Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bến Xe (Thương Thái Vi)

Chiếc xe nào cũng phải rời bến, con đường nào cũng phải có điểm dừng.Trong cuộc sống hiện thực, khi mỗi con người cất tiếng khóc chào đời, rồi lớn lên, rồi trưởng thành, rồi gặp được người trong định mệnh… Tất cả những giai đoạn đó, đều tuân theo một quy luật đã được định sẵn, quy luật đó mang tên “Vận mệnh”. Khi đọc "Bến Xe" của tác giả Thương Thái Vi, tôi mới thấm thiết cái quy luật mang tên "Vận mệnh" đó lại tàn nhẫn và bất công đến mức khiến tôi cảm thấy sợ hãi, không ai có thể tự lựa chọn vận mệnh cho mình, chúng ta có thể là thiên tài nổi trội cũng có thể là một con người bình thường trong dòng dòng xã hội. Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng nghị lực để thách thức rồi đối đầu với chính vận mệnh đó, và cuộc đời của thầy Chương Ngọc cùng với cô học trò nhỏ của thầy trong "Bến Xe" là một trường hợp điển hình.

Đầu tiên phải gửi lời cám ơn chân thành đến tác giả lẫn dịch giả của quyển "Bến Xe", nếu không có tác giả, nếu không có dịch giả, chắc chắn tôi sẽ không được thưởng thức và trải nghiệm một tác phẩm có tính nhân văn về cuộc sống, đời người cao đến như thế. Khi đọc xong "Bến Xe", tôi chỉ có một suy nghĩ duy nhất, đó chính là hối tiếc, hối tiếc vì sao tôi không biết đến tác phẩm sớm hơn. Đây không phải lần đầu tiên tôi đọc thể văn buồn, nhưng có thể khẳng định đây là lần đầu tiên tôi được đọc một tác phẩm ấn tượng đến như thế, ấn tượng đến mức khiến tôi phải lần đọc từng câu từng chữ vì sợ bỏ sót từ nào đó, khiến tôi hòa cả tâm hồn mỗi khi đọc tác phẩm, khiến mỗi một cử chỉ của hai nhân vật đều khiến tôi bất ngờ với chính phản ứng của mình, có khi cười, có khi khóc… Nhưng tôi chỉ có thể nói một điều: Đây là một tiểu thuyết chấn động nhất mà tôi từng được đọc.

Khi đọc "Bến Xe", tôi hoàn toàn sững sốt vì cách hành văn của tác giả, đó là một giọng văn hoàn toàn khác so với những tiểu thuyết và tôi từng được đọc. Bạn đừng bất ngờ khi thấy hầu hết các đoạn trong tác phẩm đều tập trung miêu tả tâm lý nhân vật, diễn biến cảm xúc nhân vật, lời thoại lại rất ít, nhưng có lẽ đó chính là cái được gọi là “nghệ thuật” không lẫn với bất kỳ tác giả nào của Thương Thái Vi và cũng chính nó đã tạo thành điểm nhấn riềng cho tác phẩm. Khi đọc, tôi hòa cả tâm hồn vào tác phẩm, tôi tưởng tượng dáng vẻ của thầy Chương Ngọc, gương mặt của Liễu Địch, mường tượng hình ảnh bến xe… Thay vì mọi người gọi đó là ám ảnh khi đọc truyện buồn, thì xin cho phép tôi dùng hai chữ “Thăng hoa” để diễn tả cảm xúc đó.

Nếu nói “Bến Xe” là một quyển tiểu thuyết tình cảm, tôi không phủ nhận, nhưng nó lại không hoàn toàn đúng. Sau khi đọc hết tác phẩm, tôi mới rút ra một kết luận, đây là thực chất chính là một cuốn sách tài liệu về cuộc đời của một thiên tài, một người thầy có tên Chương Ngọc qua cái nhìn của người thầy yêu nhất, hiểu thầy nhất. Chính vì nó là một cuốn sách tài liệu nên nó cũng bao hàm rất nhiều giá trị khác của cuộc sống, giá trị nhân cách con người, giá trị tâm hồn con người, giá trị xã hội thực tiễn, giá trị tình yêu đích thực và cả giá trị mang tên cái nhìn thiển cận của loài người.

Nếu so sánh thầy Chương Ngọc - nam chính - linh hồn của truyện với những nhân vật khác trong các quyển tiểu thuyết khác, tôi chỉ có thể hình dung thầy bằng hai chữ “Hoàn hảo”, hoàn hảo về nhân cách, về tâm hồn và là cả con người thầy. Có thể thầy khiếm khuyết rất nhiều, thầy chỉ có đôi tay trắng, bộ óc thiên tài, trái tim nhân từ và tâm hồn mạnh mẽ… Nhưng có mấy ai có thể đối mặt và chấp nhận số phận được như thầy. Thầy chưa một lần trách cứ vận mệnh lấy đi của thầy tất cả, thầy chưa một lần ai oán người mất đi tất cả như thầy lại sống vất vả hơn bất kì kẻ lành lặn nào. Thầy đẹp hơn bất kỳ ai, thầy hoàn mỹ hơn bất kỳ ai và tình yêu của thầy cũng thuần khiết, cao cả và mãnh liệt hơn bất kỳ ai. Tìm mua: Bến Xe TiKi Lazada Shopee

Cuộc sống của thầy có thể tăm tối, nhưng con người của thầy lại chói sáng một cách lạ thường; Học vị của thầy có thể thấp, nhưng kiến thức của thầy lại cao rộng đến mức khiến người khác đố kị. Đôi mắt thầy có thể không nhìn thấy gì, nhưng cửa sổ tâm hồn của thầy lại rực sáng đầy sức sống. Con người thầy có thể lạnh lùng, nhưng trái tim thầy lại ấm áp đến mức có thể sưởi ấm cho cả một không gian rộng lớn. Cuộc sống của thầy có thể nghèo túng, nhưng nhân cách của thầy lại cao cả như bầu trời bao la. Và với người được xem là không có quyền yêu và được yêu như thầy, thì tình yêu từ trái tim lại to lớn như biển rộng không có giới hạn. Có lẽ sự hoàn mỹ của thầy chỉ được phát sáng khi ngôi sao chiếu mệnh của thầy xuất hiện, cô học trò bé bỏng tài hoa Liễu Địch của thầy chính là ngọn đèn soi sáng thế giới mênh mông vô bờ nhưng lại đen tối trong cuộc đời thầy.

“Em…em có thể cho tôi “ngắm” em không?”

