Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tây Xuất Ngọc Môn

"Phàm là người từng trải, nào có ai tránh được đôi chút nuối tiếc, có ai không ôm nuối tiếc mà tiếp tục sống (...) Những điều nuối tiếc này, giống như từng bậc thang, người sáng suốt sẽ giẫm lên đó, tìm con đường tốt đẹp hơn phía trước. Còn như đôi mắt thiển cận, chỉ chăm chăm phóng đại nuối tiếc cỏn con này, thì đừng mong có thể nhấc chân bước qua được nó." Đây là câu chuyện về một cô gái sau khi gặp ác mộng tỉnh dậy thấy mình bị treo cổ ở nơi hoang vu, cùng một chàng trai gánh trên lưng 18 sinh mạng, về hai kẻ vốn phải là hai đường thẳng song song, lại vì cõi u minh an bài mà gặp gỡ. Đây cũng là câu chuyện xoay quanh sa mạc mênh mông cát vàng, quanh Ngọc Môn quan cô quạnh trong truyền thuyết, là câu chuyện nồng ấm tiếng cười, cũng thấm đẫm nước mắt, mỗi sinh vật ở đó đều phải vật lộn với số mệnh của riêng mình. Một nam, một nữ, cùng một tòa thành, tưởng chừng hoàn toàn xa lạ, lại tựa như có ngàn vạn ràng buộc vào nhau. *** Lần này A Tử quay về với các với một bộ truyện vô cùng đặc sắc mang màu sắc huyền bí. Nếu như bạn là một mọt truyện, đặc biệt là một fan của thể loại huyền bí linh dị thì chắc chắn bạn không thể bỏ qua Vĩ Ngư và các tác phẩm của cô. Và đặc biệt là Tây Xuất Ngọc Môn này đây. Câu chuyện lần này Vĩ Ngư mang đến cho chúng là một câu chuyện về một chàng trai gánh trên vai 18 mạng người và một cô gái bị mất đi kí ức và tỉnh dậy lúc đang bị treo cổ trên một thân cây. Câu chuyện bắt đầu từ một rạp hát múa rối bóng trong một con hẻm nhỏ ở Tây An tấp nập khách tứ phương. Đó là một chàng trai trẻ trung phải ẩn mình sau lốt già nua yếu ớt của ông cậu mình, tiếp nối nghề múa rối bóng truyền thống của gia đình và tiếp tục chuỗi ngày sống chán ngán buồn thương và cô độc. Có lẽ mọi người đều thắc mắc, tại sao một người con trai đang ở độ tuổi nhiệt huyết nhất của trẻ, đáng lẽ phải sống rực rỡ chói chong đầy năng lượng như ánh mặt trời lại giả trang thành ông cậu gần đất xa trời của mình rồi chui vào góc tối tăm sau sân khấu để làm người điều khiển rối bóng. Đã từng, Xương Đông đã từng chói chang rực rỡ và nóng bỏng như ánh mặt trời trên các vùng đất sa mạc đầy nắng gió và cát vàng mênh mông. Trước kia người ta gọi anh là “Nanh Sa”, chiếc răng nanh cắm xuyên qua sa mạc, nhưng thú thật mình thích gọi anh ấy là “Vua Sa Mạc” hơn, bởi vì không vùng sa mạc nguy hiểm nào anh ấy không vượt qua, với sự hiểu biết sâu rộng về sa mạc, cường tráng bản lĩnh, cộng thêm máu liều táo bạo của tuổi trẻ anh trở thành một người dẫn đường hàng đầu mà bất cứ một đoàn thám hiểm sa mạc nào cũng mong được anh là người dẫn đường. Nhưng cái danh Nanh Sa hẳn như 1 cái răng nanh xuyên qua tim anh, giết chết 19 mạng người, 17 người là đoàn thám hiểm cuối cùng mà anh nhận dẫn đoàn, 1 người là người vợ sắp cưới mà anh yêu thương nhất, và người còn lại chính là bản thân Xương Đông, sau biến cố này, anh giống như một cái xác không hồn, chỉ vì quyết định hướng đi bị lệch, dẫn đến một kết cục thảm cảnh, cả đoàn không một ai sống sót, người yêu mất, sự nghiệp của tan thành mây khói, bị người đời sỉ vả. Sau khi bán hết gia sản của mình, bồi thường cho gia đình của các nạn nhân, anh đến Tây An nương nhờ người cậu của mình, sau khi ông mất, anh tiếp tục chui vào góc tối dẫn dắt các linh hồn rối bóng như một cách cho bản thân một động lực để sống tiếp, sống không phải vì tương lai tốt đẹp hơn đang chờ anh, mà là sống để chuộc tội, sống để tự trừng phạt chính mình. Cho đến một ngày, một cô gái xinh đẹp bí ẩn mang theo 1 tấm hình chụp lại thi thể của người yêu anh, đến xé tan cái bức màn đêm tối và lô anh đi tìm kiếm sự thật về thảm án 2 năm về trước. Còn về Diệp Lưu Tây, một cô gái bí ẩn, mất trí nhớ, tỉnh dậy trên một cái cây và đang bị treo cổ, trong túi tùy thân chỉ có một vài tấm ảnh, và 1 chiếc cốc Đầu thú mã não là hàng cổ hàng hiếm. Nếu như gọi Xương Đông là nguyên nhân trực tiếp của chuyến hành trình đi vào Ngọc Môn Quan thì Diệp Lưu Tây chính là nguyên nhân sâu xa của chuyến hành trình này và cả thảm án Sơn Trà Đen nữa. Ấn tượng đầu tiên về Diệp Lưu Tây là một cô gái xinh đẹp, tiếp theo là bản lĩnh không thua kém cánh đàn ông, và tổng xuyên suốt bộ truyện, ấn tượng cuối cùng là một Diệp Lưu Tây lòng dạ bao la nhưng tàn nhẫn đến đau nhói lòng. Thực ra nếu mà để nói về Lưu Tây thì không thể nói gì nhiều được, cũng không biết nói nhiều. Diệp Lưu Tây trước và sau khi mất trí nhớ giống như tách ra thành hai phân thân như trong truyện Bán Yêu Tư Đằng cùng tác giả. Diệp Lưu Tây sau khi mất trí nhớ mềm lòng