Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trên Đường

Cuốn tiểu thuyết từng nằm trong danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh vĩ đại nhất giai đoạn 1923- 2005 của tờ Time này gần như một cuốn tự truyện tiêu biểu cho làn sóng tự do tiên phong thời kỳ hậu Thế chiến II. Được xếp vào các tác phẩm văn học cổ điển Mỹ cùng Huckleberry Finn của Mark Twain, tác phẩm đã khai thác chủ đề tự do cá nhân và những thử thách từ cái gọi là “Giấc mơ Mỹ”. Qua những chuyến đi và trải nghiệm của nhân vật chính và những mối quan hệ đan xen trong truyện, Trên đường là một bằng chứng của một giai đoạn trong lịch sử nước Mỹ và của một phong trào trí thức mà nếu không có nó có lẽ sẽ không ai lý giải. Cuộc phiêu lưu xuyên Mỹ của Sal Paradise và Dean Moriarty trong truyện được dựa trên chuyến đi có thật của Jack Kerouac và Neal Cassady. Về thực chất, đó chính là hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và sự trải nghiệm đích thực. Được viết bằng sự pha trộn giữa cái nhìn buồn bã ngây thơ với sự phóng túng cuồng nhiệt, giữa tình yêu sâu sắc của Kerouac với nước Mỹ, lòng trắc ẩn của ông với con người và cảm thức về ngôn ngữ, coi nó như nhạc jazz, Trên đường là một điển hình cho cách nhìn Mỹ về tự do và hy vọng, đặc biệt trong bối cảnh “Giấc mơ Mỹ” bắt đầu tan vỡ. Với Trên đường, Jack Kerouac đã bắt đầu phát triển một cách viết mà ông gọi là “Văn xuôi bột phát” (Spontaneuos Prose) với đặc điểm gồm rất nhiều các câu dài, kết cấu hình thức phóng khoáng, được viết ra ngay khi ý tưởng ập đến trong đầu, mang tính cá nhân rất cao. Ngay từ khi ra đời, cuốn sách đã gây ra không ít tranh cãi, nhưng bất chấp những tranh cãi đó, Trên đường vẫn được đa số công nhận là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi của nền văn học Mỹ nói riêng và thế giới nói chung.   Nhận định   “Nếu như Mặt trời vẫn mọc của Hemingway trong thế kỷ hai mươi được coi như cuốn Kinh thánh của Thế hệ bỏ đi thì Trên đường của Jack Kerouac cũng đóng một vai trò như vậy với Thế hệ Beat. (…) Thế hệ beat sinh ra đã vỡ mộng. Họ coi những nguy cơ xảy ra chiến tranh, sự trì trệ của hệ thống chính trị, thái độ thù địch của cộng đồng là hiển nhiên. Sự giàu có không làm họ ấn tượng. Họ không biết mình đang tìm kiếm nơi nào để nương tựa, nhưng họ vẫn không ngừng tìm kiếm.” - Gilbert Millstein, New York Times Book Review   “(…) Văn phong xuất sắc. (...) Phong cách độc đáo, mãnh liệt mà giản đơn, sắc sảo đến dị thường. - The Atlantic Monthly. “Trên đường là một tiểu thuyết sẽ khiến độc giả của nó muốn ngay lập tức lên đường, chộp lấy tháng ngày hiện tại và sống, sống, sống đến tận cùng!” -  Anna Hassaghi, Đại học Hiram *** Nếu bạn ở trên đường, đi qua bụi mù và đơn độc, thì Jack Kerouac sẽ ở bên bạn. Không buồn đâu, không cô độc, chỉ có những con đường ngoài kia, trẻ mãi, vui mãi và yêu đương khôn xiết. Lần đầu tiên tôi đọc “Trên đường” là lúc tôi ngồi một mình trong Angkor Wat. Tới bây giờ với tôi, cảm giác ấy vẫn là một sự rung rinh dịu dàng. Tôi nghĩ mình đã yêu, yêu đền đài trước mặt và yêu bàn chân mà Sal Paradise đã đi. Cuốn sách này đơn giản lắm, nó là hằng hà sa số những cuộc đi tới đi lui của anh nhà