Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lược Sử Cái Chết

Rất nhiều xã hội Phi châu quan niệm rằng có ba thế giới: thế giới của những người còn sống trên mặt đất, thế giới của những người-chết-đang-sống và thế giới của những người chết. Nhiều người, sau khi lìa trần, vẫn chưa hoàn toàn chết vì họ vẫn sống trong ký ức của những người đang sống - họ có thể được tái tạo trong nghệ thuật, được nhắc đến trong các câu chuyện kể, hoặc đơn giản là sống trong tâm trí của một người nào đó. Sau khi người cuối cùng biết về người-chết-đang-sống đó chết đi, họ trở thành những người chết thực sự. Tất nhiên, sẽ có rất nhiều người chết vẫn còn lưu danh lại, nhưng họ cũng không còn là người-chết-đang-sống nữa. Lược sử cái chết là một câu chuyện huyễn tưởng không chỉ gây băn khoăn về ngày tận thế mà còn đặt ra những vẫn đề rất thực và những suy ngẫm rất sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ... - "Một cuốn sách khiến ta không thể dừng mở trang kế tiếp" - Rocky Mountain News. - "Một tiểu thuyết ly kỳ được viết với một trái tim giàu lòng nhân ái" - O, The Oprah Magazine. - "Một tiểu thuyết đầy sức mê hoặc và gợi nhiều suy nghĩ về ký ức của con người, về sự giao thoa giữa những tâm hồn, về cuộc sống sau khi chết, và về hiện tại" - Tucson Citizen. - "Có sức lay động mạnh... Ngay từ chương đầu, cuốn tiểu thuyết đã tạo ra một sức thu hút khác lạ, và chắc chắn nó sẽ còn đọng lại trong lòng độc giả sau khi trang sách cuối cùng khép lại. Là một câu chuyện ngụ ngôn, một câu chuyện cổ, một câu chuyện thần thoại đương đại... Trong lịch sử cái chết, Brokmeier đã đưa ra một cái nhìn giả thuyết về kết thúc của nhân loại... Nếu sự vĩnh hằng tồn tại, thì đây chính là một định nghĩa sắc nét cho thời đại của chúng ta"... - Beacon Journal. - "Không chỉ là một câu chuyện gây băn khoăn về tận cùng của thế giới. Đó là một sự suy ngẫm sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ. Với bối cảnh viễn tưởng ly kỳ và các nhân vật đa diện, Lược sử cái chết không tuân theo các thể văn truyền thống. Tác giả đã rất khôn ngoan "đứng cả hai dòng nước", một bên là dòng tiểu thuyết khoa học giả tưởng và một bên là các truyền thống văn học để tạo nên một tác phẩm độc nhất vô nhị - đầy ám ảnh, gây xáo trộn, và thú vị về mọi mặt." - The Charlotte Pbserver. "Lung linh huyền ảo... Đánh động tâm thức." - The Seatle Times "Brockmeier có văn phong gây ấn tượng sâu sắc, cốt truyện vô cùng độc đáo, các mẩu chuyện trong sách có sức ám ảnh kéo dài phải đến nhiều tuần sau khi đọc xong tác phẩm." - Lexington Herald - Leader (Kentucky) "Một tác phẩm văn chương ngập tràn tưởng tượng... Hãy tưởng tượng một thành phố của những người đã chết. Hãy tưởng tượng một nhà khoa học còn sống bị mắc kẹt lại một mình ở Nam Cực và nhận ra cô có thể là một trong số ít những người còn sót lại trên Trái Đất sau một trận đại dịch. Và rồi hãy tưởng tượng một tiểu thuyết gia đủ sắc sảo để có thể xây một chiếc cầu nối hai thực tại hư cấu khó tưởng đó." - Newsweek "Một cuốn sách khiến ta không thể dừng mở trang kế tiếp" - Rocky Mountain News. "(Brockmeier) không gì hơn là một nhiệt thành thiết tha sống, và những sáng tác tuyệt diệu của ông, những trang sách đầy yêu thương và đáng được yêu thương, là một nguồn năng lượng sống dồi dào đáng kinh ngạc trong một thế giới mệt mỏi và dễ làm con người ta mệt mỏi." - Chicago Tribune "Một tiểu thuyết ly kỳ được viết với một trái tim giàu lòng nhân ái" - O, The Oprah Magazine. "Một tiểu thuyết đầy sức mê hoặc và gợi nhiều suy nghĩ về ký ức của con người, về sự giao thoa giữa những tâm hồn, về cuộc sống sau khi chết, và về hiện tại."  - Tucson Citizen. "Có sức lay động mạnh... Ngay từ chương đầu, cuốn tiểu thuyết đã tạo ra một sức thu hút khác lạ, và chắc chắn nó sẽ còn đọng lại trong lòng độc giả sau khi trang sách cuối cùng khép lại. Là một câu chuyện ngụ ngôn, một câu chuyện cổ, một câu chuyện thần thoại đương đại... Trong Lược sử cái chết, Brockmeier đã đưa ra một cái nhìn giả thuyết về kết thúc của nhân loại... Nếu sự vĩnh hằng tồn tại, thì đây chính là một định nghĩa sắc nét cho thời đại của chúng ta"... - Akron Beacon Journal. "Rất ấn tượng... Không ai có thể tung hứng với lối xử lý tình tiết hài hước, mang đầy tính triết lý và lại gây suy nghĩ như Brockmeier." - The Plain Dealer "Đầy sáng tạo... Lôi cuốn... Trữ tình." - Newsday "Điều đáng sợ về câu chuyện của Brockmeier là tính thuyết phục như thật của tác phẩm. Giống Borges, nhưng thật hơn." - Los Angeles Times Book Review "Không chỉ là một câu chuyện gây băn khoăn về tận cùng của thế giới. Đó là một sự suy ngẫm sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ. Với bối cảnh viễn tưởng ly kỳ và các nhân vật đa diện, Lược sử cái chết không tuân theo các thể văn truyền thống. Tác giả đã rất khôn ngoan "đứng cả hai dòng nước", một bên là dòng tiểu thuyết khoa học giả tưởng và một bên là các truyền thống văn học để tạo nên một tác phẩm độc nhất vô nhị - đầy ám ảnh, gây xáo trộn, và thú vị về mọi mặt." - The Charlotte Observer. "Đầy mê hoặc... Rất lôi cuốn." - USA Today "Kỳ lạ và gần gũi.... Chính không khí truyện và nỗi lòng tha thiết, chân thành mà không phô trương ồn ã của Brockmeier... đã khiến Lược sử cái chết có sức mê hoặc như vậy... Một tác phẩm đẹp, chứa đựng nhiều khám phá." - Salon             Kevin Brockmeier là tác giả của cuốn Sự thật về Celia, Những thứ rơi từ trời, và hai tiểu thuyết cho thiếu nhi là Thành phố của những cái tên và Grooves: Một điều bí mật. Các sáng tác của ông đã xuất hiện trong nhiều ấn phẩm, như: The New Yorker, McSweeney’s, The Georgia Review, Tuyển tập truyện ngắn hay nhất của nước Mỹ, Các tiểu thuyết kinh dị và viễn tưởng hay nhất của năm… và nhiều số phát hành của Hợp tuyển các tác phẩm được trao giải O.Henry. Ông đã được trao tặng Giải thưởng Nelson Algren, Giải thưởng Italo Calvino cho tiểu thuyết ngắn, Học bổng James Michener – Paul Engle, ba lần được trao tặng Giải thưởng O.Henry – một trong số đó là một giải nhất – và Học bổng Tài trợ Nghiên cứu sinh Quốc gia về Nghệ thuật. Ông đã giảng dạy tại Hội thảo Nhà văn bang Iowa và sinh sống tại Little Rock, Arkansas. *** Khi người mù vào đến thành phố, lão kể đã vượt qua một sa mạc cát lún. Lúc đấy ta đã chết, lão kể, nhưng rồi “tách!”, sa mạc lại hiện ra. Lão kể cho bất cứ ai sẵn lòng nghe trong khi đầu gật gù theo tiếng bước chân người qua lại. Những hạt sạn đỏ hung li ti rơi xuống từ bộ râu cằm. Lão kể: Sa mạc hoang vu và cô độc. Nó hướng về lão, rít lên như một con rắn. Lão đã đi bộ ròng rã suốt ngày này qua ngày khác cho đến khi những đụn cát lở ra dưới chân, cồn lên vây lấy lão, đập vào mặt lão. Rồi, mọi thứ đột nhiên trở nên im bặt, và bắt đầu có tiếng đập nhè nhẹ như nhịp tim. Âm thanh đó rất rõ ràng, y hệt nhịp tim trước giờ lão vẫn biết. Chỉ đến lúc đó, lão kể, vào cái khoảnh khắc một triệu hạt cát sắc lẻm như những mũi tên đồng loạt tấn công, lão mới thật sự nhận ra mình đã chết. Jim Singer, chủ cửa hàng sandwich ở khu đài tưởng niệm, kể rằng bác có cảm giác như có kiến bò trên các ngón tay, rồi, bác ngừng thở. “Đó là do tim tôi có vấn đề - bác nhấn giọng trong khi ấn ngón tay cái vào ngực – nên tôi mới nằm liệt giường như vậy.” Tay đã xuôi, mắt đã nhắm, rồi đột nhiên bác mở mắt ra, thấy mình đang ở trên một chiếc tàu lửa, loại tàu chuyên chở trẻ con chạy quanh khu giải trí. Đường ray dẫn đến một khu rừng rậm toàn những cây màu vàng nâu. Hóa ra đó là những con hươu cao cổ, những chiếc cổ dài ngoẳng vươn lên trời như những thân cây. Một ngọn gió nổi lên thổi bay các đốm lông màu trên lưng những con hươu. Những đốm màu lả tả rơi xuống, lửng lơ xung quanh bác, xoay mòng mòng rồi rơi xuống chạm vào đường bánh xe do con tàu để lại. Phải mất một lúc bác mới hiểu ra âm thanh bác nghe thấy không phải là tiếng bánh xe nghiến vào đường sắt. Cô gái hay thích đứng dưới cây dương trong công viên kể: Cô đã chết trong một biển màu sắc các trái sơ ri khô. Nước giúp em nổi được một lúc, cô nói, rồi em nằm ngửa, xoay tròn trong những vòng tròn vô nghĩa và hát đoạn điệp khúc của tất cả những bài hát pop em có thể nhớ ra. Rồi đột nhiên, một tiếng sấm vang lên. Các đám mây mở ra, những ổ bi bắt đầu trút ào xuống xung quanh – phải có đến hàng ngàn hàng vạn ổ. Em cố hết sức nuốt chửng các viên bi nhưng những cành cây dương gãy rơi