Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trăng Trên Thung Lũng Jerusalem

Bản dịch Nguyễn Thu Hồng SHMUEL YOSEF AGNON (1888-1970)SHMUEL YOSEF AGNON sinh năm 1888 1 và lớn lên trong một gia đình gồm những học giả tại Buczacz thuộc miền Đông Galicia (nay là vùng Tây Ukraina). Buczacz là một cộng đồng Do-thái không quá tám ngàn người và cũng là một trung tâm đào tạo các rabbi (thầy cả) Do-thái giáo. Agnon đã được hấp thụ nền văn hóa cổ truyền của Do-thái do thân phụ ông đích thân truyền dạy. Galicia lúc đó là một trong những trung tâm của nền văn chương tân Hy-bá. Ngay từ nhỏ Agnon đã khởi sự văn nghiệp trên báo chí tiếng Hy-bá và tiếng Yiddish 2 ở địa phương. Và kể từ năm 1907 tức là năm ông trở về Palestine, ông thôi không viết bằng tiếng Yiddish nữa. Việc Agnon từ đó chuyên sáng tác bằng tiếng Hy-bá có lẽ phần nào đã do ảnh hưởng của phong trào phục quốc Zion của người Do-thái mà ông đã tham gia. Nếu nhìn vào số ngôn ngữ được sử dụng tại Israel ngày nay người ta sẽ thấy trong số hơn hai triệu dân, đã có tới một triệu tám sử dụng ngôn ngữ chính thức là tiếng Hy-bá. Lớp di dân đầu tiên từ các ngả trên thế giới trở về Israel còn nói hoặc hiểu được tiếng Yiddish và một số ngôn ngữ dùng trong các nghi lễ Do-thái giáo, nhưng hiện nay số thanh niên Israel chỉ dùng có ngôn ngữ Hy-bá ngày càng thêm đông đảo. Tuy vậy, thứ tiếng Hy-bá của Agnon không hẳn là thứ tiếng mà thế hệ trẻ hơn của Israel hiện sử dụng. Đúng hơn đó là ngôn ngữ của nền văn chương truyền thống Hy-bá với những nhà văn tiêu biểu như Bialik, Tchernichowsky và Shneur. Đứng giữa ngôn ngữ văn chương cổ truyền của dân tộc và tiếng Hy-bá hiện đại hóa, Agnon đã quyết định nối kết các thế hệ Do-thái bằng một nội dung đề cao truyền thống dân tộc, nhưng trong khi chờ đợi một nền văn chương ổn cố của ngôn ngữ Hy-bá hiện đại, ông đã lựa chọn diễn tả bằng thứ ngôn ngữ trang trọng của nền văn chương Hy-bá cổ truyền (xuất hiện từ thế kỷ XI và còn kéo dài cho đến ngày nay). Agnon làm thơ từ năm lên 9 và bài thơ đầu tiên của ông được đăng vào năm ông mười sáu tuổi. Câu chuyện đầu tay của ông in tại Palestine là truyện "Agunot". Ngay từ năm 1913, Shalom Streit đã nói về tác phẩm này: “Một luồng điện chạy qua toàn thể cộng đồng chúng tôi khi đọc truyện ấy.” Cùng với "Agunot" có nghĩa là cô đơn, trơ trọi hoặc đơn độc, 3 ông khởi sự dùng bút hiệu Agnon thay vì tên thực là Czaczkes. Khi được hỏi là bút hiệu này có liên hệ với truyện trên hay không, Agnon đã xác nhận là có. 4 Những năm kế đó, tuần báo Hapo’el Hatza’ir của nhóm xã hội chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Tolstoi và những tư tưởng địa dân (narodniki) đã đăng tải cuốn sách đầu của Agnon nhan đề Vehaya he’akov lemishor (Và những nơi cong queo sẽ được uốn ngay lại). Tác phẩm dài này đã làm say mê độc giả Do-thái đương thời không ít đến nỗi Joseph Haim Brenner đã phải dốc cạn túi tiền để xuất bản thành sách (1912). Đối với một người vô thần như Brenner thì đây là “tác phẩm đầu tiên của nền văn chương thế tục Hy-bá trong đó truyền thống đã trở thành phương tiện diễn đạt nghệ thuật thuần túy...” Năm 1913 Agnon qua Đức. Ông định ở lại vài năm nhưng vì chiến tranh 5 nên mãi tới năm 1924 ông mới trở lại Jerusalem được. Tuy nhiên những năm ở Đức đã ảnh hưởng lớn lao đến văn nghiệp ông sau này. Ông tiếp xúc với văn chương châu Âu và yêu chuộng sự hoàn hảo đến độ các truyện sáng tác thường viết đi viết lại tới sáu, bảy lần. Trong thời kỳ này ông xuất bản rất ít, chỉ chăm lo sửa chữa các tác phẩm cũ và viết những truyện mới. Ông cũng làm khá nhiều thơ và viết một cuốn tiểu thuyết tự sự. Nhưng tới tháng Sáu năm 1924, căn nhà ông ở tại Homburg gần Frankfurt bị hỏa hoạn 6 và toàn bộ bản thảo, giấy tờ và tủ sách Hy-bá do ông sưu tập được đều biến ra tro. Biến cố này đã thay đổi hẳn con người Agnon. Ông thôi không sáng tác thi ca nữa và không bao giờ viết lại tác phẩm tự sự trên. Năm 1929, sau khi ông đã trở về Palestine, căn nhà ông tại ngoại ô Jerusalem lại bị người Ả-rập cướp phá. 7 Lần này ông trở lại Galicia trong một chuyến thăm viếng ngắn ngủi và ở lại Đức tới gần một năm để chứng kiến bốn cuốn đầu gồm các tác phẩm mà ông đã thu thập, sửa chữa trong năm năm trời được ấn hành tại đây. Cũng nên ghi nhận là Agnon là một nhà biên soạn các tuyển tập văn chương rất có tài. Trong những năm ở Đức, ông đã biên soạn hai tuyển tập bằng Đức ngữ. Ở Jerusalem ông đã bỏ khá nhiều ngày giờ để biên soạn ba tuyển tập văn chương. Trong tuyển tập đầu nhan đề Những ngày kinh sợ, gồm một kho tàng những chuyện cổ dân tộc, ông đã hài hước sắp thêm vào đó những mẩu truyện trích trong một tác phẩm tưởng tượng được mệnh danh là Kol Dodi (Tiếng nói