nhẹ dạ hơn rất nhiều so với trước kia, dù cho bản chất tính cách không thay đổi mấy, chẳng hạn như cách cô xử lý tên dê xồm ở Tây An, hay cách cô tự đối với bản thân để tìm lại trí nhớ, thật sự đến đoạn đó, ruột mình quặn thắt lại, tay lạnh toát không cầm nổi quyển sách mà phải đặt xuống bàn để đọc tiếp. Nhưng cô đối xử với đồng đội mình rất khác xưa, những đồng đội bây giờ, cô dành cho họ tình cảm nhiều hơn rất nhiều so với người lúc trước. Dạy võ một cách cực tấu hài cho bạn Đường Mập, chăm sóc tận tình cho cái đầu bé nhỏ bị thương của bạn Đinh Liễu, quan tâm đến tình cảm yêu đương của bạn Liễu và bạn Cao Thâm, và hơn hết tình yêu bỗng dưng nảy nở với Xương Đông, nói thật mọi đừng cười, A Tử đọc hết hai tập truyện không bỏ sót một chữ nhưng không thể nhớ được hai người này bắt đầu yêu nhau từ lúc nào, tình yêu của hai người rất tự nhiên, không màu mè, cũng không gượng gạo, và cũng không mờ nhạt như trong một số truyện khác của Vĩ Ngư, A Tử đọc Bán Yêu Tư Đằng và Chuông gió của Vĩ Ngư rồi, cảm thấy hai truyện trên khá hay nhưng đào sâu các chi tiết kì bí linh di, xen lẫn âm mưu, ân oán cổ kim, thật sự không hề chú ý đến tình cảm nam nữ của hai nhân vật chính như trong Tây Xuất Ngọc Môn. Trong Tây Xuất Ngọc Môn lần này, Vĩ Ngư đã cho người đọc cực kì thỏa mãn khi nêm nếm các gia vị một cách vừa đủ để làm dậy lên mùi hương của tình yêu nhưng vẫn giữ trọn vẹn được vị ngon của nguyên liệu chính là kì bí linh dị và thêm một chút không khí lữ hành, đó là cách nấu rất riêng của Vĩ Ngư mà không ai có thể bắt chước được. Tây Xuất Ngọc Môn lần này thật ra thiên về âm mưu ẩn dấu, đo đếm nhân tâm, cuộc chiến giai cấp nhiều hơn là kinh dị, các yêu quái dù có loài hung ác, có loài hiền lành nhưng trong truyện này chúng hiện lên dưới ngòi bút của Vĩ Ngư một cách rất gần gũi, khi bạn đọc truyện có thể đọc xong về 1 loài yêu quái nào đó và nhìn quanh quất xung quanh mình xem có gì kì lạ không, rất kích thích . Suýt tí nữa mà quên một điều A Tử hơi bị thích trong Tây Xuất Ngọc Môn, đó là khả năm làm việc teamwork của team Đông Tây cực mạnh, từ khi bước vào trong quan nội, có rất nhiều phe kinh hiểm tưởng suýt chết nhưng với khả năng phối hợp ăn ý đến khó tin giúp cả 5 người trong team thoát chết 1 cách thần kì, có hai cảnh mà A Tử ấn tượng nhất trong truyện, cảnh đầu tiên là lúc mới vào Ngọc Môn Quan, chiến đấu với xác sống ở gò yardang, đó là lần đầu tiên cả đội phối hợp với nhau, tình cảm gắn kết mọi người bắt đầu từ đó, và cảnh thứ 2 là đi trộm tài liệu, đó là đoạn thót tim hồi hộp nhất trong truyện, Đinh Liễu gây chú ý đánh lạc hướng, Cao Thâm một mình đóng 2 vai gây nhiễu địch, Đường Mập dẫn gà đi gây hỗn loạn, và tất nhiên Đông Tây kết hợp một màn trộm đồ gay cấn nghẹt thở như Phi vụ thế kỷ luôn. Dành một chút xót xa cho người con trai ở ngoại truyện, A Tử không khóc cho anh ấy mà chỉ thấy lòng buồn xót xa, Lưu Tây gặp anh là “đúng người, sai thời điểm”, lúc anh gặp chị ấy là lúc lòng chị ấy lạnh nhất, là lúc cuộc sống khắc nghiệt là tôi ra một Lưu Tây lạnh lùng tàn nhẫn, lòng cao chí xa. Xương Đông là khoảnh khắc “đúng người, đúng thời điểm” của chị ấy, lúc cả tâm lẫn tình của chị ấy như một tờ giấy trắng, giống như chị đang làm lại cuộc đời mới. Cho nên không có gì phải buồn đâu ạ, số phận khắc nghiệt với anh ở kiếp này, nhưng sẽ đối xử dịu dàng hơn với anh ở kiếp sau, rồi anh sẽ có được cô gái của mình, vậy nên hãy cứ chúc phúc cho cô gái anh yêu ở kiếp này tìm được hạnh phúc nhé. Dành thời gian một chút để nói về chị Hàn Vũ Phi, dịch giả của truyện này, thật tâm mà nói, em chưa đọc truyện chị dịch nhiều lắm, em chỉ đọc vài bộ của Vĩ Ngư và Cửu Nguyệt Hy do chị dịch thôi, và em thấy gu chọn truyện của chị khá tốt, dù các truyện chị chọn chỉ dừng lại ở một vài tác giả, nhưng các cốt truyện không theo lối mòn, mỗi truyện đều có đặc sắc riêng không khiến người đọc nhàm chán. Về văn phong thì em không nhận xét gì nhiều, bởi vì nếu không phải là người hiểu sâu về lĩnh vực ngôn ngữ và văn học thì chẳng dám nhận xét là hay hay dở, chỉ có thể nói là văn phong của chị rất hợp với cách đọc của em. Nói tóm gọn lại đây là một bộ truyện đáng đọc. Hy vọng các bạn yêu ngôn tình đừng bỏ lỡ. – A Tử (Ngôn Tình Review Confession) *** Tây An.   Một dải tường thành cổ bao quanh khu vực trung tâm thành thị, chính giữa khu trung tâm là một cổ lâu, phía sau thành lâu là một khu phố trải dài, cho dù sầm uất hay ế ẩm, bất kể tháng nắng hay ngày mưa, nơi này mỹ thực luôn dồi dào, du khách luôn tụ họp.Read more…   Khu phố này tên gọi phố Hồi Dân, nổi tiếng với danh hiệu “Quảng trường văn hoá mỹ thực”, “Đại biểu cho phong thổ Tây An”, hay là “Nơi nhất định phải đến của Tây An”.   