“Em chắc chắn không phải là vịt con xấu xí, em là một thiên nga trắng. Ít nhất trong lòng tôi, em mãi mãi là thiên nga trắng đẹp nhất”

“Tôi thật sự hy vọng… lúc này… đôi mắt tôi có thể bừng sáng, cho dù chỉ một phút. Một phút thôi cũng được, tôi nguyện dùng cả sinh mạng của mình để đánh đổi”

Nếu nói về giá trị tình yêu trong tác phẩm, tôi xin khẳng định rằng, không có tình yêu nào thầm lặng nhưng lại mãnh liệt như tình yêu của thầy Chương Ngọc dành cho Liễu Địch. Tình yêu đó gần như là thuần khiết không nhiễm một tạp chất, gần như là trong sáng không vướn một hạt bụi trần… Thầy yêu, thầy yêu cô học trò bé nhỏ của thầy, tình yêu đó chưa từng được biểu lộ, nhưng tình yêu đó lại được thầy triển khai bằng hành động, thầy thông tuệ như thế, thầy sáng suốt như thế… Thầy làm sao có thể để bản thân một người khiếm thị như mình ảnh hưởng đến tương lai của cô. Trong suốt quá trình đọc truyện, hơn bất kỳ ai, hơn bất kỳ một độc giả nào, tôi luôn hy vọng “Bến Xe” hãy ảo hơn một chút, hãy không thực tế hơn một chút, tôi từng hy vọng “Bến Xe” hãy cho tôi một chút cảm giác đó là tiểu thuyết, hãy cho thầy được quyền yêu và được yêu, hãy để cuộc sống mất mát quá nhiều thứ của thầy được bù đắp.

Điều mà tôi ngưỡng mộ nhất ở tác giả Thương Thái Vi là cách xây dựng tình tiết truyện “Bến Xe”, trong suốt quá trình đọc truyện, tôi hồi hợp và thậm chí đã bị sốc với diễn biến của truyện. Tôi ngẩn ngơ vì bất ngờ với lối xây dựng tình huống của cô. Có một điều khiến tôi tâm đắt khi đọc “Bến Xe”, đó chính là truyện quá thực tế, cách tác giả Thương Thái Vi miêu tả hiện thực trong truyện thực tế đến mức tôi cảm thấy trần trụi. Đúng vậy, đó là trần trụi.

Bi kịch chính là những thứ đẹp đẽ bị hủy bỏ, Thầy Chương chính là vẻ đẹp bị số mệnh hủy diệt. Nhưng vẻ đẹp kiểu gì vẫn cứ là đẹp, dù có bị nghiền nát thành mảnh vụn cũng vẫn đẹp.

Xã hội luôn như thế, những cá thể tạo thành một xã hội như chúng ta luôn khắc nghiệt và lạnh lùng đến mức dửng dưng với một con người khiếm khuyết như thầy Chương Ngọc, con người như chúng ta luôn đố kị với tài hoa của người khác, luôn bực tức khi bản thân mình kém hơn người khác vì thế chúng ta cũng bài xích và phủ định những người khuyết tật nhưng lại tài giỏi hơn chúng ta. Tàn nhẫn hơn nữa là dư luận, chúng ta là một trong những người đan chỉ thành tấm vải dư luận, dư luận là gì? Dư luận không hề nuôi sống chúng ta, nhưng tại sao dư luận lại là sức mạnh vô hình có thể quyết định sinh tử của một người. Có lẽ tác giả đã thông qua “Bến Xe” để lên án bóng tối trong mỗi con người, thông qua tác phẩm tác giả muốn chúng ta nhìn nhận về khuyết điểm của dư luận.

"Danh dự là gì? Nói trắng ra, danh dự chính là cách nhìn của người khác về bạn. Bạn có danh dự hay không, không phải vấn đề bản thân bạn có trong sạch hay không, mà là vấn đề người khác có thừa nhận bạn hay không? Vì vậy từ xưa đến nay, rất nhiều người dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch và bảo vệ danh dự của bản thân. Cách làm này tuy tiêu cực nhưng cũng hữu hiệu nhất. Bởi vì trong hiện thực cuộc sống, con người không dễ thông cảm cho người sống, mà dễ thông cảm cho người chết. Con người thường nhớ tới khuyết điểm của người sống. Một khi người đó chết đi, con người sẽ dễ nhớ đến ưu điểm của họ. Vì vậy, dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch, tuy phải bỏ cả mạng sống nhưng phần lớn có thể đạt được mục đích. Chỉ là, khi mỗi sinh mệnh sống tìm cách bảo vệ danh dự, càng nghiệm chứng một cách sâu sắc sự tàn khốc của xã hội".

Cho đến lúc này, nữ chính Liễu Địch là nhân vật nữ mà tôi thích nhất. Tôi thích Liễu Địch không phải do cô xinh đẹp, thông minh mà do cô mạnh mẽ và kiên định. Với một cô gái chỉ hơn 18 tuổi, cô còn quá nhỏ để đối mặt với tình yêu, với cuộc sống và với sự tàn nhẫn của dư luận, nhưng cô lại kiên định đến mức khẳng định cô chỉ yêu và yêu một người. Cô là vận mệnh của thầy, thầy là số kiếp của cô. Cô thắp sáng cuộc đời tối tăm của thầy, thầy lại là con thuyền đưa cô đến với tương lai tươi sáng. Nếu không có thầy, Liễu Địch chưa chắc đã thành công, nếu không có cô, chưa chắc cuộc đời của thầy Chương Ngọc sẽ đủ màu sắc.

Tình cảm của tôi đối với thầy, gồm cả sùng bái, ái mộ, khát khao, quyến luyến… Đây là tình cảm đã được tôi luyện qua ba năm, tôi và thầy cùng trải qua phong ba bão táp, là tình cảm nảy sinh từ sự tin tưởng, chia sẻ cùng nhau.

Nhưng Liễu Địch còn quá nhỏ để nhận ra tình yêu của thầy dành cho cô, nhận ra lời tỏ tình của thầy trong những câu hát, sự quan tâm của thầy trong hành động, sự yêu thương của thầy trong lời nói… Và hơn nữa là trái tim bé nhỏ của cô đã yêu thầy khi mà cô không hề phát hiện. Đó là tình thầy trò hay đó là tình yêu? Liễu Địch không thể biết được, cô còn quá nhỏ để nhận thức được tình yêu cô dành cho thầy, nhận ra rằng đó là “yêu” chứ không phải “sùng bái”.

