Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát

Sáu triệu bản bán ra trên toàn thế giới 58 tuần trong danh sách bán chạy của New York Times Dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019 Trong nhiều năm, những tin đồn về "Cô gái đầm lầy" đã ám ảnh Barkley Cove, một thị trấn yên tĩnh trên bờ biển Bắc Carolina. Vì vậy, khi nơi này rúng động với cái chết đầy bí ẩn của Chase Andrew, người dân địa phương ngay lập tức đổ dồn nghi ngờ vào cô. Nhưng Kya Clark – cô gái hoang dã ấy có phải là thủ phạm? Thông minh và nhạy cảm, cô đã sống sót sau nhiều năm cô đơn trong đầm lầy, trú ẩn trong lòng mẹ thiên nhiên, kết bạn với mòng biển và học những bài học đắt giá trên bờ cát. Khi trái tim tuổi mới lớn mở ra, cô cũng chạm vào yêu thương với hai chàng trai, bắt đầu một cuộc sống mới cho đến khi điều bất ngờ xảy đến… “Một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên với một cú ngoặt chết người.” — REFINERY29 “Đầy chất thơ… Sức hấp dẫn của cuốn sách đến từ sự liên kết sâu sắc giữa Kya với vùng đất đã là nhà cô, và với mọi sinh vật của vùng đất đó.” — BOOKLIST *** Cuốn sách "Xa ngoài kia nơi loài tôm hát" của Delia Owens là một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên đẹp đẽ và đau đớn. Cuốn sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát (Tên gốc: Where the Crawdads Sing) lấy bối cảnh những năm 1950 về cô gái trẻ Kya Clark ở Bắc Caroline, nước Mỹ. Kya được biết với cái tên "Cô gái đầm lầy" bởi cô sống một mình giữa thiên nhiên, chỉ kết nối với một vài người. Nhưng khi một vụ án mạng xảy ra, tất cả đổ dồn vào cô bé hoang dã và đơn độc ấy. Lấy vụ án làm trung tâm cuốn sách, tác giả Delia Owens dẫn dắt người đọc khám phá vùng ngập nước hoang sơ và vắng vẻ của bờ Bắc Carolina qua đôi mắt của một đứa trẻ bị bỏ rơi. Đây là tiểu thuyết đầu tay của Delia Owens, được xuất bản lần đầu năm 2018, nhưng đã nhanh chóng chiếm được sự yêu mến của đông đảo độc giả. Cuốn sách đạt được 6 triệu bản bán ra trên thế giới, liên tục đứng trong danh sách bán chạy của New York Times suốt 58 tuần và dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019. Trên Goodreads, cuốn sách nhận được gần một triệu đánh giá khi 88% độc giả nói rằng mình yêu thích cuốn sách. Trên Amazon, tác phẩm của Delia Owens cũng nhận được hơn 111.000 đánh giá, trong đó có hơn 86.000 đánh giá 5 sao. Delia Owens sinh năm 1949, là tác giả, nhà động vật học người Mỹ. Bên cạnh cuốn tiểu thuyết Xa ngoài kia nơi loài tôm hát, bà còn cùng chồng cũ viết ba cuốn sách về thế giới hoang dã tại châu Phi. Tại Việt Nam, Xa ngoài kia nơi loài tôm hát được dịch giả Trương Hoàng Uyên Phương chuyển ngữ. Theo cô, việc chuyển ngữ tựa đề của cuốn sách là một thách thức lớn, khó nhất là làm sao để người đọc hình dung được một không gian hoang vu và xa vắng, văng vẳng âm thanh rất nguyên sơ của các loài hoang dã. Cuốn sách được viết bằng thứ văn phong đặc biệt, đầy sức sống và hoang dại như tự nhiên, nhưng cũng đầy chất thơ và có sức gợi mãnh liệt. Từ chính nội dung tuyệt đẹp đó, tên sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát đã được ra đời. Dịch giả Uyên Phương cũng đánh giá cuốn sách nổi bật nhất với hai điểm: Cuộc sống khắc nghiệt mà cũng đầy chất thơ của Kya ở đầm lầy và bí ẩn vụ án mạng. Vì Kya gần như phải đơn độc sinh tồn nơi hoang dã, tự nhiên đã trở thành người bạn, người mẹ, người thầy của cô bé. Đó là một thiên nhiên rất đẹp, tráng lệ và huyền bí, trù phú mà khắc nghiệt, tàn nhẫn nhưng lại dịu dàng. Người đọc sẽ dễ dàng bị cuốn hút, ngỡ ngàng, rung động và có lúc rùng mình với những bài học từ thiên nhiên đó. Còn về vụ án mạng trong cuốn sách, dịch giả bật mí rằng, có lẽ độc giả sẽ phải suy nghĩ rất lâu về định kiến cũng như sự phán xét của con người. *** MỞ ĐẦU 1969 Đồng lầy