Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sử Trung Quốc (Nguyễn Hiến Lê)

Nguyễn Hiến Lê hiệu là Lộc Đình, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1912 tại Hà Nội (giấy khai sinh ghi ngày 8-4-1912), quê làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây).

Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, thân phụ, bác ruột tham gia phong trào Duy tân ở Trường Đông Kinh nghĩa thục, người bị mất tích ở nước ngoài, người bị thực dân truy nã, người lẻn vào Sài Gòn rồi ẩn mình ở Đồng Tháp Mười. Từ đó, bác Ba ông sống lập nghiệp luôn ở miền Tây Nam Việt.

Thuở nhỏ, Nguyễn Hiến Lê học ở trường tiểu học Yên Phụ, Trường Bưởi, Trường Cao đẳng Công Chánh (Hà Nội). Năm 1934 tốt nghiệp được bổ làm việc tại các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, kể từ đó ông công tác và định cư luôn ở miền Nam cho đến ngày qua đời.

Năm 1935 bắt đầu viết du kí, kí sự, tiểu luận, dịch tác phẩm văn chương, đến năm 1945 có đến hàng chục tác phẩm, nhưng đã thất lạc trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Vì ông từng làm nhân viên Sở Công Chánh thuộc ngành Thuỷ lợi (Hydraulique) thường được đi các tỉnh miền Hậu Giang, Tiền Giang nên biết tường tận về đất đai và con người ở các địa phương thuộc khu vực này. Sau ngày Nam bộ kháng chiến (23-9-1945) ông bỏ đời sống công chức, tản cư về Đồng Tháp, Long Xuyên, đi dạy học. Năm 1952 thôi dạy, lên Sài Gòn sinh sống bằng ngòi bút và chuyên tâm vào công tác văn hoá.

Tác phẩm đầu tay của ông là cuốn du kí khoa học có tên: Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, sách tuy mỏng mà tác giả bỏ ra nhiều công sức. Nguyên sách được viết nhân một chuyến về Hà Nội thi lấy bằng kĩ sư do đề nghị của bạn học hiện là Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Thanh Nghị (Vũ Đình Hoè). Tác phẩm viết xong, nhưng gởi ra Hà Nội không được (vì chiến tranh), bản thảo bị mất trong Đồng Tháp Mười, năm 1954 ông viết lại, xuất bản trong năm đó và được tái bản nhiều lần. Từ đó, hàng năm ông có đôi ba tác phẩm ra mắt công chúng độc giả. Tìm mua: Sử Trung Quốc TiKi Lazada Shopee

Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực, mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ về các đối tượng, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới mà không thiếu tính nghệ thuật.

Tác phẩm của ông bao gồm nhiều chủ đề, như:

Ngôn ngữ học

Gương danh nhân

Tự luyện đức trí

Giáo dục

Cảo luận

Du kí

Dịch thuật

Triết học: Gồm Đại cương triết học Trung Quốc (2 cuốn - 1996), Nho giáo một triết lí chính trị (1958), Liệt tử và Dương tử (1972), Một lương tâm nổi loạn (1970), Bertrand Russell (1971), Mạnh tử (1974)…

Văn học: Gồm một số tác phẩm đặc sắc và công phu như: Hương sắc trong vườn văn (2 cuốn, 1962), Luyện văn (3 cuốn, 1953), Tô Đông Pha (1970), Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 cuốn, 1955), Văn học Trung Quốc hiện đại (2 cuốn, 1968)… giới thiệu được những tinh hoa của văn học nói chung và văn chương Việt Nam, Trung Hoa nói riêng.

Sử học: Gồm một số tác phẩm về lịch sử và văn minh thế giới như: Lịch sử thế giới (4 cuốn, 1955), Bài học Israël (1968), Bán đảo Ả Rập (1969), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Lịch sử văn minh Ấn Độ (1974), Bài học của lịch sử (1972), Nguồn gốc văn minh (1971), Lịch sử văn minh Ả Rập (1969), Sử kí Tư Mã Thiên (1970), và bộ sử này (Sử Trung Quốc 3 cuốn) là những cái nhìn xuyên suốt về lịch sử văn minh và sử thế giới.

Sử Trung Quốc là một “tập đại thành” của tác giả về toàn cảnh lịch sử Trung Quốc từ cổ đại đến hiện đại (1982). Đây là tác phẩm lớn và tương đối đầy đủ nhất trong chương trình của ông về “Trung Hoa học”.

