là những sĩ quan trong quân đội Bạch vệ và có nhiều kỹ năng hoạt động bí mật và phá hoại. Chính những người này dưới sự chỉ huy của Miclashevski - theo ý định của Sudoplatov - sẽ bắt tay vào việc chuẩn bị mưu sát Hitler. Thông qua Nữ hoàng điện ảnh của Hitler Để có thể xâm nhập sâu vào đội ngũ thân cận xung quanh Hitler, Miclashevski đã tìm cách liên hệ với diễn viên Olga Chekhova. Chekhova tới Đức vào năm 1922 và nhanh chóng đạt được những thành công rực rỡ trong điện ảnh. Trong một báo cáo vào tháng 11/1945, chỉ huy Phòng 4 NKVD, Thiếu tướng Utenkhin đã viết: “Vào năm 1922, Olga Chekhova đã ra nước ngoài để học về nghệ thuật điện ảnh trước khi định cư tại Đức. Cô đã trở thành diễn viên nổi tiếng, đóng trong rất nhiều bộ phim tại Đức, Pháp, Áo, Tiệp Khắc và cả ở Hollywood. Vào năm 1936, Olga còn nhận được danh hiệu nghệ sĩ quốc gia của Đức”. Trên thực tế, “nữ hoàng điện ảnh phát xít” là một điệp viên Xôviết và là một người bạn gái rất thân cận của Eva Braun, người tình của Hitler. Trong hồi ký của mình, Sudoplatov đã viết về điều này: “Nữ nghệ sĩ nổi tiếng Olga Chekhova (là vợ cũ của cháu nhà văn nổi tiếng Tsekhov) thông qua họ hàng của mình tại Zakavkaz đã liên hệ với Beria. Bà thường xuyên có những mối quan hệ tiếp xúc với NKVD. Chúng tôi đã có một kế hoạch tiêu diệt Hitler, theo đó Radzivill (một điệp viên gốc Ba Lan) và Olga Chekhova cần phải tạo điều kiện cho người của chúng ta tiếp cận được với Hitler”. Đến giữa năm 1942, việc bắt mối Miclashevski và Chekhova hoàn tất. Miclashevski đã gửi về Moskva một bức điện báo cáo rằng, khó có thể sử dụng được nữ diễn viên này vào việc tiêu diệt Hitler. Tuy nhiên, trong một báo cáo khác, Miclashevski nói về triển vọng mưu sát Goerin, nhưng tình báo Xôviết không quan tâm đến khả năng này. Đến năm 1943, Miclashevski nhận được mệnh lệnh bất ngờ từ trung tâm, yêu cầu ngừng ngay chiến dịch tổ chức tiêu diệt Hitler. Mệnh lệnh có lẽ được Stalin trực tiếp đưa ra. Về nguyên nhân này, Sudoplatov có giải thích như sau: “Stalin lo ngại rằng, nếu chỉ riêng Hitler bị tiêu diệt, các quan chức cao cấp khác trong chính quyền và giới quân sự phát xít sẽ tìm cách ký một hiệp ước hòa bình riêng với các nước đồng minh mà không có sự tham gia của Liên Xô. Sudoplatov đã thực thi ngay chỉ thị của Stalin, cho dù đã hoàn tất kế hoạch. Đến năm 1944, Sudoplatov lại nêu ra vấn đề trên nhưng vẫn nhận được sự từ chối. Kết quả là kế hoạch tiêu diệt Hitler không được thực hiện, cho dù theo khẳng định của Sudoplatov, chiến dịch do Miclashevski đã lên kế hoạch triển khai hoàn toàn có đủ mọi cơ hội để thành công. Cần nói thêm về số phận của nhân vật chính Miclashevski. Cuối năm 1944, anh sang Pháp và gia nhập đội ngũ lực lượng kháng chiến rồi bị thương tại đây. Cuối năm 1945, anh trở về Moskva, được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ và tiếp tục sự nghiệp thể thao của mình Thái Quân (theo Spy World) Sự thật lịch sử là như vậy, còn bây giờ là chuyện về nhân vật Miclashevski! Mời các bạn đón đọc Đứng Vững Đến Cùng của tác giả Ghêóocghi Xviriđốp.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn - Thomas A. Bass