văn trẻ Sal Paradise – sau khi “khám phá” ra trên đời này có một gã tên là Dean Moriarty. Sal viết: “Dean Moriarty đến là bắt đầu một chương mới trong đời tôi, có thể đặt tên cho nó là “đời tôi trên những con đường”, hay “Về chuyện ngao du trên đường thì Dean là típ người hoàn hảo, bởi vì hắn được đẻ ra ngay trên đường, trong một cái ôtô xập xệ, khi bố mẹ hắn đi ngang qua Salt Lake City để về Los Angeles năm 1926.” Rồi từ ấy trở đi, cuộc đời họ trở thành các vì sao, lao nhanh vào vũ trụ của các con đường, không quỹ đạo, không ngần ngại, không cả những toan lo vớ vẩn mà bất cứ ai trên đời này. Những trang viết là dòng chảy khấp khởi của các ý nghĩa, sự hưng phấn không chịu nổi của tình yêu, vẻ đẹp các quãng đường, những cơn mê cuồng dại trong vẻ đẹp của một cánh đồng, của mùa đông, của một quãng đường dài khủng khiếp đầy gió bụi. Phong cách viết của Jack Kerouac là điển hình cho thế hệ Beat. Với đầy đủ những đặc trưng của dòng chảy này: Coi những tự sự trần trụi, tươi mới là hạt mầm của sáng tạo. Ở bất cứ đâu trong “Trên Đường”, bạn đều có thể bắt gặp những câu viết nhanh, hưng phấn tột cùng trong ý nghĩ, xúc cảm tươi rói, không bó buộc chút gì trong các quy tắc ngôn ngữ thông thường: “Trong một thoáng, tôi đã đạt tới cực điểm cảm xúc mà bấy lâu nay tôi hằng ao ước, hoàn toàn bước qua ranh giới của thời gian vật chất sang vùng bóng tối phi thời gian, kinh ngạc trước sự lạnh lẽo của cõi hữu hạn, cảm giác như cái chết đang đuổi theo sát gót buộc mình tiến về phía trước, theo sát nó lại là một bóng ma khác, và chính tôi đang vội vàng chạy về nơi các thiên thần vỗ cánh bay vào khoảng không thiêng liêng vô cùng tận, nơi ánh sáng giác ngộ phi thường không sao lý giải nổi trong Bản thể Nhận thức chói loà, biết bao cõi bình an mở ra trong ánh sáng diệu kỳ từ thiên đường rọi xuống. Tôi có thể nghe thấy tiếng gầm gào náo động không sao miêu tả nổi không những trong tai tôi mà còn ở khắp nơi và cứ mặc kệ những âm thanh đó. Tôi nhận ra là mình đã chết đi và sống lại đến ngàn lần nhưng không sao nhớ nổi chính xác bởi lẽ bước nối tiếp từ sự sống sang cái chết thật quá dễ dàng, chỉ là một phép thần của hư vô, chỉ như thiếp đi rồi lại đứng dậy đi lại hàng triệu lần, hoàn toàn  bình thường và chẳng ai hay biết. Tôi nhận ra rằng nhờ tính ổn định của Nhận thức thực chất mà sự sống và cái chết mới diễn ra như làn sóng, như cơn gió lay động mặt nước hồ trong vắt, yên ả, phẳng lặng như gương. Tôi cảm thá6y hạnh phúc ngọt ngào, ngây ngất như vừa tiêm vào động mạch chủ một mũi heroin; như một chầu rượu cuối chiều và bỗng thấy mình run rẩy. Chân tôi như có kiến đốt. Tôi nghĩ bụng có lẽ mình chết đến nơi rồi. Nhưng tôi không chết và lại cuốc bộ bốn dặm đường, nhặt được mười đầu mẩu thuốc lá mang về phòng của Marylou, nhét số thuốc còn lại trong đó vào tẩu rồi châm lửa hút…” Cũng ở đoạn văn trên, người đọc có thể thấy thêm một đặc trưng nữa của trào lưu Beat: “Ý thức của nghệ sĩ được mở rộng ra vô hạn trong những hỗn loạn của giác quan” – và cách hầu hết những nhà văn như JackKerouac sử dụng để tạo ra cảm xúc bất thần là nương nhờ vào cơn say ma tuý. “Trên đường” chứa hàng trăm đoạn văn mà khi đọc bạn cảm