Dân cư đông đúc, tấc đất tấc vàng, các cửa hàng mặt tiền cố gắng chen chúc ra hướng đường chính —— nhưng mặt đường không đủ, đành phải quay mặt vào các hẽm nhỏ, chỉ cần bày ra trên đường mấy tấm biển hiệu, bên trên viết vài chữ như “Đi vào trong 15 mét” là được.   Cách cuối phố khoảng chừng một phần ba chiều dài cả khu phố, có một con hẻm nhỏ, đầu hẻm b*n n**c ô mai, phía trên có treo tấm biểu hiệu “Kịch rối bóng, biểu diễn đúng giờ”   Phía dưới dòng chữ có đính một con rối bóng hình dáng một cô gái, mặt mày yêu mị, vòng eo thon thả, phía sau đầu là mái tóc dài tết đuôi sam, động tác linh hoạt.   Du khách nào hứng thú hay cảm thấy mệt mỏi, liền có thể thuận tay lấy bát ô mai, mua vé biểu diễn 10 đồng, xem được một vở kịch rối 10 phút.   Sân khấu kịch rối không lớn lắm, ở ngoài trời khoảng 10 mét vuông, bày ra 3 cái bàn, trên tường treo các loại con rối đủ sắc màu, khách xem nếu thích, bỏ ra 50 đồng có thể mang về 3 con.   Điều khiển rối bằng tay là một ông lão, tên gọi Đinh Châu, chừng 60 tuổi, tóc hoa râm, đi đứng không tiện lắm, nên không mấy xã giao tiếp khách, phần lớn thời gian lão chỉ ngồi sau bức màn sáng trên sân khấu, hai tay linh hoạt vừa điều khiển mấy con rối, vừa nhịp trống, tưng bừng múa ra vài câu chuyện xưa tích cũ.   Có khi là vở “Kẻ bán hàng rong hý lộng đại tiểu thư”, hoặc là vở “Na Tra ba lần đáo Thuỷ cung”   Đêm nay, kịch đèn chiếu 7 giờ bắt đầu diễn, mới 6h50 phút, dưới khán đài đã đầy người.   Đinh Châu xốc màn sân khấu lên xem.   Người xem đa số là cha mẹ dẫn theo con nhỏ, mấy đứa bé hầu hết đều ngồi không yên, mông nhấp nhổm, nhốn nháo ỏm tỏi: “Khi nào mới diễn phim hoạt hình vậy?”   Đinh Châu có thể đoán được tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì: Sau khi bắt đầu diễn rối, mấy đứa nhóc này sẽ mất hết hào hứng, nhận ra kịch đèn chiếu khác xa so với phim hoạt hình, toàn là hát mấy câu ê a khó hiểu, thể nào cũng làm loạn một trận đòi về, người lớn sẽ quát mắng, bọn chúng sẽ lại vừa khóc vừa làm ầm lên.   Trong lúc “gà bay chó sủa” như vậy, lão đành phải vận dụng giọng hát già nua của lão, cố gắng diễn cho xong vở kịch.   Ngẫm lại đúng là chán, nhưng hầu hết con người ta sống ở trên đời, vốn hay chán như vậy.   Bảy giờ kém hai phút, một cô gái trẻ ghé đến.   Đinh Châu giật mình. Mời các bạn đón đọc Tây Xuất Ngọc Môn của tác giả Vĩ Ngư.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tên Trộm Xác Người - James Bradley
Tên Trộm Xác Người là tác phẩm thứ ba của nhà văn người Úc James Bradley, sinh năm 1967. Ông được nhật báo Sydney Morning Herald hai lần phong tặng danh hiệu là một trong “Những tiểu thuyết gia trẻ người Úc tài ba nhất”. Hiện ông sinh sống ở Sydney. Câu chuyện kể về Gabriel Swift, một sinh viên y khoa ngành phẫu thuật. Anh tới London vào năm 1826 để theo học với Edwin Poll, một bác sĩ phẫu thuật lớn. Từ những giao dịch mua bán tử thi, Swift dần lún sâu vào con đường tội lỗi do sự dụ dỗ của Lucan, kẻ nhiều quyền lực nhất trong số những tên đào trộm xác chết của thành phố và cũng là tên trùm cai quản hoạt động này. Bị bác sĩ Poll đuổi học, Gabriel bị cuốn vào thế giới ngầm tàn ác và bí ẩn của thủ đô London thời kỳ Georgian, trở thành một tội phạm. Dù sao, sự cứu rỗi đã đến với Swift ở phần cuối sách. Quyển tiểu thuyết dựa một phần vào sự kiện có thật về hai tên giết người hàng loạt Burke và Hare hồi đầu thế kỷ 19 ở Anh và các hoạt động mua bán xác người của các bệnh viện hay trung tâm phẫu thuật lúc bấy giờ. Truyện không phân theo chương nên khó theo dõi nếu bạn đọc không đọc liền một mạch. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Sài Gòn, tháng 4/2015 ★★★ “Chúng ta chào đời cùng người chết Thấy chăng, họ quay về, và mang chúng ta theo.” — T.S. Eliot, Four Quartets ★★★ “Nhiều tháng sau khi bạn đã khép lại trang sách cuối, những câu chữ của James Bradley vẫn còn đọng trong tâm trí bạn: Đẹp, hấp dẫn và không thể nào quên.”  — Markus Zukas, tác giả quyển The Book Thief “Một thiên tiểu thuyết lãng mạn kinh dị đầy chất cổ điển.”  — Daily Telegraph “Một quyển truyện kinh dị trần trụi, khơi gợi suy tư… Khi bạo liệt, khi đầy triết lý, quyển truyện này đầy ắp không khí.”  — Big Issue ★★★ London, 1826-1827 Họ nằm trong những cái bao tời như nằm trong tử cung của mẹ; gối chạm cằm, đầu ép xuống, như thể chết chỉ đơn giản là quay về với nhục thể mà từ đó chúng ta sinh ra, và đây là sự thụ thai lần thứ hai. Một sợi thừng sau gối giữ họ trong tư thế đó, một sợi khác cột đôi tay họ, rồi miệng bao khép lại bên trên họ và được cột ràng lần nữa, toàn thể trông như một gói đồ nén chặt, đã được ngụy trang một cách dễ dàng, vì nếu bị người bên ngoài nhìn thấy, một thứ hàng hóa như thế sẽ thu hút cả một đám đông. Thế rồi một con dao cắt phăng sợi thừng cột bao, và người này nhấc lên, người nọ kéo, chúng tôi lôi những thứ bên trong bao ra, đặt họ duỗi dài lên mặt bàn, trần truồng và giá lạnh, như một con bê hoặc một em bé chuồi ra khỏi lòng của mẹ, sợi dây và cái bao được giữ lại, vì một lát sau chúng tôi sẽ dùng lại chúng, để thu dọn những mảnh xác bị cắt rời. Chúng tôi cùng giữ chặt họ, kéo thẳng thi thể họ ra lần nữa. Dù tứ chi của họ không mềm quặt mà cũng không cứng lại, bất chấp sự giá lạnh vẫn còn nấn ná bên trong, tình trạng cứng đờ của họ đã bị phá vỡ bên cạnh nấm mồ khi họ bị bẻ gập lại và cột ràng để nhét vào bao. Lúc này, họ duỗi ra dưới bàn tay nắm giữ của chúng tôi, di chuyển với sự dễ uốn nắn lạ lùng của một thân hình nằm giữa cái chết và tình trạng thối rữa. Đấy là một công việc ghê tởm, thế nhưng sự ghê tởm không nằm ở việc đứng gần người chết mà ở sự thân mật nó đòi hỏi từ chúng tôi, sự cận kề với xác thịt và vật chất của thi thể họ. Khi họ đã được uốn nắn xong, nằm tái nhợt và trần truồng trên bàn, chúng tôi bắt tay vào việc. Trước hết chúng tôi lật úp họ xuống, để lộ phần lưng và mông lốm đốm tím và xanh giống như những vết bầm do máu đã tụ lại suốt nhiều giờ sau khi chết. Nếu lớp thịt bắt đầu thối rữa, sẽ có những chỗ phồng dộp, mềm, nhũn nước và tái nhợt, có thể vỡ toang nếu bị chạm vào, nhưng khi đó, lớp da cũng ẩm ướt do thứ chất lỏng giống như mồ hôi rỉ ra từ chúng. Đôi khi, những người liệm xác sẽ nút kín những lỗ hậu môn, và nếu thế, những vật đó phải được lấy ra khỏi xác. Sau đó, với giẻ lau, nước và dấm, chúng tôi bắt đầu rửa ráy cho họ, đôi tay cẩn thận di chuyển qua lớp da của họ, mùi dấm lẫn vào những thứ mùi u ám hơn bám vào họ, chúng tôi tiết chế những cử động nhưng không phải không lau chùi một cách nhẹ nhàng. Khi đã làm xong phần lưng và hai cẳng chân, chúng tôi lật họ trở lại, lau từ bàn chân lên háng, từ háng lên ngực, hai cánh tay và hai bàn tay, cuối cùng tới bộ mặt. Ở đây chúng tôi làm việc cẩn trọng nhất, lau quanh những đầu xương và chỗ nhô lên với những tấm giẻ gấp gọn, quanh đôi gò má, quanh phần trũng quanh mắt. Đôi khi hai mí mắt vẫn còn hé mở, cứng đờ, đôi mắt bên dưới mờ đục và không màu sắc như mắt của những người rất già. Khi lau rửa xong xuôi, chúng tôi xuống sân lấy nước, xà bông và dao cạo. Nước lạnh, dùng cho thi thể lạnh. Thế rồi, kéo thẳng lớp da chùng, chúng tôi bắt đầu cạo; trước tiên là phần da đầu và mặt, tóc ướt được tách thành từng lọn để lộ ra phần u lên của cái sọ; sau đó là lồng ngực và hai nách; rồi cuối cùng là bộ phận sinh dục, lưỡi dao cạo soàn soạt lướt trên lớp da. Đôi khi chúng tôi cắt phạm vào họ, nhưng chẳng có chút máu nào chảy ra, vết đứt tái nhợt và trống rỗng. Tôi không thể nói do đâu chúng tôi biết rằng đây là công việc cần phải được tiến hành trong im lặng. Chỉ biết cách thức là thế, phải luôn là thế. Vào những lúc khác chúng tôi di chuyển quanh họ như thể họ không nằm đó, nói cười với nhau trong lúc lôi kéo, cắt và dọn dẹp những mảnh thịt, gạt chúng sang bên một cách ngẫu nhiên giống như gạt sang bên một cuốn sách hay cái áo khoác đang nằm ở nơi ta định ngồi xuống. Nhưng lúc này chúng tôi lặng lẽ làm việc, không nói nhiều hơn mức cần thiết. Như thể việc rửa ráy người chết này chính là một nghi lễ: giống như người ta rửa sạch những thứ nhớt nhau từ lòng mẹ trên thân hình một em bé, chúng tôi chùi sạch mùi âm ty địa ngục khỏi những xác chết bị đánh cắp đó, đưa chúng mới tinh khôi vào thế giới. Khi công việc đã hoàn tất, mấy cái bao đã được gấp lại gọn gàng, mấy cái xô đã trút sạch nước, những tấm giẻ đã được vắt và phơi, bắt đầu tới việc tính tiền. Thầy chúng tôi kỹ lưỡng nhất trong việc lưu giữ sổ sách tiền nong, và số tiền trả cho Caley và Walker phải được ghi lại: tám đồng tiền vàng cho một xác đàn ông hay phụ nữ đã trưởng thành, hay thứ chúng tôi gọi là một cái lớn; bốn đồng tiền vàng cho một đứa trẻ con, hay một cái nhỏ; một siling mỗi phân Anh cho thứ mà chúng tôi gọi là một bào thai, hay một em bé dài chưa tới một bộ Anh. Và cứ vậy, trong lúc tôi lau sàn, Robert lặng lẽ tính toán trên cuốn sổ cái, ghi lại những khoản thanh toán, kiểm lại số tiền còn tồn trong hộp đựng tiền, gương mặt giấu sau một tấm mặt nạ lặng buồn mà anh luôn khoác lên khi nghĩ rằng mình không bị ai quan sát. ... Mời các bạn đón đọc Tên Trộm Xác Người của tác giả James Bradley.