Trong thư tịch Việt Nam, trước thế chiến chúng ta đã có Trung Hoa sử cương[1] của Đào Duy Anh và những năm 50 có Trung Quốc sử lược[2] của Phan Khoang. Thật ra hai tác phẩm này được Đào Duy Anh (1904-1988), Phan Khoang (1906-1971) viết cho chương trình Trung học và có tính cách phổ biến kiến thức phổ thông nhằm giúp độc giả thiếu điều kiện ngoại ngữ (nhất là chữ Hán) có cái nhìn tổng quan về lịch sử Trung Quốc. Tuy vậy, hai cuốn trên đã giúp ích được rất nhiều cho đa số bạn đọc Việt Nam trên nửa thế kỉ nay.

Lần này với bộ Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê đã đầu tư trí tuệ và dụng công nhiều hơn. Có thể nói đây là một tác phẩm lớn cuối đời ông, vì ông đã bỏ ra rất nhiều công sức và thời gian cho công trình này.

Như trên đã nói, đây là một “tập đại thành” sử học của tác giả. Suốt mấy ngàn năm lịch sử Trung Quốc đầy biến động, được ông tổng kết lại khoảng 1000 trang in. Nói về lượng thì 1000 trang này không thể nào vẽ được toàn diện một tổng quan lịch sử Trung Hoa hơn mấy ngàn năm lập quốc, kiến quốc… rồi “Hoa hoá” (Hán hoá) các dân tộc khác, nhất là các rợ phương Bắc, một thời bách chiến bách thắng trên phần lớn lục địa Âu Á. Nhưng với dung lượng khiêm nhường này, tác giả đã phác thảo được diện mạo của chiều dài lịch sử Trung Quốc. Tác phẩm này không những được tác giả trình bày cặn kẻ các sự kiện lịch sử suốt cả không gian và thời gian với đầy đủ sử liệu và chứng cứ khoa học mà còn đào sâu được bề dày lịch sử, một nền văn minh cổ nhất và lâu dài nhất của nhân loại.

Qua tác phẩm, tác giả giúp chúng ta tìm hiểu về toàn bộ lịch sử Trung Quốc, nhất là giai đoạn hiện đại, một cách đầy đủ hơn. Dựa vào những tài liệu tương đối mới (lúc đó - xem thư mục ở cuối sách); đặc biệt là tham khảo các tác phẩm của các học giả, sử gia Tây phương và Trung Quốc. Ông đã phác họa được toàn cảnh lịch sử Trung Quốc từ thời huyền sử tới hiện đại và tận đến năm 1982. Tác giả chia lịch sử Trung Quốc ra làm 3 thời kì. Điều này khác hẳn các sử gia khác khi nghiên cứu sử Trung Quốc. Đa số các học giả phương Tây chia (mà một số sử gia Trung Hoa theo) lịch sử thế giới cũng như lịch sử Trung Quốc thành: thời thượng cổ, Trung cổ, Cận cổ, Cận đại, Hiện tại. Theo tác giả, các danh từ trên chúng ta mượn của phương Tây và những khái niệm ấy cũng không thể áp dụng vào lịch sử Trung Hoa được vì lịch sử Trung Hoa từ đời Hán đến cuối đời Thanh, diễn tiến đều đều, không thay đổi gì nhiều như lịch sử phương Tây, không làm sao phân biệt được tới đâu là hết thời Trung cổ, tới đâu là hết thời Cận cổ, rồi Cận cổ với Cận đại khác nhau ra sao? Có lẽ quan niệm như vậy, tác giả chia sử Trung Quốc ra làm ba thời kì:

Thời Nguyên thuỷ và thời Phong kiến gom làm một (gọi là phần 1) vì theo ông ngày nay chúng ta không biết được chắc chắn tới đâu bắt đầu thời phong kiến.

Thời Quân chủ từ Hán tới cách mạng Tân Hợi (1911). Đây là thời kì dài nhất trên 21 thế kỉ, thời này ông tách làm hai:Từ Hán tới Nam Tống (phần II)

Từ Nguyên tới cuối Thanh (phần III)

Thời Dân chủ từ cách mạng Tân Hợi (1911) tới ngày nay (1982) (phần IV).