của người tôi yêu dấu) và ghi chú rất tự nhiên ở phần thư mục là “một bản thảo mà tác giả hiện giữ”. Trong ý định soạn những tuyển tập Do-thái này, Agnon cũng đã đồng ý cộng tác với một triết gia Do-thái là Martin Buber nhưng về sau tác phẩm chung của hai người bị thiêu hủy và Agnon không soạn lại tác phẩm đó nữa. Công cuộc soạn thảo các tuyển tập này đã ảnh hưởng tới Agnon. Trong một số truyện, nhân vật chính của Agnon cũng là những học giả. Hình như hình ảnh tận tụy vô vọng của các học giả có một sức thôi miên tột độ đối với Agnon. "Trăng trên thung lũng Jerusalem" (Ido và Eynam) 8cũng là một câu chuyện của một học giả; sự say mê tìm kiếm một thứ ngôn ngữ và những ca khúc mà thế nhân đã để lạc mất trong vô tận của sa mạc thời gian tưởng chừng như một việc phù phiếm, nhưng dưới ngòi bút của Agnon lại mang những ẩn dụ sâu sắc và tế nhị (luôn luôn dựa trên một sự hiểu biết căn bản về Do-thái giáo), gợi ra được cái khát vọng vô biên của những con người sống trong một thế giới Babel hiện đại, và có một sức chiêu dụ đến mê hoặc tột độ. Gabriel Gamzou, nhân vật khó quên trong truyện này đã phản ảnh phần nào tác giả, một tâm hồn xao xuyến luôn khát vọng hợp nhất, sẵn sàng đương đầu với những tiếng nói của ngày Phán xét cuối cùng, như sách đã viết: “Ngay từ tiền sảnh, con hãy sửa soạn để đi vào phòng khách”. Với "Trăng trên thung lũng Jerusalem", câu chuyện thường được coi như là truyện ngắn đẹp nhất của Agnon, người đọc có thể tìm thấy qui tụ lại nhiều khía cạnh của tài năng Agnon và những chủ đề chính của ông: sự thiếu quân bình của cái hiện tại còn hoài niệm một thời đại vàng son khi mà “người Do-thái còn biết cầu nguyện và ngợi ca Chúa trong một niềm tin ngây thơ và chân thành”; sự xao xuyến cô đơn và nỗi sợ hãi phải mất nơi cư ngụ thể chất là mái nhà, hoặc nơi cư ngụ tinh thần là nhà nguyện; sau rốt là giấc mơ như một dự cảm hay sức hấp dẫn huyền diệu, mê hoặc, giữa sự sống và sự chết... Quả thật, như giáo sư Gershom Scholem của viện Đại học Hy-bá ở Jerusalem đã viết, “Agnon đã khởi sự văn nghiệp bằng cách viết những truyện ngắn, và chính trong lối sáng tác này ông đã đạt được một sự hoàn hảo khiến người đọc phải theo rõi đến đứt hơi thở”. "Trăng trên thung lũng Jerusalem" cùng với một số truyện ngắn khác của Agnon đã trở thành những tác phẩm cổ điển châu báu của dân tộc Israel ngay trong thế kỷ 20. Bí quyết chính của sự hoàn hảo này là Agnon đã khéo léo phong phú hóa tác phẩm bằng vô vàn chi tiết lọc lựa hết sức nghệ thuật trong một hình thức văn chương vô cùng giới hạn. Trong tác phẩm của Agnon, những đam mê của con người chiếm phần quan trọng chính, nhưng Agnon có một lối viết, một ngôn ngữ diễn đạt điềm tĩnh lạ thường, khác hẳn thứ ngôn ngữ đầy xúc cảm của những nhà văn Hy-bá trước ông. Agnon cũng thường lưu tâm tới những con người hèn mọn, bình thường, mà cuộc sống với muôn vẻ đều bày ra những cảnh tượng hết sức thực mà đồng thời lại đầy những mầu sắc huyền bí. Bởi thế mà rất nhiều khi trong truyện của Agnon một nỗi buồn khôn tả thường đi đôi với một niềm an ủi siêu nhiên. Trong một truyện ngắn của Agnon, một công nhân nghèo khổ nọ, một người đơn độc trơ trọi trên đời, đã cần mẫn dành dụm chút tiền để có thể trở về “Đất Thánh”. Nhưng không biết giấu tiền ở đâu cho chắc dạ, bác đã bỏ tiền vào một hộp lạc quyên đặt bên dưới cây thập tự ngoài đường lộ. Sau cùng, khi tìm đến lấy lại món tiền đã giấu thì bác bị bắt về tội ăn trộm của thánh. Bác bị tù và bị kết án tử hình, nhưng trong ngục bác được “Người” tới thăm viếng – trong tiếng Hy-bá “Người” đây chỉ Jésus – và đưa tới thành thánh Jerusalem nơi đồng bào bác nhận thấy bác đã chết. Sau khi trở lại Jerusalem, 9 Agnon đã sáng tác một số tiểu thuyết dài. Những tác phẩm xuất sắc nhất của ông hợp thành một bộ ba cuốn mô tả đời sống Do-thái trong một trăm năm từ 1830 đến 1930. Ấy là những cuốn Của hồi môn của nàng dâu (1931), Người khách trọ một đêm (1940) và Cách đây không lâu (Tmol shilshom, 1946). Của hồi môn của nàng dâu (Hakhnasat Kalla) kể lại những cuộc phiêu lưu của Thầy cả Jude Hasid, người đã phải lang thang khắp vùng Đông Galicia để thu thập chút của hồi môn cho ba cô con gái đi lấy chồng. Trong tác phẩm này Agnon không những đã mô tả tục lệ phải lo của hồi môn cho con đi lấy chồng của Do-thái mà còn vẽ lại một cách chính xác và đầy màu sắc lối sống thuần túy Do-thái ở thế kỷ 19, trước khi va chạm với thời hiện tại. Tám mươi năm sau khung cảnh đã hoàn toàn thay đổi hẳn. Yitzhak Kummer, vai chính của Cách đây không lâu, là cháu của Thầy cả Judel. Tuy nhiên lý tưởng của thế hệ trẻ là xây dựng một xã hội mới, là tái tạo một dân tộc Do-thái nơi cố hương. Trong thời kỳ này, những nền tảng