thấy mình ở trong đó, phân vân vì từng đồng bạc lẻ trước khi lên đường, hú hét điên dại trong cơn hứng chí giữa con đường ngập tuyết, điên lên vì yêu đương, ghen tuông, rủa xả rồi lại lao vào nhau giữa những cuộc làm tình không bờ bến. Đọc quyển này, cứ như ta uống hoài, uống hoài, uống cho đã cái hơi men tuổi trẻ mà Jack Kerouac đã vắt vào, ném lên trời, hệt như các vì sao tả tơi trong đêm tối hoang dại. Các chàng trai cô gái trong sách cứ dâng lên trong ngày tháng không bờ bến của họ, làm tất cả những gì mình muốn, bất chấp thế giới đổi thay, và thỉnh thoảng có người gục ngã không chút ngần ngại. Dean yêu Marylou, rồi Dean đi lấy Camille, còn Marylou đi lấy một gã thuỷ thủ, rồi họ lại lao vào nhau trên đường. Sal yêu Terry trên nông trại, rồi rời bỏ nàng vì con đường vẫy gọi. Họ đến, rời đi, bỏ lại những mái nhà để kiếm tìm khoái cảm vô tận của tuổi trẻ… Tôi không phải người nghe nhạc Jazz nên không rành lắm. Nhưng cũng trong quyển này, có một “nhân vật” quan trọng là: nhạc Jazz, hiện hữu đầy rẫy trong các quán bar, trong căn phòng tối cả đám phê thuốc, trong cuộc nhảy múa điên cuồng với tay chơi kèn thần sầu. Có những đoạn viết kiểu như vầy: “Tay saxo đội mũ đang trong trạng thái ứng tác kỳ thú, lặp lại điệp khúc trầm bổng từ “II –ya!” dến âm điệu phá cách hơn “II-đe-li-ya!”, cứ thế hoà điệu cùng tiếng trống dồn dập của một tay trống da đen có cái cổ to như cổ bò, gã này bất cần mlọi thứ, chỉ quan tâm đến mỗi cái dàn trống của gã, đập, gõ , đập. Âm nhạc cuồng nhiệt, tay saxo đã tạo nên điều đó và mọi người đều biết chính gã đã tạo nên điều đó. Dean ôm lấy đầu, chen chúc trong đám đông như đang phát điên. Tất cả mọi người đang cổ vũ tay saxo cữ giữ mãi đoạn đó, họ la hét với những đôi mắt như điên dại, gã lại đứng thẳng lên sau cú gập người lấy hơi rồi lại chùng người xuống, tiếp tục khúc nhạc trong tiếng hò hét thán phục. Một phụ nữ da đen gầy nhẳng cao lêny khênh đang lắc lưu chạm đống xương của cô ta vào cây kèn của gã, gã chẳng quan tâm, cứ thế thúc cây kèn vào cô ta, “Ii! Ii! Ii!” …. “Hắn xoa ngực xoa bụng, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt. Gã đánh trống đẩy tiếng trống xuống thật thấp rồi dồn dập tăng nhịp và cường độ lên bằng đôi dùi hay chết người của gã. Một gã to béo nhảy lên bục biểu diễn, làm cái bục lún xuống và kêu cót két. “Yo!” Tay piano lướt trên phím đàn bằng cả mười ngón tay xoè rộng, tạo ra những hợp âm nhanh trong lúc gã saxo vĩ đại đó lấy hơi cho một cao trào mới – những hợp âm kiểu kinh kịch Trung Quốc khiến từng đường dây thớ gỗ của cây piano rung chuyển. Rồi từ trên bục, tay saxo nhảy xuống, đứng giữa đám đông, vung kèn ra cho bốn hướng thổi, mũ sụp xuống mắt; ai đó đội lại mũ cho gã, Gã ngả người ra sau, lại nghỉ lấy hơi, giậm chân xuống sàn và tung ra những nốt trầm khàn, rồi lại lấy hơi, nâng kèn lên thổi những giai điệu thanh thoát, mênh mông, xé tan bầu không khí. Dean đang đứng ngay trước mặt gã, mặt nghiên xuống gần sát bàn kèn, tay vỗ nhịp, mồ hôi rỏ tong tong lên phím kèn, gã nhìn thấy, thế là gã thổi vào tiếng kèn một tràng cười dài như điên dại, và mọi người cũng cười theo, lắc lư người liên tục. Cuối cùng tay saxo quyết định