xuống làm em mắc nghẹn, cô kể. Bị nhồi đầy như một chiếc bao tải, cô từ từ chìm xuống xuyên qua các tầng đại dương. Nhiều đàn cá bơi ngang qua, những chiếc vảy xanh biếc, vàng óng là những điểm sáng rực rỡ duy nhất ánh lên trong làn nước. Rồi cô nghe thấy âm thanh đấy ở mọi nơi xung quanh, âm thanh đó, âm thanh mà những người khác đều nghe thấy, nhịp đập đều đặn của một trái tim khổng lồ. Những câu chuyện được kể lại về khoảnh khắc vượt qua giao lộ sống-chết rất khác nhau, cũng như mười tỉ người trên thế giới này không ai sống một cuộc sống giống ai khác. Chỉ có điều khi kể về cái chết của mình, người ta có khuynh hướng miêu tả chi tiết hơn, tường tận hơn. Rốt cuộc, đâu có bao nhiêu cách: nếu không phải do trái tim thì cái đầu của một người mang người ta vào cõi chết, không ai giống ai. Lev Paley kể lúc đó anh ngồi nhìn các phân tử của mình phân rã ra thành từng mẩu li ti như cẩm thạch, lăn khắp vũ trụ, rồi sau đó bỗng chốc quay trở lại dính lấy nhau. Hanbing Li kể anh thức dậy, thấy mình là một con rệp sống suốt đời trong một trái lê. Graciella Cavazos chỉ kể đoạn cô bắt đầu biến thành tuyết và khi người ta đòi biết chi tiết hơn, Graciella chỉ bẽn lẽn cười. Không bao giờ có hai câu chuyện giống nhau. Tuy vậy, ai cũng kể về một âm thanh giống như tiếng sấm. Một số khăng khăng khẳng định âm thanh đó không bao giờ ngừng, nếu anh tập trung chú ý không rời tai khỏi nó, anh luôn nghe thấy nó lẩn khuất mơ mồ sau mọi tiếng ồn trong thành phố - đằng sau tiếng còi, tiếng phanh xe, tiếng chuông nhà hàng, tiếng lộp cộp của hàng trăm loại gót giày khác nhau bước trên đường phố. Nhiều người tụ tập cùng nhau trong công viên hay trên tầng thượng các tòa nhà cao tầng để lắng nghe. Họ ngồi lặng lẽ, lưng quay vào nhau. Ba-đum. Ba-đum. Ba-đum. Cảm giác giống như cố gắng nhìn theo bóng chim bay lên, nhòa đi và mờ dần thành một chấm nhỏ. Luka Sims đã tìm thấy một chiếc máy roneo ngay tuần đầu tiên anh đến sống ở thành phố và quyết định sẽ sử dụng nó để in tạp chí. Mỗi buổi sáng, anh đứng bên ngoài tiệm cà phê Đường Bờ Sông để phát các bản in tự chế. Có lần tờ Tin tức & Nghiên cứu L. Sims của anh, hay Báo Sims như mọi người vẫn gọi, có bàn về thứ âm thanh này. Không đến hai mươi phần trăm những thứ được Luka phỏng vấn cho biết sau khi chết, họ vẫn có thể nghe thấy nó, nhưng hầu như tất cả thảy mọi người đều đồng ý: nó nghe giống như tiếng tim đập hơn là bất cứ âm thanh nào khác. Vậy vấn đề là: nó từ đâu đến? Không thể là nhịp đập của chính trái tim họ. Vì tim họ không đập nửa. Mahmoud Qassim thì tin rằng đó không phải là âm thanh của trái tim lão đập mà có thể là âm thanh còn lưu lại trong ký ức, âm thanh mà dù không thật sự để ý lão cũng đã nghe trong suốt một thời gian dài nên âm hưởng của nó vẫn còn lưu lại trong tai lão. Người phụ nữ bán vòng tay bên bờ sông lại nói đó là nhịp đập từ tâm quả đất, cái nơi chói lóa, sục sôi chị đã vượt qua trên đường vào thành phố. Riêng bản thân người viết”, bài báo kết luận, “tán thành ý kiến của đa số. Mời các bạn đón đọc Lược Sử Cái Chết của tác giả Kevin Brockmeier & Mai Huyền Chi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lưỡi - Jo Kyung-ran
 Jo Kyung Ran đã viết nên một tác phẩm mang nhiều sắc thái của tình yêu có lúc yên bình khi lại vô cùng dữ dội, thông qua "lưỡi" - một hình ảnh trần trụi khiến người ta phải tò mò. Jo Kyung Ran viết Lưỡi xoay quanh một đầu bếp người Hàn chuyên ẩm thực Ý. Mối tình 7 năm của cô vừa kết thúc, cô dần mất niềm đam mê cho nấu ăn và mất cả vị giác. Tác phẩm như một làn gió mới trong nền văn học Hàn hiện đại khi nó không đặt nặng yếu tố văn hóa quốc gia như thường thấy. Sách viết theo ngôi thứ nhất, với nhân vật chính kể về nỗ lực cô tiếp tục sống sau tan vỡ tình cảm, niềm đam mê ẩm thực, ký ức tuổi thơ và về cuộc sống đời thường của cô đầu bếp trẻ. Dù không yêu thích nấu ăn nhưng có lẽ bạn vẫn sẽ bị  Lưỡi cuốn hút bởi những khía canh khác tình cảm, gia đình, xã hội… được Jo Kyung Ran thể hiện nhiều trong cuốn sách. Tiểu thuyết Lưỡi vượt ra khỏi ranh giới Hàn Quốc, được cộng đồng độc giả Anh ngữ đánh giá cao. Những câu văn Jo Kyung Ran miêu tả thực phẩm, quá trình chế