Cuốn này đã được Nhã Nam xuất bản với tựa đề Điệp Viên Z.21 Kẻ Thù Tuyệt Vời Của Nước Mỹ “Đây là câu chuyện xuất sắc về một con người và thời đại của ông. Nó càng củng cố thêm cho cảm giác của tôi khi gặp ông trong giai đoạn cuối đời của ông rằng Phạm Xuân Ẩn là một trong những người ấn tượng nhất mà tôi từng gặp. Ông là con người của trí tuệ, lòng can đảm và tình yêu đất nước nồng nàn. Ông cũng là - mặc dù có vẻ thật trớ trêu khi nói ra điều này trong hoàn cảnh hiện nay - một con người của sự chính trực phi thường. Ông yêu chúng ta ở khía cạnh tốt đẹp nhất trong khi lại đối đầu với chúng ta ở khía cạnh tồi tệ nhất.” - Daniel Ellsberg, tác giả của Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers (Những bí mật: hồi ức về Việt Nam và tài liệu mật của Lầu Năm Góc) “Thomas Bass kể một câu chuyện tuyệt vời về mưu mô[1], nghề gián điệp và tình bạn. Cuốn sách của ông được viết như thể nó đến từ những bến bờ xa xôi nhất của sự hư cấu, và hẳn tôi sẽ không bao giờ tin nổi lấy một từ nào nếu như chính tôi không gặp rất nhiều nhân vật trong đó và không biết câu chuyện để tin rằng nó có thực và không biết câu chuyện đó có thực hay không.” - H. D. S. Greenway, biên tập viên, The Boston Globe, và là phóng viên chiến tranh Việt Nam cho tạp chí Time và báo Washington Post “Mỗi cựu binh, mỗi học giả, mỗi sinh viên, bất kỳ ai từng sống qua cuộc chiến tranh Việt Nam đều được khuyên đọc cuốn sách này và suy ngẫm về thông điệp của nó. Trong cuốn tiểu sử rất sâu sắc và kích thích này về một trong những điệp viên thành công nhất trong lịch sử, Thomas Bass thách thức một vài giả định cơ bản nhất của chúng ta về những gì đã thực sự xảy ra ở Việt Nam và về ý nghĩa của nó đối với chúng ta trong hiện tại.” - John Laurence, phóng viên chiến tranh Việt Nam cho CBS News và là tác giả cuốn The Cat from Huế: A Vietnam War Story (Con mèo Huế: một câu chuyện chiến tranh Việt Nam). * Gã cảm thấy mình đang vĩnh viễn quay lưng lại với sự thanh thản. Mắt mở to, ý thức rõ hậu quả, gã đi vào lãnh địa của sự dối trá không mang theo tấm hộ chiếu cho ngày quay trở lại. GRAHAM GREENE Cốt lõi của vấn đề (The Heart of Matter) *** “Nước Mỹ chỉ giỏi tiến hành những cuộc thập tự chinh,” tướng David Petraeus viết trong luận án tiến sĩ của mình về đề tài “Quân đội Mỹ và những bài học từ chiến tranh Việt Nam”. Được đưa ra bảo vệ tại Đại học Princeton năm 1987, luận án của Petraeus công kích những gì đã trở thành quan niệm được giới nhà binh chấp nhận một cách rộng rãi về những bài học từ Việt Nam. Ông coi đây là một “lối suy nghĩ kiểu được ăn cả ngã về không”, mà chung quy là xuất phát từ học thuyết cho rằng nước Mỹ chỉ nên tiến hành những cuộc chiến tranh thông thường với sự ủng hộ áp đảo của một công chúng mang tinh thần thập tự chinh. Petraeus bác bỏ quan điểm “làm ăn như lối suy nghĩ bình thường” này. Thay vào đó, ông lập luận