Giả Thuyết Thứ 7 - Paul Halter
Một ngày nọ ở Luân Đôn, có hai người đàn ông tài ba danh giá quá chẳng để làm gì, đã chơi tung đồng xu để thách thức tài trí nhau. Theo đó người thắng phải gây ra một vụ án mạng kiểu gì cũng được, sao cho bản thân mình có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm, còn các manh mối phạm tội sẽ đổ dồn vào người thua. Một âm mưu thoạt nhìn chỉ để cho vui, cuối cùng như hơi độc thổi bung ra trong không khí, xé toang lồng ngực bao nhiêu người khác, lại cũng làm ngạt thở chính mình. Bởi vì mạng người chưa và không bao giờ là thứ nên đem ra làm trò đùa cợt. Paul Halter, nhà văn trinh thám người Pháp, sở hữu gia tài gồm hơn 30 tiểu thuyết cùng các giải thưởng trong nước và quốc tế. Ông được ưu ái mệnh danh là “Bậc thầy của những căn phòng khóa kín”. Truyện của ông độc đáo vì đã xây dựng được những câu đố và âm mưu tội ác gần như không tưởng. Dùng tiểu thuyết “chuyên chở thông điệp xã hội, khám phá các vấn đề nhân đạo và triết học” cũng trở thành một điểm nhấn khó phai khi nói về Paul Halter. *** Khoảng 10 giờ tối, cảnh sát Edward Watkins đi ngang cung điện St. James như ông vẫn làm nửa tiếng một lần vào những buổi tối phải trực thế này. Nhiều năm qua, ông đã đều đặn thực hiện đúng lộ trình đó mà không gặp sự cố gì. Thi thoảng chạm trán một tay say xỉn có phần ngỗ ngược không thể bỏ qua, nhưng đám đó cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Khu vực này rất yên bình, yên bình như cuộc đời cảnh sát viên của ông, khi ông đã đi mòn gót, tâm trí chỉ nghĩ về thời khắc nghỉ hưu sắp tới bên người vợ yêu quý của mình. Một cuộc đời chẳng có biến cố gì, thực vậy - cho tới đêm 31 tháng Tám năm 1938. Hai bàn tay đan chéo sau lưng, chiếc mũ cát kéo sụp xuống đầu, thứ âm thanh duy nhất ông nghe được là tiếng bước chân của chính mình trong cái khu vực đang say ngủ, chìm trong bóng đổ của những tòa nhà gớm ghiếc cao ngất bao quanh. Đêm khá lạnh và màn sương nhẹ lững lờ buông xuống phần mặt tiền đầy vẻ hăm dọa. Ông rẽ xuống phố King, đi được nửa chừng thì dừng lại ngó qua vai, như một việc rất bình thường. Đúng lúc ấy, ông nghe tiếng bước chân ở đâu kia phố King, ngay chỗ ngã tư với phố Bury. Nhưng khi vòng trở lại, ông chỉ thấy cái bóng của một kẻ qua đường, hắt lên bức tường cách đó hơn chín mét nhờ một ngọn đèn đường năm ở góc ngã tư. Cảnh sát Watkins đứng yên vài giây, miệng há hốc. Mặc dù chỉ thấy cái bóng trong một thoáng, ông cũng đủ nhận ra một điểm dị thường: Nó có cái mũi dài lạ lùng. Không phải dài hơn mức bình thường vài phân, mà dài một cách quái đản, dễ chừng bằng cả vành mũ rộng mà kẻ đó đang đội. Quỷ quái gì vậy? Một gã cải trang thành chim chăng? Edward Watkins đứng yên thêm vài giây nữa, tâm trí quay cuồng. Khi trấn tĩnh lại, ông rảo bước tới góc phố Bury và nhìn dọc xuống lối đi, vừa kịp thấy nhân vật kia sắp rẽ phải vào một hẻm ở quãng giữa phố, nơi hình như có thêm nhân vật khác đã đến từ trước. Watkins chưa xác định được nhân dạng của kẻ thứ hai, nhưng thoáng thấy thứ gì đó rất giống áo choàng. Diễn biến tiếp theo khá nhanh. Nhân vật kia, có lẽ bị đánh động bởi tiếng chân bước của viên cảnh sát, quay phắt lại đối diện với ông và, lộ rõ vè ngạc nhiên, nó vọt nhanh vào ngõ hẹp. Trong những tình huống bình thường, viên cảnh sát sẽ lập tức bám theo. Nhưng những gì ông vừa thấy - và đặc biệt là vào thời điểm đó - lạ lùng đến mức phải mất vài phút quý giá tâm trí ông mới phục hồi được. Nhưng các giác quan thì không hề phản bội ông và hình ảnh dị thường kia vẫn rõ rệt trong tâm trí: áo choàng dài đến mắt cá chân, đôi tay đeo găng, chiếc mũ rộng vành, và thay vì khuôn mặt, lại chình ình một chiếc mặt nạ trắng ởn mà ở chính giữa là cái mũi dài ít nhất cũng hơn ba mươi phân. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh ấy bằng xương bằng thịt, nhưng ông đã xem đủ minh họa để hiểu ra: Ông vừa nhìn thấy một bác sĩ dịch hạch. Một bác sĩ dịch hạch. Đã từng có dịch hạch ở Luân Đôn. Những câu chuyện về bệnh dịch khủng khiếp vụt qua tâm trí ông: Người chết nhiều như ruồi trên đường phố, quằn quại trong đau đớn, thân thể đầy mụn mủ, mí mắt thâm đen, gương mặt teo tóp. Xác chất đống lên xe đẩy, rồi trút xuống hào sâu bên ngoài thành phố, nơi một sự hoảng loạn không tên ngự trị, nơi gần như không thể trốn chạy, và nơi người sống trong những ngôi nhà bị nhiễm bệnh chết vì đói hơn là vì dịch hạch. Viên cảnh sát xua dòng ý nghĩ hắc ám ấy đi và định thần lại. Ba trăm năm nay không còn dịch hạch ở Luân Đôn, đã có nhiều hiện pháp hiện đại để kiểm soát nó. Hơn nữa, các bác sĩ không còn lang thang trên đường phố trong bộ trang phục kỳ dị này nữa. Người ông vừa nhìn thấy hoặc là một người đi dự tiệc hoặc một dạng tội phạm nào đó đang chuẩn bị ra tay. Không, như thế thật vô nghĩa. Có nhiều cách kín đáo hơn để che giấu nhân dạng. Vậy thì là gì chứ? ... Mời các bạn đón đọc Giả Thuyết Thứ 7 (Dr. Twist #6) của tác giả Paul Halter.
Kẻ Giết Người Đội Lốt - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) *** Vào sáng thứ hai, mười giờ kém năm, Perry Mason, cặp dưới nách một gói bọc giấy màu nâu, một tay gỡ cái mũ phớt và ném về phía bức tượng bán thân Blackstone vốn là thứ trang điểm cái giá sách phía sau bàn làm việc của ông. Chiếc mũ phớt lười biếng quay mấy vòng rồi chụp thẳng xuống vầng trán cẩm thạch của vị luật sư lừng tiếng, tạo cho ngài một vẻ ngang tàng quái đản. Della, cô thư kí riêng của Mason đang mở thư tín buổi sáng bên bàn, vỗ tay hoan hô. “Chà, lần này thực sự thành công lắm!” Mason đồng tình với niềm kiêu hãnh kiểu trẻ con. “Blackstone chắc là phải nhảy chồm lên ở dưới mồ,” Della nhận xét. Mason mỉm cười. “Ông ấy đã quen từ lâu rồi. Năm mươi năm gần đây tất cả các luật sư chỉ có làm mỗi việc là chất mũ của mình lên vầng trán cao thượng của Blackstone. Điều đó là đặc trưng trong thời đại chúng ta.” “Đó là điều gì chứ?” “Ném mũ.” “Tôi sợ là không hiểu được hết ý nghĩa.” “Vài thế hệ trước,” Mason giải thích với cô, “các luật sư từng là những người chán ngắt hiếm thấy. Đặt tay lên vạt áo vét, họ nói những diễn từ cầu kì theo mọi quy tắc của nghệ thuật hùng biện. Các văn phòng của họ nhất thiết phải được trang điểm bằng tượng bán thân của Blackstone. Thế nhưng các luật sư trẻ được thừa kế các bức tượng cùng với đồ đạc văn phòng và hàng đống bộ luật thì phát cáu bởi cái vẻ tự mãn khoa trương đông cứng trên bộ mặt bằng đá của lão già này.” “Chắc là anh cần phải đến gặp nhà phân tâm học, sếp ạ,” Della nói. “Có lẽ đối với anh Blackstone tượng trưng cho cái gì đó mà anh cố sức chống chọi lại một cách vô thức. Thế cái gói gì chỗ anh thế?” “Có quỷ mới biết nó,” Mason đáp. “Theo tôi, tôi cố sức chống chọi các định kiến u tối. Tôi đã trả mất năm đôla - tôi có ý nói cái gói ấy.” Trong giọng Della che giấu lòng bao dung dịu dàng sau vẻ giận dỗi giả tạo, “Tôi hi vọng anh không định ghi khoản đó vào chi phí công vụ chứ?” “Tất nhiên, tôi sẽ ghi. Chứ khác đi thì theo cô các chi phí chung là cái gì?” “Và anh thậm chí không biết cái gì bên trong đó ư?” “Tôi mua nó mà không giở ra.” “Tôi sẽ hơi khó quyết toán, nếu phải ghi vào cột chi năm đôla vì cái gói mà không rõ có gì nằm trong đó. Điều gì đã xui khiến anh như thế?” “Nói chung,” Mason thốt ra, “sự thể là thế…” Ông mỉm cười. “Nào tiếp theo là gì?” Della hỏi, cũng không đủ sức kìm nổi nụ cười. “Cô nhớ cái cô Helen Cadmus nào đó không? Cái tên ấy không nói với cô điều gì sao? “ “Một cái tên khá lạ,” cô nói. “Tôi có cảm giác… Khoan, đó có phải là cô gái đã tự tử, nhảy xuống biển từ tàu buồm của một nhà triệu phú nào đó?” “Phải, phải, chính cô ta. Benjamin Addicts, một triệu phú khá bất thường, nghỉ ngơi trên chiếc tàu buồm của mình. Giữa biển khơi, cô thư kí của ông ta, Helen Cadmus biến mất không để lại dấu vết. Người ta phỏng đoán là cô ta đã nhảy ra ngoài thành tàu. Mà trong cái gói này… Nào chúng ta cùng xem điều gì viết ở đây.” Mason lật cái gói lại và đọc, “Đồ vật riêng của Helen Cadmus. Văn phòng mõ tòa.” Della thở dài. “Đã bấy nhiêu năm tôi là thư kí riêng của anh… và thậm chí đôi khi tôi có cảm giác rằng tôi đã biết anh khá rõ, nhưng rồi lại xảy ra gì đó như kiểu