chẳng phải đầm lầy. Đồng lầy là một không gian tràn ánh sáng, nơi cỏ vươn lên trong nước, và nước trôi vào trong bầu trời. Dòng chảy chầm chậm quanh co, mang theo quả cầu mặt trời ra đến biển, và lũ chim chân dài lêu nghêu cất mình vụt lên với sự uyển chuyển không ai ngờ đến – thân hình chúng dường như không được tạo ra để bay lượn – trên nền âm thanh cả ngàn con ngỗng tuyết kêu ran. Rồi trong chính đồng lầy, ở đó đây, đầm lầy đích thực len lỏi vào những vùng trũng thấp, ẩn khuất giữa ẩm ướt đại ngàn. Nước đầm lầy tĩnh lặng và tối tăm, nuốt chửng ánh sáng trong cổ họng bùn nhớp nháp. Trong cái hang đó, cả những loài chuyên lẩn lút về đêm cũng hoạt động ban ngày. Nơi đây cũng có tiếng động, tất nhiên, nhưng so với đồng lầy thì đầm lầy tĩnh mịch hơn hẳn vì sự phân hủy là hoạt động chế ngự tất cả. Sự sống mục nát, bốc mùi và trở về thứ mùn thối rữa; một chốn trầm mình sầu bi của cái chết cho sự sống vươn lên. Vào buổi sáng ngày 30 tháng Mười năm 1969, xác của Chase Andrews nằm trong đầm lầy, cái đầm hẳn sẽ nuốt chửng nó dần dần, lặng lẽ. Vĩnh viễn che giấu nó. Đầm lầy tường tận mọi điều về cái chết, và không nhất thiết coi đó là thảm kịch, chắc chắn chẳng phải là tội ác. Thế nhưng buổi sáng này, hai cậu bé từ ngôi làng đạp xe đến chỗ tháp phòng cháy cũ, và từ chỗ ngoặt thứ ba trên cầu thang đã trông thấy chiếc áo khoác denim của cái xác kia. *** 1952 Sáng ngày hầm hập cái nóng trời tháng Tám, hơi thở ẩm ướt của đồng lầy giăng màn sương mờ lên những nhánh sồi với cành thông. Trảng cây cọ đứng im đến lạ lùng, chỉ có tiếng vỗ cánh trầm trầm, chậm chạp của lũ diệc cất mình lên từ phá nước. Và rồi Kya, bấy giờ chỉ mới sáu tuổi, nghe tiếng cửa lưới sập lại. Đứng trên chiếc ghế cao, con bé ngừng cọ bợn cháo ngô bám trên nồi và để nồi xuống bồn đầy bọt xà phòng đã xẹp. Chẳng còn tiếng động nào nữa ngoài tiếng thở của con bé. Ai vừa ra khỏi lán vậy nhỉ? Không phải má. Má có bao giờ để cửa sập lại đâu. Ấy vậy mà khi chạy ra hiên, Kya lại thấy má trong bộ váy dài nâu, những nếp xếp li nhịp nhịp víu vào mắt cá khi bà bước xuôi dải đường cát trong đôi giày cao gót. Đôi giày mũi bầu giả da cá sấu. Đôi duy nhất để bà mang ra ngoài. Kya muốn gọi to nhưng biết khôn hồn thì chớ có đánh thức ba dậy, vậy là nó mở cửa ra đứng trên bậc thềm gạch ván. Từ chỗ đó, con bé thấy chiếc vali nhỏ màu xanh lam má xách theo. Mọi ngày thì với sự tin tưởng của một chú chó con, Kya biết má sẽ quay về với chút thịt gói trong giấy nâu dính mỡ hoặc một con gà, đầu lủng lẳng chúc xuống. Thế nhưng bà chưa bao giờ mang đôi giày da cá sấu, chưa bao giờ xách theo hành lý cả. Má luôn luôn nhìn lại từ chỗ lối đi nhỏ gặp đường mòn, một tay giơ lên cao, lòng bàn tay trắng nõn nà vẫy vẫy trước khi bà quay lưng bước tiếp, len lỏi qua những khu rừng đầm lầy cùng phá nước khin khít cỏ đuôi mèo, rồi có lẽ nếu con nước gia ơn, cuối cùng bà sẽ ra đến phố. Thế nhưng hôm nay bà không ngoảnh lại mà cứ dấn bước, loạng choạng giữa những vết lún trên đường. Dáng vóc cao của bà thỉnh thoảng hiện ra qua những lỗ hổng giữa rừng, cho đến khi chỉ còn thấy thấp thoáng màu trắng chiếc khăn choàng qua kẽ lá. Kya vụt chạy đến chỗ nó biết con đường sẽ lộ ra; chắc chắn má sẽ dừng lại vẫy tay từ đó, nhưng tới nơi, con bé chỉ kịp thoáng thấy màu lam của chiếc vali trước khi nó mất hút – cái màu sao mà chỏi giữa cánh rừng mướt rượt màu xanh lục. Một cảm giác nặng nề dày đặc như bùn gòn đen chèn lên ngực con bé khi nó quay lại đợi ở bậc thềm. Kya là đứa nhỏ nhất trong đám anh em nhà này, mấy anh chị lớn hơn nó nhiều, mặc dù sau này con bé không nhớ tuổi của họ nữa. Bọn trẻ sống với ba và má, chen chúc nhau như bầy thỏ nhốt chuồng, trong cái lán thô sơ tạm bợ, hàng hiên có lưới che lỏ mắt dòm ra dưới những tán sồi. Jodie, thằng anh gần Kya nhất