rằng nước Mỹ có nhiều khả năng là thấy mình sa vào những cuộc chiến tranh phi chính quy khác, đôi khi phải chống trả hai, ba, hay nhiều trận chiến kiểu Việt Nam. Sau này Petraeus tiếp tục biên soạn cẩm nang tác chiến cho lục quân về chống nổi dậy được ban hành ấn hành năm 2006. Năm sau, được trao cơ hội tiến hành công tác thực địa về chuyên ngành học thuật của mình, ông được bổ nhiệm vào vị trí tư lệnh lực lượng Mỹ tại Iraq. Chiến tranh không chỉ là những cuộc thập tự chinh; chúng còn là những cuộc dan díu của con tim. Chiến tranh được phát động vì tình yêu, điều này thì chúng ta đã biết từ thời nàng Helen của thành Troy[2] khiến cho cả nghìn chiến thuyền chở đầy những chàng trai mê mẩn sẵn sàng chết vì nàng xung trận. Nhà văn hài hước người Mỹ P. J. O’Rourke đã nhận ra chân lý này trong một bài tiểu luận ông viết về Việt Nam năm 1992. “Ở Huế, cứ chiều đến, những nữ sinh trung học trở về nhà sau khi tan học, từng đoàn nữ sinh đạp xe trên con phố, tất cả đều tha thướt trong những tà áo dài trắng tinh, một kiểu trang phục gồm áo dài may ôm sát người mặc trùm lên quần rộng. Không phải vô cớ mà những nhà thờ Công giáo còn lại gióng lên hồi chuông cầu kinh Đức Bà vào thời điểm này trong ngày. Tôi không hiểu ở một nơi mà cái đẹp đã trở nên quá đỗi bình dị như thế có thể thay đổi được bản chất của một xã hội hay không.” Sau khi trầm trồ trước “tỷ lệ khổng lồ những mỹ nhân ngư và giai nhân tuyệt sắc” ở cái đất nước Địa đàng này, O’Rourke viết: “Giờ thì tôi hiểu tại sao chúng ta lại can dự vào Việt Nam. Chúng ta đã phải lòng… [Chúng ta] đã ngây ngất bởi nơi này. Tất cả mọi người, từ những cố vấn đầu tiên mà Ike3 gửi tới đây năm 1955 cho đến Henry Kissinger ở bàn đàm phán hòa bình Paris, thảy đều mê mệt đến phát cuồng vì Việt Nam. Nó làm tan vỡ trái tim họ. Họ cứ tiếp tục đến thăm và gửi hoa mãi không thôi. Họ không thể tin nổi rằng đây là lần chia tay cuối cùng.” Trước khi bắt đầu câu chuyện của mình về Việt Nam và nước Mỹ (với đôi nét điểm qua về nước Pháp và những khu vực khác trên thế giới), tôi xin phép được nói rằng cuốn sách này nói về chiến tranh và tình yêu, về những bài học Việt Nam, tác chiến chống nổi dậy và những cuộc xung đột khác bị gọi là phi chính quy. Nó cũng nói về những điệp viên và phóng viên cùng sự lẫn lộn giữa hai nghề này. Một số người sẽ cho rằng các phóng viên góp phần làm cuộc chiến (của chúng ta) tại Việt Nam thất bại. Trong trường hợp này, tôi xin khẳng định rằng có một phóng viên đã góp phần mang đến chiến thắng trong cuộc chiến - cho phía người Việt. Cuốn sách phiền muộn này nói về thông tin và hỏa mù cùng sự mơ hồ không thể tránh khỏi trong việc xác định ranh giới nơi hai yếu tố này hòa nhập vào nhau. Cuốn sách không đưa ra thêm chân lý nào có thể được đúc rút thành những bài học mới về chiến tranh Việt Nam. Nó nói về cuộc sống đơn giản của một con người phức tạp. Sự thật nằm trong các chi tiết. Chúng ta hãy bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn của tác giả Thomas A. Bass.