Nhưng khi ngòi thuốc tình yêu trong lòng cô được châm đốt, rồi nhen nhóm, rồi phát sáng và bùng nổ. Cô đã khẳng khái đối mặt với nó, cô muốn nói “cô yêu thầy”, cô muốn nói cô nguyện cùng thầy vượt qua tất cả… Nếu vận mệnh ít trớ trêu hơn, nếu cuộc sống công bằng hơn, nếu đời người có chữ "nếu". Điều tiếc nuối nhất của tôi đó chính là cuối cùng thầy Chương Ngọc vẫn không thể nghe được lời nói yêu của Liễu Địch dành cho thầy, thầy dùng tính mạng của mình để “thành toàn” cho cuộc đời của cô, cho tương lai của cô, cho danh dự của cô, giá như cô về sớm hơn, giá như cô nhận ra sớm hơn…Nhưng tất cả đã quá trễ, trễ một ngày, trễ một mối tình và trễ cả cuộc đời.

Bi kịch thật sự không phải là cái chết, sự chia lìa mà bi kịch thật sự chính là chúng ta không tìm được người đáng để chúng ta trả giá trong cuộc đời của mình.

“Con từng nói, sinh mệnh và linh hồn của con đã hòa nhập vào sinh mệnh và linh hồn của thầy Chương. Bây giờ, con chính là thầy, thầy chính là con, tác phẩm thầy chưa hoàn thành, con sẽ viết thay thầy; mơ ước thầy chưa thực hiện, con sẽ thực hiện giúp thầy; Con đường thầy chưa đi hết, con sẽ tiến bước thay thầy; Huy hoàng thầy chưa kịp tạo ra, con sẽ tạo giúp thầy. Con sẽ vì thầy sống vui vẻ, sống ngoạn mục. Con sẽ cùng thầy bước ra khỏi bóng tối, đi tới ánh sáng!”

“Con sẽ không yêu bất kỳ người đàn ông nào. Sinh mệnh và linh hồn của con đã hòa nhập cùng thầy Chương, sao con có thể dung nạp người khác?”

“Con sẽ không oán trách số phận nữa. Con cám ơn ông trời vì đã cho con một tình yêu lâu bền nhất, cao thượng nhất, thuần khiết nhất, mãnh liệt nhất, sâu sắc nhất trên cuộc cõi đời này. Bao nhiêu người sống ở đời có được một tình yêu như vậy? Con còn điều gì không hài lòng?”

Xuyên suốt quá trình đọc “Bến Xe” tôi đã khóc rất nhiều, tôi cảm động, tôi chấn động và tôi sợ hãi. Tình yêu của thầy Chương Ngọc dành cho Liễu Địch quá cao cả và bao la, tình yêu của thầy quá thiêng liêng và rộng lớn. Tôi thích cách yêu của thầy, thầy yêu lặng lẽ, thầy yêu âm thầm nhưng đó lại là tình yêu mãnh liệt. Tôi từng nhiều lần hỏi bản thân mình, phải chăng vận mệnh của những người đa tài như thầy đều bi ai đến thế, phải chăng vì thầy quá tài hoa nên đường đời của thầy mới đầy chông gai. Có phải chỉ khi thầy là Chương Hải Thiên thì thầy mới chính là thầy đầy sức sống, vậy linh hồn và thể xác thầy về với trời biển bao la phải chăng đó mới chính là điều mà thầy muốn, nếu thế, cái kết của “Bến Xe” không chỉ thành toàn cho Liễu Địch mà còn thành toàn cho cả thầy, cho cả ước mơ khao khát của thầy nữa.

“Liễu Địch, thứ tôi có thể cho em trong cuộc đời này, chỉ có danh dự trong sạch và một tương lai tươi đẹp mà thôi. Thế nhưng, nếu chúng ta có kiếp sau, nếu kiếp sau tôi có đôi mắt sáng, tôi sẽ ở bến xe này… Đợi em”

Thầy Chương nở nụ cười, lần đầu tiên nở nụ cười tươi. Nụ cười đó trong sáng như bầu trời mùa thu không một gợn mây, rạng rỡ như ánh nắng mùa xuân…

Liễu Địch ngây ngốc dõi theo chiếc xe buýt mỗi lúc một xa, cho đến khi gương mặt và nụ cười xán lạn của thầy Chương biến mất trong sắc chiều tà.

Đó là hình ảnh cuối cùng của thầy Chương Ngọc mà Liễu Địch được nhìn thấy, và đó cũng là nụ cười đầu tiên mà thầy dành cho cô. Chiếc xe nào cũng phải rời bến, con đường nào cũng phải có điểm dừng. Hình ảnh chia xa cuối cùng của thầy và cô là hình ảnh thầy rực sáng và đẹp đẽ nhất. Đó là nụ cười bình an, đó là nụ cười thanh thản của sự chia ly vĩnh viễn.

“Tôi ra đời vì sự ra đời,

Tôi chết đi vì sự tử vong,

Tôi chết đi vì sự ra đời”

Thầy đã trở về với trời biển bao la, cảnh đẹp mà thầy thích nhất, cô cùng đã có được danh dự trong sáng và tương lai tươi đẹp như thầy muốn. Nếu vậy, không phải cái kết của “Bến Xe” rất đẹp và hoàn hảo hay sao?

Cuối cùng là chúng ta, những người sống trong xã hội hiện thực, tôi nghĩ, điều chúng ta sợ nhất không phải là gặp phải bi kịch, mà là không tìm được người chúng ta có thể yêu đến mức đánh đổi cả sinh mệnh và yêu chúng ta đến mức đánh đổi cả mạng sống. Bi kịch thật sự không phải là cái chết, sự chia lìa mà bi kịch thật sự chính là chúng ta không tìm được người đáng để chúng ta trả giá trong cuộc đời của mình.

