Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả

Tại tiệm đồ cổ “Kura” toạ lạc giữa khu phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto, có một “chàng trai cố đô” kì lạ với mắt thẩm định và quan sát hết sức tinh tường, đến mức được người ta tặng cho biệt danh “Holmes.” “Không phải đâu Aoi. Mọi người chỉ gọi anh bằng cái tên Holmes vì họ của anh là Yagashira thôi.” Phải. Hán tự gồm chữ Gia và chữ Đầu, nên đọc thành Homes. “.. Ủa, giờ này mà anh vẫn còn đính chính chuyện đấy à?” Đây là ghi chép về những vụ án li kì mà anh Holmes, tên thật là Yagashira Kiyotaka, và tôi, một nữ sinh trung học phổ thông tên là Mashiro Aoi, đã gặp phải tại thành phố Kyoto. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** hi cái nóng ngột ngạt của Kyoto đã dịu đi một chút cũng là lúc kì nghỉ hè kết thúc và một học kì mới lại bắt đầu. Thế nhưng, đám học sinh thì vẫn chưa thoát ra khỏi tâm lí muốn xả hơi. Chúng tôi còn là học sinh lớp Mười Một, sang năm sẽ phải thi đại học rồi, chắc thế nên nhiều người có tâm lí tranh thủ năm nay chơi cho xả láng, vì vậy mà bộ dạng cháy nắng của đám bạn cùng lớp cứ liên tục hiện lên trước mắt tôi. Đến giờ nghỉ trưa, bầu không khí trong lớp càng trở nên uể oải. “Hảảả, vậy là Aoi đã chấm dứt hẳn với bạn trai cũ rùi hở?” Người vừa la lên với vẻ kinh ngạc là Miyashita Kaori, từ lớp bên cạnh sang chơi. Cậu ấy chơi thân với tôi sau “vụ lá thư đe doạ gửi đến Saiodai” và là người duy nhất trong số bạn bè ở trường này biết về anh Holmes cùng quá khứ của tôi. Tiện nói luôn, giờ tôi với cậu ấy đã chuyển sang gọi thẳng tên nhau. Chúng tôi hiện đang ngồi bên ô cửa sổ thoáng gió và cập nhật cho nhau tình hình gần đây sau một thời gian dài không gặp. “... Ừ, mặc dù dây dưa cũng hơi lâu.” Sau khi kể lại cho Kaori chuyện xảy ra vào đêm Yoiyoiyama đợt lễ hội Gion, tôi cụp mắt xuống. ... Chuyện xảy ra vào mùa hè năm ngoái. Vì hoàn cảnh gia đình mà tôi phải chuyển từ Saitama đến Kyoto sinh sống. Ở Saitama, tôi có một cậu bạn trai, là người tôi đã hẹn hò từ hồi cấp hai. Như một lẽ đương nhiên, chúng tôi phải yêu xa trong vài tháng. Không lâu sau đó, cậu ấy cuối cùng cũng nói lời chia tay. Ban đầu tôi đã chấp nhận rằng xa mặt cách lòng là chuyện không thể nào tránh khỏi. Nhưng lí do chia tay thật sự lại là vì cậu ấy đã bắt đầu hẹn hò với bạn thân của tôi... Biết được sự thật ấy, tôi vô cùng choáng váng. Tôi muốn lập tức quay về Saitama để xác minh mọi chuyện, vì thế mà định bán đi mấy bức tranh cuộn treo tường của người ông đã khuất làm chi phí đi đường. Thế là vào một ngày tháng Ba, khi tiết trời vẫn còn se lạnh, tôi đã ghé vào tiệm đồ cổ “Kura” trong khu phố mua sắm Teramachi Sanjo. Tại đó, tôi đã gặp gỡ một chàng thanh niên kì lạ mang tên Yagashira Kiyotaka với biệt danh là “Holmes”. “Aoi, nếu được, em có muốn làm việc ở đây không? Thay vì lén lút bán bảo vật của gia đình đi để lấy tiền, em nghĩ thế nào về việc lao động chân chính nhằm kiếm phí tàu xe?” Bằng khả năng quan sát tinh tường đến đáng sợ, anh Holmes đã đoán ra mọi ý định của tôi và mời tôi đến làm thêm ở tiệm đồ cổ nhà mình. Sau một thời gian tiếp xúc với chàng trai kì lạ ấy cùng những tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, vết thương trong lòng tôi dần được chữa lành. Cả cậu bạn trai cũ lẫn cô bạn thân kia đều đã là chuyện quá khứ. Khi ấy, tôi đã định từ bỏ việc quay trở lại Saitama. Vào đêm Yoiyoiyama của lễ hội Gion... Tôi đã phải đối mặt với bạn thân và bạn trai cũ khi họ tới đây từ Saitama theo chương trình dã ngoại của trường. Đương nhiên là không hề có cách giải quyết dễ dàng cho mọi chuyện. Bạn bè trong nhóm ai cũng về phe bạn thân và bạn trai cũ của tôi, trong khi tôi một mình vật lộn với nỗi nhục nhã và đau đớn như đang ngồi trên bàn chông vậy. Người đã đến giải cứu tôi khi ấy cũng chính là anh Holmes. Anh ấy đã kéo mạnh tay tôi, dắt tôi khỏi nơi đó... khiến tôi có cảm giác như mình thật sự được cứu rỗi. “Khóc cho hết đi nha, Aoi đã gắng lắm rùi mờ.” Bàn tay to lớn nhẹ nhàng vỗ lưng tôi. Mỗi lần hồi tưởng lại cảnh mình khóc trong vòng tay anh Holmes, dưới ánh sáng của những chiếc đèn lồng... tôi lại thấy nóng râm ran trong lồng ngực. “Nè, vậy là bồ mê người ta rồi hén?” Kaori đột nhiên nhòm vào mặt tôi, khiến tim tôi nảy thót lên một cái. “H-Hả?” “Ảnh đã cứu bồ khỏi một bàn thua trông thấy còn chi? Lại điển trai như vậy, có cảm thấy ngây ngất vì ảnh cũng hổng kì đâu à. Chị hai nhà tui cũng hâm mộ anh Holmes lắm á.” “C-Còn Kaori thì sao?” Tôi ngần ngừ hỏi. Kaori liền nhăn nhó ra mặt, rồi lắc đầu. “Tui chịu chết. Ấn tượng rằng ảnh đáng sợ và khó lường trong tui quá mạnh. Chị hai suốt ngày mơ mộng kêu ảnh đẹp trai. Chứ tui thì thực lòng ớn