Vượn Cáo - Benjamin Black
John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mullholland, hay còn gọi là Bill lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mullholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ về quãng đời trước, nhưng nói chung John Glass hài lòng với hiện tại.   Để hoàn thành cuốn tiểu sử, John Glass thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là “Vượn Cáo” thu thập thông tin về người bố vợ. Từ lúc ấy cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, “Vượn Cáo” bị sát hại, ông quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Người cung cấp thông tin là một chàng trai trẻ cao lêu đêu và gầy đét. Đầu hắn quá nhỏ so với khung xương, còn cục yết hầu to bằng trái banh gôn. Mắt kính hắn đeo không có gọng viền quanh và gần như vô hình, chỉ làm tăng thêm độ bóng cho đôi mắt đen, tròn, to tướng và hơi bị trố. Một túm râu màu vàng ngắn ngủn, cứng quèo mọc thẳng từ cằm hắn. Cặp lông mày cong, rất xa mắt lấm tấm sẹo mụn trứng cá cũ. Hắn có đôi bàn tay mảnh mai, trắng trẻo, các ngón dài búp măng hệt như tay con gái, hay ít nhất là giống những gì người ta ca ngợi về bàn tay của phụ nữ khuê các. Dù đang ngồi, đũng quần jeans thụng của hắn vẫn thõng xuống ngang đùi. Ngực áo phông màu cháo lòng không của ai ngoài hắn mang dòng chữ: “Đời bi đát tiễn ta về cõi âm”. Thoạt nhìn, hắn mới chỉ mười bảy nhưng John Glass đoán tên này chí ít cũng phải gần ba mươi, cổ dài, đầu nhỏ và cặp mắt tròn đen láy khiến hắn cực kỳ giống một loài gặm nhấm quý hiếm mà nhất thời Glass chưa nhớ ra là con gì. Tên hắn là Dylan Riley. Glass thầm mỉa mai: cái tên Dylan nghe quý phái gớm. Hắn nói: - Vậy ra ông là con rể của Bill Lớn? Hắn ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế xoay bọc da đen trong văn phòng mà bố vợ Glass cho mượn nằm ở mé phía bắc của tòa nhà Mulholland Tower. Sau lưng hắn, bên kia bức tường kính trong suốt là một Manhattan ẩm ướt, ảm đạm dưới màn mưa phùn tháng tư. - Sao? Cậu thấy ngộ nghĩnh lắm ư? Glass vặn vẹo. Ông đặc biệt ghét loại người thích mặc áo phông in đủ thứ triết lý lên đó. Dylan Riley cười khẩy: - Ngộ nghĩnh gì đâu. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi thấy ông không giống người nhà Bill Lớn chút nào. Glass vờ như không nghe thấy gì. Hơi thở của ông bắt đầu nặng nề, thậm chí phát ra tiếng phì phò. Đó luôn là dấu hiệu cảnh báo sự căng thẳng đang gia tăng. Glass nhấn mạnh như muốn nhắc Riley phải lễ phép hơn: - Ngài Mulholland muốn tôi thu thập mọi dữ liệu và dùng chúng một cách đúng đắn nhất. Riley cười toe toét, gật lia lịa, xoay xoay trên ghế vẻ khoái chí: - Phải, nhất định dữ liệu phải đầy đủ rồi. Glass lạnh lùng nhắc lại: - Điều tiên quyết là phải đủ thông tin chính xác. Chính vì thế tôi mới thuê cậu. Glass đến bên chiếc bàn làm việc vuông vức bằng kim loại cỡ lớn kê trong góc phòng và thận trọng ngồi xuống ghế phía sau nó. Tư thế ngồi luôn giúp Glass bớt bấn loạn. Phòng ông ở tầng ba mươi chín. Trông đợi ông làm ăn được gì ở độ cao như vậy quả là ngớ ngẩn. Hôm đầu tiên vào phòng này, Glass sợ sệt nhích từng chút đến sát tường kính ngó xuống. Dưới chân ông chừng hai tầng nhà, những cụm mây trắng xốp trông như tảng băng lững thững trôi ngang qua, che khuất thành phố phía dưới. Giờ ông bíu hai tay lên mặt bàn trước mặt như người sắp chết đuối cố bám mép chiếc bè nan. Glass thèm thuốc không thể tả. Dylan Riley xoay chiếc ghế quanh bàn. Chắc chắn hắn biết ông chóng mặt, buồn nôn cỡ nào khi ngồi trong cái lồng kính làm bằng thép và thủy tinh ngất ngưởng giữa lưng chừng trời như thế này. Bàn tay Glass vuốt thành hình vòng cung trên mặt bàn, như thể muốn gạt vật gì đó vô hình xuống đất. Động tác ấy khiến ông nhớ đến cái cảnh Tổng thống Richard Nixon khổ sở, toát mồ hôi hột trong một bản tin chiều phát mấy năm trước, cố phân bua rằng mình không phải kẻ dối trá. Trong thời kỳ dân chúng hoang mang vì chứng kiến quá nhiều cáo buộc lẫn nhau ấy, ánh sáng ở trường quay quá gắt khiến ai trông cũng giống nhân vật phản diện trong bộ phim dùng hệ màu Eastmancolor giai đoạn đầu. ... Mời các bạn đón đọc Vượn Cáo của tác giả Benjamin Black.