biến, phục vụ và thưởng thức đồ ăn thật sự độc đáo, chúng được tác giả sử dụng như ẩn dụ cho tình yêu và đôi lúc là cả tình dục. Nét miêu tả của tác giả biến hóa vô cùng đa dạng từ gợi hình gợi cảm của một trái táo tầm thường: "Táo có hương vị của tự nhiên , của huyền bí, của hình dáng những đám mây và tiếng gió luồn qua kẽ lá, nhưng chính các tăng lữ lại cấm người ta ăn táo. Tất cả là do vị ngọt ngập đầy khoang miệng khi vừa bập răng vào". Nhưng ngay lập tức lại khiến người đọc cảm thấy rợn người với cách người ta làm ra một món ăn xa xỉ như gan ngỗng: "Để có gan ngỗng béo, người ta gây sốc điện trên não bộ con ngỗng, thậm chí khoét mắt nó, vậy là con vật chẳng bận tâm điều gì khác ngoài thao tác ăn cặm cụi như máy bất chấp đói no cho đến khi béo xù đủ đem mổ thịt". Nữ nhà văn cũng nhiều lần đưa đầu mối về nội dung đoạn kết xuyên suốt tập truyện để người đọc giải mã nhưng cho đến chương cuối vẫn là một kết cục bất ngờ. Jo giữ vững văn phong giàu tính biểu tượng của mình như một tuyên ngôn bất hủ về tình yêu: “Đem lòng yêu cũng giống như xăm chữ lên mu bàn tay. Dù cố sức tẩy xóa thì về sau vẫn còn dấu tích mờ. Bởi vậy cậu phải chắc chắn rằng cậu thực sự muốn thế. Phải chắc chắn rằng cậu đã suy nghĩ kỹ càng”. Tình yêu còn được Jo lồng ghép vào những món ăn qua cách miêu tả gia vị cũng giàu hình tượng càm cảm xúc. Với cô, lá húng quế là biểu tượng của nỗi buồn, dù điều này có thể khiến các ẩm thực gia phản đối.  Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn 45 tuổi đổi giọng văn liên tục để tách biệt suy nghĩ của cô về tình yêu và cuộc sống. Tác giả đưa vào truyện một vụ tự tử - một cái chết buồn – chi tiết hay được Jo đưa vào truyện của mình. Cô xuất sắc lựa chọn câu chữ thể hiện rõ nét buồn và bất ổn trong tính cách nhân vật chính, qua việc cô đầu bếp xui xẻo thay đổi tâm trạng và nơi ở liên tục. Câu chuyện nhiều tình tiết kết nối, nút thắt, là kiệt tác viết về một tâm hồn trẻ tan vỡ, mất định hướng trước cuộc sống. Nhưng đôi khi người đọc lại cảm thấy không hài lòng về lối viết văn tự sự chắp nối nhiều câu chuyện của tác giả. Dù cho những ai yêu thích văn chương Hàn đều nhận ra đó là phong cách viết rất được ưa chuộng nhất trong thể loại văn viễn tưởng tại quốc gia này. Và còn một điều lạ lùng nhất khiến nhiều người đọc thắc mắc sau khi khép cuốn sách lại đó chính là các nhân vật trong Lưỡi ăn uống với tốc độ tia chớp – điều được Jo đưa vào tác phẩm để nhấn mạnh tới chủ đề nỗi ám ảnh. *** Jo Kyung Ran sinh năm 1969 tại Hàn Quốc, tốt nghiệp khoa Sáng tác Học viện Nghệ thuật Seoul, từng tham gia Chương trình Viết văn Quốc tế của Đại học Iowa. Từ khi ra mắt tác phẩm đầu tay vào năm 28 tuổi đến nay, cô đã giành được nhiều giải thưởng văn học, đáng kể nhất là Giải Văn học Dong-in, Giải Nghệ sĩ Trẻ Ngày nay của Bộ Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc… *** Đồng tử to, ánh đen và nâu nhạt. Đôi mắt này từng lấp lánh vì ý chí mạnh mẽ, từng lung linh vì khoái cảm mãnh liệt. Tôi không thể chịu đựng được chúng – đôi mắt đẫm lệ đang phản chiếu dưới đáy nồi đồng, đôi mắt mong chờ một điểu gì từ ai đó mặc dù biết rõ kết quả chỉ là thất vọng mà thôi. Đừng khóc nào, mình không thể khóc được. Tôi nhắm mắt, rồi lại mở ra. Giờ thì ổn rồi. Tôi lật nghiêng cái nồi và treo nó lên móc. Thật may, nước mắt không ứa ra. Tôi chuyển hướng đến cái giá xoay chất đầy dầu mỡ, chọn lấy một chai dầu ô liu nguyên chất và quay lại với chín học viên đã tụ tập ở đây từ bảy giờ tối, trong những trang phục nhăn nhúm lúc cuối ngày. Chúng tôi đang tập trung ở đây – Bếp Won – giữa lò nướng pizza bằng đá sứ, tủ lạnh, máy rửa bát đĩa, máy pha cà phê, máy xay, máy trộn, máy nghiền thực phẩm, nồi cơm điện, bếp ga. Trên tường, từ cao xuống thấp là nồi đồng và chảo thép không gỉ treo lẩn lượt theo cỡ: to-vừa-nhỏ. Ngoài ra còn ly cốc tách, quạt thông gió, máy nghiền-nén thức ăn thừa, vỉ điện, chạn, chụp hút khói, lò hâm nóng, bàn bếp, ghế đẩu, và một nồi nước sôi sùng sục. Bà tôi luôn kê một chiếc bàn lớn trong bếp. Cả nhà hay quây quần quanh chiếc bàn gỗ hình chữ nhật đơn giản và mộc mạc như bàn làm việc ấy đến tận khuya mới giải tán. Sau này chuyển lên