Hãy chúc cho những người yêu và sẵn sàng trả giá, đánh đổi, hy sinh như thầy Chương Ngọc có một cái kết vui vẻ và cũng chúc những ai đánh đổi cả mạng sống vì tình yêu được bình an, thanh nhàn. Cám ơn cô Thái Vi, cám ơn chị Greenrosetq một lần nữa đã mang “Bến Xe” đến với độc giả, gieo mầm giá trị tình yêu và cuộc sống bất hữu vào lòng người đọc.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bến Xe PDF của tác giả Thương Thái Vi nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nếp Cũ - Làng Xóm Việt Nam (Toan Ánh)
Cuốn sách Nếp Cũ - Làng Xóm Việt Nam này sẽ giúp các bạn tìm hiểu phần nào cuộc sống làng xóm Việt Nam thời xưa, là một cuốn sách thật cần thiết và bổ ích cho những ai đang tìm hiểu về đề tài Làng xóm Việt Nam.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc ViệtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ - Làng Xóm Việt Nam PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám (Toan Ánh)
Muốn tìm về quá khứ, đã có Nếp cũ. Còn bạn muốn Toan Ánh có chút "phù phiếm" và rộn ràng, hãy đến với Hội hè đình đám. Tiếp tục hành trình khai quật "lối cũ lề xưa" trong đời sống của người Việt Nam, trong Hội hè đình đám, Toan Ánh sẽ nói về những niềm vui của một thời đơn sơ, những ý niệm tôn giáo lẫn những nỗi niềm khao khát gửi gắm, những nỗi sợ hãi và cả những sự ghi ơn,... Người nông dân cày cấy ròng rã một năm trời để mong đến mùa xuân, để hội làng lại "về" cho gái trai gặp gỡ, cho những cụ già xúng xính áo hoa... Dù là một tác phẩm mang nhiều tính nghiên cứu và thu nhập, tập sách vẫn rộn rã không khí hân hoan của buổi "hội hè". Vừa mang tính tâm linh trang nghiêm vừa là chốn vui chơi trần tục, hội hè là sự phản chiếu thú vị và đa chiều nhất về văn hóa người Việt Nam xưa. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một cách tiếp cận thi vị với Hội hè đình đám.*** Chúng ta phải trở lại thời tiền-đệ-nhị thế-chiến, hay gần nhất cũng phải từ đầu năm Ất-Dậu (1945) trở về trước, cái thời mà phong tục tập quán của dân ta chưa chịu nhiều sự biến-đổi trước áp-lực của thời cuộc, với những sinh hoạt cổ truyền theo tổ-chức xã-hội trong một nếp sống nông nghiệp của tiền-nhân. Những phong-tục tập-quán này biểu-lộ dân-tộc tính Việt Nam với nhiều cái hay cái đẹp, nhiều điều cao-khiết lành-mạnh ngày nay đã dần phai mờ trước cuộc hưng-vong của đất nước. Muốn tìm lại tất cả những cái hay đẹp cao-khiết lành-mạnh ấy, tuy chỉ mới trải qua mấy chục năm, mà sao coi như xa-xôi lắm, và do đó cũng không phải là dễ dàng. Tìm mua: Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám TiKi Lazada Shopee Trong tập sách này, chúng tôi muốn nói tới những Hội-hè Đình-đám của dân ta, những hội-hè đã từng mua vui cho người dân, đã từng chứng tỏ ý niệm thiêng-liêng tôn-giáo của người dân qua lễ-nghi, đã từng nêu cao lòng biết ơn của người dân đối với các bực anh-hùng đất nước cũng như đối với các vị thần-linh, nhất là các vị Thành Hoàng đã che chở phù-hộ cho dân mỗi xã, và nhất là đã từng là những dịp để người dân ôn lại lễ-nghi, nhớ lại phong-tục. Những Hội-hè đình-đám lại là những dịp để thắt chặt thêm tình thân giữa dân làng, và có khi giữa dân các làng lân-cận bởi những tục giao-hảo hoặc bởi hội-hè đình-đám làng này đã kéo dân làng khác tới chung vui. Ngày nay ở miền Trung và miền Nam, một đôi nơi, nhân những ngày thần kỵ vẫn còn tổ-chức những cuộc tế-lễ, những trò vui, tuy về mọi phương-diện lễ-nghi, du-hí cũng đã tỉnh-giảm nhiều. Được hân hạnh sống những năm đầu hiểu biết ở một vùng quê, thời đó, mặc dầu là dưới thời Pháp-thuộc, người dân Việt-Nam còn căm-hờn người Pháp đang thống-trị đất nước, người ta vẫn không bỏ qua hội hè, chúng tôi đã được dịp đi dự nhiều hội quê, nhất là những hội ở các tỉnh Bắc-Ninh, Bắc-Giang, Vĩnh-Yên, Phúc-Yên, Hà-Đông, Nam-Định và Thái-Bình, thời đó cách đây tuy xa, nhưng ngày nay hồi tưởng lại có lúc chúng tôi tưởng như mình đang đứng trước một cây đu, đang nghe kể hạnh trong chùa, đang xem một đám vật, đang dự một đám hát quan-họ… Nhớ lại các hội quê, tất cả cái phong-vị hội-hè đình-đám như trở lại trong đầu óc chúng tôi. Và giờ đây, viết những dòng chữ này, chúng tôi muốn bạn đọc cùng thấy với chúng tôi cái không khí của làng xóm quê-hương thuở xưa với bóng cờ ngũ sắc, với những tiếng trống thờ, với đám trai gái vùng quê, quần áo mới màu Tết lũ-lượt dắt-dìu tới những hội làng, vẻ mặt hớn hở, vừa đi vừa nói cười hân-hoan. Hội quê có hội Xuân và hội Thu, hai thời gian mà người dân quê được nghỉ-ngơi rảnh-rỗi, Xuân sau khi đã cấy chiêm và Thu sau khi đã thoát vụ lụt con nước mã và công việc cày cấy vụ lúa tháng Mười cũng đã xong. Trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM, chúng tôi đã trình bầy về đạo thờ Thần, chúng tôi coi như một tôn-giáo hoàn-toàn Việt Nam, và chính do ở sự thờ-phụng thần-linh mà có HỘI HÈ ĐÌNH ĐÁM. Nếu các bạn không lấy làm trở ngại, chúng tôi xin phép coi tập sách này như tập Phụ lục của Bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM. Về Hội-hè đình-đám mùa Xuân, ca-dao ta có câu: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà, Tháng