Một điểm độc đáo của bộ sách này như trên đã nói, tác giả không những vẽ được dung mạo sử Trung Quốc mà đào sâu được bản chất của nền văn minh sử ấy. Dân tộc Trung Hoa là một dân tộc có một nền văn minh vô cùng độc đặc (infiniment original). Tuy ra đời sau một vài nền văn minh khác nhưng tồn tại lâu dài nhất (cho tới ngày nay). Khoảng 3000 năm trước, họ đã có một tổ chức xã hội chặt chẽ, một tôn giáo có tính cách xã hội… nhất là có một lối chữ viết tượng hình và chính nhờ lối chữ viết này (chữ Hán) mà họ thống nhất được một đất nước bao la với hàng trăm dân tộc khác nhau. Và cũng chính nền văn minh ấy họ đã “Hoa hoá” được các nền văn minh khác, các tôn giáo khác, các học thuyết khác trở thành màu sắc Trung Hoa mà các nền văn minh khác không có được.

Chính ở khía cạnh này, tác giả đã làm nổi bật được văn minh sử Trung Quốc trong cộng đồng văn hóa, có ảnh hưởng ít nhiều đến nền văn hóa đậm nét Nho - Phật ở Á Đông. Điều đó được thấy rõ qua cách phân tích, đánh giá của tác giả đối với lịch sử Trung Quốc. Âu đó cũng là điều nổi bất trong gần 1000 trang in mà các bộ sử khác chưa nêu được. Và có lẽ nặng về khía cạnh “nhân văn” này mà tác giả phần nào làm loãng đi những chiến công của sử Trung Quốc. Độc giả khó tính chắc sẽ phiền sử gia họ Nguyễn thiên vị? Có lẽ theo quan điểm nhân văn ấy ông kết luận về khía cạnh trên như sau:

“Đọc sử thời quân chủ của Trung Hoa, tôi buồn cho dân tộc đó thông minh, giỏi tổ chức mà không diệt được cái họa ngoại thích và hoạn quan gây biết bao thống khổ cho dân chúng đời này qua đời khác. Nhưng tôi rất trọng họ, mến họ vì triều đại nào cũng có hằng ngàn hằng vạn người coi cái chết nhẹ như lông hồng, tuẫn tiết vì nước chứ không chịu nhục, và những thời triều đình “vô đạo” thì vô số kẻ sĩ coi công danh, phú quý như dép cỏ, kiếm nơi non xanh nước biếc dắt vợ con theo, cày lấy ruộng mà ăn, đào lấy giếng mà uống, sống một đời thanh khiết, làm thơ, vẽ để tiêu khiển, hoặc trứ tác về triết, sử, tuồng, tiểu thuyết để lưu lại hậu thế. Đọc đời các vị đó tôi luôn luôn thấy tâm hồn nhẹ nhàng. Chưa có một bộ sử nào của Tây phương cho tôi được cảm tưởng đó”. (Sđd trang 294)

Các nhận xét đó bàng bạc suốt tác phẩm.

Tính đến năm 1975 ông xuất bản đúng Một trăm tác phẩm (100) với các thể loại vừa kể. Từ năm 1975 cho đến khi qua đời, ông còn viết hơn 20 tác phẩm khác như: Tourguéniev, Gogol, Tchékhov, Đời nghệ sĩ, Để tôi đọc lại, Tuân tử, Hàn Phi tử, Trang tử - Nam Hoa kinh, Lão tử - Đạo đức kinh, Khổng tử - Luận ngữ, Đời viết văn của tôi (1966), Hồi kí (1992), nhất là bộ sử Trung Hoa mà chúng tôi vừa nhắc ở trên.

Những năm trước 1975 tại Sài Gòn, ông là một trong một vài người cầm bút được giới trí thức quí mến về tài học, nhân cách đối với xã hội cũng như trong học thuật. Đó là thành quả lao động nghiêm cẩn của mình, ông được đa số quần chúng độc giả trân trọng kể cả học sinh, sinh viên. Những năm 60, 70 chính phủ Sài Gòn đã trân tặng ông (cùng Giản Chi) Giải thưởng văn chương toàn quốc (1966) và Giải tuyên dương sự nghiệp văn hóa (1973) với danh hiệu cao quí đương thời, cùng với một ngân phiếu lớn (tương đương mấy chục lượng vàng). Ông đã công khai từ chối với lí do “dùng tiền ấy để giúp nạn nhân chiến tranh” và bản thân tác giả không dự giải.

Tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê là những đóng góp lớn cho học thuật Việt Nam thời hiện đại.

Năm 1980, ông về ẩn cư ở Long Xuyên (nay thuộc tỉnh An Giang) đến ngày 22 tháng 12 năm 1984, ông bệnh mất tại Sài Gòn, hưởng thọ 72 tuổi, thi hài được hoả táng ở Thủ Đức, để lại sự thương tiếc trong lòng nhiều làm văn hóa và bạn đọc thương mến trong và ngoài nước.

Nguyễn Q. Thắng

(12-1966)

Ghi chú: Bài viết ở trên và phụ lục III (Sách tham khảo) ở cuối eBook là do tôi chép từ bản in của Nhà xuất bản Tổng hợp Hồ Chí Minh, năm 2006 (trọn bộ 3 cuốn - 812 trang). Ngoài ra tôi còn dùng bản này sửa lỗi và bổ sung các hình ảnh, các đoạn mà bản nguồn (tức bản đăng trên Việt Nam Thư Quán) chép thiếu, trong đó có đoạn thiếu đến 27 trang, mà bản của nhà Tổng hợp Hồ Chí Minh cũng có nhiều chỗ sai sót. Trong eBook này, để khỏi rườm, nhiều chỗ tôi sửa sai mà không chú thích. (Goldfish).Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Hiến Lê":Kinh Dịch - Đạo Của Người Quân Tử7 Bước Đến Thành CôngĐắc Nhân TâmMạnh TửSống 365 Ngày Một NămMột Lương Tâm Nổi LoạnRèn Nghị Lực Để Lập ThânSống ĐẹpKhổng Tử Và Luận NgữGiải Nghĩa 64 Quẻ Kinh DịchBảy Ngày Trong Đồng Tháp MườiHồi Ký Nguyễn Hiến LêNhững Vấn Đề Của Thời ĐạiRèn Luyện Tình CảmTrang Tử Nam Hoa KinhÝ Cao Tình ĐẹpBảy Bước Đến Thành CôngDạy Con Theo Lối MớiGương Chiến ĐấuGương Hy SinhHàn Phi TửLiêt Tử Và Dương TửNghề Viết VănSăn Sóc Sự Học Của Con EmSử Trung QuốcTổ Chức Gia ĐìnhVài Nét Sơ Lược Về Sự Phát Triển Của Triết Học Trung HoaĐường, Tống Bát Đại GiaLão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến LêGương Kiên NhẫnCon Đường Thiên Lý