lên đến đỉnh điểm, gã quỳ mọp xuống, ngận dài mãi một nốt đô chói tai trong khi mọi thứ như vỡ toác hết và khán giả gào thét mỗi lúc một to thêm.” Trong cách viết này, câu từ lặp đi lặp lại để thể hiện cái chết bên trong của một thứ khác, vượt qua giới hạn của giác quan, chiêm ngưỡng khoái lạc, về sự sung mãn lạ thường của cuộc sống. Và ở giữa các đoạn văn, người đọc có thể thấy được những âu lo, nỗi buồn thầm kín, những đổ vỡ của con người của “Thế hệ đã mất” sau chiến tranh thời Kerouac: đôi lúc chán ghét cuộc sống đến thù hằn, rồi lại đau đớn yêu thương nó vì sự rực rỡ quá đỗi của các cung bậc bay bổng ngoài kia. Linh hồn của Dean Moriarty có lẽ là linh hồn của một con đường. Gã đi như mây gió, gã kéo theo Sal, kéo theo cô tình nhân Marylou xinh xẻo ngu ngốc, rồi gã sẵn sàng vứt bỏ họ bên đường, vứt bỏ mái nhà, vứt bỏ Sal, vứt bỏ tất cả, để chạy theo con đường. Dean không có lỗi. Chỉ là Dean không dừng lại được. Có lẽ, nếu l1uc Dean ngừng lại, gã sẽ chết vì u buồn và đơn điệu, sẽ chết giống như một người đang cần khí thở liền bị ai đó bóp cổ vậy. Trong một chặng đường ở Mexico, Dean đã bỏ lại Sal khi đang bị kiết lị. Hắn nói: “Sal tội nghiệp, Sal tội nghiệp, ông bị ốm rồi. Stan sẽ chăm sóc ông. Cố nghe tôi nói đây, dù ông đang bệnh: tôi vừa nhận được ở đây giấy tờ ly hôn với Camille, tối nay tôi về New York với Inex, nếu cái xe còn đủ sức.” “Lại từ đầu à?” tôi kêu lên, … Sal đã nghĩ về điều đó như một sự phản bội, nhưng cũng ngay lúc đó Sal hiểu ra rằng Dean phải chạy đua với cuộc đời ngột ngạt này, vứt bỏ mọi thứ để lại được ở trên đường, lái xe và đi khắp thế gian của hắn. Hắn là tuổi trẻ, là sự huy hoàng duy nhất còn lại trong bóng tối già nua bủa vây và nỗi buồn rũ rượi…. Jack Kerouac “Trên đường” là một tuổi trẻ ngây ngất cho những ai đang đeo balô và đi xa, đang du hý đâu đó, đang đơn độc tận hưởng cõi đời này, hãy nhai bánh mì nhạt, uống cà phê và đọc một đoạn. Đó là một niềm vui lộng lẫy bé xíu xiu thôi…. và mình không thể nào cưỡng lại. Khải Đơn Review *** Sal Paradise là một nhà văn trẻ mới ly dị vợ và thấy mọi thứ đang tan nát hết cả. Anh đã vô tình gặp Dean Moriarty – một con ngựa hoang với những đam mê bản năng nhất, một thiên thần với tâm hồn thánh thiện, nhưng cũng là một ác quỷ điên cuồng có khả năng làm xáo trộn mọi nơi hắn đi qua – người đã mở ra chương mới trong cuộc đời của Sal, “cuộc đời trên những con đường”. Họ gặp nhau vào mùa đông năm 1947 và chia tay vào mùa xuân cùng năm đó để chuẩn bị cho những chuyến lên đường riêng.  Để kiếm tìm trải nghiệm cho những áng văn chương của mình, Sal lên kế hoạch đi về Bờ Tây bằng cách xin đi quá giang mọi phương tiện xe cộ trên đường. Sal được tụ hội với Dean cùng những chiến hữu, cũng là những nhà văn, nhà thơ trẻ nổi loạn, Carlo Marx, Chad King, Tom Snark, Tim Gray…tại thành phố Denver cổ kính và đã có những “cuộc vui quên tháng ngày”, tưởng chết đi được trong những quán bar đặc mùi khói thuốc và ồn ĩ tiếng nhạc jazz phóng khoáng, hay những buổi đàm đạo sôi nổi xuyên đêm tới sáng mà bản thân người tham gia không hiểu  mình đang nói gì… Cứ thế, cả tiểu thuyết là những lần gặp rồi chia tay, chia tay rồi gặp lại của