Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngàn Năm Áo Mũ (Trần Quang Đức)

Ngàn năm áo mũ là một nghiên cứu công phu và đầy tham vọng của Trần Quang Đức: dựng lại bức tranh trang phục Việt Nam trong cung đình và ngoài dân gian trong khoảng một nghìn năm từ thời Lý đến thời Nguyễn (1009-1945).

Trang phục cung đình luôn được quy định nghiêm ngặt và có nhiều đổi thay qua các triều đại. Ngàn năm áo mũ lý giải nguyên do và phân tích mức độ mô phỏng trang phục Trung Hoa trong quy chế trang phục của các triều đại Việt Nam, mô tả chi tiết, tỉ mỉ nhiều dạng trang phục như bộ Tế phục Cổn Miện uy nghi của các vị hoàng đế, các bộ Triều phục, Thường phục Lương quan, Củng Thần, Ô Sa, Bổ phục trang trọng của bá quan, hay Lễ phục Vĩ Địch, Phượng quan lộng lẫy của hoàng hậu v.v..

Trong khi đó trang phục dân gian không biến động nhiều, phổ biến là kiểu áo giao lĩnh, tứ thân, hay lối ăn mặc cởi trần đóng khố của đàn ông và yếm, váy giản tiện của đàn bà tồn tại qua hàng trăm năm lịch sử. Sự kiện vua Minh Mạng cấm “quần không đáy” là một biến cố lớn lao, để rồi chiếc áo dài năm thân đi vào đời sống dân gian và bây giờ trở thành trang phục quan trọng bậc nhất của người Việt.

Có thể nói, Ngàn năm áo mũ bù đắp phần nào vào khoảng trống mênh mông của lịch sử trang phục Việt Nam nói riêng, lịch sử văn hóa Việt Nam nói chung. Cùng với những ý nghĩa chính trị, xã hội sâu rộng, đây thực sự là một nghiên cứu quan trọng và có giá trị lâu dài.

*** Tìm mua: Ngàn Năm Áo Mũ TiKi Lazada Shopee

Review Hoàng Việt Minh:

Phải nói trong một thời gian dài mình cũng đi lùng sách về lịch sử thời trang Việt Nam. Các vị sử học, học giả, giáo sư Việt Nam đã cho ra đời nhiều kho tàng lịch sử, lịch sử văn hóa, lịch sử văn học... đồ sộ, nhưng cái "mặc", một nét văn hóa đặc trưng của mỗi dân tộc và có thể nói là 1 bằng chứng sống của diễn biến lịch sử & quá trình phát triển văn hóa, xã hội lại không được coi trọng bằng các lĩnh vực khác. Mình cùng một người bạn tham quan được một số bảo tàng trên Hn, đặc biệt bào tàng lịch sử Việt Nam, bảo tàng dân tộc học được thấy những kiến trúc cùng mẫu mã quần áo rất đặc biệt. Những nghệ nhân ấy đưa cái hồn vào trong tác phẩm của mình, được người bạn nói về nét kiến trúc thời Lý, thời Trần hay đặc điểm hình rồng qua mỗi thời kì mình lại nhớ đến các bài học mỹ thuật ngày xưa được học. Rồi cũng mong muốn chiêm ngưỡng các bộ quần áo vua chúa Việt Nam ngày xưa khác vua chúa Tàu như thế nào, con người thời ấy ăn mặc ra sao để có hình dung sống động thời kí ấy và mình tìm đến cuốn sách Ngàn năm áo mũ này.