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sử Trung Quốc PDF của tác giả Nguyễn Hiến Lê nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Điện Biên Phủ - Điểm Hẹn Lịch Sử (Võ Nguyên Giáp)
Cuộc kháng chiến đã sang năm thứ tám. Hạ tuần tháng 5 năm 1953, tôi từ Sầm Nưa về tới khu căn cứ. Những trận mưa đầu mùa đã bắt đầu. Các đơn vị không được nghỉ ngơi, khẩn trương bắt tay vào cuộc luyện quân chuẩn bị cho một mùa khô mới: mùa khô 1953 - 1954. Sắp có một hiệp định ngừng bắn tại Triều Tiên. Hình thái chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên khác hẳn với chiến tranh Việt Nam. Đây là cuộc đọ sức chủ yếu giữa lực lượng những quân đội chính quy, được trang bị vũ khí hiện đại, trên một đất nước không rộng nhưng có hệ thống đường sá tương đối phát triển. Nếu như cuộc kháng chiến của ta "lấy yếu đánh mạnh" thì ở Triều Tiên là "lấy mạnh đánh mạnh". Chỉ một thời gian ngắn, quân đội Bắc Triều Tiên đã tiến xuống Hán Thành, giải phóng phần lớn đất đai ở miền Nam. Nhưng 80 ngày sau, khi quân can thiệp Mỹ đổ bộ lên Nhân Xuyên (In chon), thì quân đội Bắc Triều Tiên buộc phải nhanh chóng rút lui. Quân Mỹ không những có mặt bên trên vĩ tuyến 38 mà còn tiến tới sông áp Lục, đe dọa nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, buộc Giải phóng quân Trung Quốc phải can thiệp. Quân và dân Bắc Triều Tiên cùng với Chí nguyện quân Trung Quốc, được Liên Xô chi viện đã đẩy lùi quân Mỹ và nhiều nước đồng minh về bên kia vĩ tuyến 38. Hai năm qua, cuộc chiến tranh ở Triều Tiên diễn ra dưới hình thức chiến tranh đường hầm, những trận đấu pháo dọc vùng rừng núi vĩ tuyến 38, và những trận đánh nhau trên không. Qua nhiều lần đọ sức, Mỹ đã thấy pháo binh, xe tăng, máy bay hiện đại của mình không thể giành ưu thế trong cuộc đối đầu với sức mạnh quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa, việc thiết lập thêm một tiền đồn thống cộng ở Đông Á là vô cùng khó khăn, buộc phải tìm cách kết thúc chiến tranh. Nhân dịp các cường quốc đang bàn giải pháp cho chiến tranh Triều Tiên, trong chính giới Pháp lại xuất hiện ý kiến về một cuộc điều đình. Ngày 18 tháng 7 năm 1953, An be Xa rô (Albert Sarraut), cựu toàn quyền Đông Dương, nói rõ đây là cơ hội tốt nhất lúc này để giải quyết vấn đề Đông Dương với người sẵn sàng điều đình nhất, nghĩa là với Hồ Chí Minh". Số đông người Pháp từ lâu đã hiểu rõ nguyện vọng hòa bình thực sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng đó là hòa bình trên cơ sở độc lập và thống nhất của Việt Nam mà giới cầm quyền Pháp trong những năm qua chưa thấy buộc phải chấp nhận. Pháp không còn đủ sức chịu đựng gánh nặng chiến tranh xâm lược đã quá kéo dài. Nhưng khác với chiến tranh Triều Tiên, chính quyền Pháp chưa thấy có gì đe dọa số phận quân viễn chinh đang làm chủ vùng trời, vùng biển, và hầu hết những thành phố lớn trên bán đảo Đông Dương. Nguy cơ sụp đổ hồi Đông Xuân 1950 - 1951 đã qua. Với sự giúp đỡ có hạn từ bên ngoài, "quân đoàn tác chiến" (corps de bataille) của đối phương sẽ không vượt qua con số 6 đại đoàn bộ binh đơn thuần. Quân viễn chinh vẫn không phải đương đầu với xe tăng, máy bay, tàu chiến, pháo cao xạ và pháo mặt đất hiện đại. Họ chỉ cần đối phó với chiến tranh du kích trên chiến trường đồng bằng, những đội quân nhỏ thường vội vã rút lui khi những binh đoàn cơ động xuất hiện. Sức mạnh của đối phương là tác chiến ở vùng rừng núi. Nhưng “chiến lược con nhín" cũng đã chứng tỏ hiệu quả Pháp vẫn còn nhiều khả năng tăng cường lực lượng bằng cách xây dựng quân đội các quốc gia liên kết, và bổ sung những trang bị hiện đại do Mỹ viện trợ. Giới cấm quyền Pháp đã hết hy vọng giành chiến thắng, nhưng vẫn tin còn đủ thời gian và điều kiện để tìm cách kết thúc có lợi, theo cái họ gọi là "lối thoát danh dự". Mỹ không thể bỏ mặc Pháp ở Đông Dương. Ngày 13 tháng 7 năm 1953, trong cuộc gặp ngoại trưởng Mỹ đa lét (John Foster Dulles) tại Oasinhtơn, Biđôn (Georges Bidault), bộ trưởng ngoại giao Pháp nói: "Chúng tôi không thể tiếp tục cuộc thập tự chinh một mình, tuy nhiên chúng tôi cũng không muốn ngừng lại bằng bất kể cách nào. Đặc biệt, không có điều đình trực tiếp với Hồ Chí Minh". Nội các Pháp khủng hoảng liên miên. Những người kế tiếp lên cầm đầu vẫn thuộc phái hữu.