cái kiểu nhìn thấu mọi chuyện của ảnh lắm.” Cũng phải, trong vụ Saiodai, những việc Kaori làm đều bị anh Holmes phát hiện ra, cảm thấy sợ có lẽ cũng chẳng có gì vô lí. “Thế Aoi thấy sao?” “N-Nói thật là cũng hơi xao động... Có điều, tớ đã trải qua một thời gian dài đau khổ vì bạn trai cũ, nên giờ cũng không hiểu rõ lắm về cảm xúc của mình.” “Cũng phải. Cơ mà cả mùa hè bồ ở cạnh anh Holmes thì phải rút ngắn được thêm khoảng cách chứ?” “Không, anh Holmes theo ông chủ ra nước ngoài suốt kì nghỉ hè, còn tớ thì chỉ trông cửa hàng thôi.” “Ông chủ là ông Yagashira Seiji ấy hả?” Ông nội của anh Holmes, chuyên gia giám định cấp quốc gia Yagashira Seiji có vẻ được khá nhiều người trong thành phố này biết đến. “Ừ, nghe nói ông chủ nhận rất nhiều công việc ở nước ngoài, hình như đợt nghỉ hè nào cũng dẫn anh Holmes đi đây đi đó.” “Ờ, phải rồi, anh Holmes là người kế nghiệp ông ấy mà ha” Kaori gật gù. Cụm từ “kế nghiệp” quả nhiên không lệch đi đâu được. Là người có tầm ảnh hưởng quốc tế trong giới giám định mĩ thuật hiện nay, có vẻ ông chủ đang cố gắng hết sức để đứa cháu kế nghiệp mình là anh Holmes được thật nhiều người trong ngành biết đến. Theo lời anh Holmes thì đó không phải chuyện mới bắt đầu gần đây, mà từ xưa, hễ được nghỉ dài là anh ấy lại bị ông lôi đi nước ngoài, không có thời gian học hành gì cả. Nhắc mới nhớ, hồi mới gặp anh ấy cũng kể mình “toàn đi chơi với ông nội nên không vào được hệ đại học của Đại học Kyoto”, hoá ra là ám chỉ chuyện này. “Nên là trong thời gian nghỉ hè, tớ đã cùng quản lí trong tiệm Kura.” “Chẹp, mùa hè của bồ coi bộ hổng có chút hơi thở lãng mạn nào sất. Ngồi coi tiệm với bác quản lí thì nhạt nhẽo thí mô à.” “Tớ thấy trong tiệm cùng bác quản lí cũng thoải mái lắm.” Quản lí tuy ít nói nhưng rất tốt bụng, tôi rất thích khoảng thời gian được ở cùng bác ấy. “Vậy là một mình bác quản lí phải trong cả cửa tiệm lẫn nhà riêng, coi bộ cũng cực ha... Nhắc mới nhớ, hổng biết cái anh Holmes đó sống trong căn nhà như thế nào ta?” Tôi chỉ biết chớp mắt trước câu hỏi từ trên trời rơi xuống của Kaori. “Nhà á?” “Ảnh dầu sao cũng là người trong giới mĩ nghệ cổ, nên tui có cảm giác ảnh sẽ sống trong một căn nhà kiểu Nhật có kiến trúc xưa cũ hay đại loại thế?” “Ừ, hợp lí. Anh ấy lại còn đặc sệt chất trai Kyoto, dễ là sống trong nhà kiểu Nhật[6] truyền thống lắm.” Tôi gật đầu tán thành. Kaori bỗng nhíu mày nhìn tôi với vẻ khó hiểu. “Trai Kyoto là sao? Phải là ‘nam nhân Kyoto’ chứ?” Cậu ấy đặt câu hỏi giống hệt anh Holmes. Dân Kyoto xem ra hơi bị nhạy cảm khi người khác tuỳ tiện cải biên những từ ngữ có từ xưa của họ. “Ừ, tớ biết, cơ mà tớ thấy ‘trai Kyoto’ dùng để diễn tả anh Holmes hợp hơn là ‘nam nhân Kyoto’ ấy. Cảm giác nhẹ nhàng hơn nam nhân Kyoto một chút, kiểu thế.” “... Ờ, nghe bồ biểu tui mới thấy đúng là có thể cảm nhận được sắc thái đó thiệt.” Cậu ấy gật gù, có vẻ đã thông. Xem ra người Kyoto vẫn sẽ chấp nhận sự cải biên miễn là họ hiểu được nó. “Mà vậy nghĩa là bồ hổng biết nhà anh Holmes ở đâu hử?” Kaori khơi lại chủ đề, khiến tôi sực tỉnh và ngẩng mặt lên. “Ừ. Tớ chưa từng đến hay trông thấy nhà anh ấy.” Chỉ là, tôi đã từng nghe qua “tình trạng nơi ở” của gia đình Yagashira. Nhà ông chủ ở gần chùa Ginkaku-ji, quản lí sống trong một khu chung cư ở Yasaka, còn anh Holmes vừa đi lại giữa hai căn nhà ấy vừa coi sóc chúng. Đối với anh Holmes, trạng thái đó giống như anh có hai căn nhà vậy. “Vậy sao? Ra là cả nhà họ hổng có sống chung.” Sau khi nghe tôi kể về tình trạng nơi ở của gia đình Yagashira, Kaori ồ lên, hai tay khoanh trước ngực với vẻ hứng thú. “Mà sắp tới tớ được mời đến nhà ông chủ đấy.” “Thích vậy. Về nhớ tả lại cho tui nghe xem nhà cửa thế nào nha.” Nhưng khi nghe tôi nói tiếp rằng, “Hôm ấy tớ muốn Kaori đi cùng tớ nữa cậu ấy bật ra một tiếng “Hả?” lạc điệu, rồi lắc đầu nguây nguậy như muốn cự tuyệt bằng toàn bộ cơ thể. “Tui á? Tại sao? Chịu thui, tui hổng muốn đụng mặt anh Holmes đâu.” “Ơ, tại sao?” “Cảm giác làm gì cũng sẽ bị ảnh bắt bài, sợ lắm.” Kaori phản đối với vẻ mặt hết sức nghiêm túc, khiến tôi bất giác phì cười. “Có thể anh ấy sẽ bắt bài được cậu thật, nhưng không sao đâu.” “Rõ ràng là sẽ bị bắt bài mờ, hãi chết đi được. Mà sao Aoi vẫn tỉnh queo vậy? Bị ảnh đi guốc trong bụng mà hổng thấy ớn sao?” “T-Tớ à? Ban đầu có hơi rợn gáy thật, nhưng dạo này cũng quen quen rồi. Có thể nói rằng nhanh hiểu ý nhau hơn kể ra cũng là chuyện tốt?” “Nhanh hiểu ý nhau là do bồ quen quá thành chai rùi đó. Mà sao tự dưng lại rủ tui?” Kaori thấy thắc mắc cũng dễ hiểu thôi. “Chuyện là... ngày hôm qua...” Khi tôi bắt đầu chậm rãi kể, Kaori nuốt nước bọt lắng nghe. Mời các bạn mượn đọc sách Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tận Cùng Là Cái Chết - Agatha Christie