Ngàn năm áo mũ là một nghiên cứu công phu và đầy tham vọng của tác giả Trần Quang Đức, dựng lại bức tranh trang phục Việt Nam trong cung đình và ngoài dân gian trong khoảng một nghìn năm từ thời Lý đến thời Nguyễn (1009-1945). Cuốn sách cho ta cái nhìn khá toàn diện về sự phát triển của trang phục truyền thống qua các thời kì kết hợp phân tích ảnh hưởng của trang phục Trung Quốc, sách thuộc dạng khảo cứu đọc khá chậm giờ mình mới đọc hơn 2/3 và tập trung tại một số ý chính rồi kết hợp tra cứu tư liệu để hình dung cái mình đọc cái mình hiểu, quả thực kết hợp hình ảnh trực quan mà tác giả đưa ra làm cho ta hiểu rõ các trang phục bấy giờ và một số từ hán nôm mà ta vẫn thường dùng trong đời sống hàng ngày. Việc tìm hiểu các thời kỳ lịch sử không khó, nhưng để tìm ra sự khác biệt và sự phân chia trang phục đúng với thời kỳ và tầng lớp là hoàn toàn không phải chuyện ngày một ngày hai. Nhưng quyển sách này sẽ dễ dàng khai phá bức tường này và giúp chúng ta đến gần với lịch sử Việt Nam nhiều hơn rất nhiều. Và cuốn sách là tư liệu quý cho các nhà làm phim về lịch sử VIệt Nam xây dựng cổ trang xưa, các nhà thiết kế làm ra các bộ quần áo thời bấy giờ tránh bắt trước quá đà của Trung Quốc và làm nổi bật nét văn hiến của Việt Nam xưa.

Như mọi người cũng biết Việt Nam cũng như một số nước như Triều Tiên, Nhật Bản đều chịu ảnh hưởng bởi một quan niệm mà ta thấy viết rất nhiều trên các tác phẩm Trung Quốc đó là “Hoa di” (ta có thể tạm hiểu chỉ một vùng đất có những người văn minh ở, có lễ giáo, ở trung tâm, khác biệt với sắc dân man, di, nhung, địch ở bốn phía xung quanh). Triều đình Việt Nam cũng thế coi thể chế, văn hóa Trung Hoa là nguồn tham khảo chính thống nhưng theo quy luật sáng tạo văn hóa, lại trên tinh thần tự chủ, triều đình Việt Nam trong hơn một ngàn năm phong kiến - quân chủ dù nhiều lần mô phỏng chế độ áo mũ, lễ nhạc, khoa cử của triều đại Trung Quốc vẫn luôn tạo nên nhưng nét biến dị độc đáo, làm tôn thêm vẻ uy nghi, sang trọng của vua quan nước Việt.

Ngàn năm áo mũ phân khảo về trang phục năm triều đại: Lý, Trần, Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Trong mỗi triều đại khảo luận về ba loại hình trang phục: cung đình, quân đội và dân gian cùng đó là lý giải và phân tích mức độ mô phỏng trang phục Trung Hoa trong quy chế trang phục của triều đại Việt Nam. Như bộ Tế phục Cổn Miện của các vị hoàng đế, các bộ Triều phục, Thường phục Lương Quan, Củng Thần, Ô Sa, Bổ Phục của bá quan, hay lễ phục Vĩ Địch, Phượng quan của hoàng hậu,… Trong khi đó trang phục dân gian không biến động nhiều, phổ biến là kiểu áo giao lĩnh, tứ thân, hay lối ăn mặc cởi trần đóng khố của đàn ông và yếm, váy giản tiện của đàn bà tồn tại qua hàng trăm năm lịch sử. Sự kiện vua Minh Mạng cấm “quần không đáy” là một biến cố lớn lao, để rồi ta thấy chiếc áo dài năm thân và nó đã đi vào đời sống dân gian và bây giờ trở thành trang phục quan trọng bậc nhất của Người Việt.