Sal và Dean trong vài năm sau đó. Hai con người ấy đã cùng nhau lang thang, rong ruổi trên những con đường khắp chiều dài nước Mỹ, từ Đông sang Tây, và ngược lại, không biết bao nhiêu lần. Một tình bạn bền chặt kì lạ dần được xây đắp nên giữa hai gã đàn ông này, nối kết với nhau bằng những sợi dây ý thức rối rắm mà người ngoài không thể hiểu nổi. Họ cùng nhau tận hưởng cảm giác lang bạt, gặp gỡ và kết bạn mới, chìm đắm trong những cuộc tình mới, say khướt với những bữa rượu túy lúy bất kể giờ giấc, tiếp thu những kinh nghiệm sống phi vật chất với thái độ bất cần đời. Dean có thể phóng xe bạt mạng vượt mấy nghìn dặm chỉ để gặp Sal, cũng như Sal sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, xách vali và nhảy lên xe để đi cùng Dean đến bất cứ phương trời bất định nào.  Nhân vật Sal cứ liên tục hỏi những cô gái anh ta gặp “Em chờ đợi gì ở cuộc đời này?” nhưng chính bản thân anh cũng chẳng rõ “Đi đâu? Làm gì? Nhằm mục đích gì?..” và những “cái bọn khùng này lại cứ muốn lao về phía trước”, suy ngẫm và tìm kiếm ĐIỀU ĐÓ, thứ gì đó thần thánh mà họ không cắt nghĩa rõ được. Họ đơn thuần là những nhà văn trẻ đầy nhiệt huyết, muốn tự giải phóng mọi ràng buộc, thoát khỏi sự gò bó bởi lý trí, logic, đạo đức, tôn giáo… để tìm về với bản ngã sơ khai. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó khi Sal, Dean và người vợ đầu tiên của hắn, Marylou, “trút bỏ hết gánh nặng quần áo”, khỏa thân lái xe dưới cái nắng gió của miền Tây nước Mỹ, tận hưởng khoảng trời tự do đã cho họ trải qua những trạng thái vui sướng, tuyệt vọng, trống rỗng và bi đát – nỗi buồn đặc thù trên đất Mỹ mênh mông. “Trên đường” được dựa trên câu chuyện có thật của Jack Kerouac cùng người bạn Neal Cassady, hai trong số những nhân vật quan trọng của thế hệ Beat (Beat Generation) của nước Mỹ những năm 50, là cánh chim đầu đàn khởi xướng ra phong trào Hippy và tạo cảm hứng cho những người theo chủ nghĩa Bohemian. Tiểu thuyết này được viết ra trong vòng chưa đến ba tuần lễ trong năm 1951, theo lối viết sáng tác bột phát trên một cuộn giấy teletype, thể hiện một phong cách tươi mới với câu văn dài lan man dựa trên kết cấu rời rạc của nhạc jazz mà theo J.Kerouac đã nhấn mạnh “Không có ‘sự chọn lọc’ trong diễn đạt mà cứ đi theo sự liên tưởng của tâm trí, chìm vào những biển suy tư vô bờ bến với chủ đề triền miên.”.  Tác phẩm đề cao sự tự do trong tâm hồn, hoài bão sống trần trụi, niềm đam mê với những chuyến đi phiêu bạt và coi “con đường đó chính là cuộc đời họ”. Khẩu hiệu nổi tiếng “Make love, not war” cũng được ra đời trong thời kỳ này. Và từ một nhóm nhỏ những người bạn say mê văn chương, thế hệ Beat đã bất tử trở thành một huyền thoại văn hóa của nước Mỹ. Hình ảnh nhân vật trong tiểu thuyết mang ba lô và vẫy tay xin quá giang dọc đường đã tạo cảm hứng cho rất nhiều thanh niên thời kỳ đó cũng như bây giờ bắt chước theo.  Hãy lên xe cùng Sal và Dean, biết đâu bạn sẽ tìm thấy mình ở đâu đó trên con đường dài ấy! Thi Nga Review   Mời các bạn đón đọc Trên Đường của tác giả Jack Kerouac.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bỏ Vợ - Hồ Biểu Chánh