của xã hội cũ như tôn giáo, truyền thống đều bị lung lay. Mọi sự đều ở trong giai đoạn chuyển tiếp, bất ổn. Kummer tha thiết với ý tưởng phục quốc nhưng anh cũng không muốn chối bỏ truyền thống. Anh không tìm thấy chỗ đứng của mình giữa xã hội cũ ở Jerusalem và xã hội mới ở Tel Aviv và những nông trại. Anh luôn luôn cố gắng nối kết cuộc sống hiện tại với thế giới truyền thống đầy hứa hẹn an ủi nhưng mọi cố gắng dường như đều vô ích. Cuộc sống mới mà phong trào phục quốc Zion đề xướng chưa đạt được những kết quả mong muốn. Và lối sống cũ, với những vinh quang quá khứ, thì không sao tìm thấy đường về với hiện tại. Các truyện ngắn và tiểu thuyết của Agnon thường đi lại giữa hai thái cực không sao đạt tới được này. Ở cuối tác phẩm Cách đây không lâu, Agnon có hứa hẹn sẽ viết về đời sống của thế hệ trẻ ở Israel hiện tại, lẽ dĩ nhiên với những hình thái tích cực hơn của xã hội mới. Tuy nhiên cuốn tiểu thuyết này chưa xuất hiện. Người khách trọ một đêm dường như là tác phẩm sầu muộn nhất của Agnon, một người sùng thượng thế giới đẹp đẽ cổ truyền của dân tộc ông. Ngược lại với Kummer đi tìm thế giới mới và chỉ gặp thấy trống rỗng trong sinh hoạt ở phần đất Palestine của Israel, người kể truyện trong Người khách trọ một đêm từ thế giới mới trở về thăm thế giới cũ của thị trấn Szybuscz sau hai mươi năm trời xa vắng. Và nơi chôn nhau cắt rốn giờ đây chỉ là một nơi khốn khổ, hoang tàn, thoi thóp những phút cuối cùng của đổ nát. Tất cả những cố gắng tái tạo dĩ vãng dường như cũng hoài công, vô vọng. Và trong dĩ vãng ấy của cố hương, người kể chuyện chỉ là một “khách trọ qua đêm”. Trong truyện nhân vật chính đã phải thốt ra như sau: “Khi còn trẻ tôi có thể thấy trong trí tất cả những gì tôi ao ước thấy; ngày nay tôi không thấy cả những gì tôi ao ước thấy lẫn những gì người ta chỉ cho tôi”. Với một tâm hồn yêu mến quá khứ như Agnon, nỗi buồn kia đã trở thành một ám ảnh vô cùng đau đớn. Trong viễn tượng ấy của những khát vọng trần thế, những năm gần đây, Agnon đã khởi sự viết một tác phẩm tự sự thật kỳ lạ. Trong tác phẩm mới ông đã ngược dòng thời gian đến cả hàng ngàn năm và kể lại những cuộc thiên cư của tâm hồn ông qua mọi giai đoạn quan trọng của lịch sử kể từ những ngày Sáng thế. Tác phẩm tự sự có tích chất lịch sử-siêu hình này mang nhan đề là Hadom ve-Kissei(Ghế và Ngai) 10 cho đến nay vẫn chưa hoàn tất, tuy nhiên nhiều đoạn dài đã được trích đăng. Năm 1934, Agnon được tặng giải thưởng Bialik nhờ cuốn Của hồi môn của nàng dâu. Và giải thưởng Ussischkin cũng đã về tay ông với tác phẩm Cách đây không lâu. Năm 1954, Agnon được bầu làm nhân viên Hàn lâm viện Hy-bá và cùng năm đó, toàn bộ tác phẩm của Agnon đã được giải thưởng Văn chương cao nhất của Do thái, Giải ISRAEL. Agnon thường được coi như một nhà văn kiệt xuất đã nối kết được thế hệ đi tiền phong trong phong trào phục quốc Do-thái và thế hệ đương lên hiện tại ở Israel bằng một nội dung thâm trầm và sâu sắc nêu cao truyền thống dân tộc trong mọi tác phẩm. Năm 1966, Agnon đã được Hàn lâm viện Thụy điển trao tặng giải thưởng Nobel văn chương cùng với nữ văn sĩ Nelly Sachs. Tác phẩm của ông đã được phiên dịch ra chừng 15 thứ ngôn ngữ trên thế giới. Shmuel Yosef Agnon 11 không những là một nhà văn lớn của Israel mà còn là của toàn thế giới – như Edmund Wilson, người đã đề nghị trao tặng giải Nobel cho ông, đã nói: “... điều làm cho Agnon đáng kể như vậy và xứng đáng với giải thưởng Nobel là ở chỗ ông đã có thể thể hiện tới mức ấy trong thế giới Do-thái của ông, cái nhân loại tính chung của chúng ta...” Mời các bạn đón đọc Trăng Trên Thung Lũng Jerusalem của tác giả ShmuelYosef Agnon & Nguyễn Thu Hồng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Chốn Để Thương - Anthony Grey
S ang đến năm 1936 thì toàn thể đảo Đông Dương bước vào một kỷ nguyên mới với thanh bình và ổn định. Từ đầu năm 1935, Pháp đã dẹp được hết mọi sự chống đối của người Việt Nam, và từ đó nền kinh tế lại bắt đầu phục hồi. Thật sự đây chỉ là bề ngoài, còn bên trong sự yên tĩnh giả tạo này, lòng căm thù người Pháp trước những hành động tàn ác mà họ áp dụng để đàn áp các nhóm chống đối trong những năm 1930 và 1931 vẫn còn sôi sục trong lòng dân chúng hơn bao giờ hết. Thế giới bên ngoài không mấy ai để ý đến các biến cố nhỏ nhoi này, nhưng đối với dân chúng người bản xứ thì ai nấy cũng đều biết rằng trong các cuộc nổi loạn vừa qua, người Pháp trong vòng hai năm kể trên đã hành hình, tra tấn dã man và giết chết hàng chục ngàn người Việt Nam. Trong lần dội bom vào đoàn người biểu tình ở Vinh hồi tháng 9 năm 1930, phi cơ của Pháp đã làm thiệt mạng hơn hai trăm người. Pháp đã đem xử tử hơn một ngàn người khác không cần xử án họ, trong