Hai cờ bạc, Tháng Ba hội hè. Câu ca-dao này đã nói lên đủ sự nhàn-rỗi của người dân quê, nhất là người dân quê miền Bác trong ba tháng Xuân. Lúc ấy là lúc cấy chiêm đã xong, mùa gặt tháng Năm lại chưa tới, người dân quê có thì giờ giải-lao, ăn Tết và hội hè. Sống ở một nơi đất hẹp dân đông, riêng ở miền Bắc và miền Trung lại thêm lắm đồi nhiều núi, kỹ-nghệ không có gì, suốt năm người dân quê vất-vả với nông-nghiệp, đầu tắt mặt tối, làm buổi hôm lo buổi mai, hết công việc đồng áng đến công việc vườn tược, rất ít dịp nghỉ ngơi để cùng nhau vui chơi ca hát, ăn uống. Hàng năm chỉ có dịp Xuân là công việc đồng-áng nhàn-rỗi, công việc vườn-tược thưa-thớt, người dân quê có thể cùng nhau chia vui để hưởng thú thanh-bình. Hơn nữa, Xuân tới nghĩa là Đông đã qua, cái mùa rét mướt đã hết, tiết Xuân ấm-áp đã khiến con người hết phải lo vì mưa phùn gió bấc, hết phải lo vì trời lạnh đêm dài, và với mưa Xuân, người ta cũng hết lo đất nẻ ruộng khô, hết lo gió lạnh làm cho cây mạ héo vàng. Người ta có thể nghỉ-ngơi để hưởng thụ mừng xuân, mừng năm mới. Hơn nữa từ ngàn xưa, người Việt-Nam lấy gia-đình làm trọng, lấy quây-quần đoàn-tụ làm hơn, nên trong những dịp giải-lao hưởng thụ, người ta không nghỉ-ngơi riêng-rẽ, và trong lúc vui, người ta muốn được vui chung cùng bạn hữu, cùng họ hàng thân thuộc, cùng mọi kẻ quen người biết ở làng trên xã dưới. Bởi vậy nhân dịp Tết với mùa Xuân, nơi nơi, người ta đều kéo hội để cho dân chúng trong thôn ngoài xã hàng tổng và có khi hàng huyện được cùng nhau chung vui gặp-gỡ. Trong các hội Xuân có hai loại: hội đình và hội chùa. Xin kể gộp cả vào hội đình các hội ở đền, miếu, là những hội tổ chức ở ngay những nơi thờ tự này hoặc ở những khoảng đất chung quanh, nhân dịp khánh-tiết tân-xuân hoặc nhân dịp kỵ-nhật các vị Thành-hoàng, có thể có những trò vui được tổ-chức vào dịp hội, không ở gần các nơi thờ-tự trên, ở một chỗ khác trong làng. Hội chùa tổ-chức tại Chùa làng nhân dịp tân xuân hoặc vào ngày giỗ các vị sư tổ. Ngày hội tuỳ theo mỗi làng thay đổi, có làng mở hội sớm, có làng mở hội muộn, có làng bắt đầu mở hội từ trong năm cho đến ngoài giêng mới hết, có làng sang tháng ba mới mở hội, nhưng thường tháng giêng là nhiều hội-hè hơn cả. Dù trong hội Đình hay hội Chùa, dù hội kéo trong năm hay ngoài Xuân, bao giờ ở hội cũng có rất nhiều trò vui để dân làng và khách trẩy hội giải-trí. Có những trò vui chung thông thường cho mọi hội như: rún đu, cờ bỏi, đốt pháo… lại có những trò vui riêng của từng địa phương: đánh phết, hát quan-họ, kéo co, bơi chải… Trong các thú vui chung có những thú dành riêng cho người già như tổ-tôm điếm, cờ bỏi, thi thơ,… và cũng có những trò vui riêng cho bạn trẻ nam nữ thanh niên, những trò vui này rất nhiều và rất thú vị: đánh phết, đánh trung-bình-tiên, hát quan-họ, hát đúm, thổi cơm thi, nấu cô thi, bơi thuyền, đánh vật… Các cụ bà trong ngày hội, dù là hội đình, có thú đi chùa, nghe kể hạnh… Đấy là chúng tôi không nhắc tới những cuộc tế lễ rước xách chúng tôi đã trình bày trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM, trong chương ĐẠO THỜ THẦN. Về hội hè đình đám mùa thu, thì đây là thời gian dân quê vừa thắng trận phòng đê tháng bảy với con nước Mã nguy-hiểm hàng năm. Vả lại tiết thu mát-mẻ, trời thu trong sáng, tháng tám lại nhằm vào thu-tế, các làng xã mở hội, vào đám dường như muốn ăn mừng đã tránh được nạn lụt, và để tạ ơn thần-linh đã bảo hộ dân làng, mùa tháng mười sẽ được bội thu. Đã vất-vả suốt từ tháng năm, sau vụ gặt chiêm, nay được dịp cấy mùa đã xong, công việc đồng áng đã vơi, người dân quê cũng như dịp xuân tới, phải nghỉ-ngơi và phải hưởng những ngày nghỉ-ngơi. Trời thu đẹp báo hiệu một vụ lúa mùa tốt đẹp, gió thu mát, trăng thu trong như tăng sự hân-hoan của con người trước viễn-ảnh thóc lúa đầy bồ, người người no ấm. Mùa Xuân người ta đã hội-hè, mùa thu người lại hội-hè. Hoặc giả có làng nào, mùa Xuân chưa đình đám ăn chơi, thì mùa thu nhất là tháng tám, là dịp để làng vào đám, dân làng nghỉ ngơi hội-hè. Cũng những cuộc tế lễ rước xách như mùa Xuân, với những trò vui thay đổi tuỳ theo mỗi địa-phương. Trình bày về hội-hè đình-đám của mùa Xuân cũng như mùa Thu, chúng tôi chỉ nói tới những hội-hè chúng tôi biết, lẽ tất nhiên không là bao nhiêu so với số hội hè hằng có xưa ở vùng quê suốt từ Nam tới Bắc. Biết tới đâu chúng tôi nói tới đó, còn những điều không biết, chúng tôi xin nhường lại cho những bậc biết hơn. Ngoài những hội hè đình đám mùa Xuân và Thu, rải rác quanh năm cũng vẫn có những hội làng ở một số các xã thôn, như hội đền Phù-Đổng Thiên vương ở làng Phù-Đổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc-Ninh vào ngày mồng 9 tháng 4; Hội bơi thuyền trên sông Tiểu Đáy của làng Yên-Hạ, tục gọi là làng Me tỉnh Vĩnh Yên vào thượng tuần tháng 5, hội đền Tả quận Lê-văn-Duyệt xã Bình-Hoà, Tỉnh Gia-Định vào ngày 30 tháng 7 v.v… Những ngày tháng của hội này theo kỵ-nhật của vị thần linh được dân làng thờ-phụng. Trong các hội quê, chúng ta có thể phân biệt: - Các hội về lịch-sử liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử được dân làng