Bản dịch của dịch giả Tuấn Việt. Ở Ai Cập vào năm 2000 trước công nguyên, cái chết được xem là mang lại ý nghĩa cho sự sống. Tại chân một vách đá là thi thể co quắp bấy nát của Nofret, thiếp yêu của một giáo sĩ. Trẻ, đẹp và ác dạ, hầu hết mọi người đồng ý rằng đó là định mệnh - cô ta đáng phải chết như một con rắn! Tuy nhiên tại nhà của cha mình bên bờ sông Nile, cô con gái Renisenb của giáo sĩ lại nghĩ rằng cái chết của người phụ nữ thật đáng ngờ. Càng ngày cô càng tin mầm mống của cái ác nảy nở trong nhà mình - và chứng kiến một cách bất lực những mê đắm của gia đình trong cảnh chết chóc. Agatha Christie sinh tưởng tại Devonshire nước Anh. Bà khởi sự viết văn từ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong suốt mấy chục năm cầm bút, bà đã làm cho thế giới kinh ngạc và thán phục không những về số lượng tác phẩm đồ sộ, về tài xếp đặt, bố trí các tình tiết một cách chặt chẽ, khéo léo, hay "nghệ thuật đánh lạc hướng" có một không hai - vốn là yếu tố quyết định sự thành công của một cuốn tiểu thuyết trinh thám - mà còn về nhãn quan sắc sảo tinh tế của bà về tâm hồn con người qua những xung đột, phát triển nội tâm về tính nhất quán và đột biến của hành vi con người. Chính do điều đó, một số tác phẩm của Agatha Christie không chỉ dừng lại ở phạm vi giá trị của thể loại tiểu thuyết trinh thám, chúng còn đặt ra những vấn đề về con người buộc chúng ta phải suy nghĩ, băn khoăn. Là vợ của một nhà khảo cổ học tiếng tăm, bản thân bà cũng đã từng đi điền giã khảo cổ nhiều lần ở vùng Cận Đông. Lần này, trong "Tận cùng là cái chết", bạn đọc sẽ được cuốn hút vào những tội ác xảy ra tại Ai Cập Cổ Đại, bên bờ sông Nile hai ngàn năm trước Công nguyên. Ở đây, Agatha Christie đã mô tả thật đặc sắc những uẩn khúc của tâm hồn con người, lột tả và lên án gay gắt thói ích kỷ, sự sụp đổ của nền tảng đạo đức, trật tự gia đình dưới sự chi phối của vật chất đến mức lên án của chế độ phong kiến, chế độ nô lệ. Tầng sâu của tư tưởng tác giả, qua "Tận cùng là cái chết", còn nhằm tố cáo những khía cạnh suy đồi đó của xã hội tư sản, đế quốc đương thời, nơi mà "sự phát triển của con người không theo hướng tốt hơn, lớn lao hơn, mà nó nuôi dưỡng điều ác" - như lời Hori, một nhân vật trong tiểu thuyết đã nói. Bạn đọc Việt Nam đã từng làm quen với Agatha Christie qua các tiểu thuyết "Cái chết trước sân gôn", "Bí mật chiếc bình xanh"... Lần này chúng tôi giới thiệu Agatha Christie qua tiểu thuyết "tận cùng là cái chết" theo bản tiếng Việt của Tuấn Việt dịch. *** Imhotep ngồi co quắp người lại. Trông ông già hơn nhiều, chỉ còn là một ông cụ còm cõi và rã rời. Nét mặt ông trông ngớ ngẩn thảm hại. Henet mang thức ăn lại và cố ép ông ăn: - Nào, nào, ngài Imhotep, phải giữ gìn sức khỏe mới được. - Tại sao chứ? Mà sức khỏe là gì chứ? Ipy khỏe - khỏe, trẻ và đẹp - và giờ đây nó đang nằm trong buồng ướp xác. Con trai của ta, đứa con trai ta thương yêu nhất đời. Đứa con trai cuối cùng của ta. - Không, không, ngài Imhotep, ngài còn có cậu Yahmose mà. - Trong bao lâu nữa? Không, thằng Yahmose cũng sắp tiêu rồi. Tất cả chúng ta đều sẽ chết hết. Điều quỷ quái nào đó đổ lên trên chúng ta vậy nhỉ? Ta đâu có biết được những tai họa như thế này xảy ra khi ta đem cái con hầu đó về nhà? Đó là một chuyện ai cũng thừa nhận, một điều đúng đắn và phù hợp với luật của người cũng như luật của thần linh. Ta cũng trân trọng nó. Thế thì tại sao những điều này lại xảy đến cho ta? Hay là chính Ashayet đã trả thù ta? Chính nàng chứ không phải Nofret đã không tha thứ cho ta? Rõ ràng nàng đã không đáp lại lời thỉnh nguyện của ta. Những điều ác sẽ còn tiếp diễn nữa. - Không, không, ngài không được nói như vậy. Mới một thời gian quá ngắn kể từ khi chúng ta dâng lễ vật với lời nguyện lên bà Ashayet. Ai lại chẳng biết việc xử kiện là việc làm tốn rất nhiều thời giờ, trước pháp đình việc kiện cáo nhiều khi hoãn đi hoãn lại mãi rồi đến các quan giám sát lại còn lâu hơn nữa. Công lý là công lý, trong đời này cũng như đời sau, một việc kiện tụng càng diễn ra chậm chạp thì lại càng được phân xử công minh vào lúc chung cục ngài ạ. Imhotep vẫn cứ lắc đầu ngờ vực. Henet tiếp tục: - Vả lại, ngài Imhotep ạ, ngài phải nhớ rằng cậu Ipy không phải là con của bà Ashayet - cậu là con của bà Ankh, vợ kế của ngài. Vì thế, làm sao mà bà Ashayet có thể hết mình lưu tâm vì cậu ta được? Nhưng với cậu Yahmose thì khác - cậu Yahmose sẽ lành bệnh, bởi vì bà Ashayet ở trên kia sẽ can thiệp để cậu ấy phải bình phục. - Henet, ta phải thú nhận rằng lời mụ an ủi ta rất nhiều... mụ nói nhiều điều đúng lắm. Quả thật hiện giờ thằng Yahmose hàng ngày hồi phục được một ít. Nó quả là