Có thể nói, Ngàn năm áo mũ đã bù đắp phần nào khoảng trống mênh mông của lịch sử trang phục Việt Nam nói riêng, lịch sử văn hóa Việt Nam nói chung. Và chính cuốn sách mở cho ta một chân trời mới, là tiền đề cho việc nghiên cứu phong tục, tập quán của người Việt trong quá khứ xa xưa hơn, nhằm từng bước tìm ra cái lõi “bản sắc” trong văn hóa Việt Nam.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ngàn Năm Áo Mũ PDF của tác giả Trần Quang Đức nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Hội Họa Trung Hoa Qua Lời Các Bậc Vĩ Nhân Và Danh Họa (Lâm Ngữ Đường)
Cuốn sách độc đáo này là tuyển tập bình chọn những lời nói, tư tưởng của các bậc vĩ nhân, danh họa Trung Hoa về chính nền nghệ thuật hội họa kỳ vĩ của quê hương. Tiến sỹ Lâm Ngữ Đường không chỉ làm công việc tổng tập, ông còn giải thích, bình luận và so sánh, đưa đến một cái nhìn bao quát cho cả tiến trình hội họa Trung Hoa. Không bao giờ tách rời khỏi lịch sử, tư tưởng triết học, mỹ học, hội họa là một phần vững chắc của nền văn minh Trung Hoa đồ sộ. Thú vị, sâu sắc và xác tín, tác phẩm làm sáng rõ một bộ phận của nghệ thuật để mang đến cả cái nhìn thấu đáo hơn về đất nước Trung Quốc.***Giáo sư Lâm Ngữ Đường (1895-1976) là người đất Chương Châu, Phúc Kiến, học Đại học Thượng Hải, Harvard và Leipzig, từng dạy văn học Anh tại Đại học Bắc Kinh và phụ trách Vụ Văn Học và Nghệ Thuật của UNESCO. Nổi tiếng nhất trong 35 tác phẩm viết bằng tiếng Anh của ông là cuốn My Country and My People (Dân tôi và Nước tôi), The Importance of Living (Sống mới là điều quan trọng), và The Chinese Theory of Art, một tuyển chọn các trích đoạn phát biểu về hội hoạ của các bậc thầy về nghệ thuật của Trung Hoa, mà chúng tôi hân hạnh được giới thiệu với độc giả Việt Nam qua bản dịch của Trịnh Lữ trong tập sách này.***Ba bốn tuổi học cầm bút vẽ, cha tôi bảo “tha hồ thích gì vẽ nấy.” Lên chín lên mười, ông bảo, “Nhìn cho kỹ, thấy gì vẽ thế.” Đến lúc vỡ giọng, ông thường hỏi, “Định vẽ cái gì? Muốn vẽ ra sao?” Lại hối thúc phải học ngoại ngữ, đọc cho nhiều, xem cho rộng. Không được vào trường Mỹ thuật, ông bảo, “Càng tốt.” Rồi chiến tranh. Tôi kiếm sống đủ nghề, lang bạt nhiều nơi, lần nào nhận thư cha cũng thấy một câu ở cuối: “Mỗi ngày nhớ kí họa mấy cái, đừng bỏ luyện tập.” Bức thư cuối cùng, ông dặn, “Bom đạn chẳng còn gì, giữ được ít giấy tờ, bố để trong ba cái thùng tôn.” Bốn năm sau khi ông mất, tôi mới về được đến nhà. Trong ba cái thùng tôn ấy, tôi tìm được một chồng các vựng tập khổ lớn tranh và thư pháp Trung Quốc, với một cuốn sách nhỏ ngả vàng đã gẫy gáy, là cuốn The Chinese Theory of Art của cố giáo sư Lâm Ngữ Đường. Trong hai năm liền, tôi đọc đi đọc lại cuốn sách. Nó khiến cho tôi như được sống lại tuổi hoa niên, thấy lại mùi dầu lanh (linseed oil) và mùi xăng trong chiếc Simca mà cha tôi dùng làm nhà vẽ lưu động đi khắp các miền đất nước. Đặc biệt, nó làm cho tôi hay nhớ lại lần đầu tiên “đi vẽ ngoài”, tức là đi vẽ phong cảnh, lúc về bị mưa đá, chân trần ôm cặp giấy vẽ chạy dưới mưa, những hạt nước đá buốt lạnh dưới