nhưng vẫn lớn hơn nó bảy tuổi, bước từ trong nhà ra và đứng sau con bé. Jodie có cùng cặp mắt và mái tóc đen của em gái; thằng nhỏ đã dạy con bé bài hát của lũ chim, tên gọi những vì sao và cách lái thuyền qua đám cỏ răng cưa. “Má sẽ về thôi,” thằng anh nói. “Em hông biết. Má mang đôi dày cá sấu đó.” “Một bà má hông bỏ mấy đứa con nhỏ đâu. Điều đó hông nằm trong bản tính của họ.” “Anh kể với em là cáo cái bỏ con của nó mà.” “Ừ, nhưng con cáo đó bị toạc hết chân rồi. Nó xẻ chết đói nếu cố nuôi cả mình dới bầy con nhỏ. Tốt hơn là nó bỏ đám này, dưỡng thương cho lành lại, rồi đẻ thêm khi có thể nuôi tụi nhóc ra hồn. Má thì đâu có đói, má sẽ quay lại.” Jodie không chắc chắn như nó ra vẻ thế, nhưng vẫn nói vậy vì Kya. Cổ họng nghèn nghẹn, con bé thì thầm, “Nhưng má xách theo cái vali xanh như xắp đi xa lắm.” Cái lán nằm tựa vào trảng cọ lùn, vô số cụm cọ mọc rải rác, tỏa khắp bãi cát tới chỗ chuỗi những phá nước xanh, và ở xa xa là toàn bộ vùng đồng lầy sau đó. Hàng dặm lưỡi cỏ cứng cáp đến độ chúng mọc lên cả trong nước mặn, chỉ bị ngắt quãng bởi những thân cây uốn cong đến nỗi chúng mang hình hài cơn gió. Rừng sồi dồn lại quanh những phía khác của cái lán nhỏ, bao bọc lấy phá nước gần đó nhất, nơi mặt nước giàu sự sống đến sục sôi. Bầu không khí trĩu muối và bài ca mòng biển tràn qua hàng cây dạt tới từ biển cả. Từ thế kỷ 16, việc khẳng định quyền sở hữu một vùng lãnh thổ chẳng thay đổi gì mấy. Những khu đồng lầy có chủ rải rác đó đây không được mô tả trên giấy tờ pháp lý, chỉ được vạch ranh giới tự nhiên – một cây sồi chết ở kia, một con lạch đằng này – bởi những kẻ trốn chạy. Người ta đâu có tự dưng dùng cọ dựng chốn nương thân ở đầm lầy, trừ phi đang trốn kẻ nào đó hay đã cùng đường tận lối. Đồng lầy được bao bởi một đường bờ biển bị xé nham nhở, mà những nhà thám hiểm ngày trước gán cho cái tên “Nghĩa địa của Đại Tây Dương” vì dòng chảy rút xa bờ, những luồng gió dữ và bãi cạn sẽ đánh cho tàu thuyền vỡ nát như mấy chiếc nón giấy dọc vùng bờ sẽ trở thành bờ Bắc Carolina. Nhật ký một thủy thủ viết, “vòng quanh bờ biển… nhưng không thấy lối vào… một cơn bão dữ dội ập tới… chúng tôi buộc phải quay ra để giữ cho mình và con tàu được an toàn, và bị xô đẩy dồn dập bởi một cơn sóng dữ… Đất liền… toàn đồng lầy nối đầm lầy, chúng tôi quay về tàu… Làm nản lòng tất cả những ai sau này tìm tới đây cư ngụ.” Những người tìm đất an cư bỏ qua chốn này, và vùng đồng lầy nổi tiếng đây trở thành một tấm lưới, vớt lên một mớ lộn xộn những tay thủy thủ nổi loạn, nạn nhân đắm tàu, con nợ và bọn người trốn chạy khỏi chiến tranh, thuế má hay luật lệ mà họ không ưa. Những kẻ mà bệnh sốt rét không giết chết hay đầm lầy không nuốt chửng sinh ra một bộ lạc người rừng thuộc nhiều chủng tộc và nền văn hóa, mỗi người có thể đốn trụi một khu rừng nhỏ với một cái rìu và vác một con hươu đi hàng dặm. Như lũ chuột sông, mỗi người có riêng một lãnh thổ, nhưng họ phải hòa nhập với cảnh sống ngoài rìa hoặc đơn giản là một ngày biến mất trong đầm tối. Hai trăm năm sau, nhóm này kết nạp thêm những nô lệ bỏ trốn vào đồng lầy và các nô lệ được trả tự do, không xu dính túi và cùng quẫn, tản mát vào vùng đất ngập nước vì chẳng còn bao nhiêu lựa chọn khác. Có lẽ đó là vùng hiểm ác, nhưng không một tấc đất nào nghèo. Tầng tầng lớp lớp sự sống – cua rù rì ngoe nguẩy, tôm hùm đất sủi bùn, hằng hà chim nước, cá, tôm, sò, hươu béo xị, ngỗng mập núc – chất chồng trên đất hay trong nước. Kẻ không ngại lùng sục tìm bữa ăn sẽ không đời nào chết đói được. Bấy giờ là năm 1952, nên đã bốn thế kỷ liền vùng đất bị giành quyền sở hữu bởi một chuỗi rời rạc những người không có sổ sách nào ghi lại. Hầu hết là trước cuộc Nội chiến. Một vài kẻ khác đến chiếm dụng đất gần đây, đặc biệt là sau hai cuộc chiến tranh thế giới, khi những