khi đó Pháp từ đầu đến cuối chỉ bị thiệt mạng có hai người. Cũng cùng trong thời gian này người Pháp đã bắt giữ và đày đi biệt xứ độ năm chục ngàn người Việt quốc gia và Cộng Sản. Sự thật này được khui ra ánh sáng khi một số lính Lê Dương của Pháp bị đưa ra tòa án quân sự vì sự tàn ác của họ. Người ta được biết rằng thỉnh thoảng lính Lê Dương đến một làng nào đó bắt đem đi mười người dân rồi đem bắn chết hết chín người, để tra khảo người duy nhứt còn sống này. Đôi khi họ bắt hai người dân làng rồi đem chặt đầu một người, đoạn bắt người còn sống phải ôm lấy chiếc đầu của người chết trong lúc chúng lấy khẩu cung. Nhiều trường hợp cho thấy lính Lê Dương đánh đập người tàn nhẫn trong khám đường không cần phải có một ý do nào hết cả. Họ thẻo tai tù nhân, dùng dao lóc thịt trên mặt nạn nhân rồi để chảy máu cho đến chết. Người ta còn kể rằng lính Pháp đã mổ bụng người Việt rồi tiểu vào đó. Nhưng những sự tàn ác này không phải chỉ có người Pháp thực hiện không mà thôi, Cộng Sản cũng thành lập các tòa án Xô Viết tại các vùng kiểm soát của họ, rập khuôn theo kiểu mà Mao Trạch Đông đã áp dụng tại Hoa Nam. Các thành phần võ trang của Cộng Sản với gậy gộc và dao búa đã áp dụng chiến thuật khủng bố tàn bạo với kẻ thù. Dân chúng ai từ chối không chịu tham dự vào đoàn thể của họ đều bị coi như phản bội lại với lý tưởng của Cộng Sản và bị họ lén lút thủ tiêu và mưu sát. Các quan lại hợp tác với người Pháp cũng như những địa chủ đều bị chúng treo cổ, chặt đầu, hoặc bỏ vào nọ thả trôi sông. Các nạn nhân trước khi bị hành hình thường bị cắt tai, xẻo mũi, nhổ răng, hoặc bị đốt hết râu, tóc. Nguyễn Ái Quốc, người cầm đầu phe Cộng Sản bị người Pháp xử tử khiếm diện vì tội cầm đầu tổ chức kháng chiến, và mặc dù đương sự có bị bắt cầm tù một thời gian ngắn ở Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc vẫn tránh né được các tay mật thám của Pháp một cách dễ dàng và khi thấy phong trào cách mạng của ông ta bị bao vây quá chặt chẽ, Nguyễn Ái Quốc một lần nữa tuyệt tích, bằng cách trốn qua ẩn náo tại Liên Xô, trong khi đó vào năm 1932, báo chí Cộng Sản lại tung tin là ông ta đã từ trần. Hầu hết các thành viên nòng cốt của phong trào Cộng Sản do Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo đều bị bắt và các xà lim của pháp đầy nghẹt những người Cộng Sản. Côn Sơn, một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Nam Việt đã trở nên là nơi huấn luyện cho một thế hệ Cộng sản Việt Nam mới tại nơi đó. Lẽ ra thì đám tù nhân bị lưu đày tại Côn Sơn này phải bị lưu dày tại đây lâu hơn, nhưng tại Âu Châu lúc bấy giờ Hitler đã lên nắm quyền tại Đức; điều này khiến cho đảng Cộng Sản Pháp vội vàng nhập vào các thành phần xã hội trung lập tại Pháp để cùng lo việc chống lại Phát Xít tại Paris. Tân Chính Phủ Mặt Trận Nhân Dân Pháp hợp thức hóa đảng Cộng sản Đông Dương, và trong những tháng đầu của năm 1936, họ tuyên bố ân xá cho tất cả tù nhân tại Côn Sơn. Khi những tù binh Cộng Sản này được thả về Sài Gòn, Hà Nội và Huế thì sở mật thám của Pháp tại những nơi kể trên cũng âm thầm theo dõi các dấu hiệu mới trong âm mưu chống đối lại người Pháp tại quốc gia này. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Một Chốn Để Thương của tác giả Anthony Grey.
Nước Mắt Đắng - Dương Thiên Lý
Cuốn tiểu thuyết Nước Mắt Đắng về một người mẹ trẻ vượt qua sự phản bội của người chồng, đưa con cái đến vùng đất mới làm lại từ đầu. Con chết. Con tai nạn… bản thân mình luôn bị quấy rối, cuộc sống nhiều khi rơi vào tối tăm tuyệt vọng nhưng chị đã chịu đựng và đứng lên. Như rất nhiều người phụ nữ Việt Nam. *** Một sự im lặng buồn đau đến sợ hãi…Vũ vội vã khóa cửa nhà và dắt bé Tư đi. Bây giờ đi đâu? Hẳn là đến bệnh viện, nơi có người bố đang đi trên ngưỡng cửa của sự sống và cái chết. Cu Tư ơi, em có biết không, tai họa đã đổ xuống đầu em, cũng như ngày xưa nó đã đổ xuống đầu anh và người thân của anh. Bất giác Vũ bật khóc tức tưởi, hôn tới tấp vào khuôn mặt nhòa nước mắt của bé Tư. Khuôn mặt ngây thơ tội nghiệp kia, chẳng hiểu sao, cũng có nhiều nét giống em trai của mình đến thế. Niềm yêu thương trào lên trong lòng Vũ. Cậu dắt tay em Tư đi như chạy. Đường phố vẫn ồn ào và trong lòng Vũ vẫn náo động. Cậu tự hỏi, có phải sự tan vỡ này khiến cho những may mắn hạnh phúc của đời cậu thêm một lần bay biến. Hình như không phải thế, nhưng sao lòng cậu cứ vẫn quặn đau. Cậu tự hỏi sao cuộc đời có lắm nỗi đau và ngang trái. Và ai là kẻ gây nên tội lỗi. Trong đầu Vũ hiện lên một người cha vô trách nhiệm, một ông bố dượng bỉ ổi và cuối cùng là vợ chồng ông chủ nhà hàng Mây mưa, là gia đình ông bà Ba Bé đầy mâu thuẫn, khó hiểu. Mời các bạn đón đọc Nước Mắt Đắng của tác giả Dương Thiên Lý.
