Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu và Lý Tưởng

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tình Yêu và Lý Tưởng của tác giả Thomas Mann. THOMAS MANN QUA TÁC PHẨM TÌNH YÊU VÀ LÝ TƯỞNG Mặc dù được viết vào thời trẻ tuổi của tác giả và mặc dù tính cách mỏng mảnh của nó, Tonio Kroger - mà chúng tôi chuyển sang bản Việt văn với nhan đề TÌNH YÊU VÀ LÝ TƯỞNG - vẫn được hầu hết các nhà phê bình xem là một tác phẩm tiêu biểu cho trọn sự nghiệp của Thomas Mann. Hơn thế nữa, là một kiệt tác của nhà văn Đức, giải thưởng Nobel 1929 này, với những kích thước lớn lao chứa đựng những chủ đề trung kiên nhất của tác giả, cũng như với nghệ thuật hoàn hảo và đầy hàm súc của nó. Viết ở ngôi thứ ba, thiên truyện lại được xem là mang nặng tính cách tự thuật. Tiểu sử của Tonio Kroger, do đó, một phần nào, cũng chính là tiểu sử của Thomas Mann: một vận hành tri thức có tính cách quyết định của tác giả trong cuộc đi tìm ý nghĩa của đời sống và nghệ thuật, của thực tại và lý tưởng. Trong một bài viết vào cuối đời mình, năm 1953, Thomas Mann đã thú thật: “Nói thẳng ra là không có nhiều đức tin, nhưng tôi cũng không tin lắm vào đức tin; đúng ra, và còn hơn thế nữa, tôi tin nơi lòng tốt con người là điều có thể hiện hữu mà không cần tới đức tin và đúng ra là phát sinh từ sự hoài nghi… Nghệ sĩ là người sau cùng còn nuôi ảo tưởng về ảnh hưởng của mình trên định mệnh con người. Vốn khinh miệt cái xấu, hắn đã không bao giờ kéo ngừng lại được sự chiến thắng của cái xấu. Vốn quan tâm đến việc cống hiến một ý nghĩa, hắn đã không bao giờ kéo ngừng lại được những cái vô nghĩa đẫm máu nhất. Nghệ thuật không thiết lập nên một quyền lực, nó chỉ là một sự an ủi”.  Lời tự thú của một nhà văn ở cuối đời mình, về quyền năng và khả hữu tính của nghệ thuật, gói trọn ý nghĩa khốc liệt của một sự thức tỉnh nền tảng, lời tự thú đã từng được bộc lộ ngay trong Tonio Kroger, ra đời trước đó đúng nửa thế kỷ, năm 1903. Có thể xem đó chính là lời tự thú của chàng tuổi trẻ Tonio Kroger với tâm hồn nóng bỏng những ngọn lửa của trí tuệ và đam mê, luôn trên đường tìm kiếm cho đời mình và cho nghệ thuật, một sự cứu rỗi, một cách nào đó, tìm cách giải quyết mối phân ly tàn khốc nội tại nơi ý thức của con người sáng tạo. Chính Thomas Mann cũng đã nói: “Nghệ thuật có sứ mạng nhất thống”. Không mang nặng ảo tưởng, không ngụy tín, không ngộ nhận, nhà văn của chúng ta, sau một đoạn đường dài tìm kiếm, tư duy và sáng tạo, không ngừng nghỉ - đã trầm tĩnh nhìn nhận nghệ thuật sau cùng chỉ là một khả năng thống nhất, giải quyết những mối xung khắc làm nên yếu tính của chính mình. Có thể Thomas Mann bi quan - nếu không nói là tuyệt vọng, nhưng điều ta không thể phủ nhận được là bằng số lượng tác phẩm vô cùng phong phú của mình, ông đã “sống” trọn kinh nghiệm của một ý thức khốn khổ, bị kết án trong cô đơn, phải quờ quạng trong đêm tối mịt mùng của lịch sử (con người đã sống qua hai trận thế chiến), tìm đến một ý nghĩa, một giá trị giữa hư vô và tuyệt vọng bốn bề. Cũng như Thomas Mann đã thừa hưởng hai bản tính xung khắc, một của cha, đại diện cho tinh thần trưởng giả, một của mẹ, với dòng máu lai Nam Mỹ, đại diện cho tinh thần nghệ sĩ đa cảm và phóng khoáng, Tonio Kroger là hiện thân của một mối xung khắc thuộc huyết thống. Cậu là con trai của vị lãnh sự Kroger, thuộc dòng họ Kroger quyền quý, nhưng tâm hồn cậu cũng nghiêng về mẹ, một người mẹ “nồng nàn và thâm u”, chơi dương cầm và măng cầm tuyệt vời. Từ sự xung khắc nội tại đó, chàng tuổi trẻ kia cảm thấy mình xung