người đàn ông trở về trong tan nát và túng quẫn. Đồng lầy không giam giữ mà định nghĩa con người họ, và như tất cả những vùng đất linh thiêng, chúng giữ cho bí mật của họ được vùi sâu. Họ chiếm đất mà chẳng ai quan tâm vì không ai thèm muốn nó. Dù sao, nó cũng chỉ là thứ bãi lầy hoang. Cũng như cách họ làm lậu rượu whiskey, cư dân đồng lầy đặt ra luật lệ của riêng mình – không giống kiểu luật khắc vào đá hay ghi lên giấy, mà là thứ luật sâu xa hơn, in hằn trong gen họ. Tự nhiên và cổ xưa, như nở ra từ trứng diều hâu với bồ câu. Khi bị dồn vào đường cùng, bí bách, tuyệt vọng hay bị cô lập, con người trở lại với thứ bản năng nhằm thẳng tới sinh tồn. Nhanh gọn và đích đáng. Chúng luôn là những lá chủ bài vì được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thường xuyên hơn loại gen hiền. Đó chẳng phải đạo lý gì, chỉ là phép toán đơn giản. Giữa đồng loại, bồ câu cũng đánh nhau thường xuyên chẳng kém diều hâu. Hôm đó má không về. Chẳng ai đả động gì tới chuyện đó. Ba lại càng không. Bốc mùi cá và nước dùng, ông khua nắp nồi loảng xoảng. “Bữa tối có gì hả?” Mắt cụp xuống, mấy anh chị em chúng nó nhún vai. Ba chửi thề rồi khập khiễng đi ra, trở vào rừng rậm. Đã có nhiều vụ cãi cọ trước đó; má thậm chí đã bỏ đi một hai lần, nhưng lần nào bà cũng quay về, vơ lấy bất kỳ đứa nhỏ nào để ôm ấp. Hai cô chị lớn nấu bữa tối gồm bánh ngô với đậu đỏ, nhưng không đứa nào ngồi vào bàn ăn như chúng sẽ ngồi với má. Mỗi đứa xúc vội đậu từ nồi, trút đại bánh ngô lên trên, rồi lảng đi ăn ở góc của chúng trên thảm trải sàn hay cái sô-pha sờn cũ. Kya không ăn được. Nó ngồi trên bậc thềm trước hiên nhìn xuống con đường. Người cao so với tuổi, gầy trơ xương, con bé có nước da rám thẫm và mớ tóc đen, thẳng, dày như cánh quạ. Màn đêm buộc nó ngừng trông ngóng. Tiếng ếch ồm ộp sẽ vùi đi tiếng bước chân; dẫu vậy, con bé vẫn nằm trên cái giường ngoài hiên, dỏng tai nghe ngóng. Mới sáng hôm đó, nó hãy còn thức dậy trong tiếng mỡ lợn xèo xèo trên chảo sắt và mùi bánh mì sạm nâu trong lò. Kéo cái quần yếm lên người, con bé xộc vào bếp để bày dĩa và nĩa. Nhặt mấy con mọt trong cháo bỏ ra. Hầu như sáng nào cũng vậy, tươi cười, má sẽ ôm lấy nó – “Chào buổi sáng, con gái đặc biệt của má” – và hai má con sẽ làm hết việc này tới việc nọ, thoăn thoắt như múa. Thỉnh thoảng má còn cất giọng hát dân ca hay đọc vài đoạn thơ cho con trẻ: “Chú heo nhỏ đi chợ lon ton.” Hoặc má sẽ đẩy đưa Kya theo điệu jitterbug nhịp dồn, chân họ giẫm bùm bụp lên sàn gỗ dán cho đến khi tiếng nhạc từ cái radio chạy pin dần tắt ngỏm, nghe như nó đang tự hát cho mình nghe dưới đáy một cái thùng tròn. Vào những buổi sáng khác, má lại nói mấy chuyện người lớn mà Kya không hiểu, nhưng con bé đoán rằng lời nói của má cần có chỗ để thoát ra, nên nó thấm lấy từng lời qua da, trong khi tay nhét thêm củi vào lò. Gật gù làm như hiểu rõ. Sau đó là cái nhốn nháo ngược xuôi khi mọi người thức dậy và ăn sáng. Ba không ở đó. Ông chỉ có hai chế độ: im lặng và gào thét. Nên cũng tốt khi ông cứ ngủ, hoặc không về nhà. Thế nhưng sáng nay, má im lặng; nụ cười đánh mất, mắt đỏ hoe. Bà cột thấp ngang trán một cái khăn màu trắng theo kiểu hải tặc, nhưng cái viền thâm tím vàng của một vết bầm vẫn lộ ra. Ngay sau bữa sáng, trước khi chén dĩa được rửa sạch, má đã cho vài món tư trang vào vali và theo lối nhỏ mà đi mất. Sáng hôm sau, Kya lại tới chỗ cũ của nó trên bậc cửa, cặp mắt đen hun hút xoáy xuống con đường như một đường hầm đợi tàu qua. Đồng lầy phía xa bị màn sương bao phủ, sương sà thấp đến nỗi cái gót mềm của nó chạm hẳn xuống bùn. Chân trần, Kya nhịp nhịp ngón chân, xoay xoay ngọn cỏ chọc vào đám ấu trùng kiến sư tử, nhưng một đứa nhỏ sáu tuổi nào có ngồi yên được, chẳng mấy chốc con bé đã la cà tới bãi triều, tiếng nước vỗ liếm láp ngón chân nó. Ngồi xổm bên rìa nước, con bé dõi theo lũ cá tuế vọt qua vọt lại giữa chỗ nắng với chỗ có bóng râm. Jodie cất tiếng gọi Kya từ đám cọ lùn. Con bé nhìn chăm chăm; có lẽ anh nó tới đưa tin mới. Nhưng trong lúc thằng anh len lỏi qua mấy tán lá đầy gai, con bé nhìn dáng đi lững thững của anh và biết má không có ở nhà. “Em muốn chơi thám hiểm hông hả?” Jodie hỏi. “Anh nói anh quá tuổi chơi hám hiểm rồi mà.” “Đâu, anh nói vậy thôi. Hông bao giờ quá tuổi cả. Đua đi!” Hai đứa ùa chạy qua bãi triều, băng rừng cây lao ra bờ biển. Kya ré lên khi thằng anh vọt qua mặt nó và cười nắc nẻ cho tới khi chúng chạy đến chỗ cây sồi lớn chìa ra trên cát những cánh tay khổng lồ. Jodie và anh cả Murph đã đóng vài miếng ván lên cành cây làm đài quan sát và phòng thủ. Giờ thì hầu hết ván gỗ đã sụp xuống, đong đưa một cách nguy hiểm, chỉ dính vào thân cây nhờ mấy cây đinh sét. Thường ngày, nếu Kya có được cho chơi đoàn thám hiểm thì nó cũng phải đóng vai nô lệ, đưa tới cho các anh bánh mì còn nóng lén lấy từ chảo của má. Thế nhưng hôm nay Jodie nói, “Em có thể làm thuyền trưởng.” Kya giơ cao tay phải trong tư thế xông lên. “Đuổi bọn Tây Ban Nha đi!” Hai đứa nhỏ bẻ cây làm kiếm, xộc qua những bụi mâm xôi um tùm, hét váng lên và đâm kẻ thù lia lịa. Rồi – màn tưởng tượng chợt đến chợt tan – Kya bước lại chỗ một khúc cây phủ đầy rêu và ngồi xuống. Im lặng, Jodie đến ngồi cạnh em. Thằng bé muốn nói gì đó để đứa em gái thôi nghĩ về má, nhưng từ ngữ tắt nghẹn, thế là hai đứa lặng ngắm cái bóng loang loáng bơi bơi của lũ gọng vó. Sau khi quay về, Kya trở lại chỗ bậc thềm và đợi thật lâu, nhưng trong lúc nhìn đăm đắm về phía cuối đường, nó không hề khóc. Gương mặt nó bất động, môi mím lại thành một đường mỏng dưới đôi mắt khắc khoải kiếm tìm. Nhưng ngày hôm đó má cũng không trở lại. Mời các bạn đón đọc Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát của tác giả Delia Owens & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hoan Lạc
Tên eBook: Hoan Lạc (full prc, pdf, epub) Tác giả: Mạc Ngôn Thể loại: Bút ký, Tiểu thuyết, Văn học phương Đông Dịch giả: Trần Trung Hỉ Nhà Xuất Bản: Nxb văn học Công ty phát hành: Phương Nam Ngày xuất bản: 01/2009 Số trang: 188 Kích thước: 13x21 cm Trọng lượng: 240(gr) Hình thức bìa: Bìa mềm Giá bìa: 30.000 Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu:   7 tác phẩm mới của Mạc Ngôn được dịch sang tiếng Việt   Bộ tác phẩm của nhà văn Mạc Ngôn gồm: - Châu Chấu Đỏ, - Bạch Miên Hoa, - Trâu Thiến, - Con Đường Nước Mắt, - Ma Chiến Hữu, - Hoan Lạc, - Người tỉnh nói chuyện mộng du 6 cuốn truyện vừa pha bút ký của Mạc Ngôn có số trang không nhiều, nhưng cho thấy bút lực dồi dào và tài năng của nhà văn Trung Quốc này khi khai thác tối đa từng mảng nhỏ của đời sống.   Một tác phẩm viết về những niềm hoan lạc điên cuồng vào những năm 1987, viết về con đường rời khỏi gia đình không trở lại của một thanh niên. Trong khu rừng rậm rịt, vòng vo, mơ hồ hỗn độn của từ ngữ này, bất cứ lúc nào cũng có thể nghe thấy tiếng gõ cửa của số phận con người.... Hoan lạc - cái nhan đề dễ khơi gợi người ta nghĩ đến vấn đề sex - tình dục, nhưng nhân vật chính của thiên truyện - Vĩnh Lạc, chàng “sinh viên hụt”, cho đến lúc uống thuốc sâu tự tử, chỉ duy nhất một lần được sờ vú cô láng giềng lớn tuổi Tiểu Thuý và khi đã sang “cõi khác”, mặc dù “cảm thấy mình thanh thản tự do”, “không ham muốn, không suy nghĩ”, “không phải ngửi thấy cái mùi xác chết thối và mùi tanh tưởi của những đồng tiền”, nhưng rồi anh chàng đã phải thốt lên: “Hoan lạc là gì? Ở đâu có hoan lạc? Cội nguồn của hoan lạc là từ đâu?...”