chân và trên mặt. Tại sao cuốn sách lại khiến tôi nhớ lại những cái đó, tôi không biết. Phải chăng nó làm tôi nhớ lại cái thế giới hội họa mà gần nửa thế kỷ qua, cuộc sinh tồn đã dìm xuống tầng tiềm thức của tôi? Cái thế giới với những khái niệm và tư tưởng thật tuyệt đối và cao nhã về một công việc đã khiến những cư dân trong hang Lascaux khẳng định được nhân tính linh thiêng của mình? Sau khi dịch cuốn “Cuộc đời của Pi”, các bạn trong nhóm xuất bản hỏi có cuốn sách nào tôi muốn làm tiếp không. Tôi đã nhiệt liệt đề nghị được dịch cuốn này. Lý do ích kỷ của tôi là làm được một việc tôi thật sự thích thú, mà lại có ít tiền. Ở đời có mấy khi được như vậy! May sao, mọi người đều tin rằng sự thích thú ích kỷ của tôi sẽ đem lại niềm vui và những lợi lạc thanh tao cho rất nhiều bạn đọc yêu thích hội họa. Tìm mua: Hội Họa Trung Hoa Qua Lời Các Bậc Vĩ Nhân Và Danh Họa TiKi Lazada Shopee Đến khi bắt tay vào dịch tôi mới thấy là mình dại! Than ôi, cụ Lâm Ngữ Đường dịch từ Hán văn ra Anh văn, nay tôi lại dịch từ Anh văn ra Việt văn, là một thứ tiếng rất gần với Hán văn, làm sao cho khỏi tam sao thất bản. Nguyên chuyện tầm tra các âm Hán của những phiên âm Latin theo kiểu Đài Loan mà cụ Lâm sử dụng trong những năm 1960 cũng đã khổ rồi. Đọc tiếng Anh có thể cứ mặc kệ những pi-yung và mo-hua đấy mà vẫn sướng, chứ sang tiếng ta thì dứt khoát phải chua ra thành bút ung và mực hóa, rồi giải cho rõ nghĩa, thì mới truyền đạt được giá trị và vẻ đẹp của các khái niệm ấy đến với người đọc Việt. Cũng may là hồi trẻ tuổi tôi cũng võ vẽ học chữ Hán với cụ Lê Tư Lành (xin cầu cho cụ được yên nghỉ) được một thời gian, thành thử đọc cách dịch của cụ Lâm cũng cảm được phần nào hơi văn và từ ngữ Hán trong nguyên tác. Nhóm xuất bản lại cam đoan sẽ có các chuyên gia giúp hiệu đính. Cho nên công việc lúc mới thì nặng nhọc, sau cũng được thư thái và vui vẻ hơn, đến những phần cuối thì lại còn thấy mình say sưa trong những luồng tư tưởng cao nhã cổ kính của họ. Nhưng cũng xin độc giả lượng thứ cho chút lộng ngôn như thế, vì tôi cũng tự biết rằng không thể tránh khỏi sai lầm, rất mong được chỉ bảo. Cụ Lâm Ngữ Đường đã có rất nhiều ghi chú, không những để giải thích thêm, mà còn nói rõ cả quan điểm riêng của cụ về từng vấn đề. Nhưng khi gặp những chỗ cần nói thêm, tôi vẫn mạo muội có ghi chú riêng của mình để công việc được thỏa đáng hơn. Những ghi chú của tôi có đề (ND). Nếu chúng có sai lầm gì là hoàn toàn do lỗi ở tôi. Xin cảm ơn nhóm xuất bản đã tiếp tục tin tưởng ở tôi, và xin cảm ơn tiên sinh Nguyễn Văn Cường, người đã hấp thụ văn hóa Trung Hoa từ trong trứng nước, đã bắt đầu chỉ giáo Hán tự cho tôi từ khi chúng tôi còn ở Thạch Lâm, Côn Minh hơn ba chục năm trước đây, và đã trực tiếp giúp đỡ tôi trong việc tầm tra các phiên âm Latin chữ Hán trong cuốn sách này. Còn bây giờ, xin bạn đọc bảo người nhà pha cho một ấm trà ngon, rồi thong thả ngồi một nơi mát mẻ mà lật trang.Trịnh LữĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hội Họa Trung Hoa Qua Lời Các Bậc Vĩ Nhân Và Danh Họa PDF của tác giả Lâm Ngữ Đường nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hà Nội Bể Dâu (Nguyễn Văn Thịnh)