này, và tôi lại nhận thức rằng anh vẫn là ẩn số đối với tôi. Trời ơi, anh lấy thứ đó ở đâu và vì cái gì mà bỏ ra những năm đôla cơ chứ?” “Mõ tòa khá thường xuyên đưa ra đấu giá đủ thứ vớ vẩn khác nhau chất đống trong văn phòng ông ta. Và hôm nay trong gian nghị án đã có cuộc đấu giá, còn tôi lại vô tình có mặt không xa chỗ đó. Ở đấy diễn ra những cuộc đấu giá khá hăng, tất cả tranh giành các chế tác kim hoàn, các bức tranh quý hiếm, bộ đồ ăn bằng bạc và đủ mọi thứ khác nữa. Sau đó người ta đưa ra đấu giá cái gói này, và chẳng có ai thèm trả giá. Cô cũng biết mõ tòa - ông ta là một bạn tốt của tôi. - Thế là tôi nháy mắt cho ông ta, và đề nghị đặt giá đầu tiên là năm đôla, nhằm kích động công chúng. Và cô biết sao không? Tôi chưa kịp trấn tĩnh thì họ đã dúi cái gói cho tôi rồi, thành ra trong ví tôi bớt đi năm đôla.” “Thế có gì bên trong ấy?” Della tò mò. “Ta cùng xem,” Mason đề nghị. Ông mở con dao díp, cắt dây buộc và mở tờ giấy bọc ra. “Ái chà chà! Giống như chúng ta có được cuốn ngữ pháp tiếng Anh, cuốn từ điển, vài sách giáo trình tốc kí, mấy cuốn nhật kí và quyển album với những tấm ảnh.” “Có thế mà mất những năm đôla!” Della kêu lên. “Ta ngó qua album ảnh xem,” Mason nói. “Chà! Đây có những tấm ảnh mà ai cũng muốn xỉa năm đôla mua nó.” Della đi lại gần và ngó qua vai ông. “Nếu đó được gọi là quần áo tắm,” cô nhận xét, “thì tôi…” “Thế nhưng giống như nó chính là thế,” Mason đáp. “Bộ đồ tắm từ ba mảnh vải hình vuông, bằng cách thần diệu nào đó đã bám được vào các đường nét uyển chuyển của thân hình khá đáng yêu. Tôi cho rằng đó chính là Helen Cadmus.” “Cô ta không che giấu quá nhiều khỏi những con mắt người lạ,” Della nói. “Chắc gì người lạ nào đó đã chụp, có lẽ một cô bạn nào đó của cô ta biết sử dụng máy ảnh, may mắn tóm được khuôn hình gây ấn tượng mạnh. Ồ, ở đây còn cả một tập những bức ảnh của lũ khỉ nữa.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Giết Người Đội Lốt của tác giả Erle Stanley Gardner.
Chiếc Khuy Đồng - Lev Ovalov
Cuốn tiểu thuyết tình báo "Chiếc khuy đồng" của Ô-va-lốp viết dựa trên một câu chuyện có thật, xảy ra tại thành phố Ri-ga, nước Cộng hòa Lét-tô-ni (Liên-xô) tạm thời bị quân phát xít Đức chiếm đóng vào những năm đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai. Câu chuyện lý thú phản ánh cuộc đấu tranh gay go, mạo hiểm, quyết liệt giữa cơ quan tình báo Liên xô và bọn gián điệp của các nước đế quốc; nêu lên những mâu thuẫn, xung đột tất yếu không thể tránh khỏi trong nội bộ bọn gián điệp đế quốc, phản ánh sự cấu xé vì quyền lợi và tham vọng giữa các nước đế quốc, dù lúc bấy giờ với danh nghĩa là đồng minh của Liên xô chống phát xít Hít-le. Hiện nay, bọn phản động bành trướng bá quyền Bắc Kinh đang ra sức cấu kết với đế quốc Mỹ, tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với nước ta. "Chiếc khuy đồng" ra mắt lần này chắc chắn sẽ góp phần giúp bạn đọc nâng cao tinh thần cảnh giác Cách mạng, bồi dưỡng và củng cố thêm ý chí bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. *** Lời Tác giả: Tính đến nay đã gần tròn 20 năm, tôi có viết về Prô-nin, một cán bộ của Cục An ninh Quốc gia, và là người bạn của tôi, một tập truyện nhan đề là NHỮNG VIỆC MẠO HIỂM CỦA THIẾU TÁ PRÔ-NIN. Xuất bản tập truyện ấy chẳng được bao lâu thì cuộc Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc bùng nổ. Từ đó chúng tôi mỗi người một ngả, không liên lạc và cũng không hề gặp nhau. Trong quãng thời gian ấy, những sự kiện lớn lao đã bắt buộc một số người phải rút vào hoạt động bí mật.. . Rồi chiến tranh lại tan đi, công cuộc kiến thiết hòa bình trở lại trên khắp đất nước, người người lại sum họp và sau đó một thời gian mà tôi cho là dài lắm, cuộc sống lại trả hai chúng tôi về cảnh cũ. Đương nhiên tôi có hỏi về cái quá khứ của Prô-nin, tuy rằng anh không bao giờ thích để ai ca tụng mình. Anh đáp: "Tôi đã làm những gì thì chưa đến lúc phải kể lại, mà tôi cũng không có quyền nói hết những việc mình làm. Nhưng tôi có quyển nhật ký nhỏ của một đồng chí sỹ quan mà tôi có nhiệm vụ phải gặp gỡ trong