Ông Ba Chánh năm nay vừa quá 50 tuổi, tóc đã bạc hoa râm, nhưng răng còn chắc chắn, sức còn mạnh mẽ. Ông goá vợ đã hơn 6 năm rồi. Trong nhà chỉ có một đứa con gái, là cô Huyền, được 21 tuổi. Ông quen với thầy Thanh, nhà ở một xóm, mà làm việc dưới Sài Gòn, thường hay tới lui đàm luận với nhau chơi. Cách vài năm trước, vì thầy Thanh làm mai nói dẻo dai quá, nên ông mới gã cô Huyền cho thầy Võ Như Bình, người mồ côi, gốc ở đâu dưới Hậu Giang, thi đậu bằng thành chung rồi làm việc trong một hãng buôn dưới Sài Gòn. Ông nghĩ thầy Bình thân phận côi cút lại là người có học thức, nên gả con ông cũng không đòi hỏi vật chi hết, đám cưới làm sơ sài, mời năm ba người quen đến ăn uống một bữa mà thôi, mà cũng không cần rước Chánh lục bộ đến lập hôn thú. Từ ngày cưới rồi thì thầy Bình về ở theo bên vợ. Thầy có sắm một cái xe máy, để mỗi buổi sớm mai thầy đạp đi xuống Sài Gòn làm việc, trưa thầy ăn cơm quán và ở nghỉ tạm tại nhà của người làm chung một hãng, đến chiều tối thầy mới về Chí Hòa. Thầy Bình ở với cô Huyền đã sanh được một chút con trai, đặt tên là Nghiệp, mới 10 tháng mà sổ sữa, ngộ nghĩnh, chẳm hẳm lắm... *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Bỏ Chồng - Hồ Biểu Chánh
Qua tháng mười một, mùa mưa đã dứt rồi, lại có ngọn gió bấc thổi lao rao. Buổi chiều, ở Sài Gòn, khí trời mát mẻ, làm cho con người từ trẻ chí già đều khỏe khoắn trong mình, nên đi ngoài đường ai cũng lộ cái vẻ hớn hở tươi cười. Thế mà, Chí Thiện, năm nay đã được 28 tuổi, làm thơ ký toán cho một hãng buôn lớn tại đường Kinh Lấp, đúng 7 giờ tối, thầy ở trong hãng bước ra, bộ đi chậm rãi, mặt mày buồn hiu, dường như thầy tiếc rẻ hãng đóng cửa sớm không cho thầy làm việc thêm nữa. Tay ôm một cuốn sách với một tờ nhựt báo, thầy thủng thẳng đi lại đường Pelerin đón xe autobus mà về Đa Kao. Bước lên xe thầy ngồi dưới ngọn đèn điện sáng trưng, mở tờ nhựt báo ra mà xem, không ngó kẻ qua người lại hai bên đường, mà cũng không để ý đến những kẻ đi trên xe. Tới Đa Kao xe ngừng, thầy xếp tờ nhựt trình rồi bước xuống tránh xe kéo, xe máy mà quẹo lên đường Paul Bert. Gần tới căn phố chỗ thầy ở, thầy thấy con Sáu, là đứa con gái, đương đứng dựa cột điện mà chơi với con thầy, tên con Yến, năm nay đã được 6 tuổi. Bấy giờ thầy mới xăn bước, đi riết lại. Con Yến kêu “ba” rồi chạy đón, ôm bắp vế thầy. Thầy cuối xuống, ôm mặt con mà hun, đưa cuốn sách với tờ nhựt báo cho con cầm, rồi nắm tay dắt con đi vô nhà. Trong nhà đèn sáng trưng, nhưng từ trước ra sau đều vắng hoe, không nghe tiếng, không thấy dạng một người nào hết. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Chồng của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Điệu Nhảy Của Shokupan - Mitsuki Nagasu
“Nếu cứ trốn tránh khó khăn để được tới nơi an nhàn, thì một lúc nào đó ta sẽ phải trả lại cuộc đời những gì mình đã vay mượn.” Shokupan – cái tên thân thương được hàng triệu người dân xứ sở hoa anh đào trìu mến phong tặng danh hiệu “truyền nhân” của “chú chó quốc dân” HACHIKO. Cứ 10 học sinh trung học tại Nhật Bản, thì 9 người đọc cuốn sách này ! Tất cả đều chung một cảm nhận: “Thật tuyệt vời khi được đọc nó trước khi bước vào ngưỡng cửa trưởng thành!” Ngay sau khi ra mắt,  “Điệu nhảy của Shokupan” ngay lập tức đã