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Điện Biên Phủ - Điểm Hẹn Lịch Sử PDF của tác giả Võ Nguyên Giáp nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đường tới Điện Biên Phủ (Hữu Mai)
Nhân dịp kỉ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và tưởng nhớ đến công ơn Đại tướng Võ Nguyên Giáp.Thư viện PDF trân trọng gửi tới bạn đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Đường tới Điện Biên Phủ" Lịch sử là một dòng chảy. Năm tháng cứ trôi qua. Với Điện Biên như vậy là đã 60 năm. Với thành lập quân đội và Cách mạng tháng Tám là đã hơn nửa thế kỷ. Nửa thế kỷ vùng lên sau 80 năm nô lệ. Nửa thế kỷ có ánh sáng sau 80 năm đen tối. Vượt lên thời gian, vượt lên sự kiện, vượt lên những kỷ niệm cá nhân, Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên giáp không những biểu cảm, tạo cảm giác cho người đọc chứng kiến diễn biến lịch sử mà còn gợi cho người đọc tìm tòi, suy nghĩ, khám phá một cái gì đó, nhận thức lí giải một điều đó, đại loại như những câu hỏi lớn sau đây: Vì sao phải đánh? Vì sao phải đánh tới 30 năm?Vì sao mà thắng? Những câu hỏi về một nghịch lí Davis thắng Gôliat trong thời đại ngày nay, điều làm nức lòng các dân tộc bị áp bức, đều không thể mất: Biểu tượng muôn đời trong lòng các thế hệ loài người tiến bộ: Việt Nam đồng nghĩa với phẩm giá.Tính chân thực của truyện kể từ sự việc đến nhân vật, số liệu, tư liệu của cả hai phía, tính chính xác của thời gian và sự việc cùng với lối văn trong sáng, trung thực, giàu suy nghĩ làm cho Hồi ức vừa gần với lịch sử, vừa gần với truyện”. Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng ta sẽ cảm thấy tác giả là nhân chứng, vừa chứng kiến vừa tham dự những sự kiện ở tầm vĩ mô, ở những thời điểm có tính quyết định. Tìm mua: Đường tới Điện Biên Phủ TiKi Lazada Shopee Nhiều vấn đề lịch sử được sáng tỏ, có những điều chưa từng xuất bản và người đọc có cảm giác thú vị: Ta đã gặp lịch sử, lịch sử đích thực. Hồi ức Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Trách nhiệm để thế hệ trẻ noi theo Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người đọc phát hiện thấy một nhân vật hấp dẫn xuyên suốt cả mấy tập hồi ức, một nhân vật huyền thoại, trung tâm của những sự kiện trung tâm, con người của những quyết định lịch sử: Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh.Con người tìm đường, con người đem lại ánh sáng, nhà chiến lược thiên tài, người cha thân yêu của lực lượng vũ trang hiện ra thật bình dị, thật gần gũi. Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do nhà văn Hữu Mai thể hiện giàu tính văn học.Dưới sự vận động bề mặt sôi sục của sự kiện và là sự vận động sâu xa, trầm lắng của con người. Sự đan xen liên tục những con người lịch sử cả phía ta và phía đối phương, những gương mặt người chỉ huy và người lính, những tâm trạng lo âu, những suy tư và mưu lược của cấp lãnh đạo và những sáng tạo của quần chúng, những cuộc đấu trí giữa ta và địch đặt trong bối cảnh lịch sử trong nước và thế giới, loáng thoáng nhiều phong cảnh, những kỷ niệm xưa làm cho Hồi ức không chỉ là sự tái hiện sinh động một thời để nhớ mà còn là một bài thơ lớn về một tư tưởng lớn: tư tưởng Hồ Chí Minh và là một ký họa về