thành phố ở, Bà vẫn giữ cái bàn, giữa bàn thường đặt giỏ tre đựng hoa quả hoặc rau. Cứ bày nguyên liệu nấu ăn trong tầm mắt như thế, Bà sẽ có hứng chế biến món mới mỗi lần đi ngang qua bàn. Thi thoảng trong giỏ lại xuất hiện khoai lang hoặc khoai tây luộc còn nóng, bốc hơi nghi ngút. Bà là đẩu bếp cừ nhất mà tôi từng biết, nhưng với những nguyên liệu như khoai lang, khoai tây hay bí ngô, Bà lại không làm gì cầu kỳ hơn là luộc hoặc nướng. Chỉ cần rải phô mai lên khi còn nóng hoặc thả vào nước xuýt là có ngay món xúp hay cháo đặc, nhưng Bà không làm thế. Bà nói những món này nên ăn theo cách chân chất, vì mình đang ăn tinh hoa của đất đai. Khi tôi nhận ra câu nói ấy tượng trưng cho đời Bà, cho cuộc sống giản dị và đẹp đẽ của Bà, thì Bà không còn ở bên chúng tôi nữa. Nắng sớm lăn tăn trên những bông hoa lê và hoa táo bên ngoài, chảy vào bếp qua ô cửa trổ hướng Đông, Bà che mắt cho khỏi chói và xì xụp món xúp cải dại. Bíp. Âm báo hẹn giờ lò nướng. Tôi rải khoai tây phơi khô, nấm xắt lát dày, lá húng quế và phô mai mozzarella lên khay bột nhào, xong rưới hai thìa dầu ô liu và đút cả vào lò đã bật nóng. Nướng mười lăm phút để phô mai chảy ra và vỏ bột sém màu bắt mắt, thế là có món chính cho buổi hôm nay, pizza-khoai-tây-khô-và-nấm. Hôm nay tôi không nghĩ mình có thể làm mấy món ân vặt để chia cho các học viên hoặc chuyện phiếm về thời tiết trong lúc đợi bánh chín như mọi ngày. Thay vào đó, tôi hướng dẫn họ cách làm khoai tây khô bằng lò sấy ở nhà. Khoai tây phơi khô tự nhiên có hương vị đậm đà hơn khoai tây tươi, nhưng lại là nguyên liệu chuyên dụng đắt đỏ. Vẫn còn mười phút. Tôi thò tay vào cái giỏ trước mặt và nhặt lấy thứ chạm đến đầu tiên. Một quả táo. – Đa dạng và ngẫu hứng, là hai điều tối quan trọng cẩn ghi nhớ trong khi nấu nướng. Mọi người đổ dồn mắt vào quả táo tôi đang giơ ngang tầm mắt. Theo giới tăng lữ thời Trung cổ, loại quả này chứa đựng tâm ý của đấng Sáng tạo. Táo có hương vị của tự nhiên, của huyền bí, của hình dáng những đám mây và của tiếng gió luồn qua kẽ lá, nhưng chính các tăng lữ lại cấm người ta ăn táo. Tất cả là do vị ngọt ngập đầy khoang miệng khi vừa bập răng vào. Họ tin rằng vị ngọt đó là một sự cám dỗ, khiến con người chểnh mảng với lời răn dạy của Thượng đế. Rồi khi vị ngọt qua đi, thì nơi đầu lưỡi còn lại toàn chua với gắt. Các tăng lữ cho rằng đó là hương vị của độc dược, của quỷ dữ. Vị ngọt, giôn giốt, chua gắt của táo chính là hương vị làm Eva lạc lối. – Nếu khống thích nấm, các bạn có thể thay bằng táo. Xắt nó thành những lát mỏng cỡ năm mi-li-mét và nếm trải một sự khác biệt. Khác hắn với vị dìu dịu của nấm, táo hơi ngọt, nhưng độ giòn của nó sẽ khiến bạn thấy mới mẻ. Giá tôi đang cẩm cà tím chứ không phải táo. Tôi chưa bao giờ làm pizza mà lại dùng táo thay cho nấm. Dối trá! Điều tôi trông chờ ở anh hóa ra lại là sự dối trá ư? Vị thứ nhất của táo, lời dụ dỗ của con rắn, ngọt ngào như mật. Vị thứ hai, tư vị khi bị trục xuất khỏi vườn Địa đàng, thì chua. Khác với trái cây thông thường, táo chín sẽ giòn lên chứ không mềm đi. Tôi rút con dao nhỏ gọt hoa quả từ giá dao mười hai chiếc. Thay vì bổ quả táo làm đôi, tôi bập chéo dao theo hình chữ V, khoét một miếng và thảy nó vào miệng.  Ngày trước, trong căn bếp đầu tiên của mình, tôi đã có đủ mọi thứ, giống như Bà. Nắng, chậu cây, đồng hồ, báo, thư, hoa quả, rau, sữa, phô mai, bánh mì, bơ, các hũ thủy tinh lớn đựng rượu trái cây, các hũ nhỏ hơn đựng gia vị, mùi cơm đẩm ấm và hương thảo ngan ngát. Có cả anh bên tôi. Để mở trường nấu ăn, chúng tôi bắt đầu tìm một nơi khác có chỗ cho căn bếp rộng hơn. Với các cửa sổ lớn, như yêu cầu của tôi. Tôi không ngó ngàng tới dạng tầng hầm dù chúng thường rộng rãi và giá thuê rẻ như cho. Ý thích về cửa sổ có lẽ bắt nguồn từ những ký ức vể căn bếp của Bà. Tôi cho rẳng mọi thứ vào nhà qua đường bếp, vì thế chúng tôi cần những khung cửa cao đảm bảo được nguồn sáng tốt. Đi du lịch tôi cũng chỉ đến những quán hàng quay mặt ra phố. Chính anh đã tìm được ngôi nhà hai tầng nhiều cửa sổ này. Tôi vô cùng phấn khích, trước cả khi cải tạo xong căn bếp để làm cho nó rộng hơn. ... Mời các bạn đón đọc Lưỡi của tác giả Jo Kyung-ran.