Nghệ Thuật Quyến Rũ - Robert Greene
Q uyến rũ là một dạng sân khấu ngoài đời, là nơi gặp gỡ giữa ảo ảnh và hiện thực, là một dạng lừa dối, nhưng con người thích được dẫn lệch hướng, họ khát khao được người khác quyến rũ. Hãy vất bỏ hết những khuynh hướng đạo đức, hãy làm theo triết lí vui vẻ của người quyến rũ, rồi bạn sẽ thấy quá trình còn lại dễ dàng và tự nhiên. Nghệ thuật Quyến rũ nhằm trang bị cho bạn vũ khí thuyết phục và hấp dẫn người khác, để những người xung quanh bạn từ từ mất khả năng chống cự mà không hiểu như thế nào và tại sao điều đó lại xảy ra. Nó là nghệ thuật chiến đấu trong thời đại tinh tế này. Mỗi cuộc quyến rũ có hai yếu tố bạn phải phân tích và thấu hiểu: Thứ nhất là chính bạn và bạn có gì quyến rũ; thứ hai là con mồi và những hành động có thể đập tan phòng vệ của họ khiến họ phải đầu hàng. Vì vậy, Nghệ thuật Quyến rũ được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, “Kiểu Người Quyến rũ”, mô tả chín loại người quyến rũ, cộng thêm Người không Quyến rũ (anti-seducer). Nghiên cứu những loại người này giúp bạn nhận thức được thuộc tính quyến rũ vốn có trong bạn là gì vì đó là những viên đá tảng cơ bản trong quyến rũ. Phần thứ hai, “Quá trình quyến rũ”, gồm hai mươi bốn thủ thuật và chiến lược sẽ hướng dẫn bạn làm thế nào bỏ bùa mê, phá vỡ thế chống đối, tiến bước mạnh mẽ trong quyến rũ, và dẫn dụ con mồi đầu hàng. Cầu nối giữa hai phần là chương bàn về mười tám loại nạn nhân bị quyến rũ – mỗi một loại thiếu một điều gì đó trong cuộc sống, trong lòng có một khoảng trống mà bạn có thể bù lấp. Biết được mình đang quyến rũ loại người nào giúp bạn vận dụng ý tưởng trong cả hai phần. Nếu bỏ qua bất kì phần nào trong quyển sách này, bạn sẽ chỉ là một người quyến rũ không hoàn hảo. Tinh thần giúp bạn trở thành một người quyến rũ tuyệt vời là tinh thần bạn đọc cuốn sách này. Nhà văn Pháp Denis Diderot đã từng viết, “Tôi cho phép tâm hồn tôi tự do theo đuổi ý tưởng khôn ngoan hay ngu ngốc đầu tiên khi nó xuất hiện, giống như trên đại lộ de Foy con người thanh niên phóng đãng trong ta theo sát gót một cô gái làm tiền nào đó, để sau đó bỏ theo một cô khác, tấn công tất cả bọn họ để rồi chẳng gắn kết họ với gì cả. Suy nghĩ của tôi chính là những cô gái làm tiền.” Ý ông là ông để mình bị quyến rũ bởi những ý tưởng, theo đuổi bất cứ điều gì làm ông thấy hứng thú cho đến khi một cái khác hay hơn đến với ông, suy nghĩ của ông bị nhiễm một dạng thú vui nhục dục. Một khi bạn đã bước vào những trang sách này, hãy làm như Diderot khuyên: Hãy để mình bị quyến rũ bởi những câu chuyện và những ý tưởng, hãy để đầu óc cởi mở và suy nghĩ đi hoang. Dần dần bạn sẽ thấy thứ thuốc độc này thấm vào da thịt mình và bạn sẽ bắt đầu xem mọi thứ là nghệ thuật quyến rũ, kể cả cách nghĩ và cách bạn nhìn thế giới. Đức tính tốt nhất chính là làm tăng nhu cầu quyến rũ. Natalie Barney *** H àng ngàn năm trước, quyền lực chủ yếu có được và duy trì nhờ vào bạo lực. Sự tinh tế là không cần thiết – vua hay hoàng hậu phải biết nhẫn tâm. Chỉ một vài người có quyền lực nhưng phụ nữ là người phải chịu đựng nhiều nhất dưới chế độ này. Họ không có cách nào để tranh đấu, không có vũ khí nào về mặt chính trị, xã hội hay ngay trong gia đình giúp họ bắt đàn ông phải làm theo ý mình. Dĩ nhiên đàn ông có điểm yếu: Đó là khát khao nhục dục mãnh liệt. Người phụ nữ luôn có thể nhắm vào dục vọng này của đàn ông, nhưng nếu họ lại bị lôi vào tình dục thì người đàn ông lại lập tức quay lại thế thống trị; còn nếu họ từ chối nhục dục thì người đàn ông lại đi tìm điều đó ở một nơi khác – hoặc sử dụng vũ lực. Một quyền lực tạm thời và mỏng manh như thế thì ích gì? Vậy mà người phụ nữ cũng chẳng còn sự lựa chọn nào khác ngoài cách này. Mặc dù vậy, đã có những người quá khát khao quyền lực, trải qua nhiều năm khéo léo và sáng tạo, đã nghĩ ra cách xoay ngược thế cờ, tạo ra một dạng quyền lực mới lâu dài và hiệu quả hơn. Chính những người phụ nữ này đã sáng tạo ra nghệ thuật quyến rũ, tiêu biểu là Bathsheba trong Kinh Cựu Ước, Helen của thành Troy, mỹ nhân ngư Hsi Shi ở Trung Quốc, và đặc biệt là nhất là Cleopatra. Trước tiên họ lôi kéo người đàn ông bằng bề ngoài hấp dẫn, chế ra các đồ trang sức và phụ trang để tạo nên hình tượng một thánh nữ giáng trần. Họ để lộ một thoáng da thịt để kích thích trí tưởng tượng của đàn ông, không chỉ kích thích dục vọng mà còn cái gì đó hơn thế: Đó là cơ hội sở hữu một vị thánh. Một khi đã thu hút được chú ý của nạn nhân, những phụ nữ này sẽ dụ dỗ họ ra khỏi thế giới đàn ông chỉ có chiến tranh và chính trị, lôi cuốn họ vào thế giới của phụ nữ – một thế giới xa hoa, vui thú và ngoạn mục. Có thể họ còn dẫn dắt con mồi đi lạc hướng theo nghĩa đen, tức dẫn họ đi du hí xa, như Cleopatra đã dẫn dụ Julius Caesar đi du hí dọc sông Nile. Người đàn ông sẽ dần lún sâu vào những vui thú tinh tế và nhạy cảm này – họ sẽ yêu. Nhưng rồi khi ấy người phụ nữ lại trở nên lạnh lùng và hờ hững làm con mồi phải băn khoăn. Đến khi người đàn ông cứ muốn hơn nữa thì những niềm vui ấy lại bị rút lại. Họ buộc phải theo đuổi, cố mọi cách tìm lại niềm vui mình đã từng được nếm thử, và rồi trong quá trình đó họ sẽ bị yếu dần và trở thành người đầy tình cảm. Những người đàn ông có sức mạnh và quyền lực chính trị như Hoàng đế David, Paris của thành Troy, Julius Caesar, Mark Anthony hay Vua Phù Sai đều thấy mình trở thành nô lệ của một người phụ nữ. Trước bạo lực và dã man, những phụ nữ này đã biến quyến rũ thành một nghệ thuật tinh tế, hình thức cao nhất của quyền lực và thuyết phục. Họ học cách đánh vào tâm trí trước, kích thích óc tưởng tượng, làm người đàn ông cứ muốn hơn nữa, tạo ra những tình cảm hy vọng rồi tuyệt vọng nối tiếp nhau – đó là bản chất của quyến rũ. Sức mạnh của họ không phải ở thể chất mà về tâm lí, không dùng vũ lực mà chỉ gián tiếp và khéo léo. Những chuyên gia quyến rũ vĩ đại đầu tiên này giống như những viên tổng tư lệnh quân sự lập kế hoạch hủy hoại kẻ thù, và thật sự những ghi chép đầu tiên về quyến rũ thường so sánh nó với chiến trường, một kiểu chiến tranh của phụ nữ. Đối với Cleopatra, đây là vũ khí củng cố đế chế của mình. Trong quyến rũ, người phụ nữ không còn chỉ là công cụ tình dục thụ động; họ trở thành nhân tố năng động, một hình tượng quyền lực. Ngoại trừ một số ngoại lệ – như nhà thơ người La tinh tên Ovid, một người hát rong thời trung cổ – còn hầu như đàn ông ít quan tâm đến thứ nghệ thuật nhảm nhí như nghệ thuật quyến rũ. Sau đó, có sự thay đổi lớn vào thế kỉ mười bảy: Đàn ông bắt đầu quan tâm đến quyến rũ như một cách khắc phục sự chống đối tình dục thường gặp những phụ nữ trẻ. Người quyến rũ vĩ đại là nam đầu tiên trong lịch sử – Công tước Lauzun, người đã tạo cảm hứng cho truyền thuyết Don Juan – bắt đầu dùng những phương pháp lâu nay vẫn được phụ nữ sử dụng. Họ học cách làm con mồi lóa mắt với vẻ bề ngoài của mình (thường họ có bản chất ái nam ái nữ) để kích thích trí tưởng tượng, để đóng vai người đỏm dáng. Họ còn thêm vào trò chơi một yếu tố mới mang tính nam, đó là ngôn ngữ quyến rũ, vì họ phát hiện ra một điểm yếu của phụ nữ là thích lời ngon ngọt. Hai hình thức quyến rũ này – người nữ dùng ngoại hình và người nam dùng lời nói – thường được cả hai bên bổ sung thêm vào chiến thuật của mình: Casanova cũng làm lóa mắt phụ nữ bằng quần áo; còn Ninon de l’Enclos cũng quyến rũ đàn ông bằng lời ngon tiếng ngọt của mình. Cùng lúc với giai đoạn nam giới đang hình thành hình thức quyến rũ dành cho giới mình thì những người khác cũng bắt đầu áp dụng nghệ thuật này cho mục đích xã hội. Khi hệ thống chế độ phong kiến lùi dần vào quá khứ, các quan chức phải tìm chỗ đứng cho mình trong chính phủ mà không còn được dùng đến quyền lực. Họ học cách chiếm được quyền lực bằng cách quyến rũ cấp trên hay đối thủ bằng trò chơi tâm lí, từ ngữ nhẹ nhàng, một chút đỏm dáng. Khi xã hội ngày càng dân chủ hóa, các diễn viên, nghệ sĩ và dân ăn diện bắt đầu sử dụng các chiến thuật quyến rũ để lôi cuốn, dành khán giả và môi trường xã hội. Thế kỉ mười chín còn có một thay đổi lớn khác: Đó là các chính trị gia như Napoleon tự xem mình như kẻ quyến rũ, trên qui mô lớn. Những người này dựa trên nghệ thuật hùng biện quyến rũ, nhưng họ cũng nắm vững những chiến thuật của phụ nữ như: Dàn dựng những cảnh ấn tượng, dùng các chiến thuật sân khấu hay tạo hình tượng uy lực. Tất cả những điều họ học được đều là cái được gọi là sức lôi cuốn quần chúng – và đến ngày nay vẫn vậy. Với cách quyến rũ công chúng họ có thể quy tụ được quyền lực to lớn mà không cần đến vũ lực. Ngày nay chúng ta đã đạt được đến đỉnh cao nhất trong cuộc cách mạng quyến rũ. Hơn bao giờ hết, hiện nay sức mạnh và tàn bạo dưới mọi hình thức đều bị bài tẩy. Mọi khía cạnh trong cuộc sống xã hội đòi hỏi khả năng quyến rũ người khác theo một cách không gây tổn thương hay áp đặt người khác. Có thể thấy các kiểu quyến rũ ở khắp nơi, pha lẫn các chiến thuật của nam và nữ. Công nghệ quảng cáo khéo luồn lách, bóng gió, kinh doanh mềm lên ngôi. Nếu muốn