một hình tượng thân yêu: Người lính bộ đội Cụ Hồ hiền như đất mà dũng khí thì nuốt Ngưu Đẩu. “Các cựu chiến binh già, đầu bạc, đọc Hồi ức sẽ soi mình trong đó và thế hệ thanh niên năm 2000 sẽ tìm thấy trong Hồi ức một niềm tự hào và một trách nhiệm để tiếp bước cha ông”Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hữu Mai":Cao Điểm Cuối CùngĐường tới Điện Biên PhủÔng Cố VấnVùng TrờiĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đường tới Điện Biên Phủ PDF của tác giả Hữu Mai nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Bị Cia Cưa Chân 6 Lần (Mã Thiện Đồng)
13/8/2018 Vĩnh biệt Thiếu tá tình báo Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân NGUYỄN VĂN THƯƠNG Tìm mua: Người Bị Cia Cưa Chân 6 Lần TiKi Lazada Shopee Giữa Sài Gòn mùa mưa, giữa những ngày tháng Tám khắp nơi đang náo nức đón mừng ngày vui lớn, tôi đến nhà gặp anh tại khu dân cư Bình Lợi. Nguyễn Văn Thương đây! Anh ngồi trên chiếc ghế đã được sáng chế cho phù hợp với những phần thân thể còn lại của anh, hoà cùng bộ đồ màu sáng, nói chuyện. Khi ra về, đứng dậy chào anh, lúc tôi bước tới cửa, bất chợt nhìn xuống, ngay cạnh chân mình, anh đang bò bằng hai tay ra tiễn! Tôi đã òa khóc khi nhìn thấy anh "đi" như thế! Thật may mắn cho tôi được gặp anh, được viết về anh với cả tấm lòng cảm kích, trân trọng và kính yêu! Tôi viết truyện này theo đúng lời anh kể. Chuyện về anh thật dài và rộng, nhưng cuốn sách này chỉ kể lại từ năm 1969 khi Nguyễn Văn Thương bị bắt. Người đã hàng chục năm có mặt ở cảbốn Cụm tình báo, nắm hầu hết các tổ chức mạng lưới ở Phòng tình báo phía Nam của ta. Những tài liệu anh vận chuyển từ Sài Gòn ra căn cứ có giá trị, có liên quan đến nhiều cán bộ tình báo, sau chiến tranh đã ra công khai là những vị tướng, tá tình báo mà nhiều người được biết. Khi biết rõ anh là con mồi béo bở, Cục tình báo CIA đã làm gì để khai thác Nguyễn Văn Thương! Suốt 100 ngày để cho anh sống trong ngôi biệt thự ngọt ngào với nghệ thuật tâm lý tinh vi nhất của Hoa Kỳ nhằm dụ dỗ mua chuộc, nhưng không có kết quả. Bắt đầu một quá trình tra tấn kéo dài. Sau những giây phút cân não căng thẳng, anh vẫn không khai, chúng đã lần lượt vặn gẫy cả mười ngón chân, đập nát cả hai bàn chân, cưa từng đoạn chân của anh. Mười lăm ngày cưa một lần. 100 ngày cưa sáu lần, sáu đoạn, hết "đôi chân giao liên" Nguyễn Văn Thương như thế! Họ không cho anh chết để giữ lấy cái lưỡi, hy vọng lấy lời khai của người tình báo. Cuối cùng, một đại tá CIA đã phải thốt lên: - "Ôi! Một sinh vật bằng thép! Chúng tôi đã thua ông!" Nếu chưa gặp anh, nhiều người ở ngay Việt Nam và cả trên thế giới đều khó có thể ngờ rằng, chuyện thật khốc liệt như vậy lại có thể xẩy ra trong một đời người. Nhưng nó lại là sự thật, chi tiết về cuộc đời anh được các cán bộ ngành tình báo biết rất rõ! Sự thật xẩy ra ngay trên mảnh đất miền Nam đắng cay chung thuỷ, mảnh đất miền Nam gan góc dạn dầy đã sinh ra con người như Nguyễn Văn Thương. Nguyễn Văn Thương, người anh hùng quân đội kính yêu của chúng ta, nay vẫn còn sống1. Thật là một điều thần kỳ! Một sức sống dai dẳng phi thường. Sau hòa bình, anh còn trở về nơi chúng đã cưa chân anh, lại vào trận lập chiến công như bao người chiến sỹ. Anh vẫn sông lạc quan và xây dựng gia đình hạnh phúc như bao người. Những gì cuộc đời Nguyễn Văn Thương đã trải qua là một ngôi sao sáng chói trong trang sử anh hùng đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Đã 30 năm sau ngày giải phóng, anh vẫn còn đây, anh vẫn bước đi bên cạnh chúng ta như một nhân chứng lịch sử! Sau khi cùng anh viết xong Hồi ký Nguyễn Văn Thương, tôi xin phép anh được viết truyện này. Anh chỉ yêu cầu: Cô giáo cứ viết đúng sự thật tôi kể. Tôi hy vọng chuyện về anh được nhiều bạn đọc biết đến qua cuốn sách này. Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2005 Mã Thiện ĐồngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Bị Cia Cưa Chân 6 Lần PDF của tác giả Mã Thiện Đồng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Bị Cia Cưa Chân 6 Lần (Mã Thiện Đồng)