. Cuộc đời ngắn ngủi và bi thảm của Vĩnh Lạc với “ba điều ước” giản dị bất thành - một miếng ăn ngon, một chỗ ngồi trong trường đại học và một tình yêu - là những vấn đề muôn thuở của con người nhưng không chỉ có thế. Hoan lạc cho chúng ta thấy tình cảnh khốn khó của nông dân và sự bất công đã làm con người tha hóa như thế nào - thậm chí phải tìm đến cái chết. Những nhân vật quanh Vĩnh Lạc, có kẻ chỉ thoáng xuất hiện nhưng cũng kịp để lại dư âm xót xa về số phận con người. Hãy nghe một “cựu phó bí thư” nói với bí thư thôn: “…Tấm thẻ Đảng của lão là đem tính mạng ra mà đổi, còn thẻ Đảng của ông là do mẹ ông cởi dây lưng quần mà đổi lấy!”. Chị dâu của Vĩnh Lạc thì ngay khi biết tin Tiểu Thúy nhảy xuống sông tự tử vẫn quắc mắt chửi mẹ chồng chỉ vì mẹ hái cho Tiểu Thúy quả dưa chuột: “Bà ăn dưa chuột của tôi, bụng bà sẽ mọc đầy nhọt độc!”. Người mẹ già nua không làm được gì nữa thì đành xách bọc đi ăn xin để có tiền cho con nạp vào “lò luyện thi”. Rồi cả một anh bộ đội phục viên kiêm đảng viên cộng sản bị bệnh tâm thần, độc thoại với những “kẻ thù” của anh: “…Các người không đối xử với ông đây như con người… các người đều chê cười ông đây không có vợ. Ông đây đã từng có vợ, nó ngủ với người ta bị ông đây bắt tại trận. Dùng dây thừng trói chặt nó lại, dùng gậy đánh, dùng kềm lửa kẹp thịt nó, dùng bàn là để đốt da nó, nhúng đầu nó vào trong thùng tương ớt… nhưng nó thà chết chứ không chịu khuất phục! Nó mới là một đảng viên cộng sản chân chính!... Mày chuyên dùng quyền thế để chiếm đoạt vợ người khác! Chúng mày chỉ là những con khỉ mặc áo quần mới, đội mũ mới mà thôi!...”.   Mời các bạn đón đọc Hoan Lạc của tác giả Mạc Ngôn.
Con Đường Nước Mắt
Tên eBook: Con Đường Nước Mắt (full prc, pdf, epub) Tác giả: Mạc Ngôn  Thể loại: Tiểu thuyết, Tình cảm, Văn học phương Đông Công ty phát hành: Phương Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển (gram): 220 Kích thước: 13x21 cm Dịch Giả: Trần Trung Hỷ Số trang: 200 Ngày xuất bản: 01-2009 Hình thức: Bìa mềm Giá bìa: 35.000 ₫ Nguồn: e-thuvien.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Con Đường Nước Mắt là một tập hợp những bộn bề đời thường, dục vọng, sống chết được miêu tả tinh tế và trào phúng chỉ với cái “cớ” là việc xây dựng một con đường. Con đường chỉ là tượng trưng. Không thể biết điểm dừng của nó là ở đâu, nhưng chắc chắn là nó luôn vươn về phía trước, ẩn hiện trong con đường là những bộn bề đời thường về dục vọng và tử vong.  *** Quần áo Bạch Kiều Mạch xộc xệch, chiếc áo trên người cài lệch cúc nên một mảng da bụng trắng hếu lộ ra trước mắt mọi người, chiếc quần ống trước mắt mọi người, chiếc quần ống cao ống thấp. Đôi mắt bà ta trợn tròn xoe, chiếc cổ như dài hơn bình thường vươn lên rất cao chẳng khác nào cổ một con ngựa. Mang theo một cơn gió xoáy, bà ta bổ nhào đến trước mặt Dương Lục Cửu cào mạnh, động tác rất giống xé một tờ báo dán trên tường từ cao xuống thập. Mặt Dương Lục Cửu lập tức xuất hiện bốn năm đường màu trắng, lại tiếp tục cào, mặt Dương Lục Cửu xuất hiện thêm mấy đường màu trắng nữa. Lại muốn cào tiếp. Dương Lục Cửu thối lui mấy bước, bà ta đuổi theo. Dương Lục Cửu đến sát chảo nhựa đường đang sôi cùng sục, quát to: - Con mẹ điên này! Bà định làm gì thế? - Trả chó cho tôi! Bà đến chỗ nào mà tìm chó thế? - Vừa nói, lão vừa đưa tay vuốt mặt, lúc này lão mới thấy bàn tay mình dâm dấp máu tươi - Đồ thối tha, bà đã quên là lão đây đã bao toàn bộ nửa tháng đậu phụ của bà hay sao? - Ông đừng có mà lấp liếm! Mau trả chó cho tôi! - Ai lấy chó của bà? Chó của bà không phải là đang ở nhà giữ cửa đấy sao? - Cả thị trấn này chẳng ai dám động đến chó của tôi, chỉ có loại cải tạo lao động các người mới có gan làm chuyện ấy, mới có khả năng bắt được chó của tôi. - Chúng tôi không hề biết chó của bà ra sao. - Ông đã trèo lên làm vỡ bức tường rào nhà tôi, té ra ông đã để ý con chó nhà tôi lâu lắm rồi. - Tôi nhớ bà mà tới thôi! Mời các bạn đón đọc Con đường nước mắt của tác giả Mạc Ngôn.