tạo nên tiếng vang trong cộng đồng học sinh và phụ huynh Nhật Bản. Hơn cả một cuốn tiểu thuyết học đường,Mitsukia Nagasu đã khéo léo lồng ghép vào cuốn sách này thực trạng đáng lo về nạn bạo lực học đường, sự cô đơn của những đứa trẻ thiếu thốn tình cảm của bố mẹ,… Cuốn sách là câu chuyện kể về cậu bé 12 tuổi Yukii Yano hiền lành, nhút nhát và bị các bạn xa lánh bởi công việc trước đây của mẹ cậu. Trường học vốn đã là một nơi khó khăn với cậu bé bởi những trò quấy phá bắt nạt của các bạn cùng lớp, mọi  việc trở nên khó khăn hơn khi Yukii nhận được chậu hoa tulip mình đã dày công chăm bẵm suốt một năm các bạn gửi tặng khi nằm viện. Thay vì những lời chúc tốt lành, trên những cánh hoa tulip lại chỉ vỏn vẹn lời nhắn “Mày đừng có đến nữa”.  Yukii ngay trong lúc lạc lõng giữa đám bạn học xấu tính, giữa bài tập chồng chất, và người mẹ quá sức bận rộn với cơm áo gạo tiền hàng ngày, đã gặp được một người bạn – người bạn duy nhất đồng cảm, và dường như thấu hiểu nỗi lòng cậu bé. Shokupan – chú chó nhỏ cũng bơ vơ như vậy, cũng cô đơn như vậy, và cũng bị bắt nạt như vậy. Hai cá thể tưởng chừng như xa lạ được định mệnh sắp đặt tìm thấy nhau, gắn kết với nhau, chăm sóc lẫn nhau và dũng cảm cùng nhau vượt qua khoảng thời gian trưởng thành đầy khắc nghiệt với đầy những lo âu và bất an.  Không giống như những cuốn tiểu thuyết học đường khác, “Điệu nhảy của Shokupan” không chỉ có những ước mơ, những mối tình thời niên thiếu trong sáng. “Điệu nhảy của Shokupan” còn là một nét buồn của nạn bắt nạt học đường đang hiện hữu mà chẳng phải tác giả nào cũng dám lên tiếng. Bằng ngòi bút tinh tế và trái tim thấu hiểu, Mitsuki Nagasu đã đặt mình vào vị trí của nhân vật, cảm nhận những nỗi buồn ấy và thổi vào đó niềm hi vọng và sự ấm áp của tình bạn cao cả chứa đựng tính nhân văn vô cùng sâu sắc.  Mong rằng tất cả những độc giả cầm trên tay cuốn sách này đều sẽ tận hưởng được chuyến đi của trái tim mình. Khi chuyến đi đó kết thúc, mong các bạn cảm nhận được cảnh sắc của ngày mai đã khác hẳn hôm nay, hy vọng sẽ chạm được tới trái tim đang cô đơn của các bạn.  *** Gần nhà cậu có một ngôi chùa tên là Sugatama. Vì nó nằm ở một nơi cô độc, trên một con đường nhỏ rẽ từ đường lớn vào, nên cậu hầu như chưa từng thấy người nào tới lễ bái. Đánh giá chủ yếu về ngôi chùa này là dù có tới khấn cầu cũng không được lợi lộc gì. Bởi vậy, người dân gần đó đã gọi tên chùa là chùa “Sukatama”*. Khi Yuuki đi qua con đường nhỏ, từ đám cỏ ven đường chợt có tiếng lạo xạo vọng tới. Trước khi Yuuki kịp hoảng hồn hét lên thì một con chó đen đã lao vụt ra trước mặt cậu như một mũi tên. Lại có hai con chó nâu rẽ cỏ, đuổi theo sau con chó đen kia. Khi vừa tránh đi, hai chân Yuuki chợt loạng choạng, khiến cậu thiếu chút thì ngã ngửa. Con chó đen chạy phía trước vẫn còn là một con cún nhỏ. Miệng nó đang ngậm một thứ gì đó. Nhìn kĩ sẽ thấy đó là một lát bánh mì. Có vẻ như đang có một cuộc tranh cướp đồ ăn giữa chúng. Ba con chó không thể giải quyết được vụ tranh chấp bên ngoài, chạy biến vào bên trong khuôn viên chùa. Yuuki thấy lo lắng nên chạy theo. Khi cậu nấp vào chân cột của cánh cổng điểu cư* để xem tình hình, thì con chó đen đã chạy