một đứa con tốt, trung thành. Nhưng mỗi khi ta nghĩ đến thằng Ipy của ta... một trí thông minh như vậy, một sắc đẹp như vậy... Imhotep lại rên rỉ. - Trời ơi hỡi trời! Henet cũng rên lên trong niềm thông cảm với ông. - Cái con đàn bà khốn nạn với sắc đẹp đáng nguyền rủa của nó! Ước chi ta đã đừng để mắt đến nó. - Đúng vậy, đúng vậy, thưa chủ nhân. Nó đúng là con gái của ma vương. Nó có học ma thuật và bùa chú, điều đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Có tiếng gậy đập lên nền nhà và Esa khập khiễng bước vào khách sảnh. Bà khịt mũi chế nhạo: - Sao đấy, không còn một ai trong nhà này còn chút lý trí hay sao? Các người không có việc gì hơn là ngồi buông ra những lời nguyền rủa một cô gái bất hạnh, một cô gái quen thói thù vặt và ranh mãnh, được thúc giục thêm bởi cách xử sự ngu ngốc của những con vợ ngu ngốc của những đứa con trai ngu ngốc của con. - Thói thù vặt và ranh mãnh, mẹ gọi như vậy được sao mẹ? Trời ơi, ba đứa con trai của tôi, hai đứa đã chết, còn một đứa thì đang chết. Thế mà mẹ tôi lại nói tôi những lời như vậy! - Có lẽ phải cần có một người nào đó nói với con những điều như vậy, vì con không thể nhận thức sự việc đúng như nó vốn có. Hãy giũ sạch trong đầu óc con cái sự mê tín xuẩn ngốc về linh hồn của một cô gái trở về báo thù đi. Đây là một bàn tay người sống đã đè đầu thằng Ipy xuống hồ, và một bàn tay người sống đã rót thuốc độc vào trong rượu mà thằng Yahmose và Sobek uống. Con có một kẻ thù, đúng vậy, Imhotep ạ, một kẻ thù ở ngay trong nhà này. Và chứng cớ là từ khi con làm theo lời khuyên của Hori để con Renisenb nấu thức ăn cho thằng Yahmose, hoặc để cho một tên nô lệ nấu nhưng nó canh chừng rất kỹ và tự tay nó bưng cho thằng Yahmose ăn, từ khi đó, mẹ bảo con rõ, thằng Yahmose hồi phục lại sức khỏe ngày một. Cố gắng đừng tỏ ra ngốc nữa, con cứ ngồi rên rỉ và vò đầu bức tai mãi, về mấy chuyện này thì mụ Henet giúp con nhiều lắm... - Ôi cụ Esa, cụ nói oan cho con lắm! - Và mẹ bảo con, về chuyện này, Henet giúp con không biết là vì mụ cũng ngốc hay vì một lý do nào khác... - Xin thần Re tha thứ cho cụ vì cụ đã tỏ ra độc ác với một người đàn bà đơn độc và bất hạnh. Bất chấp Henet, Esa huơ cây gậy trong một cử chỉ mạnh mẽ: - Imhotep, hãy cương nghị lên, và cố gắng suy nghĩ. Ashayet, người vợ đã khuất của con, nhận tiện đó là một người đàn bà rất đáng yêu và không ngốc tí nào, có thể gây ảnh hưởng cho con từ thế giới bên kia, nhưng khó có thể suy nghĩ thế cho con trong thế giới này! Chúng ta phải hành động Imhotep ạ, nếu chúng ta không muốn có thêm một người chết nữa trong nhà này. - Một kẻ thù trong nhà này? Và là người sống? Mẹ thật sự tin như vậy sao mẹ? Nhưng như vậy thì nghĩa là tất cả chúng ta đều nguy hiểm? - Chắc chắn rồi. Chúng ta bị nguy hiểm không phải bàn tay của hồn ma bùa quỷ gì cả mà bởi sức mạnh của con người, bởi những ngón tay người sống đã rót thuốc độc vào thức ăn thức uống, bởi một khuôn mặt người lò dò theo sau thằng Ipy đang từ làng trở về nhà giữa đêm khuya và ấn mạnh đầu nó xuống dưới hồ. Imhotep trầm ngâm: - Làm được vậy cần phải có sức mạnh. - Trông bề ngoài thì đúng vậy, nhưng mẹ cũng không chắc lắm. Thằng Ipy đã say mèm vì rượu bia ở làng. Có thể nó bước thấp, bước cao đi về nhà, và không đề phòng gì người cùng đi với nó, nó bèn cúi đầu xuống hồ rửa mặt cho mát. Và lúc đo thì không cần nhiều sức lực lắm. - Mẹ cố nói gì vậy mẹ? Mẹ muốn nói rằng chính một người phụ nữ đã làm điều đó? Nhưng, không thể được. Toàn bộ chuyện đó là không có thể! Không thể nào có kẻ thù trong nhà này, nếu có thì chúng ta phải biết, con phải biết. - Con ạ, tội ác nằm ở nơi con tim chứ không biểu lộ trên nét mặt đâu. - Mẹ muốn nói một trong bọn đày tớ hoặc nô lệ? - Không phải đày tớ cũng không phải nô lệ, Imhotep ạ. - Một trong chúng ta? Hoặc người khác... có phải mẹ muốn nói Hori hoặc Kameni? Nhưng Hori thì cũng như người trong gia đình. Nó xưa nay vẫn trung thành và đáng tin cậy. Còn Kameni? Nó là một người lạ thật đấy, nhưng nó thuộc đẳng cấp với chúng ta và nó đã chứng tỏ lòng nhiệt thành tận tụy của nó khi làm việc cho con. Mới sáng nay nó vừa đến gặp con đã thúc giục con bằng lòng cho nó cưới Renisenb. - Ồ, thế hả? Esa tỏ ra chú ý - Và con trả lời sao? - Con trả lời sao được? Imhotep sốt ruột. Lúc này có phải là lúc nói chuyện cưới hỏi đâu, con đã bảo nó vậy. - Thế nó bảo sao? - Nó bảo rằng theo ý nó thì đây chính là lúc nói chuyện cưới hỏi. Nó bảo Renisenb không an toàn trong nhà này. - Mẹ tự hỏi - Esa nói - Mẹ tự hỏi rất nhiều... Có phải chính là con ấy không? Trước đây mẹ nghĩ nó là... - và Hori cũng nghĩ vậy - nhưng bây giờ. ... Mời các bạn đón đọc Tận Cùng Là Cái Chết của tác giả Agatha Christie.