thờ-phụng làm thần-linh, hoặc liên-quan tới một sự-kiện lịch-sử được dân chúng kỷ-niệm. Hội đền Hai Bà, Hội đền Đức Hưng-Đạo-Vương là những hội liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử, giỗ Trận Đống-Đa là hội liên-quan tới sự kiện lịch sử, vua Quang Trung đại thắng quân Thanh của Tôn-Sĩ-Nghị. - Các hội về Tôn-giáo. Trong các hội này thường là hội Chùa như hội Chùa Thầy, tỉnh Sơn-Tây, hội Chùa Hương, tỉnh Hà-Đông. Lễ vía bà núi Sam, tỉnh Châu-Đốc, lễ kỷ niệm đức Huỳnh Giáo-Chủ ở Thánh-Địa Hòa-hảo cũng là những hội-hè về tôn giáo. - Các hội hè về phong-tục. Đây có thể là một hội tại một làng thờ một nhân vật lịch-sử không mấy quan trọng, hoặc ở một ngôi chùa làng có những tục lạ của dân chúng từng địa phương. Tất cả những hội nào, không xếp vào hai loại hội trên chúng tôi đều xếp vào loại thứ ba này. Viết về mỗi hội, chúng tôi sẽ cố gắng lần-lượt trình bày: - Nơi và ngày có hội - Thân-tích - Các trò vui trong ngày hội, ngoại trừ những cuộc tế lễ và rước xách thông thường đã có nói trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM. Chúng tôi cũng hiểu, với sự hiểu-biết nông cạn của chúng tôi, tất-nhiên có những điều thiếu sót và có cả những sự sai lầm, nhưng dù sao chúng tôi cũng cố gắng đem hết thiện-chí để mong đạt được tối đa những điều đáng viết về mỗi hội. Để bớt những sự thiếu sót chúng tôi đã tham khảo xem tài liệu ghi trong các sách báo chúng tôi đã được dịp đọc qua, ngoài những điều tai nghe mắt thấy xưa kia ở các hội quê. Saigon, ngày 17 tháng 5 năm 1969 TOAN ÁNHDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc ViệtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám (Toan Ánh)
Muốn tìm về quá khứ, đã có Nếp cũ. Còn bạn muốn Toan Ánh có chút "phù phiếm" và rộn ràng, hãy đến với Hội hè đình đám. Tiếp tục hành trình khai quật "lối cũ lề xưa" trong đời sống của người Việt Nam, trong Hội hè đình đám, Toan Ánh sẽ nói về những niềm vui của một thời đơn sơ, những ý niệm tôn giáo lẫn những nỗi niềm khao khát gửi gắm, những nỗi sợ hãi và cả những sự ghi ơn,... Người nông dân cày cấy ròng rã một năm trời để mong đến mùa xuân, để hội làng lại "về" cho gái trai gặp gỡ, cho những cụ già xúng xính áo hoa... Dù là một tác phẩm mang nhiều tính nghiên cứu và thu nhập, tập sách vẫn rộn rã không khí hân hoan của buổi "hội hè". Vừa mang tính tâm linh trang nghiêm vừa là chốn vui chơi trần tục, hội hè là sự phản chiếu thú vị và đa chiều nhất về văn hóa người Việt Nam xưa. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một cách tiếp cận thi vị với Hội hè đình đám.*** Chúng ta phải trở lại thời tiền-đệ-nhị thế-chiến, hay gần nhất cũng phải từ đầu năm Ất-Dậu (1945) trở về trước, cái thời mà phong tục tập quán của dân ta chưa chịu nhiều sự biến-đổi trước áp-lực của thời cuộc, với những sinh hoạt cổ truyền theo tổ-chức xã-hội trong một nếp sống nông nghiệp của tiền-nhân. Những phong-tục tập-quán này biểu-lộ dân-tộc tính Việt Nam với nhiều cái hay cái đẹp, nhiều điều cao-khiết lành-mạnh ngày nay đã dần phai mờ trước cuộc hưng-vong của đất nước. Muốn tìm lại tất cả những cái hay đẹp cao-khiết lành-mạnh ấy, tuy chỉ mới trải qua mấy chục năm, mà sao coi như xa-xôi lắm, và do đó cũng không phải là dễ dàng. Tìm mua: Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám TiKi Lazada Shopee Trong tập sách này, chúng tôi muốn nói tới những Hội-hè Đình-đám của dân ta, những hội-hè đã từng mua vui cho người dân, đã từng chứng tỏ ý niệm thiêng-liêng tôn-giáo của người dân qua lễ-nghi, đã từng nêu cao lòng biết ơn của người dân đối với các bực anh-hùng đất nước cũng như đối với các vị thần-linh, nhất là các vị Thành Hoàng đã che chở phù-hộ cho dân mỗi xã, và nhất là đã từng là những dịp để người dân ôn lại lễ-nghi, nhớ lại phong-tục. Những Hội-hè đình-đám lại là những dịp để thắt chặt thêm tình thân giữa dân làng, và có khi giữa dân các làng lân-cận bởi những tục giao-hảo hoặc bởi hội-hè đình-đám làng này đã kéo dân làng khác tới chung vui. Ngày nay ở miền Trung và miền Nam, một đôi nơi, nhân những ngày thần kỵ vẫn còn tổ-chức những cuộc tế-lễ, những trò vui, tuy về mọi phương-diện lễ-nghi, du-hí cũng đã tỉnh-giảm nhiều. Được hân hạnh sống những năm đầu hiểu biết ở một vùng quê, thời đó, mặc dầu là dưới thời Pháp-thuộc, người dân Việt-Nam còn căm-hờn người Pháp đang thống-trị đất nước, người ta vẫn không bỏ qua hội hè, chúng tôi đã được dịp đi dự nhiều hội quê, nhất là những hội ở các tỉnh Bắc-Ninh, Bắc-Giang, Vĩnh-Yên, Phúc-Yên, Hà-Đông, Nam-Định và Thái-Bình, thời đó cách đây tuy xa, nhưng ngày nay hồi tưởng lại có lúc chúng tôi tưởng như mình đang đứng trước một cây đu, đang nghe kể hạnh trong chùa, đang xem một đám vật, đang dự một đám hát quan-họ… Nhớ lại các hội quê, tất cả cái phong-vị hội-hè đình-đám như trở lại trong đầu óc chúng tôi. Và giờ đây, viết những dòng chữ này, chúng tôi muốn bạn đọc cùng thấy với chúng tôi cái không khí của làng xóm quê-hương thuở xưa với bóng cờ ngũ sắc, với những tiếng trống thờ, với đám trai gái vùng quê, quần áo mới màu Tết lũ-lượt dắt-dìu tới những hội làng, vẻ mặt hớn hở, vừa