Lâu Đài
Frank Kafka (3/7/1883 – 3/6/1924), sinh ra trong một gia đình Do Thái trung lưu ở Prague, Bohemia (nay thuộc cộng hòa Czech), viết bằng tiếng Đức. Tác phẩm của ông, nhiều tác phẩm chưa hoàn thành và phần lớn xuất bản sau khi ông mất – đã trở thành những thành tựu lớn, có tầm ảnh hưởng bậc nhất của văn học phương Tây. Các tác phẩm chính: tiểu thuyết Vụ án (1925), Lâu đài (1926), Nước Mỹ (1927) và nhiều truyện ngắn. *** Tiểu thuyết kể về một người làm đạc điền đến lâu đài của bá tước West West để tìm việc là K., anh được thông báo là chuẩn bị nhận việc, và chức sắc trong vùng là Klamm còn viết thư động viên K. làm việc. Tuy có quen một số người như Barnabás , Olga, Frida, nhưng K. cũng không sao gặp được nhà chức trách để xem kết quả tuyển dụng. * K. đành phải chờ và sống mòn mỏi , kiệt sức trong cảnh lo âu chờ đợi. K. sống trong một thế giới có thực mà cứ như là ảo, anh nhìn thấy Lâu đài, nhưng không sao trực tiếp gặp được Klamm cũng như chức sắc cao nhất trong vùng. Tiểu thuyết "Lâu đài" là hình ảnh huyền thoại về một tổ chức quyền lực quan liêu với những sợi dây vô hình đã trói buộc cuộc đời của từng con người. Thế giới của Lâu đài là thế giới của mê cung, mang sức mạnh siêu nhiên. Con đường dẫn K vào Lâu đài là một tiểu mê cung. Ngay từ đầu, K đã muốn đi vào nhưng con đường rất dài và nó không dẫn chàng đến Lâu đài. Khi đến gần, dường như cố ý, nó lại vòng sang lối khác. Nhìn từ xa, K có thể thấy Lâu đài, song chàng không thể và vĩnh viễn không bao giờ đến được Cùng với con đường, hình ảnh Lâu đài thấp thoáng hiện lên trái với logic thông thường. Lâu đài không có vẻ cổ kính, tráng lệ mà chỉ là những quần thể nhà hợp thành, không ai biết đó là Lâu đài. Có một tháp chuông nhưng không thể nhận ra đó là tháp chuông ở nhà thờ hay của nhà ở. Con quạ xuất hiện báo hiệu sự chết chóc. Đó là quan sát từ xa. Còn nhìn gần, "Lâu đài này trong thực tế chỉ là một thị trấn thảm hại". Tiếng chuông nghe ma quái "Đổ từng hồi trầm ấm vang lên một cách vui vẻ, tiếng chuông như đe dọa vì nó cũng vang lên đau đớn". Sau đó là những tiếng chuông yếu ớt vang lên "lay lắt". Bộ máy hành chính của Lâu đài cũng là một thứ mê cung. Lâu đài thông qua những mắt xích vô tận các viên chức, thư ký, liên lạc đều nhằm đích là chống lại K. Ngẫu nhiên, Lâu đài viết thư nhận K làm đạc điền, rồi có thư khen thưởng K về công việc tuy thật ra K chưa hề biết công việc đạc điền. Qua những cuộc tiếp xúc của K với nhân viên Lâu đài, ta thấy K bị lừa. Viên trưởng thôn đã nói trắng ra: "Những cuộc tiếp xúc ấy chỉ là giả tạo, nhưng vì thiếu hiểu biết ông lại tưởng thật". K chỉ còn biết tìm đến chánh thanh tra Klamm để tìm hiểu thực hư. Song, Klamm là một chánh thanh tra quan liêu, không thèm nói chuyện với bất cứ ai trong làng, chưa một ai thật sự biết mặt y, bởi Klamm luôn thay đổi hình dạng, bí hiểm. Vì vậy, K cố biết sự thật về Lâu đài, nhưng càng theo đuổi mục đích này, anh lại càng xa nó hơn. Lâu đài là một mê cung của thế giới hành chính quyền lực vô hình. Nó cũng giống như mê cung luật pháp trong Vụ án: không thể tiếp cận, không thể tìm gặp, nó tồn tại trong cụ thể; khắp mọi nơi đều có nó mà vẫn như không có nó. *** Khi K. đến nơi thì đêm đã khuya. Ngôi làng yên nghỉ dưới lớp tuyết dày. Sương mù và bóng tối bao phủ, không thể nhìn thấy ngọn đồi có thành lũy và tòa Lâu đài lớn, dù chỉ là một ít ánh sáng mờ nhạt nhất. K. đứng hồi lâu trên chiếc cầu gỗ dẫn từ đường quốc lộ vào làng và nhìn vào khoảng không. Sau đó chàng đi tìm nơi nghỉ. Trong quán trọ người ta vẫn còn thức. Không có phòng cho thuê, nhưng ông khách đến muộn này đã làm cho người chủ quán bị bất ngờ và bối rối, anh ta đề nghị K. ngủ trên đệm rơm trong quầy uống. K. đã đồng ý. Một vài người nông dân vẫn còn ngồi lom khom bên cốc bia, nhưng chàng không muốn bắt chuyện với ai cả. Chàng mang đệm rơm xuống nằm cạnh lò sưởi. Quán trọ ấm áp, những người nông dân ngồi im lặng. K. quan sát họ một lúc bằng đôi mắt mệt mỏi rồi chàng ngủ thiếp đi. Nhưng chẳng mấy chốc người ta đã đánh thức chàng dậy. Một gã trẻ tuổi mặc quần áo như người thành phố, có khuôn mặt nghệ sĩ, - mắt ti hí, lông mày rậm, - đang đứng bên chàng cùng với chủ quán. Những người nông dân vẫn chưa về, một số quay ghế lại để nhìn và nghe cho rõ hơn. Gã trẻ tuổi xin lỗi K. một cách lịch sự vì đã đánh thức chàng dậy rồi tự giới thiệu mình là con trai quan phòng thành. Gã nói: - Cái làng này là của Lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây cũng đều như là sông hoặc nghỉ đêm trong Lâu đài. phải được phép của bá tước. Ngài không có giấy tờ gì, chí ít thì ngài đã không cho chúng tôi xem. K. chống hai tay ngồi dậy, vuốt lại tóc, nhìn mọi người, hỏi: - Tôi lạc vào làng nào thế này? Chẳng lẽ ở đây có Lâu đài à? - Có chớ! - gã trẻ tuổi kiên nhẫn trả lời, và K. thấy một vài người lắc đầu. - Lâu đài của bá tước West West. - Phải có giấy phép thì mới được nghỉ đêm tại đây à? - K. hỏi như thể muốn tin chắc điều mình vừa nghe là không phải ở trong mơ. - Phải có giấy phép. - có tiếng đáp, và như để cợt nhạo K., gã trẻ tuổi dang cánh tay về phía chủ quán và những người khách: - Hay là không cần giấy phép nhỉ? - Vậy thì tôi đi xin phép. - K. vừa ngáp vừa nói, rồi hất chiếc chăn khỏi người như thể chàng muốn ngồi dậy. ... Mời các bạn đón đọc Lâu Đài của tác giả Franz Kafka & Trương Đăng Dung (dịch).