khắc với tất cả mọi người: bạn, thầy, những người chung quanh. Và vượt lên trên tất cả những xung khắc, đó là sự xung khắc giữa đời sống và nghệ thuật không ngừng đốt cháy tâm hồn chàng. Chính Tonio Kroger đã thú thật với Lisaveta Iwanowna, cô bạn nghệ sĩ Nga của chàng: “Tôi được đặt để vào giữa hai thế giới, không một nơi nào cho tôi cái cảm tưởng là mình đang sống dưới mái ấm của mình, vì thế mà đối với tôi, cuộc sống có phần vất vả”. Tonio Kroger hay là thảm kịch của sự phân ly. Ngay từ những ngày tuổi nhỏ, chàng đã sống trong tận cùng da thịt mình, sự phân ly với đời sống. Phân ly với đời sống. Tại sao? Tại vì chính chàng đã ngoảnh mặt trước đời sống hay ngược lại chính đời sống đã làm chàng thất vọng, đã ngăn chặn, đã cấm đoán chàng tìm đến với nó? Chỉ cần đọc những trang đầu tiên, người đọc nhận ra ngay một khuynh hướng tình cảm có phần trái ngược của chàng: chàng đam mê chống lại chính đam mê của mình. Những đối tượng tình cảm của Tonio Kroger chính là những cực đối nghịch với chàng. Chàng kết thân với Hans Hansen, một đứa trẻ hồn nhiên, thích thể thao và tầm thường. Chàng đem lòng yêu Ingeborg Holm, cô gái có mái tóc vàng nâu, vui tính, thích trò chuyện; trong khi đó thì Tonio lại là một tâm hồn đầy u uẩn, chỉ thích sống với nội giới của mình, luôn say mê những lý tưởng mà mọi nguời đều lấy làm dửng dưng, không ngó ngàng tới. Phải chăng đó chính là những cố gắng đầu tiên của một tâm hồn thuần khiết, muốn tham dự vào đời sống, muốn hòa hợp với tha nhân, bằng một cách thế đau đớn nhất: một cách nào đó, phủ nhận chính mình. Nhưng Tonio Kroger đã thất bại trong nỗ lực thỏa hiệp đầu tiên của chàng với đời sống, trong nỗ lực san bằng sự ly cách giữa chàng với đời sống. Bởi đời sống đã khước từ. Bởi sự xung khắc không chỉ hiện hữu nơi chàng, nó còn hiện hữu nơi đời sống. Những tâm hồn chàng yêu dấu, ngưỡng vọng đã chỉ đáp lại chàng bằng sự lạnh nhạt và sự đần độn. Cậu đón nhận kinh nghiệm đớn đau đầu tiên của sự thỏa hiệp: “Kẻ thường yêu nhiều nhất là kẻ yếu đuối nhất và phải chịu nhiều khổ sở. Tâm hồn non dại của một cậu thiếu niên mười bốn tuổi đã học được bài học đơn giản và nghiệt ngã kia của cuộc đời”. Chàng đã khước từ chính mình một cách sung sướng, để được yêu, được thỏa hiệp, nhưng chính đời sống đã xua đuổi chúng, đã đào sâu thêm cuộc phân ly. Đã đẩy chàng vào chính thế giới nội tâm đìu hiu quen thuộc của mình, với những khát vọng man rợ, ngông cuồng: “(Chàng) làm thơ và không dám nói đến ngay cả việc cậu mong mình trở thành cái gì mai sau”. Đó là điểm khởi đầu của một cuộc đoạn tuyệt đớn đau. Tonio Kroger rời bỏ những tâm hồn yêu dấu, những người bạn nhỏ, những khung cảnh thần tiên của tuổi niên thiếu, tất cả làm nên quá khứ chàng. Chàng rời bỏ không luyến tiếc để dấn thân vào cuộc đày ải, không, vào cuộc phiêu lưu đầy gian nguy và kỳ thú. Bởi đó là cuộc đày ải tự nguyện của một con người sau khi đã “thức tỉnh trước chính mình” và “lấy làm mai mỉa trước cuộc hiện sinh trì độn và ti tiện” đã giam giữ đời mình trong tù ngục tối tăm, mê muội. Thế rồi Tonio Kroger rời bỏ thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, lăn xả trọn vẹn vào một thứ quyền lực vô song, hứa hẹn những chân trời kỳ tuyệt, “đó là quyền lực trí tuệ và của lời nói vừa chế ngự vừa tươi cười trên cuộc sống vô thức và lặng câm”, đó là quyền lực của sáng tạo đã từng nung nấu tâm hồn thiếu niên của cậu. Chàng hiến trọn đời mình cho nghệ thuật, trong tư cách một con người sáng tạo thật sự, tự giam hãm đời mình trong niềm đơn độc tuyệt