đi vừa nói cười hân-hoan. Hội quê có hội Xuân và hội Thu, hai thời gian mà người dân quê được nghỉ-ngơi rảnh-rỗi, Xuân sau khi đã cấy chiêm và Thu sau khi đã thoát vụ lụt con nước mã và công việc cày cấy vụ lúa tháng Mười cũng đã xong. Trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM, chúng tôi đã trình bầy về đạo thờ Thần, chúng tôi coi như một tôn-giáo hoàn-toàn Việt Nam, và chính do ở sự thờ-phụng thần-linh mà có HỘI HÈ ĐÌNH ĐÁM. Nếu các bạn không lấy làm trở ngại, chúng tôi xin phép coi tập sách này như tập Phụ lục của Bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM. Về Hội-hè đình-đám mùa Xuân, ca-dao ta có câu: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà, Tháng Hai cờ bạc, Tháng Ba hội hè. Câu ca-dao này đã nói lên đủ sự nhàn-rỗi của người dân quê, nhất là người dân quê miền Bác trong ba tháng Xuân. Lúc ấy là lúc cấy chiêm đã xong, mùa gặt tháng Năm lại chưa tới, người dân quê có thì giờ giải-lao, ăn Tết và hội hè. Sống ở một nơi đất hẹp dân đông, riêng ở miền Bắc và miền Trung lại thêm lắm đồi nhiều núi, kỹ-nghệ không có gì, suốt năm người dân quê vất-vả với nông-nghiệp, đầu tắt mặt tối, làm buổi hôm lo buổi mai, hết công việc đồng áng đến công việc vườn tược, rất ít dịp nghỉ ngơi để cùng nhau vui chơi ca hát, ăn uống. Hàng năm chỉ có dịp Xuân là công việc đồng-áng nhàn-rỗi, công việc vườn-tược thưa-thớt, người dân quê có thể cùng nhau chia vui để hưởng thú thanh-bình. Hơn nữa, Xuân tới nghĩa là Đông đã qua, cái mùa rét mướt đã hết, tiết Xuân ấm-áp đã khiến con người hết phải lo vì mưa phùn gió bấc, hết phải lo vì trời lạnh đêm dài, và với mưa Xuân, người ta cũng hết lo đất nẻ ruộng khô, hết lo gió lạnh làm cho cây mạ héo vàng. Người ta có thể nghỉ-ngơi để hưởng thụ mừng xuân, mừng năm mới. Hơn nữa từ ngàn xưa, người Việt-Nam lấy gia-đình làm trọng, lấy quây-quần đoàn-tụ làm hơn, nên trong những dịp giải-lao hưởng thụ, người ta không nghỉ-ngơi riêng-rẽ, và trong lúc vui, người ta muốn được vui chung cùng bạn hữu, cùng họ hàng thân thuộc, cùng mọi kẻ quen người biết ở làng trên xã dưới. Bởi vậy nhân dịp Tết với mùa Xuân, nơi nơi, người ta đều kéo hội để cho dân chúng trong thôn ngoài xã hàng tổng và có khi hàng huyện được cùng nhau chung vui gặp-gỡ. Trong các hội Xuân có hai loại: hội đình và hội chùa. Xin kể gộp cả vào hội đình các hội ở đền, miếu, là những hội tổ chức ở ngay những nơi thờ tự này hoặc ở những khoảng đất chung quanh, nhân dịp khánh-tiết tân-xuân hoặc nhân dịp kỵ-nhật các vị Thành-hoàng, có thể có những trò vui được tổ-chức vào dịp hội, không ở gần các nơi thờ-tự trên, ở một chỗ khác trong làng. Hội chùa tổ-chức tại Chùa làng nhân dịp tân xuân hoặc vào ngày giỗ các vị sư tổ. Ngày hội tuỳ theo mỗi làng thay đổi, có làng mở hội sớm, có làng mở hội muộn, có làng bắt đầu mở hội từ trong năm cho đến ngoài giêng mới hết, có làng sang tháng ba mới mở hội, nhưng thường tháng giêng là nhiều hội-hè hơn cả. Dù trong hội Đình hay hội Chùa, dù hội kéo trong năm hay ngoài Xuân, bao giờ ở hội cũng có rất nhiều trò vui để dân làng và khách trẩy hội giải-trí. Có những trò vui chung thông thường cho mọi hội như: rún đu, cờ bỏi, đốt pháo… lại có những trò vui riêng của từng địa phương: đánh phết, hát quan-họ, kéo co, bơi chải… Trong các thú vui chung có những thú dành riêng cho người già như tổ-tôm điếm, cờ bỏi, thi thơ,… và cũng có những trò vui riêng cho bạn trẻ nam nữ thanh niên, những trò vui này rất nhiều và rất thú vị: đánh phết, đánh trung-bình-tiên, hát quan-họ, hát đúm, thổi cơm thi, nấu cô thi, bơi thuyền, đánh vật… Các cụ bà trong ngày hội, dù là hội đình, có thú đi chùa, nghe kể hạnh… Đấy là chúng tôi không nhắc tới những cuộc tế lễ rước xách chúng tôi đã trình bày trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM, trong chương ĐẠO THỜ THẦN. Về hội hè đình đám mùa thu, thì đây là thời gian dân quê vừa thắng trận phòng đê tháng bảy với con nước Mã nguy-hiểm hàng năm. Vả lại tiết thu mát-mẻ, trời thu trong sáng, tháng tám lại nhằm vào thu-tế, các làng xã mở hội, vào đám dường như muốn ăn mừng đã tránh được nạn lụt, và để tạ ơn thần-linh đã bảo hộ dân làng, mùa tháng mười sẽ được bội thu. Đã vất-vả suốt từ tháng năm, sau vụ gặt chiêm, nay được dịp cấy mùa đã xong, công việc đồng áng đã vơi, người dân quê cũng như dịp xuân tới, phải nghỉ-ngơi và phải hưởng những ngày nghỉ-ngơi. Trời thu đẹp báo hiệu một vụ lúa mùa tốt đẹp, gió thu mát, trăng thu trong như tăng sự hân-hoan của con người trước viễn-ảnh thóc lúa đầy bồ, người người no ấm. Mùa Xuân người ta đã hội-hè, mùa thu người lại hội-hè. Hoặc giả có làng nào, mùa Xuân chưa đình đám ăn chơi, thì mùa thu nhất là tháng tám, là dịp để làng vào đám, dân làng nghỉ ngơi hội-hè. Cũng những cuộc tế lễ rước xách như mùa Xuân, với những trò vui thay đổi tuỳ theo mỗi địa-phương. Trình bày về hội-hè đình-đám của mùa Xuân cũng như mùa Thu, chúng tôi chỉ nói tới những hội-hè chúng tôi biết, lẽ tất nhiên không là bao nhiêu so với số hội hè hằng có xưa ở vùng quê suốt từ Nam tới Bắc. Biết tới đâu chúng tôi nói tới đó, còn những điều không