Truyện Ngắn Trinh Thám
Tập Truyện Ngắn Trinh Thám này gồm có: Kẻ đội lốt Hai chàng thợ săn và một cô gái Chiếc hộp bí mật Không có cánh bay Bà góa Ephese Nhân chứng có ba bộ mặt Cây cầu bằng thủy tinh Một vạn đô-la Được ăn cả, ngã về không Tiếng còi trong sương đêm Không thương tiếc Hai cái chết *** Bốn giờ sáng, hai viên cảnh sát mặc đồng phục áp giải hắn vào văn phòng của nhà giam trung tâm. Ở đây, người ta kiểm tra người hắn, tịch thu mọi đồ dùng cá nhân của hắn, trừ gói thuốc lá, chiếc khăn tay và đưa cho hắn một tờ giấy biên nhận. Sau đó người ta lấy dấu vân tay của hắn và dán vào khẩu súng lục mà người ta tìm thấy trong người hắn một mẩu giấy có chữ “vật chứng”. Viên đội trưởng hỏi tên họ và hắn trả lời mình là George Carter. Với những câu hỏi tiếp theo như tiền án, tiền sự... thì hắn trả lời là không. Cảnh sát còn hỏi trên một chục câu hỏi khác rồi ghi vào sổ nói rõ hắn bị bắt về tội ăn cướp trong tay có vũ khí. Cuối cùng người ta giam hắn trong một xà lim chưa có người. Khi còn lại một mình, việc làm đầu tiên của hắn là châm một điếu thuốc lá rồi nằm dài trên một trong bốn chiếc nệm. Rủi ro làm sao! Hắn cay đắng nghĩ. Số phận mới đen đủi làm sao! Hai tiếng đồng hồ trước đây, theo một kế hoạch đã lập ra một cách tỉ mỉ trong một tuần lễ liền, hắn đã đột nhập vào một quán rượu ở giữa thành phố trước giờ đóng cửa để ăn cướp. Hắn đợi cho chủ quán đóng cửa hàng trong khi hắn vẫn ở trong nơi ẩn nấp, sau đó hắn nhốt ông chủ khốn khổ vào trong toa-lét còn hắn thì đi lục lọi trong quán. Kết quả thật là bất ngờ: hai hoặc ba ngàn đô-la trong két sắt ở văn phòng. Trước khi tẩu thoát, hắn còn nhặt thêm bốn chai úych-ky hảo hạng thêm vào món chiến lợi phẩm ấy. Cho đến lúc ấy, mọi việc diễn ra êm đẹp. Hắn đã nghĩ đến những cuộc đi nghỉ thú vị mà hắn có thể thực hiện được bằng cách tính toán lưng vốn của mình: khoảng trên một ngàn năm trăm đô-la để dành đặt ở một nơi an toàn. Tổng cộng là năm ngàn đô-la đủ để nghỉ ở Mê-hi-cô ba hoặc bốn tháng, nếu hắn không hoang phí. Nhưng hắn sẽ không làm như vậy vì hắn không phải là kẻ không biết sử dụng tiền bạc. Một căn hộ khiêm tốn ở thành phố, một tủ quần áo hiện đại và về mặt giải trí, buổi chiều hắn sẽ đi dạo, nói chuyện về các cuộc chơi bóng pơ-lốt, các cuộc đua chó và đi uống một cốc vào buổi tối; dự những trận đầu bò tót vào ngày Chủ nhật ở Acapulco; thỉnh thoảng cho các cô thu tiền hoặc các cô phục vụ xinh đẹp một khoản tiền boa hào phóng... Đó là tất cả. Những nhu cầu của hắn rất đơn giản, không tốn kém, giống như những người làm công có thu nhập ở mức trung bình trong mỗi kỳ đi nghỉ. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa hắn và người những ấy, vì người ăn lương phải tiết kiệm cả một năm trời để đi nghỉ, còn hắn, hắn chỉ cần ba hoặc bốn phi vụ trong một năm, mỗi phi vụ chỉ cần bốn năm phút đồng hồ thôi. Và hai ba năm nay mọi việc đều diễn ra một cách trôi chảy. Nhưng bây giờ tất cả đã kết thúc - hắn nghĩ. Chuyện đó diễn ra một cách khá bất ngờ: khi hắn ra khỏi kho rượu thì va phải người em trai chủ quán đánh xe đến để đón anh về. Nếu cuộc đụng độ ấy không quá đột ngột, nếu trong một hoàn cảnh khác, hắn chỉ cần hạ gục người đàn ông ấy rồi lủi cho nhanh. Nhưng tình hình lại không phải như vậy vì người em chủ quán lại là một cảnh sát trong đội chống nạn mại dâm, tuy không phải đang trong giờ làm việc nhưng anh ta vẫn còn đeo súng bên người. Rất vô ích mà nói rằng viên cảnh sát không nghi ngờ gì khi thấy hắn với hai chiếc túi căng phồng và bốn chai rượu trên tay tuy đèn lúc này chỉ lờ mờ sáng. Anh ta chỉ giơ súng lên và thế là George bị tóm gọn. Đúng hai tiếng đồng hồ sau đó, George bị kết tội ăn cướp có vũ khí và bị tống giam. Việc khai tên giả của hắn cũng sẽ chẳng kết quả gì vì sau đây bốn mươi tám tiếng nữa, với những dấu vân tay, FBI sẽ biết rõ cái tên George Carter mà hắn đã khai là giả mạo mà chính George Maxwell mới là tên thật của hắn. Mà George Maxwell đã bị ngồi tù hai lần vì tội trộm cướp: lần đầu, hai năm vì tội ăn cắp, thời ấy hắn mới vào nghề, và lần thứ hai, năm năm vì tội ăn cướp có vũ khí, việc này xảy ra cách đây ba năm. Như vậy hắn được tự do mới có ba mươi sáu tháng. Lần này, với những tiền án ấy, chắc chắn án hai mươi năm tù sẽ treo trước mũi hắn. Năm nay ba mươi nhăm tuổi... Hai mươi năm ngồi bóc lịch, thế là kết thúc cuộc đời... Thật là đen đủi - hắn lại nghĩ với tiếng thở dài não nề khi thấy giấc mộng đi nghỉ ở Mê-hi-cô đã tan thành mây khói. Hắn ném điếu thuốc đi để mặc nó tiếp tục cháy. Sau đó, quay mặt vào tường, nghĩ đến tương lai ảm đạm của mình. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trinh Thám.
Phái Viên Mật - Graham Greene
Đây không phải là cuốn trinh thám dạng "giải trí", không gay cấn, hồi hộp...mà nặng nề, ám ảnh, day dứt, phiền muộn. *** Graham Henry Greene (2 tháng 10, 1904 - 3 tháng 4, 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 (từng làm tổng biên tập) rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Ông viết nhiều, là một trong các tác giả tiêu biểu của văn học Anh thế kỷ XX. Tác phẩm đầu của ông được xuất bản năm 1925. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại “giải trí” vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại “tiểu thuyết,” nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam (15 tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim). Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm.   Mời các bạn đón đọc Phái Viên Mật của tác giả Graham Greene.