Tại Sao Không Là Evans - Agatha Christie
Tác phẩm Tại sao không là Evans? có tựa gốc là Why Didn't They Ask Evans? Tác phẩm này còn được xuất bản dưới tựa là Người trong ảnh. Khi chàng Bobby Jones, con trai thứ tư của một mục sư sống tại làng Marchbolt, trong một trận gôn đã đánh chệch đường banh vào vách núi, và khi đi tìm lại trái banh gôn ấy, anh phát hiện ra một tai nạn: một người đàn ông bị té xuống vực núi, do thời tiết lúc ấy đầy sương mù. Người đàn ông ấy đang hấp hối. Trước khi chết, trong giây phút tỉnh táo duy nhất, ông ta nói một câu "Tại sao không là Evans?". Bobby giúp phủ mặt người chết bằng chính chiếc khăn tay lấy ra từ túi của ông ta, và khi anh kéo khăn ra, một tấm hình của một phụ nữ xinh đẹp cũng rơi ra theo. Người chết được nhận dạng là Alex Pritchard bởi người em gái. Cô em gái này, theo báo chí, thì được tìm thấy nhờ vào tấm hình trong túi của người chết. Khi đến làm chứng trước tòa với tư cách người phát hiện ra nạn nhân đầu tiên, Bobby thật ngỡ ngàng khi người em gái có mặt tại tòa hoàn toàn khác xa với người trong ảnh. Với bản tính thật thà, chân thật, Bobby đã viết thư cho "người em gái" của nạn nhân để nhắc lại lời nói của cùng mà Alex Pritchard đã nói với anh khi hấp hối. Và cũng vì việc cung cấp tin tức này mà Bobby - với sự hợp tác của tiểu thư Frances Derwent, tên gọi thân mật là Frankie - bị lôi kéo vào một cuộc phiêu lưu, trong đó tính mạng anh và Frankie nhiều lần bị đe dọa. *** Frankie sững sờ. - Bây giờ thì cô hiểu chứ! - Bobby như bị kích động kêu lên - Câu hỏi của cô rất giống câu hỏi của ông Alan Carstairs. Tại sao không là bà hầu phòng? Tại sao không là Evans? - Ô! Bobby, chúng ta thành công rồi! - Cái điều nghịch thường ấy cũng đã xuất hiện trong tâm trí của ông Alan Carstairs và thế là ông ấy đi tìm những chuyện khác thường trong bản di chúc. Theo tôi, ông ấy đến Galles cũng vì lý do ấy. Gladys Evans là cái tên thường thấy ở Galles và chắc hẳn bà Evans là người vùng này. Ông Carstairs về Marchbolt tìm bà Evans nhưng bị một kẻ nào đó theo dõi… và ông ta không gặp được bà này. - Nhưng tại sao người ta không gọi bà Evans đến ký vào bản di chúc? - Frankie nhắc lại - chắc chắn có lý do, mà là lý do quan trọng. Đã có hai bà giúp việc trong nhà, tại sao lại đi gọi ông làm vườn? - Thế này: Rose Cludleigh và Albert Mere là những kẻ ngốc nghếch, còn Evans là một phụ nữ thông minh. - Còn vấn đề nữa. Ông Elford lúc ấy cũng có mặt tại đấy, chắc chắn ông ấy sẽ nhận ra những chuyện gian dối nếu có. Bobby, đây là cái nút phải gỡ cho ra: Tại sao người ta dùng bà Cludleigh và ông Mere làm nhân chứng chứ không dùng bà Evans? Mọi điều bí mật là ở đấy... Khoan đã! Có phải do... Frankie đứng yên, nhìn thẳng phía trước nhưng hình như không trông thấy gì cả, sau đó lại nhìn Bobby, mắt sáng lên một cách khác thường. - Bobby, khi anh được mời đến nghỉ tại một ngôi nhà có hai bà hầu thì anh cho ai tiền thưởng trước? - Cho bà hầu phòng. Người ta không thưởng bà nấu bếp vì đơn giản là người ta không nhìn thấy bà này bao giờ. - Không thường xuyên nhìn thấy thôi. Nếu anh ở lâu ở nhà bạn và hay đi lại thì đôi khi anh cũng nhìn thấy bà nấu bếp. Còn bà hầu phòng thì hàng ngày mang bữa ăn sáng vào phòng cho anh, phục vụ bàn ăn cho anh... - Cô muốn dẫn tôi đi đâu đây, Frankie? - Người ta không gọi bà Evans đến ký tên vào bản di chúc vì bà ta sẽ nhận ra người để lại di chúc không phải là ông Savage. - Frankie, vậy người đó là ai? - Roger Bassington-ffrench! Hắn đóng giả và thế chân ông Savage. Tôi cũng khẳng định là chính Roger đã đi khám bác sĩ và đã sáng tác ra câu chuyện ung thư. Sau đó hắn cho người đi mời ông chưởng khế, người chưa bào giờ biết mặt ông Savage nhưng lại sẵn sàng thề đã chứng kiến ông này ký tên vào bản di chúc trước hai nhân chứng mà một người lần đầu tiên nhìn thấy "ông Savaga" còn người kia thì mắt kém và chưa chắc gặp người ký di chúc lần nào. Anh hiểu chứ?... - Nhưng lúc ấy ông Savage thật ở đâu? - Ông ta ở Londres. Nhưng tôi giả thiết rằng ông ta đã bị nhốt ở kho đồ cũ trước đó để Roger Bassington-ffrench có đủ thời gian làm trò lừa đảo của mình. Sau đó hắn giết ông bằng clô-rô-phoóc và đặt ông lên giường để bà Evans thấy ông đã chết vào sáng hôm sau. - Frankie, tôi công nhận ý kiến cô là đúng, nhưng làm thế nào để chứng minh được? - Tôi không biết...ít nhất là đưa cho bà Rose Cludleigh, tức là bà Pratt, xem một bức ảnh của ông Savage. Có thể bà này sẽ nói: "Đây không phải là người ký bản di chúc!" - Tôi không tin vì bà ta quá ngu dại. - Chính vì thế nên người ta mới chọn bà ấy. Nhưng nếu có một nhà chuyên môn có thể biết chữ ký giả thì sao? - Nhưng toà án đã không làm được việc này. - Vì không ai nêu vấn đề này lên. Cho đến lúc này không ai nghĩ đây là một bản di chúc giả. Bây giờ thì khác rồi. - Trước hết - Bobby nói - Chúng ta phải tìm cho ra Gladys Evans. Chắc chắn bà này biết nhiều chuyện. Xin nhớ là bà ấy đã làm việc cho nhà Templeton trong sáu tháng. - Tìm bà ta ở đâu? - Chúng ta thử hỏi trạm bưu điện xem - Bobby gợi ý. Hai người cùng tới trạm bưu điện. Frankie bước vào và bắt chuyện. Trong trạm chỉ có một nhân viên nhận và phát thư. một cô gái mũi dài một cách kỳ cục. Frankie mua vài con tem, nói chuyện thời tiết rồi cuối cùng nói thêm: - Ở đây thời tiết dễ chịu hơn địa phương chúng tôi. Tôi ở Galles… tại làng Marchbolt. Cô không biết ở vùng chúng tôi trời mưa như thế nào đâu. Cô gái mũi dài nói ở đây cũng đang trong mùa mưa và chủ nhật trước trời mưa tầm tã suốt ngày. Frankie nói: - Ở làng Marchbolt tôi đã có dịp gặp một người sinh trưởng tại đây. Bà ta tên là Evans... Gladys Evans. Có thể cô biết bà này, đúng không? Người thu phát thư trả lời không chút nghi ngờ: - Đúng thế. Tôi biết bà này. Bà ấy làm việc ở Tudor Cottage. Bà ấy không phải là người ở đây mà từ Galles tới. Bà ấy đã trở lại đấy để lấy chồng. Bây giờ bà ấy là bà Roberts. - Cô có biết chính xác bà ta đang ở đâu không? Tôi mượn của bà ta chiếc áo đi mưa nhưng quên chưa trả lại. Nếu biết địa chỉ tôi sẽ gìn trả theo đường bưu điện. - Dễ thôi. Thỉnh thoảng bà ấy có gửi cho tôi một tấm bưu ảnh. Vợ chồng bà ấy làm việc cùng một nơi. Xin đợi một phút. Cô gái lục trong đống giấy tờ. Sau đó cô đặt một tờ giấy lên quầy. - Đây! Bobby và Frankie cùng cúi xuống đọc. Họ không đợi một sự bất ngờ như vậy: "Bà Roberts, nhà xứ làng Marchbolt, Galles". ... Mời các bạn đón đọc Tại Sao Không Là Evans của tác giả Agatha Christie.