được một vòng quanh chùa và đang chạy lại phía cậu. Đương nhiên hai con chó kia cũng chạy theo. Hai con chó đuổi theo con chó đen trước cổng điểu cư. Thật không thể ngờ, con chó đen đã vòng ra sau lưng Yuuki. Tự nhiên Yuuki ở vào thế đối mặt với hai con chó hoang còn lại. Trước tiếng gầm ghè và vẻ mặt nhe nanh dữ tợn của hai con chó, Yuuki đông cứng người. Hai con chó gầy trơ xương sườn, bụng hóp lại như một chiếc vỏ hộp rỗng đã bị giẫm bẹp. Những sợi lông dựng ngược bù xù và không có chút độ bóng, toàn thân chúng tỏa ra khí thế áp bức của những chú chó hoang đang săn mồi. Khi nhìn kĩ, từ khóe mép chúng, những giọt dãi có bọt nhỏ xuống tong tong. Những con chó như này thường rất nguy hiểm. Không chừng chúng còn bị bệnh dại nữa. “Chuyện này liên quan gì đến tao chứ!” Khi Yuuki nhanh chóng quay mình sang ngang, chú chó đen cũng chạy theo núp sau lưng cậu như cái bóng. Tuy nhát gan nhưng nó thật biết cách ứng phó. Yuuki hạ quyết tâm. Cậu tháo cặp khoác trên vai xuống, dùng hết sức vung cặp quanh mình. “Biến đi chỗ khác mau!” Nếu không đuổi chúng đi, chính cậu sẽ gặp nguy hiểm. Quai cặp đập trúng mõm một con. Sau khi kêu oẳng một tiếng, con chó hoang lập tức chùn mình lại. Tình thế đã đảo ngược. Dù không định chiến đấu, chú chó đen phía sau Yuuki vẫn cất tiếng gầm gừ. Nhưng khi con chó còn lại xông lên trước sủa vang, thì chú chó đen cúp đuôi và lùi về sau hẳn hai mét. “Chết tiệt! Cút đi mau!” ... Mời các bạn đón đọc Điệu Nhảy Của Shokupan của tác giả Mitsuki Nagasu.
Hoa Anh Thảo - Michel Zévaco
Hoa Anh Thảo là một tiểu thuyết lịch sử dịch từ quyển "Borgia" của Zévaco. Câu chuyện xoay quanh gia đình Borgia: Alexandre Borgia, César Borgia và Lucerèce Borgia một phụ nữ lừng danh trên thế giới. Giáo hoàng Borgia có nhiều tham vọng thôn tính nước Ý và cả miền Địa Trung Hải. Tham vọng của Giáo hoàng bị bẻ gãy bởi tay kiếm vô địch của Hiệp sĩ Ragastens và Hoa Anh Thảo một phụ nữ kiên cường. Hoa Anh Thảo tập hợp các tiểu vương quốc chống lại mưu đồ xâm lược của Giáo hoàng. Mối tình của nàng và hiệp sĩ nảy nở trong chiến đấu, đầy đau thương và trắc trở. Câu chuyện cũng có viết về Raphael, họa sĩ bậc thầy và Machiavel nhà văn nổi tiếng thời kỳ "Văn hóa phục hưng" *** Michel Zévaco (Sinh tại Ajaccio ngày 01/02/1860, mất tại Eaubonne ngày 08/08/1918) là nhà báo, tiểu thuyết gia, nhà xuất bản, đạo diễn người Pháp. Ông từng đi tù 6 tháng vì tham gia các hoạt động chống chính phủ. Michel Zévaco là một nhà báo, tiểu thuyết gia, nhà xuất bản, đạo diễn phim người Pháp, và nhà hoạt động chống giáo sĩ cũng như vô chính phủ. Michel Zevaco thành lập tạp chí hàng tuần vô chính phủ Gueux vào ngày 27 tháng 3 năm 1892. Một tháng sau, ông bị bỏ tù 6 tháng và bị phạt vì ca ngợi Pini và Ravachol. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông: - Les Pardaillan - Le Capitan - Borgia (Hoa Anh Thảo - 2 tập, NXB Tổng Hợp An Giang 1988) - Buridan - L'Héroïne - l'Hôtel Saint Pol - Nostradamus (Cuộc đời ly kỳ của Nostradamus, NXB Văn Học 1995)  - Les Amants de Venise (Đôi nhân tình thành Venise - 2 tập, NXB Tổng Hợp An Giang 1990, NXB Hội Nhà Văn 2004) Mời các bạn đón đọc Hoa Anh Thảo của tác giả Michel Zévaco.