Hiệu Hạnh Phúc Các Bà - Emile Zola
Tác giả được xem như sáng lập và nhà lý luận của chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Pháp, nhưng ông đã trờ thành nhà văn lớn chính lại nhờ ông đã vượt lên trên những nguyên lý của chủ nghĩa tự nhiên để tiến gần đến chủ nghĩa hiện thực. Với một số điểm cách tân so với chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển của Banzắc và Xtăngđan và mở ra thời kỳ của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Thường được biết đến với tên Émile Zola, là một nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp trong thế kỉ 19, người được coi là nhà văn tiên phong của chủ nghĩa tự nhiên (naturalism). Bên cạnh những tiểu thuyết nổi tiếng, Zola còn được biết tới như là một trong những nhân vật quan trọng dẫn tới việc xét xử lại Vụ Dreyfus. Sách của ông đa phần đều thuộc loại ăn khách. “Hiệu Hạnh phúc các bà" không trở thành cái gì nặng nề quá quắt như ở một số tác phẩm khác của Émile Zola, nó là nền tảng cho hai cuộc đấu tranh gay gắt và căng thẳng - Cuộc đấu tranh giữa buôn bán nhỏ và buôn bán lớn; cuộc đấu tranh nội bộ giữa các nhân viên bán hàng thể hiện cái học thuyết đấu tranh sinh tồn của của Charles Darwin. *** Denise cùng hai em trai xuống tàu Cherbourg ở ga Saint Lazare, đi bộ sau một đêm ngồi ghế cứng trên một toa xe hạng ba. Nàng dắt tay Pépé, Jean đi theo sau, cả ba mỏi nhừ vì chuyến đi, kinh hoàng và lạc lõng giữa Paris mênh mông, hếch mũi lên như các nhà, ở mỗi ngã tư lại hỏi thăm về phố La Michodière, nơi có nhà ông chú Baudu. Nhưng cuối cùng, khi tới quảng trường Gaillon, cô gái đột ngột dừng lại ngỡ ngàng. - Ôi! - Cô nói - Jean ơi, trông kìa! Và họ đứng sững, siết chặt lấy nhau cả ba đều mặc đồ đen đã cũ vì sắp mãn tang bố. Cô gái, mảnh khảnh với tuổi hai mươi, vẻ con nhà nghèo, tay xách một gói nhẹ; còn phía bên kia thì đứa em nhỏ lên năm, níu lấy tay, sau lưng là thằng anh lớn, mười sáu tuổi, vênh vênh, phơi phới, đứng thõng hai tay. - Chà, tuyệt, - Sau một phút im lặng cô nói - một cửa hàng như thế chứ! Đó là, ở góc phố La Michodière và phố Neuve Saint Augustin, một cửa hiệu tân phẩm, hàng bày nổi bật lên những màu rực rỡ trong ánh ngày tháng mười dịu nhạt. Chuông nhà thờ Saint Roch điểm tám giờ, trên bờ hè chỉ có dân Paris dậy sớm, những nhân viên tới sở và những bà nội trợ chạy các cửa hàng. Trước cửa hiệu, hai viên thư ký bán hàng len trên một chiếc thang đôi, sắp treo xong những hàng len, còn trong một tủ kính phố Neuve Saint Augustin thì một viên thư ký khác, ngồi xổm và quay lưng đang thận trọng xếp nếp một tấm lụa xanh da trời. Trong cửa hiệu còn vắng khách mà nhân viên, thì mới đến lác đác, râm ran như một tổ ong thức dậy. - Ui chao! - Jean nói - Nó đánh bạt Valognes... Hiệu của chị chẳng đẹp đến thế. Denise lắc đầu. Cô đã hai năm làm việc ở đó, nhà Comai, tay bán tân phẩm số một thành phố; thế mà cửa hiệu này, cô bắt gặp đột ngột, nó thật là đổ sộ đối với cô, khiến cô hào hứng, xúc động, chăm chú, quên hết mọi sự. Trên vạt tường cách ngang nhìn ra quảng trường Gaillon, chiếc cửa ra vào, toàn bằng gương, cao tới tầng một, giữa những trang trí phức tạp, mạ vàng khắp lượt. Hai nhân vật biểu tượng, hai người đàn bà tươi cười, hở vú và ưỡn ra, trương lên tấm biển: Hiệu hạnh phúc các bà. Rồi những tủ kính chạy dài, suốt dọc phố La Michodière và phố Neuve Saint Augustin, ngoài ngôi nhà ở góc, chúng choán bốn ngôi nhà khác, hai bên phải, hai bên trái, gần đây mới mua và được tu sửa. Cả một cuộc triển khai dường như vô tận, mất hút theo đường viễn thị, với những hàng bầy ở tầng dưới và những tấm gương không tráng ở tầng trên, qua đó người ta nhìn thấy cả cuộc sống bên trong của các quầy hàng. Ở phía trên, một cô gái, mặc đồ lụa, gọt một chiếc bút chì trong khi hai cô khác, gần đấy, mở ra những chiếc măng-tô nhung. ... Mời các bạn đón đọc Hiệu Hạnh Phúc Các Bà của tác giả Emile Zola.