đối, hầu “sản xuất nên những tác phẩm tuyệt vời bằng cái giá của những nỗi xao xuyến khốc liệt”. Nhưng rồi cũng chính những tháng năm miệt mài trong sự sáng tạo đó đã cho chàng biết rằng “người ta phải chết đi mới thật sự là một con người sáng tạo”. Điều mà Tonio Kroger bắt gặp, trên đường tìm kiếm lý tưởng, đó vẫn là sự phân ly, sự phân ly giữa đời sống và nghệ thuật: “Nếu trọn thế giới đã được diễn tả, thì trọn thế giới đã được giải quyết, phóng thích, hủy hoại… Tốt lắm! Tuy nhiên tôi không phải là một người theo chủ nghĩa hư vô…” cho nên kinh nghiệm của Tonio Kroger mãi mãi còn là kinh nghiệm tan nát, hãi hùng của sự xung khắc, của sự mâu thuẫn hệ tại ngay trong tâm thức chàng. Chàng đoạn tuyệt với quá khứ, nhưng chỉ để sau đó trở về với thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, bị thúc đẩy bởi một tình hoài hương tiềm tàng, ray rứt. Chàng nhận ra điều này, mặc dù đã cương quyết đoạn lìa, tâm hồn chàng vẫn còn rung động với từng hình ảnh, từng âm thanh của quá khứ. Chặng đường sau cùng của cuộc hành trình đã đưa chàng trở về, trở về với nguồn cội thân yêu mà chàng đã từng quay lưng, chối bỏ. Phải chăng đó là một thất bại của chàng, kẻ vô vọng thỏa hiệp và đồng thời vô vọng đoạn tuyệt với cội nguồn, gốc gác? Phải chăng chính vì thế mà Lisaveta Iwanowna, một tâm hồn bạn của chàng, đã phát biểu về chàng: “Anh là một chàng trưởng giả dấn thân vào một con đường lầm lỡ, Tonio Kroger à, một chàng trưởng giả lạc đường”. Nhưng điều may mắn là chàng trưởng giả lạc đường đó còn biết, một lần nữa, thức tỉnh một chân lý thật tầm thường và cũng thật cao cả: “Chính cái bình thường, cái hợp lý, cái đáng yêu, đời sống trong vẻ tầm thường, quyến rũ của nó, chính tất cả những thứ đó tạo nên thứ vương quốc mà những ước vọng của ta dẫn về”. Nhưng có thật là Tonio Kroger đã thất bại, trong sứ mạng nghệ thuật cũng như trong công trình hiện hữu của chàng? Và cuộc hành trình của chàng đã kết thúc ra sao? Nhưng làm gì có sự kết thúc với con người sáng tạo. Cuốn sách đã xếp lại, nhưng nhân vật tiểu thuyết của chúng ta vẫn còn đang trên đường. Hơn ai hết, Tonio Kroger biết rằng mình còn phải sáng tạo nên “những tác phẩm khá hơn”, như chàng đã hứa với Lisaveta. Nhưng đồng thời, chàng cũng biết rằng “tình yêu sâu xa nhất và bí ẩn nhất của (chàng) thuộc về những người có mái tóc vàng nâu và đôi mắt xanh lơ, những tâm hồn trong sáng và sống thật, những tâm hồn diễm phúc, những tâm hồn đáng yêu, những tâm hồn rất mực thường tình”. Lòng tốt mà Thomas Mann đã nói (được trích dẫn trên đầu bài viết này) đã gặp gỡ, hòa hợp với tình yêu thốt từ miệng Tonio Kroger. Phải chăng hơn ai hết, con người sáng tạo hiểu rõ rằng hắn không có quyền hy sinh đòi sống cho nghệ thuật, tình yêu cho lý tưởng, đạo đức cho thẩm mỹ? Và phải chăng vấn đề sau cùng phải là giải quyết mối xung đột hay sự thất bại nền tảng của mình bằng một sự chọn lựa mà trái lại, bằng sự chấp nhận: “Đừng chê thách thứ tình yêu đó, Lisaveta à, nó tốt đẹp và bổ ích, nó được tạo nên từ những hoài bão khốn khổ, từ ước muốn sầu muộn, từ một chút khinh miệt, và từ một niềm diễm phúc, thật trắng trong, thuần khiết…”.   