Lời Tác Giả Thưa bạn đọc:Bởi tôi nghĩ hồi ký chỉ dành cho những nhân vật tầm cỡ hoặc chí ít cũng lưu lại dấu ấn trong đời sống cộng đồng. Tôi không có được cái hân hạnh ấy, chỉ nghĩ mình như một con cá trong bầy cá tung tăng bơi lượn theo dòng chảy lịch sử. Nếu không có bầy cá thì một con cá chẳng là chi. Nhưng một con cá trong bầy cá ngược xuôi ngang dọc nổi chìm khiến người ta nhận ra dòng chảy kia mạnh, nhẹ, xoáy, yên để bày cá lúc chụm lại, lúc tản ra, con mất con còn và cuối cùng tan biến vào biển cả mênh mông.Đó là những chương ký sự riêng chung lẫn lộn của thời niên thiếu hồn nhiên và thời thanh niên đầy biến động với những thân phận con người trước cuộc đời dâu bể. Tự bach: Tìm mua: Hà Nội Bể Dâu TiKi Lazada Shopee Bác sỹ Nguyễn Văn Thịnh, sinh năm 1940 tại Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1966 tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Nam Bộ và tiếp sau là cuộc chiến bảo vệ biên cương ở hai đầu đất nước. Năm 1997, mấy truyện ngắn đầu tay được đăng trên Tuần báo văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam, tiếp sau viết nhiều thể loại: Tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kịch, thơ, phê bình, tiểu luận. Có tác phẩm được giải thưởng của Trung ương và Thành phố, nhiều bài đăng trên các báo, trang mạng sạch trong và ngoài nước, được dư luận quan tâm.Cầu mong dân nước yên ổn, thanh bình, xã hội tiến bộ, văn minh, người người sống trong hòa ái.(Nguyễn Văn Thịnh)Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thànhDo thị Thăng Long cựu đế kinhCù hạng tứ khai mê cựu tíchQuản huyền nhất biến tạp tân thanhThiên niên phú qúy cung tranh đoạtTảo tuế thân bằng bán tử sinhThế sự phù trầm hưu thán tứcTự gia đầu bạch diệc tinh tinh(Trăng xưa soi thành phố mớiThăng Long - Hà Nội cố đôPhố phường đường xưa lạc lốiRập rình điệu nhạc lạ taiBon chen ngàn năm phú qúyNgười thân nửa mất nửa cònThan chi sự đời chìm nổiTrên đầu tóc trắng như mây)NGUYỄN DUĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hà Nội Bể Dâu PDF của tác giả Nguyễn Văn Thịnh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đô Thị Cổ Hội An Di Sản Văn Hóa Thế Giới (Nguyễn Trung Hiếu)
Nếu bạn là người yêu thích lịch sử và đang có ý định tham quan Hội An thì đây là cuốn sách nên tham khảo trước chuyến đi. Cuốn sách đề cập đến hầu hết các di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng của Hội An. Ngoài việc giới thiệu, tác giả còn trình bày quá trình phát triển, nét đặc sắc của các nhà cổ, ý nghĩa của các di tích lịch sử, nguồn gốc, nét đặc sắc của ẩm thực, các trò chơi dân gian... Nên có thể nói rằng cuốn sách này như một "hướng dẫn viên du lịch" về Hội An cho bạn. Điều mình thích nhất là sách có đề cập đến cả "mắt cửa Hội An", một phần rất quen thuộc trong các ngôi nhà cổ ở Hội An nhưng chưa thấy tài liệu nào đề cập đến. *** Hội An là trường hợp đặc biệt và cho đến nay chưa diễn ra lần thứ hai trong lịch sử Việt Nam. Hơn 500 