13/8/2018 Vĩnh biệt Thiếu tá tình báo Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân NGUYỄN VĂN THƯƠNG Tìm mua: Người Bị Cia Cưa Chân 6 Lần TiKi Lazada Shopee Giữa Sài Gòn mùa mưa, giữa những ngày tháng Tám khắp nơi đang náo nức đón mừng ngày vui lớn, tôi đến nhà gặp anh tại khu dân cư Bình Lợi. Nguyễn Văn Thương đây! Anh ngồi trên chiếc ghế đã được sáng chế cho phù hợp với những phần thân thể còn lại của anh, hoà cùng bộ đồ màu sáng, nói chuyện. Khi ra về, đứng dậy chào anh, lúc tôi bước tới cửa, bất chợt nhìn xuống, ngay cạnh chân mình, anh đang bò bằng hai tay ra tiễn! Tôi đã òa khóc khi nhìn thấy anh "đi" như thế! Thật may mắn cho tôi được gặp anh, được viết về anh với cả tấm lòng cảm kích, trân trọng và kính yêu! Tôi viết truyện này theo đúng lời anh kể. Chuyện về anh thật dài và rộng, nhưng cuốn sách này chỉ kể lại từ năm 1969 khi Nguyễn Văn Thương bị bắt. Người đã hàng chục năm có mặt ở cảbốn Cụm tình báo, nắm hầu hết các tổ chức mạng lưới ở Phòng tình báo phía Nam của ta. Những tài liệu anh vận chuyển từ Sài Gòn ra căn cứ có giá trị, có liên quan đến nhiều cán bộ tình báo, sau chiến tranh đã ra công khai là những vị tướng, tá tình báo mà nhiều người được biết. Khi biết rõ anh là con mồi béo bở, Cục tình báo CIA đã làm gì để khai thác Nguyễn Văn Thương! Suốt 100 ngày để cho anh sống trong ngôi biệt thự ngọt ngào với nghệ thuật tâm lý tinh vi nhất của Hoa Kỳ nhằm dụ dỗ mua chuộc, nhưng không có kết quả. Bắt đầu một quá trình tra tấn kéo dài. Sau những giây phút cân não căng thẳng, anh vẫn không khai, chúng đã lần lượt vặn gẫy cả mười ngón chân, đập nát cả hai bàn chân, cưa từng đoạn chân của anh. Mười lăm ngày cưa một lần. 100 ngày cưa sáu lần, sáu đoạn, hết "đôi chân giao liên" Nguyễn Văn Thương như thế! Họ không cho anh chết để giữ lấy cái lưỡi, hy vọng lấy lời khai của người tình báo. Cuối cùng, một đại tá CIA đã phải thốt lên: - "Ôi! Một sinh vật bằng thép! Chúng tôi đã thua ông!" Nếu chưa gặp anh, nhiều người ở ngay Việt Nam và cả trên thế giới đều khó có thể ngờ rằng, chuyện thật khốc liệt như vậy lại có thể xẩy ra trong một đời người. Nhưng nó lại là sự thật, chi tiết về cuộc đời anh được các cán bộ ngành tình báo biết rất rõ! Sự thật xẩy ra ngay trên mảnh đất miền Nam đắng cay chung thuỷ, mảnh đất miền Nam gan góc dạn dầy đã sinh ra con người như Nguyễn Văn Thương. Nguyễn Văn Thương, người anh hùng quân đội kính yêu của chúng ta, nay vẫn còn sống1. Thật là một điều thần kỳ! Một sức sống dai dẳng phi thường. Sau hòa bình, anh còn trở về nơi chúng đã cưa chân anh, lại vào trận lập chiến công như bao người chiến sỹ. Anh vẫn sông lạc quan và xây dựng gia đình hạnh phúc như bao người. Những gì cuộc đời Nguyễn Văn Thương đã trải qua là một ngôi sao sáng chói trong trang sử anh hùng đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Đã 30 năm sau ngày giải phóng, anh vẫn còn đây, anh vẫn bước đi bên cạnh chúng ta như một nhân chứng lịch sử! Sau khi cùng anh viết xong Hồi ký Nguyễn Văn Thương, tôi xin phép anh được viết truyện này. Anh chỉ yêu cầu: Cô giáo cứ viết đúng sự thật tôi kể. Tôi hy vọng chuyện về anh được nhiều bạn đọc biết đến qua cuốn sách này. Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2005 Mã Thiện ĐồngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Bị Cia Cưa Chân 6 Lần PDF của tác giả Mã Thiện Đồng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.