Nhà văn, Dịch giả Huỳnh Phan Anh Nguyên bản TONIO KROGER *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Tình Yêu và Lý Tưởng kể về cuộc đời của Tonio Kroger, một nghệ sĩ trẻ với tâm hồn đa sầu đa cảm. Chàng mang trong mình dòng máu lai, một nửa là dòng máu trưởng giả, một nửa là dòng máu nghệ sĩ, điều này đã khiến chàng luôn cảm thấy mình lạc lõng, không thuộc về bất cứ nơi nào. Thuở nhỏ, Tonio Kroger là một đứa trẻ nhạy cảm, khác biệt với những đứa trẻ khác. Chàng thường cảm thấy mình là kẻ ngoại đạo, không hòa nhập được với đám bạn cùng trang lứa. Chàng yêu thích những điều cao quý, thanh nhã, nhưng những người xung quanh chàng lại chỉ quan tâm đến những điều tầm thường, phù phiếm. Khi trưởng thành, Tonio Kroger quyết định rời bỏ quê hương để tìm đến một nơi khác, nơi mà chàng có thể được là chính mình. Chàng đến với nghệ thuật, nơi mà chàng có thể tự do thể hiện những tâm tư, tình cảm của mình. Tuy nhiên, Tonio Kroger cũng nhận ra rằng nghệ thuật không thể giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn chàng. Chàng vẫn cảm thấy mình lạc lõng, cô đơn, thậm chí là bị cô lập. Cuối cùng, Tonio Kroger quyết định quay trở về quê hương. Chàng nhận ra rằng mình vẫn yêu những người thân yêu, những người bạn cũ, và chàng vẫn yêu những điều bình dị, giản đơn trong cuộc sống. Tonio Kroger đã tìm được sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Review Tình Yêu và Lý Tưởng là một tiểu thuyết xuất sắc của Thomas Mann, thể hiện những trăn trở, suy tư sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và đời sống. Cuốn tiểu thuyết đã khắc họa chân thực tâm hồn đa sầu đa cảm của Tonio Kroger, một nghệ sĩ trẻ luôn khao khát được tìm kiếm sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh. Tiểu thuyết được viết theo lối tự sự, với nhân vật chính là Tonio Kroger. Cốt truyện của tác phẩm xoay quanh cuộc đời và những trải nghiệm của Tonio Kroger. Tác phẩm được chia thành ba phần, mỗi phần thể hiện một giai đoạn trong cuộc đời của Tonio Kroger. Trong phần đầu tiên, Tonio Kroger là một đứa trẻ nhạy cảm, khác biệt với những đứa trẻ khác. Chàng cảm thấy mình là kẻ ngoại đạo, không hòa nhập được với đám bạn cùng trang lứa. Chàng yêu thích những điều cao quý, thanh nhã, nhưng những người xung quanh chàng lại chỉ quan tâm đến những điều tầm thường, phù phiếm. Trong phần thứ hai, Tonio Kroger quyết định rời bỏ quê hương để tìm đến một nơi khác, nơi mà chàng có thể được là chính mình. Chàng đến với nghệ thuật, nơi mà chàng có thể tự do thể hiện những tâm tư, tình cảm của mình. Tuy nhiên, Tonio Kroger cũng nhận ra rằng nghệ thuật không thể giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn chàng. Chàng vẫn cảm thấy mình lạc lõng, cô đơn, thậm chí là bị cô lập. Trong phần thứ ba, Tonio Kroger quyết định quay trở về quê hương. Chàng nhận ra rằng mình vẫn yêu những người thân yêu, những người bạn cũ, và chàng vẫn yêu những điều bình dị, giản đơn trong cuộc sống. Tonio Kroger đã tìm được sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Tình Yêu và Lý Tưởng là một tác phẩm giàu ý nghĩa nhân văn. Tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề quan trọng trong cuộc sống, như sự xung đột giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Cuốn tiểu thuyết cũng thể hiện niềm tin của Thomas Mann vào khả năng hòa hợp giữa bản thân và thế giới, giữa nghệ thuật và đời sống. Tác phẩm được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Thomas Mann đã sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc để khắc họa tâm hồn đa sầu đa cảm của Tonio Kroger. Cốt truyện của tác phẩm được xây dựng chặt chẽ, logic, mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm sâu sắc. *** Thomas Mann sinh năm 1875  tại Lübeckvà mất năm 1955 tại Zürich (Thụy Sĩ). Sự nghiệp văn học lẫy lừng của ông mang dấu ấn dân chủ, chống phát xít, mang những nét tư tưởng đặc trưng của dân tộc Đức. Trong cuốn “Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải thưởng Nobel Văn học” do nhà xuất bản Văn học ấn hành, có truyện ngắn “Ngài Friedemann bé nhỏ” của Thomas Mann khá ám ảnh. Câu chuyện kể về nhân vật Johanes Friedemann khi nhỏ bị rơi từ bàn quấn tã xuống, khi mới sinh được khoảng một tháng, lỗi do chị vú em bất cẩn.  