năm trước đây, Hội An được ghi nhận là thương cảng của người Chămpa với những địa danh Đại Chiêm Hải Khẩu, Chiêm Bất Lao, cửa Đại Chiêm... Và trước đó, từ những đồng tiền Ngũ Thù, Vương Mãng thời tiền Hán được tìm thấy tại các di chỉ tại Cù Lao Chàm, Cẩm Hà trong các mộ chum Sa Huỳnh... nơi đây được đoán định là điểm giao thương quốc tế của cư dân thuộc nền Văn hóa Sa Huỳnh cách đây hơn 2.000 năm, cùng thời với Văn hóa Hòa Bình, Đông Sơn ở phía Bắc và Óc Eo ở phía Nam... Xuất phát từ sự bức ép trong cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn vào những năm thế kỷ XVII, Nguyễn Hoàng mang binh, gia quyến thuộc vượt qua dãy Hoành Sơn vào Nam, chọn Hội An làm cửa ngõ thông thương ra phía ngoài. So với thương cảng Phố Hiến (Đàng Ngoài) cùng thời, cùng giữ vai trò, Hội An (Đàng Trong) tuy thành hình muộn hơn, nhưng lại nổi bật và thành công hơn rất nhiều. Sự lấn át của Hội An bộc lộ đến độ, ghi lại trong cuốn Phủ biên tạp lục (1776), nhà bác học Lê Quý Đôn miêu tả: “Thuyền từ Sơn Nam (Đàng Ngoài) về chỉ mua được một thứ củ nâu; thuyền từ Thuận Hóa (Phú Xuân) về thì cũng chỉ có một thứ là hồ tiêu. Còn từ Quảng Nam (tức Hội An) thì hàng hóa không thứ gì không có”. Trong thời thịnh vượng, Hội An không chỉ là nơi làm ra kho vàng lẫn bạc dồi dào cho 9 đời Chúa, cùng 13 đời vua Nguyễn giành lợi thế trước đối phương, mà từ đây những cuộc thử nghiệm kinh tế đã được áp dụng thành công đến nỗi vài trăm năm sau, hậu thế cũng chưa nơi nào sánh được. Ví dụ, lần đầu trong lịch sử (và có lẽ đến hôm nay), Chúa Nguyễn đã dám cắt đặt một thương gia Nhật làm thị trưởng thương cảng Hội An để điều hành công việc phát triển kinh tế; mạnh dạn cho phép “Hoa di ngoại tộc” định cư, mua đất lập làng, xây phố, dựng vợ gả chồng sinh sống lâu dài, ổn định... và đối xử với họ công bằng, chí tình như con dân nội thuộc. Nhờ vậy, suốt một chặng đường dài lịch sử, Hội An đóng vai trò như một cửa ngõ thông suốt, tiếp nhận, cải biên, biến hóa những tinh hoa văn hóa, ý tưởng mới mẻ từ bên ngoài, tạo ra kế sách, động lực... phát triển nhân tài, vật lực góp phần quan trọng cho công cuộc mở đất về phương Nam của dân tộc. Tìm mua: Đô Thị Cổ Hội An Di Sản Văn Hóa Thế Giới TiKi Lazada Shopee Và hôm nay, còn đáng lưu tâm hơn, dù trải qua bao nhiêu khốc hại của thiên tai, tranh chấp quyền lực, chiến tranh, thời gian tác động, Đô thị cổ Hội An là điểm duy nhất trong cả nước và khu vực Châu Á vẫn bảo tồn được hầu hết nét nguyên sơ của kiến trúc cổ cách đây hàng trăm năm từ những ngày còn hưng thịnh. Kiến trúc sư người Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (Kazik) từng cảm khái trong nhật ký của ông (1985): “Vẻ đẹp không trùng lắp, chứa đựng trong các phố phường lịch sử; sự phong phú của các thể dáng kiến trúc; sự hoàn hảo của nghệ thuật chạm khắc trong nội thất các quần thể kiến trúc, tạo nên cho Phố cổ Hội An những đặc điểm nổi bật trong một thiên nhiên riêng biệt... Những đặc điểm này đưa quần thể di tích phố cổ lên vị trí hàng đầu trong danh mục các di tích văn hóa của Việt Nam và cả trong kho tàng di sản văn hóa nhân loại”. Hội An là một di sản văn hóa thế giới theo cách của mình. Đô thị cổ với những dãy phố rêu phong trầm mặc, không khiến người ta giật mình thảng thốt, trầm trồ, choáng ngợp vì sự kì vĩ, hay kiều diễm như nhiều nơi khác. Hội An chỉ gây sự chú ý bằng cái cách là một góc nhỏ giản dị, thân mật và an toàn cho những người con xa, trở về nương tựa sau chuyến bươn bả hải hành.