Đợi Chờ Ký Ức... - Born
Born –tác giả của "Sẽ để em yêu anh lần nữa" đã trở lại cùng cuốn tiểu thuyết mới nhất mang tên "Đợi chờ ký ức". Là tác giả từng gây nên cơn sốt trong văn học mạng, Born tiếp tục tung ra cuốn tiểu thuyết tiếp theo cũng gây nên làn sóng chấn động không kém với độc giả trẻ Việt Nam. Tiểu thuyết Đợi chờ ký ức lần này tiếp tục khai thác đề tài tình yêu, tuy nhiên là một câu chuyện éo le, đẹp nhưng cũng mang một nỗi buồn phảng phất. "Người ta nói, trên đời này thứ bền vững nhất, khó quên lãng nhất chính là ký ức. Dù là ký ức hạnh phúc hay đau thương, nó đều ghi khắc vào trong tâm trí ta, mãi mãi không rời. Vậy mà ký ức của em lại như một sợi dây mong manh, dễ dàng bị đứt lìa, rồi chìm vào quên lãng. Em thường hỏi tại sao? Nhưng trả lời em chỉ là bóng tối của sự tìm kiếm. Có phải bởi vì những ký ức bị quên lãng kia tràn ngập tình yêu của em dành cho anh, tràn ngập sự nhớ nhung và đau khổ. Cho nên em chọn cách quên lãng. Nếu ký ức của em là sợi dây mong manh, vậy thì ký ức của anh là một sợi tơ dài và dai. Nó không phai tàn theo năm tháng, cũng không dễ dàng bị đứt lìa. Bởi vì không lúc nào anh không nhớ đến em. Nỗi nhớ em chiếm trọn tâm trí anh, tình yêu dành cho em chứa đầy trong tim anh, khiến anh đau nhức từng đêm từng đêm. Nước mắt lăn dài trên mặt, rơi vào miệng, anh mới hay, thì ra tình yêu không chỉ có vị ngọt của hạnh phúc mà còn có sự mặn đắng của khổ đau…" Với mạch cảm xúc ấy, câu chuyện là một nỗi đau rất thật, nỗi đau khi tình yêu bị lãng quên, và người còn lại trở thành những ký ức mơ hồ. Viết bằng con mắt thấu hiểu tâm lý người trẻ, Born đã thổi vào cả câu chuyện một nỗi buồn kỳ dị. Tình yêu giữa hai con người vốn lung linh đầy màu sắc, bỗng chốc trở thành những cơn gió mong manh chỉ vụt mất tan. Nhưng cũng vì thế, người đọc mới có thể thấy được sự kỳ diệu của tình yêu, sự mạnh mẽ của trái tim khi yêu và những điều không ai có thể ngờ tới mà nó mang lại. *** Người ta nói, trên đời này thứ bền vững nhất, khó bị quên lãng nhất chính là ký ức. Dù ký ức hạnh phúc hay là những ký ức đau thương nhất. Nó đều ghi khắc vào trong tâm trí ta, mãi mãi không rời. Vậy mà ký ức của em lại như một sợi dây mong manh, dễ dàng bị đứt lìa. Rồi chìm vào quên lãng. Em thường hỏi tại sao? Nhưng trả lời em chỉ là bóng tối của sự tìm kiếm. Có phải bởi vì những ký ức bị quên lãng kia tràn ngập tình yêu của em dành cho anh, tràn ngập sự nhớ nhung và đau khổ. Cho nên em chọn cách quên lãng. Nếu ký ức của em là sợi dây mong manh, vậy thì ký ức của anh là một sợi tơ dài và dai. Nó không phai tàn theo năm tháng, cũng không dễ dàng bị đứt lìa. Bởi vì không lúc nào anh không nhớ đến em. Nỗi nhớ em chiếm trọn tâm trí anh, tình yêu dành cho em chứa đầy trong tim anh, khiến anh đau nhức từng đêm từng đêm. Nước mắt lăn dài trên mặt rơi vào miệng, anh mới hay thì ra tình yêu không chỉ có vị ngọt của hạnh phúc mà còn có sự mặn đắng của khổ đau. ------------------------------------------------------ Nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời Anh bỗng thấy tim mình đau nhói Bởi vì anh nhớ em Nhớ người đã làm lòng anh tan nát Nhưng sao anh vẫn yêu em Người con gái đã từng làm anh hạnh phúc Đã tạo cho anh sự ấm áp. Nhưng rồi em lại nhẫn tâm đem nó đi. Yêu em, nhớ em, muốn gặp em Nhưng anh lại sợ mình không chịu nổi đau đớn này. Đành chôn chặt em vào trong trái tim Anh chưa từng quên phút giây bên em Giọng nói, ánh mắt, nụ cười của em Anh chưa bao giờ quên Bây giờ em đã lựa chọn bên người khác Anh chỉ có thể một mình gặm nhắm nỗi đau này. Chỉ muốn hét lên với em rằng. Anh yêu em, mãi mãi yêu em. Anh sẽ chờ em Chờ em quay về bên anh. Trong quán bar, nữ ca sĩ có chất giọng trầm buồn, cất lên những điệu nhạc sâu lắng khiến cho tất cả mọi người trong quán bar đều im lặng thưởng thức. Một vài cô gái mẫn cảm đã bật khóc sau khi nghe bài hát. ... Mời các bạn đón đọc Đợi Chờ Ký Ức... của tác giả Born.