Nhật ký Bí mật của Chúa
Tên eBook: Nhật ký Bí mật của Chúa Tác giả: Raymond Khoury Thể loại: Best seller, Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây Nguyên tác: The last Templar Dịch giả: Lê Trọng Nghĩa Nhà xuất bản liên kết: Văn hóa Sài Gòn Số trang: 504 Kích thước: 16 x 24 cm Giá bìa: 90 000 VND Chụp ảnh: hai an Đánh máy: May&nui, Iris, ndviet, Polo pala, Biurua, hai an, thuy_trang89, minh_trang2905, phượng xồ, Smilehd, Nerissa, Trang Phan, Kaim184, apple-socola, Thuy Le Linh, Duyen Vo, Wannabe, Nguyen Ngoc Van Khanh, Linh Nguyen, Aivy007,  nguyen_ly, shinigami82, Bim_hulis, quekhanh14 Soát lỗi văn bản: May&nui Tạo prc: hai an Nguồn: VH-ebook Project - fb.com/vhproject Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Nhật ký Bí mật của Chúa Giới thiệu: Được ví như một tiểu thuyết trinh thám lịch sử hấp dẫn có thể thay thế Mật mã Da Vinci (tải eBook), Nhật ký bí mật của Chúa kể một câu chuyện cổ kính, bí ẩn kết hợp với tri thức khoa học mới nhất, đậm phong cách điện ảnh. Đặc vụ FBI Sean Reilly và nữ khảo cổ gia Tess Chaykin rơi vào cuộc đua vượt qua ba châu lục nhằm truy tìm kẻ giết người máu lạnh và bí ẩn đã bị chôn vùi hàng chục thế kỷ... Nhận định - “Nếu bạn thích Mật mã Da Vinci, bạn sẽ say mê Nhật kí bí mật của chúa. Nếu bạn ghét Mật mã Da Vinci, bạn sẽ vẫn say mê Nhật Kí bí mật của Chúa” - Lire Magazine - “Câu chuyện cổ kính, bí ẩn, được kết hợp nhuần nhị với tri thúc khoa học mới nhất trong cuốn tiểu thuyết trinh thám mang đậm phong cách điện ảnh này. Nhịp điệu gấp gáp, đối thoại sắc bén, nhân vật sống động chân thực” – Glasgow Evening Times - “… Ly cocktail tuyệt hảo, hoà trộn giữa chất trinh thám, sự lãng mạn cùng những nghiên cứu tôn giáo lịch sử…” – Politiken - “khó tránh khỏi bị so sánh với Dan Brown, nhưng, thực sự, Khoury là nhà văn “cao tay” hơn nhiều. Trên hết, cuốn sách là cả một chuyến du lượn trên chiếc rollercoaster căng thẳng, kích động và phấn khích” – The Lrish Mail on Sunday - “Các fan hâm mộ Mật mã Da Vinci của Dan Brown đang lùng kiếm một tiểu thuyết trinh thám lịch sử tuyệt vời nữa sẽ không cần phải tìm đâu xa hơn, đã có tuyệt phẩm mới xuất bản của Raymond Khoury… Cuốn tiểu thuyết ly kỳ có nhịp điệu nhanh đến chóng mặt, mỗi trang đều như sẵn sàng một bước ngoặt khiến người đọc phải nín thở sững sờ” – Allen Barnes & Noble Editor’s Review - “Kế tiếp Mật mã Da Vinci sẽ là gì đây? Để thoả mãn bạn với những tác phẩm trinh thám lịch sử cho tới khi cuốn tiểu thuyết kế tiếp của Dan Brown ra đời, hãy đọc Nhật kí bí mật của Chúa của Raymond Khoury!” – Glamour Magazine. Tác giả Raymond Khoury: Tác giả Raymond Khoury Raymond Khoury là người gốc Li băng, theo gia đình chuyển sang sinh sống tại New York, Hoa Kỳ, từ năm 1975. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông trở về Li băng sinh sống. Ông từng theo học ngành kiến trúc tại Đại học Hoa Kỳ ở Beirut (Li băng). Tháng Hai năm 1984, chiến sự xảy ra ở Li băng, ông lại quay trở về Mỹ. Sau một thời gian làm kiến trúc sư ở Mỹ, ông sang Pháp và giành được học bổng MBA của Học viện Quản trị Kinh doanh châu Âu. Sau khi tốt nghiệp ông sang Luân Đôn và làm trong ngành ngân hàng. Raymond Khoury bắt đầu chính thức đến với nghiệp viết lách từ năm 1996, khi ông bắt tay viết kịch bản phim chuyển thể từ tiểu thuyết The Maid of Buttermere của Melvyn Bragg. Khoury cũng viết kịch bản cho show truyền hình Spooks của BBC. Cuốn tiểu thuyết đầu tay Nhật ký bí mật của Chúa (The Last Templar) được hình thành dựa trên kịch bản cùng tên Nhật ký bí mật của Chúa. Tiểu thuyết này được phát hành đầu tiên ở Anh năm 2005, rồi nhanh chóng trở thành New York Times bestseller suốt 11 tuần liên tiếp và bestseller trên thị trường thế giới. Hiện nó đã được dịch sang 38 thứ tiếng và xuất bản tại hơn 40 quốc gia. Mời các bạn đón đọc Nhật ký Bí mật của Chúa của tác giả Raymond Khoury.