những ngày đầu chiến tranh. Xin biếu anh đây. Đọc trong ấy tất anh sẽ biết được ít nhiều về tôi. Anh ta ghi quyển nhật ký này không phải để cho mọi người xem, nhưng nếu thấy thích, anh có thể phổ biến. Tất nhiên, những tên thật nên thay đổi đi ". Tôi đọc hết những dòng nhật ký đó và quyết định viết thành tiểu thuyết này. Lời lẽ quyển tiểu thuyết gần giống y như bản thảo nhật ký, tôi chỉ chữa lại một vài tình tiết ở đôi chỗ và thay đổi vài ba tên thật mà thôi. Tôi mở ngăn kéo bàn giấy lấy chiếc khuy đồng ra. Chiếc khuy đồng giản dị này là vật kỷ niệm duy nhất của tôi để ghi nhớ lại những sự việc lạ lùng nửa hư nửa thực mà tôi đã bị bắt buộc phải chứng kiến và tham dự vào... Cái vật bằng đồng nhỏ bé đó nằm gọn lỏn trên lòng bàn tay, gợi lại trong tâm trí tôi hình bóng ả đàn bà ấy, một hạng đàn bà kỳ dị hiếm có ở trên đời mà tôi đã quen biết trong những cảnh ngộ thật là éo le, khó hiểu. Đó là Xô-phi-a An-cốp-xcai-a. Nếu nói theo quan niệm thông thường của ta thì ả không phải là một trang tuyệt thế giai nhân: nét mặt không cân đối, thân hình chả lấy gì làm hoàn mỹ. Thế mà ả đã khiến cho nhiều kẻ mày râu phải "đổ quán xiêu đình" trước cái sóng khuynh thành của mình... Bạn thử hình dung ra một người đàn bà khá cao, tóc nâu sẫm, mặt hơi dài, trán dô gần như trán đàn ông với đôi mắt một mí màu gio mà trong cơn giận dữ thường biến sang màu xanh như mắt mèo và sắc như lưỡi dao cạo. Mũi hếch, cằm thon. Khác thường nhất là đôi môi đỏ chót, trề ra y hệt như môi trẻ con và có thể đột ngột mím chặt lại một cách dữ tợn, tái dần đến nỗi trắng nhợt ra. Hai vành tai quá rộng nói lên đặc khiếu thẩm âm của ả. Đôi má thỉnh thoảng mới ửng hồng, mái tóc mềm hơi uốn cong bên thái dương, hai cánh tay có vẻ quá mảnh khảnh nếu đem so với bộ đùi nở nang như đùi nhà thể thao chuyên nghiệp. Trong khi trò chuyện với ai ả chỉ nghe một bên tai, còn tai kia hình như đang mải lắng nghe một khúc nhạc hiu hắt từ cõi xa xăm nào vọng tới; nếu một mắt nhìn chòng chọc vào mặt người đối diện thì mắt kia hình như đang đăm chiêu soi vào khoảng không gian thăm thẳm. Và nếu tay phải ả dịu dàng vuốt ve anh thì tay trái có thể thình lình móc khẩu súng lục xinh xắn tối tân ở trong xắc ra để bắn chết anh trong nháy mắt. Phải chăng trong câu chuyện oái oăm này cũng phải có một nhân vật lạ đời như thế? Tôi là thiếu tá Ma-ca-rốp, sĩ quan tham mưu Liên Xô. Mấy tháng trước khi xảy ra chiến tranh, tôi được phái đến Ri-ga, một thành phố lớn và cổ kính nằm giữa hai miền Đông và Tây Âu... Nhiệm vụ của tôi là nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị kế hoạch bố trí quân lực ở miền Tây Bắc để ngăn chặn một cuộc tiến công bất ngờ của quân địch khi chiến tranh bùng nổ. Công tác đó có tính chất hết sức bí mật. Lúc bấy giờ Ri-ga là một thành phố đông đúc và phức tạp. Những dãy nhà nguy nga tráng lệ ngất nghểu bên những phố xá tồi tàn đổ nát. Trước mắt chúng tôi đầy rẫy những nghịch cảnh giàu nghèo, sang hèn, vừa khêu gợi trí tò mò mà lại vừa kỳ lạ. Ri-ga là thủ đô của nước Cộng hòa xô-viết Lét-tô-ni vừa thành lập được ít lâu. Tôi sống khá kín đáo trong căn buồng riêng tại nhà đồng chí công nhân xưởng cơ khí tên là Xe-plít. Đồng chí là một đảng viên cộng sản lâu năm đã được tôi luyện trong thời kỳ hoạt động bí mật. Nhờ có chìa khóa riêng để ra vào cửa lớn nên tôi ít làm phiền đến chủ nhà. Tôi còn nhớ rõ đêm ấy vào khoảng cuối tháng sáu, sau khi báo cáo tình hình công việc hàng ngày với thủ trưởng, tôi bước ra khỏi tòa nhà đồ sộ sáng trưng ánh điện, đi qua một phố nhỏ rồi rẽ xuống đường bờ sông Đô-gáp xây bằng đá, rộng thênh thang. Mùa hè ở biển Ban-tích thật là êm dịu. Khí trời khô ráo nhẹ nhõm. Lòng tôi lâng lâng giữa biển hương thơm ngào ngạt dâng lên từ dòng sông và từ hoa cỏ dại đẫm sương... Đêm đã khuya. Bốn bề vắng ngắt. Tôi đội mũ dạ, mặc áo choàng màu sẫm, trong bóng tối khó mà nhận thấy. Một làn gió lạnh thoảng qua. Tôi rùng mình định kéo cổ áo lên chợt nghe tiếng gọi khẽ sau lưng. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Khuy Đồng của tác giả Lev Ovalov.