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đô Thị Cổ Hội An Di Sản Văn Hóa Thế Giới PDF của tác giả Nguyễn Trung Hiếu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chữ, Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc (Nguyễn-Văn-Trung)
Sau khi chiếm đóng xong Nam kỳ, thực dân Pháp bắt đầu thiết lập guồng máy cai trị. Vì chưa thể có sẵn những nhân viên dân sự từ Pháp sang, nên buộc lòng thực dân phải dùng bọn Tướng Tá Sĩ Quan tại chỗ lo việc hành chánh, tư pháp. Đó là thời kỳ các Đề đốc cai trị. Bọn này chủ trương chính sách trực trị nhưng chưa am hiểu tính tình, phong tục, văn minh Việt nam, nhất là không biết nói tiếng An-nam. Do đó để tiếp xúc với Vua quan, dân chúng bản xứ, lúc đầu họ phải nhờ những thừa sai tu sĩ chủng sinh người Việt xuất thân từ các trường đạo, nhất là trường ở Pénang… Nhưng những người này vừa ít, vừa chỉ thông thạo chữ La-tinh, mà bọn Sĩ quan lại không thông thạo gì tiếng La-tinh, nên việc giao dịch thật khó khăn. Từ đó, thực dân thấy cần lập ngay một trường Thông ngôn để đào tạo lớp người trung-gian giữa nhà cầm quyền Pháp và dân bản xứ. Mở trường nhưng không kiếm ra người đi học. Những người có học thức (biết chữ nho, chữ nôm) hầu hết đều chống đối, tẩy chay, nên rút cục thực dân Pháp phải dụ dỗ, chấp nhận cả những thành phần vô học, bồi bếp, côn đồ vào học. Chính cái gốc côn đồ, thành tích bất hảo, dốt nát của những thầy thông ngôn đó sau này đã đẻ ra một đám những ông quan An-nam tham nhũng, hống hách, tàn ác, và đàng khác đã là một nguyên nhân đưa tới việc chống đối chữ quốc ngữ như sẽ nói dưới đây. Song song với việc mở trường thông ngôn đào tạo tầng lớp trung gian tay sai là mối bận tâm tìm ra một chữ viết làm phương tiện giao dịch giữa người Pháp và người bản xứ để cho dân chúng hiểu được những chỉ thị, mệnh lệnh thông cáo của nhà cầm quyền và hơn nữa hiểu được những chính sách đường lối cai trị nhà cầm quyền đề ra. Không thể dùng tiếng Pháp, chữ Pháp vì hiển nhiên người bản xứ chưa ai biết, không thể dùng chữ nho, chữ nôm, vì đó là thứ chữ chỉ thông dụng cho một thiểu số, rất khó học và nhất là vì thứ chữ của lớp người phản kháng, tiêu biểu cho sự chống Pháp. Vấn đề đặt ra cho thực dân cai trị như đã đặt ra cho giáo sĩ thừa sai làm sao truyền đạo cho đông đảo dân chúng không biết những tiếng Âu châu cũng không thông thạo chữ nho; các thừa sai đã sáng chế ra chữ viết ghi âm bằng chữ cái La-tinh dùng vào việc truyền đạo.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chữ, Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc PDF của tác giả Nguyễn-Văn-Trung nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.