Hoàng Cung Kỳ Ngộ
Tên eBook: Hoàng Cung Kỳ Ngộ (full prc, pdf, epub) Tác giả: Bí Ngô Thể loại: Xuyên Không, Cổ đại, Tiểu thuyết, Văn học Việt nam Nguồn: bingothanhthien.wordpress.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu:  Truyện Hoàng Cung Kỳ Ngộ là một truyện khá hấp dẫn, truyện dẫn dắt bạn đọc vào không gian cổ xưa đầy những bất ngờ. Trong phút chốc, Hạ Vy cảm thấy như mình đang biến thành một con ngốc. Bị người ta lôi khỏi giường, bị người ta lột sạch quần áo, rồi bị người ta quẳng lên người bao nhiêu thứ kì dị khác người. Nàng đảo mắt một vòng quanh phòng, càng lúc càng không lý giải nổi những điều đang xảy ra trước mắt mình.  “Nương nương, xin người giơ tay cao lên một chút để Trường Xuân giúp người thay y phục.” Cô gái nọ vừa nói với nàng xong, liền xoay sang một cô gái khác đứng cách đó không xa. “Trường Hạ, chọn trâm cài cho nương nương, phải hợp với màu áo đỏ và hoa văn thêu trên yếm.”  Họ gọi nàng là ‘nương nương’ ư? Đây không phải là cách xưng hô đối với phi tần thời phong kiến sao?  Cách họ ăn mặc, cách họ ứng xử, cả cách bày trí trong phòng đều rất giống hoàng cung cổ đại phương Đông. Phải chăng đây lại là một giấc mơ khác của nàng? Sau khi mơ thấy Vampire, liền chuyển sang mơ thấy mình vượt thời gian trở thành phi tần, giống như trong những quyển tiểu thuyết xuyên không nàng vừa đọc? Phải đây chính là truyện xuyên không của chính nàng, truyện làm người ta phải bật cười lẫn thán phục.  Chuyện xưa kể rằng... Một ngày nọ, có một con chim sẻ bảy màu bị cơn gió to hất xuống vùng đất xa xôi, nơi có ba chàng trai đẹp đang huýt sáo để giải toả nỗi sầu đời. Vừa thấy loài chim lạ lăn lóc nằm trên bãi cỏ, cả ba liền nảy sinh một cảm xúc dào dạt khó nói nên lời, nhào tới tranh nhau mang về tiêu khiển.  Lê Ứng Thiên thích thú đeo cho con chim sẻ ấy đủ loại trang sức, khiến cái cổ nó bị trẹo một bên. Hắn lại còn âm mưu cho nó ăn nhiều để nó béo phì không cất nổi cánh mà bay. Đi đâu hắn cũng bỏ nó vào tay áo. Tối tối, hắn thường ôm chặt nó vào lòng, thỏ thẻ: “Chim nhỏ, ta rất yêu ngươi, ngươi không được phép rời khỏi ta.”  Lê Nguyên Phong bứt một sợi lông chim ngắm nghía một hồi, sau đó bỏ đi như chưa từng nhìn thấy. Con chim sẻ hớn hở tung cánh bay cao. Nào ngờ, càng bay cao, nó lại càng thấy mình… đang lao dần xuống đất. Thật là quái lạ! Đến khi cảnh vật dưới đất thu vào tầm mắt, con chim nhỏ mới chợt nhận ra chân mình từ sớm đã bị buộc vào một sợi chỉ dài. Cái tên vừa bỏ đi bên dưới đang giật giật đầu kia sợi chỉ, thích thú chơi thả diều, và nó chính là con diều xấu số.  Lý Thiệu Minh dành ra nhiều ngày để băng bó và chăm sóc cho con chim nhỏ. Cử chỉ ân cần dịu dàng của hắn khiến nó vô cùng cảm động. Thế nhưng, nó lại khao khát trời xanh và tỏ ý muốn rời đi. Hắn vuốt nhẹ vòm lông trên cổ nó, âu yếm nói: “Ta yêu ngươi, nhưng ta tôn trọng ước nguyện của ngươi.” Chim nhỏ rơi nước mắt vì xúc động, không hề biết rằng phía sau câu nói ngọt ngào ấy còn ẩn chứa một lời cảnh báo đầy chết chóc: “Miễn là ngươi tránh được hàng rào lưới điện của ta.” Số phận con chim sẻ đáng thương và ham hố ấy rồi sẽ ra sao?  Mời bạn đọc truyện để biết được số phận ấy ???