Rượu Độc Lóng Lánh - Agatha Christie
Cuốn tiểu thuyết trinh thám "Rượu độc lóng lánh" của tác giả Agatha Christie được giới chuyên môn đánh giá là một thành công lớn bởi giá trị nhân văn của nó. Với việc xây dựng cốt truyện hấp dẫn, linh hoạt, tác giả đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, mà nhân vật trung tâm là Iris Marle. Mối quan hệ phức tạp nhưng đầy thú vị giữa các nhân vật, và cách giải quyết những mâu thuẫn của họ khiến câu chuyện trở nên rất sinh động, qua đó thể hiện rõ nét cái nhìn của tác giả về thế giới hiện đại ngày nay.  *** Được mệnh danh là 'nữ hoàng tiểu thuyết trinh thám', Agatha Christie là nhà văn người Anh ăn khách nhất trên thế giới trong thể loại này. Hơn 3 thập niên sau ngày bà qua đời, dường như chưa có tác giả nào soán ngôi Agatha Christie (1890-1976) trong thể loại tiểu thuyết trinh thám. Nữ nhà văn này được xem như là một hiện tượng văn học và được giới chuyên gia dày công nghiên cứu không kém gì tác giả truyện trinh thám Arthur Conan Doyle, cha đẻ của thám tử tài ba Sherlock Holmes. Ở cái thuở ban đầu không dễ quên ấy, bà bước vào nghiệp văn với lý do hết sức ngẫu nhiên tình cờ. Trong một cuộc trò chuyện giữa mấy chị em gái, các chị của bà cho rằng tiểu thuyết trinh thám rất chán bởi vì chỉ cần xem một vài trang là người đọc đã biết ngay kẻ nào là thủ phạm rồi. Không đồng tình với những ý kiến đó của các chị mình, Agatha Christie đã lặng lẽ dấn thân vào nghề viết như muốn phản biện lại quan niệm của các chị. Và dường như đây chính là mối tơ duyên gắn kết cuộc đời bà với hoạt động sáng tác văn học. Bà đã viết với tất cả vốn hiểu biết và lòng say mê của mình. Tưởng chừng làm thử một cú, nào ngờ trở thành bậc thầy. Với trí tưởng tượng phong phú dồi dào, Agatha Christie đã đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tạo ra nhiều sự gay cấn hồi hộp khiến người đọc khi cầm sách trong tay muốn đọc liền một mạch, như thể cặp mắt bị dán vào các dòng chữ sinh động. Bằng lối tư duy thời gian, hạn chế đến tối đa sự đoán trước của người đọc về tính cách, số phận của các nhân vật cũng như kết thúc câu chuyện… tiểu thuyết trinh thám của Agatha Christie có một sức hấp dẫn đến kỳ lạ. *** Iris Marle nghĩ về chị cô Rosemary. Trong gần một năm, cô đã cố tình xua đuổi khỏi tâm trí mình hình ảnh của Rosemary. Cô không muốn nhớ lại gì cả. Điều đó thật khủng khiếp và đáng sợ. Khuôn mặt tím tái, đôi tay cứng đờ với những ngón co quắp… Hình ảnh đó thật là trái ngược với Rosemary của ngày hôm trước vui vẻ và đáng yêu đến thế… Nói là vui vẻ thì, cũng chưa hẳn là chinh xác… Chị ấy vừa bị cúm, suy sụp và ủ rũ. Điều đó đã được nhấn mạnh trong cuộc điều tra và chính Iris cũng chú trọng vào điểm đó. Nó giải thích cho sự tự sát của Rosemary phải vậy không? Cuộc điều tra kết thúc: Iris đã cố gắng xua đuổi tất cả những cái đó ra khỏi tâm trí. Nhớ lại có ích gì? Tốt nhất là hãy quên đi… Quên đi tất cả những chuyện khủng khiếp này. Vậy mà bây giờ cô nhận thấy là cần phải nhớ lại Cô nhớ về quá khứ… Cô nhớ lại cả những điều lặt vặt thậm chí cả những việc có vẻ như chẳng có ích lợi gì… Cuộc nói chuyện lạ lùng tối hôm qua với George đã lên án anh ta. Việc đó thật là bất ngờ và làm đảo lộn tất cả… Nhưng có thật là cô đã bị bất ngờ không? Chẳng phải đã có một số dấu hiệu để cho cô nhìn thấy trước? Ví dụ vẻ bận rộn ngày càng tăng của George, sự đãng trí của anh ta, thái độ không thể giải thích được của anh ta và… Chúa ơi phải rồi, sự kỳ quặc của anh ta… Tất cả những cái đó chính là những chỉ dẫn… Và tối hôm qua, anh ta đã gọi cô vào văn phòng và rút từ ngăn kéo ra những bức thư… Không, giờ đây cô sẽ không thể làm việc gì khác. Cô cần phải nghĩ về Rosemary. Ước gì cô nhớ lại được Rosemary… Chị gái của cô… Đột nhiên Iris ngạc nhiên nhận thấy rằng đây là lần đầu tiên trong đời cô nghĩ về Rosemary. Ít nhất là cô cũng nghĩ về chị cô một cách khách quan như về một người nào khác. Cô đã luôn luôn chấp nhận Rosemary mà không hề thắc mắc chút nào về những lời gièm pha chị ấy. Người ta không nghĩ về mẹ mình, cha mình, chị mình hoặc cô mình. Họ tồn tại và chỉ có vậy thôi và người ta cũng không đặt ra những câu hỏi về họ. Người ta chỉ nghĩ về họ như những con người. Người ta thậm chí cũng không tự hỏi họ là ai. Rosemary, chị ấy là ai? Biết được điều đó là rất quan trọng trong lúc này. Biết bao nhiêu việc phụ thuộc vào phát hiện này. Iris kiên quyết đưa ý nghĩ của mình quay về quá khứ. Cô thấy lại mình thời ấu thơ - với Rosemary, chị gái hơn cô 6 tuổi. Những mảnh vụn của quá khứ quay về trong cô loang loáng như những bức tranh, những màn kịch thoáng qua. Cô thấy lại mình bé xíu, đang ngồi ăn sáng, nhúng bánh mì vào sữa. Rosemary, tóc tết bím đỏm đáng làm bộ quan trọng vì có bài tập phải làm. Sau đó, vào mùa hè, trên bãi biển, Iris thèm muốn nhìn Rosemary, đã là "người lớn" và đã biết bơi. Rồi Rosemary vào học nội trú và chỉ về nhà vào kỳ nghỉ. Sau đó cô lại nhìn thấy chính mình vào học nội trú. Còn Rosemary, chị cô vừa kết thúc khoá học ở Paris. Khi ra đi chị cô còn là một nữ sinh, chân tay vụng về lóng ngóng. Vậy mà khi trở về chị cô đã thay đổi hẳn. Một Rosemary mới lạ, đáng kinh ngạc, sang trọng, duyên dáng, giọng nói mượt mà và dáng đi uyển chuyển. Chị ấy có mái tóc đẹp màu hạt dẻ sẫm, cặp mắt to xanh biếc viền bởi hàng mi dài cong vút. Một sinh linh tuyệt đẹp, chuyển động trong một thế giới hoàn toàn khác với thế giới của Iris. Cũng từ lúc đó, họ gặp gỡ nhau rất ít. Chưa bao giờ, chênh lệch 6 năm tuổi giữa họ lại rõ rệt như bây giờ. Iris văn đi học: Rosemary nếm trải mọi thú chơi "thời thượng". Thậm chí khi Iris đến London, họ vẫn sống xa cách. Cuộc sống của Rosemary ra sao? Buổi sáng dậy muộn, tiệc tùng với bạn bè và khiêu vũ hầu hết các tối. Còn Iris, cô ngồi trong phòng học với "Mademoiselle", cô gia sư người Pháp, đi dạo với cô gia sư trong công viên Hyde Park. Ăn tối lúc 9 giờ và 10 giờ thì lên giường ngủ. Mỗi liên hệ giữa hai chị em chỉ giới hạn trong những câu trao đổi ngắn ngủi ví dụ như: "Iris, em gọi lại cho chị được không? Em thật đáng yêu! Chị bị muộn quá mất rồi." hoặc "Em không thích cái váy mới của chị, Rosemary. Nó không hợp với chị đâu, nhiều thứ trang trí quá?" Rồi Rosemary đính hôn với George Barton. Khoảng thời gian sôi động: mua sắm ở các cửa hàng, hàng đóng gói, bọc trang phục của các cô phù dâu. Tại lễ cưới, đi trong nhà thời đằng sau Rosemary, cô nghe thấy tiếng thì thầm: - Cô dâu mới xinh đẹp làm sao! ,,, Mời các bạn đón đọc Rượu Độc Lóng Lánh của tác giả Agatha Christie.
Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ
Sheila Webb nghĩ mình đến gặp một quý bà bị mù đợi cô ở nhà số 19 khu Wilbraham Crescent - chứ không phải là gặp một cái xác đàn ông trên sàn nhà. Nhưng khi cô Pebmarsh phủ nhận việc yêu cầu cử cô Sheila Webb đến đây, cũng như không hề sở hữu những chiếc đồng hồ hiện diện xung quanh cái xác, rõ ràng họ cần đến một thám tử tài ba. “Vụ án quá phức tạp nên hẳn nhiên nó phải rất đơn giản,” Hercule Poirot tuyên bố. Nhưng kẻ sát nhân vẫn lộng hành còn thời gian thì cứ trôi đi… Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng với sự kiện Hercules Poirot không hề đến hiện trường xảy ra tội ác hoặc thẩm vấn nhân chứng hay người bị tình nghi. Ông bị thách thức chứng minh rằng có thể giải quyết một vụ án chỉ bằng kinh nghiệm và trí thông minh. *** Một con người có khả năng đấy! - Anh đăm chiêu nói. - Tôi khó biết nổi anh ta muốn đi đến đâu. - Chắc là anh ta không đầu hàng mà sớm hiểu ra. - Bà Tanios đã phôn cho tôi lúc nãy. - Tôi thông báo. - Tôi đã nghĩ thế. Tôi báo cho anh biết lời ủy thác. - Tốt. Mọi sự đang tiến triển như ý. Trong hai mươi bốn giờ nữa, Hastings, chúng ta sẽ được biết chính xác. - Tôi hãy còn lưỡng lự. Ai đúng là kẻ để chúng ta ngờ vực? - Tôi không thể nói người nào anh nghi ngờ, Hastings! Mọi người, lần lượt, tôi đang nghĩ ra hắn! - Đôi khi tôi có cảm giác rằng anh lấy làm thích thú để tôi rơi vào tình trạng không biết đâu mà lần! - Không, không, trò vặt ấy không làm tôi vui lắm đâu! - Tôi không tin là anh chịu bó tay trong việc này. - Tôi đáp. Poirot im lặng, vẻ lo lắng. Tôi hỏi anh: - Anh đang có điều gì, trong lúc này vậy? - Này anh bạn, khi sắp kết thúc một cuộc điều tra hình sự, tôi luôn luôn cảm thấy căng thẳng thần kinh. Có thể điều gì đó sắp xảy ra? - Anh muốn điều gì xảy ra? - Tôi không biết, anh ạ. (Anh nhíu mày và nói thêm) Tôi cho rằng đã làm hết khả năng... - Trong trường hợp này, hãy quên vụ án này đi và hãy đi đến rạp chiếu bóng, nào, mời anh! - Đúng đấy, Hastings, một ý kiến hay đấy! Chúng tôi có một buổi tối tuyệt vời, mặc dầu tôi đã phạm sai lầm là đưa Poirot đi xem một bộ phim hình sự. Một lời khuyên các bạn đọc rằng: đừng bao giờ đưa một người lính đi xem một vở kịch về chiến tranh, một thủy thủ một vở về hàng hải, một thám tử một vở về hình sự... Hàng tràng dài những câu phê bình của họ sẽ làm các bạn chán ngấy cuộc biểu diễn ấy. Poirot phát hiện ra một ngàn lẻ một chỗ yếu kém về tâm lý của bộ phim và sự thiếu phương pháp và thứ tự của thám tử xuýt làm cho anh phát điên. Khi ra về Poirot còn giải thích cho tôi rằng có thể đã vạch trần điều bí mật ngay ở nửa đầu của cuốn phim đầu. - Vô lý, không thể có phim khá thế đâu, anh Poirot! Poirot phải chấp nhận là tôi có lý. Sáng hôm sau độ hơn chín giờ một chút, tôi đến nhà bạn tôi. Tôi thấy anh đang vừa ăn sáng vừa mở các phong bì của chuyến thư tín. Điện thoại reo. Tôi cầm ống nghe. Một giọng hổn hển nói: - Có phải ông đấy không, ông Poirot? Ồ! Hóa ra là ông, đại úy Hastings? Tôi nghe thấy một thứ tiếng thở dài, và tiếng nức nở. - Có phải bà Lawson đang nói đấy không? - Tôi hỏi. - Vâng, vâng, đã xảy ra một chuyện khủng khiếp. - Cái gì vậy? - Cô ấy đã rời khách sạn Wellington... Tôi muốn nói về Bella. Tôi đã đến đó chiều hôm qua và người ta đã trả lời tôi rằng cô ấy đã đi rồi. Cô ấy cũng không để lại cho tôi một thông tin nào. Không có gì! Thật là lạ! Dù sao, bác sĩ Tanios có lẽ đã có lý. Ông nói về cô ấy bằng một giọng rất dịu dàng, và có vẻ rất buồn đến nỗi tôi phải tự hỏi rằng ông ta đã không thành thực chăng. - Nào, bà Lawson, hãy nói tôi biết điều gì đã xảy ra. Phải chăng chỉ là bà Tanios đã rời khách sạn mà không báo cho bà biết trước? - Ồ không! Nếu như chỉ là thế? Bác sĩ Tanios nói rõ rằng vợ ông ấy không còn nữa... Tóm lại, ông hiểu điều tôi muốn nói... Ông ta gọi bệnh này, là chứng trưng cảm truy bại. - Vâng. Điều gì đã xảy ra vậy? - Ồ! Thật khủng khiếp! Chết trong giấc ngủ... Liều thuốc ngủ quá mạnh! Và những đứa trẻ tội nghiệp! Buồn biết bao! Tôi chỉ biết khóc từ khi tôi biết tin này! - Bà đã biết tin ấy thế nào? Bà hãy kể tôi nghe chi tiết đi. Trong khóe mắt, tôi nhìn thấy Poirot đã ngừng mở các lá thư và đang lắng tai nghe. - Người ta đã gọi tôi qua điện thoại. Từ khách sạn... Khách sạn Coniston. Hình như người ta tìm thấy tên tôi và địa chỉ của tôi trong túi cầm tay của cô ấy. Ồ! Đại úy Hastings, khủng khiếp quá phải không? Những đứa trẻ ấy không còn mẹ nữa! - Hãy nghe tôi. Bà có chắc là đó là một tai nạn không? Đừng nghĩ nhiều đến một vụ tự sát? - Ôi, một ý kiến đáng sợ, đại úy Hastings! Tôi không biết gì cả. Ông có cho đó là một vụ tự sát