người khác thay đổi ý kiến – và làm người khác thay đổi ý kiến là điều cơ bản của quyến rũ – ta phải hành động tinh tế và ngấm ngầm. Ngày nay không có cuộc vận động tranh cử nào lại không sử dụng đến nghệ thuật quyến rũ. Ngay từ thời John F. Kenedy, các chính khách đã cần phải biết quyến rũ quần chúng ở một mức độ nào đó để khi xuất hiện họ đủ sức lôi cuốn sự chú ý của công chúng, được như vậy họ đã chiến thắng được một nửa. Thế giới điện ảnh và truyền thông đại chúng tạo ra một thiên hà những ngôi sao và nhân vật quyến rũ. Chúng ta đang ngập tràn trong thế giới quyến rũ. Nhưng cho dù mức độ và phạm vi có thay đổi đến đâu thì bản chất của quyến rũ vẫn không thay đổi: Đó là không bao giờ trực diện hay dùng vũ lực, ngược lại phải lấy niềm vui làm mồi nhử, đùa cợt với tình cảm của con người, khơi gợi dục vọng và băn khoăn, dẫn dắt con mồi đầu hàng về mặt tâm lí. Trong quyến rũ ngày nay người ta thường áp dụng thì những phương pháp của Cleopatra vẫn còn nguyên tác dụng. Người khác luôn cố gây ảnh hưởng đến chúng ta, muốn ta làm theo ý họ, và thường thì ta cũng cố loại họ ra khỏi quan tâm của mình, chống đối lại sự dụ dỗ của họ. Tuy nhiên có một phút nào đó trong cuộc đời, khi ta hành động hoàn toàn khác – đó là khi ta đang yêu. Ta rơi vào một dạng bùa mê. Tâm trí ta trước kia chỉ có những quan tâm thường nhật; nay lại bị xâm chiếm bởi toàn những suy nghĩ về người ta yêu. Ta trở nên nhiều cảm xúc, mất khả năng suy nghĩ sáng suốt, hành động thì ngu ngốc mà nếu không yêu ta chẳng bao giờ làm vậy. Nếu điều này diễn ra đủ lâu, có gì đó trong ta phải nhượng bộ: Ta đầu hàng ý chí của đối phương, khao khát được sở hữu họ. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Quyến Rũ của tác giả Robert Greene.
Gặp Em Dưới Mưa Xuân - Trang Trang
Cô con gái út trong gia đình họ Phạm - Phạm Tiểu Đa luôn giữ vị trí đặc biệt ngay từ lúc sinh ra, từ bố mẹ đến sáu anh chị em của Tiểu Đa đều coi cô như báu vật trong nhà. Chính vì vậy, cho đến năm 21 tuổi, Phạm Tiểu Đa vẫn luôn nằm trong vòng tay nâng niu, chăm sóc của các anh chị. Đến khi Tiểu Đa bắt đầu đi làm, các anh chị của cô chợt nhận thấy rằng đã đến lúc Tiểu Đa cần có bạn trai. Vậy là cuộc họp gia đình được mở ra để "săn tìm" người yêu đáp ứng đủ tiêu chuẩn của sáu anh chị, nhưng họ là bỏ qua vấn đề mấu chốt là ý kiến của Tiểu Đa. Trong con mắt các anh chị nhà họ Phạm, Tiểu Đa là cô gái nhỏ bé trong sáng, luôn cần sự quan tâm, chăm sóc và che chở nhưng họ đâu biết ẩn dưới vẻ bề ngoài ngoan ngoãn, hiền lành là Tiểu Đa cá tính, lém lỉnh và không kém phần tinh nghịch. Tiểu Đa đã khéo léo sử dụng những tính cách này để loại bỏ những đối tượng xem mặt mà vẫn không khiến các anh chị của cô phải cáu giận. Không những vậy, Tiểu Đa còn lôi kéo được một trong những đối tượng xem mặt - Lý Hoan trở thành đồng mình của mình sau này. Cũng trong khoảng thời gian đó, Tiểu Đa đã có những lần tình cờ gặp mặt anh chàng Văn Vũ Thần Quang ở những tình huống khiến cô khó chịu với con người này. Tuy nhiên, chính bởi những lần tình cờ ấy khiến Thần Quang nảy sinh tình cảm với Tiểu Đa và khiến cô rung động khi anh thổ lộ tình cảm. Thần Quang làm thế nào để chinh phục được Tiểu Đa bướng bỉnh và vượt qua sáu ngọn núi nhà họ Phạm khi các anh chị của Tiểu Đa phát hiện ra quá khứ "hào hùng" của công tử út nhà Vũ Văn? Còn Tiểu Đa sẽ chinh phục gia đình nhà Thần Quang bởi lần đầu vào bếp ra sao? Liệu xuân về hoa có nở? *** Trang Trang, nữ nhà văn, nhà báo nổi tiếng người Trung Quốc. Trong giới nhà văn nữ, chị là người tiên phong trong việc đề xướng tuyên ngôn "Phụ nữ không thể không hạnh phúc" trong các tác phẩm của mình. Là một trong những tác giả có nhiều tác phẩm nhất của Yueduji, xuất bản 9 bộ tiểu thuyết kinh điển, bộ nào cũng bán chạy. Bảy năm làm nhà báo, bảy năm làm biên tập đã khiến cho tác giả có cái nhìn sâu sắc về nhiều trạng thái hạnh phúc của phụ nữ. Các tác phẩm tiêu biểu: Tiểu thuyết liên tục đứng đầu bảng xếp hạng nổi tiếng của dangdang.com: Từ bỏ em, kiếp sau nhé.  