biết, chúng tôi xin nhường lại cho những bậc biết hơn. Ngoài những hội hè đình đám mùa Xuân và Thu, rải rác quanh năm cũng vẫn có những hội làng ở một số các xã thôn, như hội đền Phù-Đổng Thiên vương ở làng Phù-Đổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc-Ninh vào ngày mồng 9 tháng 4; Hội bơi thuyền trên sông Tiểu Đáy của làng Yên-Hạ, tục gọi là làng Me tỉnh Vĩnh Yên vào thượng tuần tháng 5, hội đền Tả quận Lê-văn-Duyệt xã Bình-Hoà, Tỉnh Gia-Định vào ngày 30 tháng 7 v.v… Những ngày tháng của hội này theo kỵ-nhật của vị thần linh được dân làng thờ-phụng. Trong các hội quê, chúng ta có thể phân biệt: - Các hội về lịch-sử liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử được dân làng thờ-phụng làm thần-linh, hoặc liên-quan tới một sự-kiện lịch-sử được dân chúng kỷ-niệm. Hội đền Hai Bà, Hội đền Đức Hưng-Đạo-Vương là những hội liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử, giỗ Trận Đống-Đa là hội liên-quan tới sự kiện lịch sử, vua Quang Trung đại thắng quân Thanh của Tôn-Sĩ-Nghị. - Các hội về Tôn-giáo. Trong các hội này thường là hội Chùa như hội Chùa Thầy, tỉnh Sơn-Tây, hội Chùa Hương, tỉnh Hà-Đông. Lễ vía bà núi Sam, tỉnh Châu-Đốc, lễ kỷ niệm đức Huỳnh Giáo-Chủ ở Thánh-Địa Hòa-hảo cũng là những hội-hè về tôn giáo. - Các hội hè về phong-tục. Đây có thể là một hội tại một làng thờ một nhân vật lịch-sử không mấy quan trọng, hoặc ở một ngôi chùa làng có những tục lạ của dân chúng từng địa phương. Tất cả những hội nào, không xếp vào hai loại hội trên chúng tôi đều xếp vào loại thứ ba này. Viết về mỗi hội, chúng tôi sẽ cố gắng lần-lượt trình bày: - Nơi và ngày có hội - Thân-tích - Các trò vui trong ngày hội, ngoại trừ những cuộc tế lễ và rước xách thông thường đã có nói trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM. Chúng tôi cũng hiểu, với sự hiểu-biết nông cạn của chúng tôi, tất-nhiên có những điều thiếu sót và có cả những sự sai lầm, nhưng dù sao chúng tôi cũng cố gắng đem hết thiện-chí để mong đạt được tối đa những điều đáng viết về mỗi hội. Để bớt những sự thiếu sót chúng tôi đã tham khảo xem tài liệu ghi trong các sách báo chúng tôi đã được dịp đọc qua, ngoài những điều tai nghe mắt thấy xưa kia ở các hội quê. Saigon, ngày 17 tháng 5 năm 1969 TOAN ÁNHDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc ViệtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần)
Trong lịch sử văn học Trung Quốc. Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt. Người Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó(1), sáng tác về nó đến nỗi nói: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!” (Mở miệng mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích!). Có một ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng, gọi là Hồng học; gần đây nhất vẫn thấy Trung Quốc in chuyên san “Hồng Lâu Mộng nghiên cứu”. Có lẽ trên thế giới chỉ có Shakespeare là có một vinh dự lớn lao như thế, vì có “Shakespeare học”. Cái gì làm người Trung Quốc say Hồng lâu mộng “như điếu đổ” vậy? Trước hết, đó là do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại. Thời nhà Thanh, dưới thời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là thời kinh tế phồn vinh, chẳng những công nghiệp, thủ công nghiệp, mà cả khai thác mỏ, thương nghiệp...cũng phát triển mạnh mẽ. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc Châu... buôn bán, sản xuất sầm uất là những đô thị lớn. Chỉ kể một thị trấn như Thanh Giang bên bờ Vận Hà thôi mà thời đó đã có hơn nửa triệu dân! Hồng Lâu Mộng được đánh giá là "tuyệt thế kì thư" phản ánh toàn diện và sâu sắc xã hội, con người Trung Hoa giai đoạn mạt Thanh khi đứng bên bờ vực suy vong, sụp đổ. Tác phẩm được Tào Tuyết Cần sáng tác trong khoảng thời gian giữa thế kỉ 18 khi triều đại phong kiến đã bắt đầu mục ruỗng và đi tới hồi kết. 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết, 40 hồi sau do Cao Ngạc hoàn thành. Hồng lâu mộng miêu tả quá trình hình thành, phát triển và cuối cùng tan vỡ của thế giới lí tưởng Đại Quan Viên. Thế giới lí tưởng đó ngay từ đầu đã không tách rời khỏi thế giới hiện thực: Đại Quan Viên hoa thanh quả khiết vốn được xây trên cái nền bẩn thỉu Hội Phương Viên. Trong suốt quá trình 12 chị em thanh nữ vun đắp phát triển khu vườn, hoa thanh quả khiết của họ cũng không ngừng bị rình rập, bẻ phá bởi bàn tay nhớp nhúa từ bên ngoài. Thanh khiết mọc lên từ ô uế, sau cùng cũng đành rơi rụng giữa ô uế. Đó chính là ý nghĩa trung tâm của bi kịch Hồng lâu mộng. Đó là sự bế tắc của những con người trẻ tuổi, khát khao lý tưởng sống mới nhưng cuối cùng đành bị khuất phục bởi họ đang ở trong bóng đêm suy tàn của ngày cũ, chưa thể đứng trong áng sáng ban mai của ngày mới, đó là yếu tố bi kịch của lịch sử trùm lên bi kịch cuộc đời của tất cả các nhân vật. Tìm mua: Hồng Lâu Mộng TiKi Lazada Shopee Tiểu thuyết được dựng thành phim, ngay khi ra mắt bộ phim Hồng lâu mộng đã gây tiếng vang ở khắp Trung Quốc và nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hồng Lâu Mộng PDF của tác giả Tào Tuyết Cần nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.