không? Điều đó sẽ còn kinh khủng hơn! Cô ta có vẻ rất suy sụp... vô lý, tôi cam đoan với ông như vậy. Cô ấy không có khó khăn gì về tiền bạc cả vì tôi đã sẵn sàng chia sẻ với bà ấy... Tôi xin thề với ông về việc đó! Tiểu thư Arundell muốn thế, tôi có tình cảm với bà ấy. Và nghĩ rằng bà ấy có thể sẽ tự sát... Nhưng có thể là không đúng như thế... Những người của khách sạn nói đến một tai nạn. - Bà ấy đã dùng cái gì? - Một loại thuốc ma túy để ngủ. Veronal. Không, đúng hơn là Chloral. Vâng chính là Chloral. Ô, đại úy Hastings, ông có nghĩ... Không quá câu nệ, tôi đặt lại ống nghe và quay sang Poirot. - Bà Tanios... Poirot giơ bàn tay lên. - Phải tôi biết điều anh sắp thông báo cho tôi rồi. Bà ấy đã chết phải không? - Vâng, một liều mạnh thuốc ngủ, thuốc Chloral. Poirot đứng dậy. - Đến đấy, Hastings. Ta đi đến đấy ngay lập tức! - Phải chăng đó là cái kết cục mà anh đã sợ hãi chiều hôm qua? Anh chẳng đã nói rằng vào lúc kết thúc cuộc điều tra hình sự, anh luôn luôn cảm thấy căng thẳng thần kinh đó sao? - Vấn đề là một cái chết khác. - Poirot nói, mặt xị xuống. Trong khi phóng xe đi Euston chúng tôi gần như không nói gì cả. Đến lúc thấy Poirot lắc đầu tôi mới rụt rè hỏi anh: - Anh có nghĩ... Phải chăng là một tai nạn? - Không, Hastings, không. Không phải là một tai nạn. - Làm sao biết? Poirot không trả lời tôi. Cuối cùng chúng tôi đến khách sạn Coniston. Poirot, bỗng có cử chỉ thô bạo, chìa thẻ của mình ra và xông thẳng vào văn phòng giám đốc. Người ta kể lại cho chúng tôi các sự kiện. Một quý bà tên là Peters cùng với hai con đã đến khách sạn hôm qua lúc mười hai giờ rưỡi trưa. Họ ăn lúc một giờ. Lúc bốn giờ, một người đàn ông xuất hiện, mang một mảnh giấy cho bà Peters. Chúng tôi đem giấy lên. Vài phút sau bà ấy đi xuống cùng với hai con và một chiếc va-li. Bà giao các con bà cho người khách, rồi quay lại văn phòng và giải thích rằng bà chỉ lấy một phòng thôi. Bà ấy không có vẻ đặc biệt chán chường, bà hình như cũng khá bình tĩnh. Bà ăn tối lúc bảy giờ rưỡi, và ít phút sau, đi lên phòng mình. Sáng hôm sau lúc cô hầu mang lên cho bà một tách trà, đã thấy bà ấy chết rồi. Một thầy thuốc được gọi đến vội vã, đã tuyên bố rằng bà ấy đã chết trước đó nhiều giờ. Chúng tôi tìm thấy một chai rỗng trên bàn đầu giường của bà ấy. Mọi sự chỉ rằng bà đã uống một loại thuốc ngủ và do lầm lẫn, bà đã dùng một liều quá mạnh. Thầy thuốc bảo rằng đó là Chloral. Không có gì để tin rằng đó là vụ tự sát. Chúng tôi không tìm thấy một lá thư nào cả. Khi lục lọi các đồ riêng của bà để báo cho gia đình, chúng tôi tìm thấy trong một cái túi cầm tay có tên và địa chỉ của bà Lawson chúng tôi đã báo cho bà này qua điện thoại. Poirot hỏi người ta không tìm thấy gì về mặt thư từ và giấy tờ... Chẳng hạn, lá thư được mang đến bởi người đàn ông đã đến tìm bọn trẻ. Người đối thoại đáp: không một tờ giấy thuộc bất kỳ loại nào được tìm thấy trong phòng cả, nhưng người ta thấy trong lò sưởi một đống giấy tờ đã cháy. Trong chừng mực mà người ta có thể khẳng định thì bà Peters không tiếp bất kỳ ai cả trừ người đàn ông đến mang các con bà đi. Bản thân tôi hỏi người gác cổng về dấu hiệu nhận dạng của người này, nhưng anh ta cho tôi biết một chân dung cũng khá mờ nhạt: vóc tầm thước, tóc vàng hoe, dáng vẻ một người lính, không có gì đặc biệt lắm trên thân thể. - Đó không phải là Tanios. - Tôi nói thầm với Poirot. - Hastings thân mến ơi! Anh có thật sự tin rằng bà Tanios sau biết bao khó nhọc mới mang đi được bọn trẻ khỏi bố chúng, lại ngoan ngoãn trả chúng lại cho ông ấy mà không than khóc cũng không phản đối gì cả ư? Không! Không đâu! - Vậy thì người này là ai? - Rõ ràng là một người nào đó đã có thể chiếm được niềm tin của bà Tanios, hay đúng hơn là một người nào đó được một người thứ ba có tín nhiệm của bà Tanios phái đến. Tư cách pháp nhân của người đến mang bọn trẻ nhà Tanios đi không quan trọng lắm. Tác nhân gây án thực sự hãy còn trong bóng tối. - Và mảnh giấy là của người thứ ba ấy à? - Phải. - Một người nào đó được bà Tanios tín nhiệm ư? - Nhất định là thế. - Và mảnh giấy bị cháy thì sao? - Phải, có thể là bà ấy có lệnh là phải đốt nó đi. - Còn bản tóm tắt vụ án mà anh đã đưa cho bà ấy thế nào? Poirot trả lời tôi, vẻ trịnh trọng: - Cũng đã đốt rồi. Nhưng toàn bộ việc ấy không có gì quan trọng cả. - A! Sao thế? - Vì tất cả còn lưu giữ trong đầu Hercule Poirot. Anh nắm vội cánh tay tôi. - Đi thôi! Hastings, hãy rời khỏi khách sạn này. Ta hãy để lại những người đã chết để ta săn sóc đến người đang sống. Họ đòi hỏi chúng ta phải hết sức cảnh giác. ... Mời các bạn đón đọc Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ - Agatha Christie.