Bộ tiểu thuyết đề tài vượt thời không được độc giả yêu thích nhất: Duyên kỳ ngộ (02 tập). Cuốn tiểu thuyết ấm áp nhất: Phụ nữ thực tế đàn ông phát cuồng. Vĩnh Dạ Nghìn Kế Tương Tư Mùa Tuyết Rơi Gặp Em Dưới Mưa Xuân Mưa Nhỏ Hồng Trần ... *** Câu chuyện được mở đầu bởi sự ra đời của nữ chính - Phạm Tiểu Đa. Cô là con gái út trong nhà có sáu anh chị em, là món quà trời ban cho ông bà Phạm khi hai người đã đến tuổi xế chiều. Vì thế không những được bố mẹ thương yêu mà Tiểu Đa còn được các anh chị của mình che chở hết mực. Có thể nói, tuy là út nhưng cô lại là người có quyền lực nhất trong nhà, là kim bài miễn tử của các anh (Vì sao ư? Rất đơn giản, anh cả cô là một người vô cùng nghiêm khắc, nhưng chỉ đối xử ôn nhu với mỗi cô vì thế cho nên chỉ cần có Tiểu Đa đứng ra thì anh cả sẽ không mắng, không đánh, không la, không chửi…). Từ bé đã được chăm chút từng li từng tí cho nên khi Tiểu Đa lớn, ngay cả việc bạn trai như thế nào cũng do anh chị trong nhà đặt ra tiêu chuẩn. Anh cả thì muốn người bạn trai đó tướng mạo không thể thua anh và 4 anh em khác trong nhà, chị hai thì muốn người con trai đó phải dịu dàng, cẩn thận như mình. Cả hai người tự vẽ ra khuôn mặt của chàng trai, rồi tổng kết các tiêu chuẩn: hình thức đẹp trai, tính tình tốt, gia đình trong sạch, sự nghiệp phải có thành tích, phải hài hước, dí dỏm, phải biết nấu ăn ngon, và điều quan trọng nhất là phải yêu Tiểu Đa, tình cảm ấy không được ít hơn của nhà họ Phạm. Nữ chính của câu chuyện này từ bé luôn có được sự che chở của mọi người. Lúc học đại học, người anh thứ năm của cô là giảng viên trong trường, vì thế cho nên nhất cử nhất động của cô các anh chị đều biết. Khi ra trường đi làm, nơi cô làm cũng do người anh cả nhờ giám đốc quan tâm một chút, còn chị hai làm việc tại ban tuyên truyền thì cứ một mực đưa cô tới đài trong ngày đầu tiên đi làm. Có được công việc này, Tiểu Đa biết là do anh cả, chị hai dùng mối quan hệ để đưa cô vào. Cho nên ngay cả chỗ làm cũng được giám sát gắt gao dưới con mắt của anh chị. Vì thế cô, năm nay đã hơn hai mươi, nhưng vẫn chưa tiếp xúc gần với bất kì bạn khác giới nào ngoài các anh của mình. Sau những việc trên, các bạn đừng vội nghĩ nữ chính yếu đuối hay dựa dẫm vào anh chị, ngược lại Tiểu Đa là người có tính cách rất cá tính và hiệp nghĩa, cô rất ma lanh trong những trò trêu chọc người khác. Nhưng không vô duyên vô cớ mà Tiểu Đa trêu chọc, những người bị cô trêu chọc, đều là người đã tổn thương hoặc gây trở ngại cho Tiểu Đa với bạn cô, hoặc là người mà các anh chị dẫn để xem mắt cô. Nãy giờ hình như nam chính vẫn chưa lên sàn, vì sao, vì sự gắt gao của các anh chị Tiểu Đa quá cao mà mãi nam chính vẫn chưa chịu xuất hiện chứ sao… Lý Hoan - anh được xuất hiện với sự đưa đẩy và dẫn lối của anh ba Phạm Triết Địa. Là đồng nghiệp của Tiểu Đa, trong mắt anh, cô là một người có tính cách rất kì lạ, vì thế anh thích nhất là trêu chọc cô, muốn thấy được sự tức giận, các kiểu trả thù của cô. Nhưng anh hoàn toàn thất vọng vì cô luôn che dấu tính cách ấy rất tốt. Vũ Văn Thần Quang - anh đã gặp cô lần đầu tiên là trong một vườn cây. Thấy một cô gái khóc đến đau lòng, thân hình nhỏ bé co lại, anh đã không kìm được lên tiếng hỏi, không ngờ cô gái nhỏ bé với khuôn mặt đầm đìa nước mắt lại gầm lên với anh chẳng khác nào con sư tử con. Lần thứ hai gặp lại là lúc cô đang tức giận, đá trúng xe anh làm còi báo động hú lên, lần thứ ba thì anh lại thấy cô đang nhảy bốc lửa trên bục cao ở quán bar, lần thứ tư cũng là lúc anh lấy mất nụ hôn đầu của cô. Sau nhiều lần oan gia như thế, trái tim anh không biết từ lúc nào đã luôn có hình bóng cô. Câu chuyện vẫn còn được tiếp tục với các cách theo đuổi của Lý Hoan và Thần Quang, cả hai người họ có thể qua được những đôi mắt giám sát của gia đình họ Phạm không? Cướp lấy được trái tim của Tiểu Đa không? Một chuỗi câu chuyện dở khóc dở cười liên tiếp xảy ra với họ đang chờ bạn khám phá. ---------------------------------------------- Khi tôi đọc câu chuyện này, điều mà tôi ngưỡng mộ không phải là tình cảm nam nữ chính, mà là tình cảm của anh chị em trong nhà. Họ thật sự rất yêu thương Tiểu Đa, có thể một vài lúc cảm thấy họ quá theo chủ kiến của mình, không quan tâm nữ chính, nhưng sau mỗi lần đó, họ đều để tâm đến xem nữ chính như thế nào có buồn không, giận không. Với tôi, trong câu chuyện này đáng đọc nhất chính là tình thân gia đình. Tình cảm của nam nữ chính thật cũng rất sủng, sóng gió không đáng để ảnh hưởng đến. Qua câu chuyện này tôi cảm thấy Tiểu Đa đúng là cô gái hạnh phúc nhất trên đời, có người nhà thương yêu, có người chồng biết nhường nhịn và chia sẻ, có những người bạn tốt luôn bên cạnh cô. Đọc giải trí, nhẹ nhàng thư giãn đầu óc, nó không có tình tiết nào gây cấn cả, chỉ là khi đọc lâu lâu bạn sẽ ngẫu nhiên nở nụ cười vì sự quan tâm, lo lắng thoái quá của các anh chị đối với Tiểu Đa mà thôi. ☺️ #Nguyệt_Phi   Mời các bạn đón đọc Gặp Em Dưới Mưa Xuân của tác giả Trang Trang.