Sau cú rơi nghiêm trọng đó, cậu bé Friedemann đã mang thương tật suốt đời, mà Thomas Mann miêu tả cậu có “bộ ngực nhô cao và nhọn hoắt, tấm lưng khuỳnh khuỳnh, hai tay khẳng khiu dài quá cỡ và nhanh nhẹn hăng hái tách hạt dẻ, nom thật hết sức kỳ dị”.  Cậu bé thích những quyển sách có những hình vẽ đẹp, và có chút dấu hiệu của tự kỷ. Lớn lên một chút, cậu Friedemann cũng  biết rung động như các bạn cùng trang lứa. Cậu cũng biết ghen tuông, khi cậu thấy cô gái mà cậu thích ngồi cạnh một chàng thanh niên tóc đỏ cao lên nghêu.  Thomas Mann mô tả về thái độ ấy: “Được, ta sẽ chẳng bao giờ thèm để tâm đến tất cả những cái đó nữa. Chuyện ấy mang lại cho người khác hạnh phúc và niềm vui, còn ta, ta chỉ chuốc lấy dằn vặt và khổ đau. Ta không muốn liên quan đến cái trò ấy nữa. Đối với ta, thế là xong. Chẳng bao giờ nữa”.  Cậu rất yêu âm nhạc và dành nhiều thời gian cho nó, cậu chơi khá về Violon. Khi trưởng thành hẳn, Mann gọi cậu là ngài. Với thân hình dị dạng của mình, nhưng trong sâu thẳm của Friedemann vẫn mang những rung cảm mạnh mẽ  trước sức hút của phái đẹp. Ngài đã mê mẩn trước nhan sắc của một phu nhân. Ngài bị ám ảnh khủng khiếp bởi nhan sắc tuyệt diệu ấy. Bao nhiêu cung bậc cảm xúc diễn biến trong trái tim của ngài. Sau bao dằn vặt, đấu tranh tư tưởng, suy nghĩ vụn vặt khi cảm giác như bị phu nhân hắt hủi, ngài đã nhảy xuống nước tự tử. Cái kết câu chuyện đóng lại ở đó, Thomas Mann đã khiến người đọc ám ảnh bởi những suy nghĩ, tâm tư, thổn thức yêu đương nơi cõi lòng của một người tàn tật. Một cái kết đầy nỗi buồn.  “Ngài Friedemann bé nhỏ” là truyện ngắn được coi là đầu tay của Thomas Mann, khi ông mới 23 tuổi. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrook) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Mann tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Những áng văn của ông thể hiện hiểu biết uyên bác của ông trên nhiều lĩnh vực: triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học… Năm 1905, Thomas Mann cưới vợ, sinh 6 người con (trong đó có ba người sau này cũng trở thành nhà văn). Cuộc hôn nhân không phải là cách giải quyết cho ông về vấn đề đồng tính luyến ái. Đó cũng là một đề tài mà Mann say mê thể hiện trong sáng tác của mình, tiêu biểu là Der Tod in Venedig (Chết ở Venice, 1913) - một trong những truyện dài xuất sắc nhất của văn chương thế giới. Sau Thế chiến thứ nhất, ông hoàn thành một trong những đỉnh cao sáng tác của mình là Der Zauberberg (Núi thần).  Một số tác phẩm của Thomas Mann: Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ, 1898), tập truyện Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrook, 1901), tiểu thuyết Tristan (1903), tập truyện Tonio Kröger (1903), truyện Fiorenza (1905), kịch 1 hồi Der Tod in Venedig (Chết ở Venice, 1913), truyện ngắn Betrachtungen eines Unpolitischen (Những suy ngẫm ngoài chính trị, 1918), tập kí Von deutscher Republik (Nền dân chủ Đức, 1922), tiểu luận Goethe und Tolstoi (Goethe và Tolstoi, 1923), tiểu luận Der Zauberberg (Núi Thần, 1924), tiểu thuyết Mario und der Zauberer (Mario và người phù thủy, 1929), truyện Joseph und seine Brüder (Joseph và những người anh em), bộ tiểu thuyết, 4 tập Die Geschichten Jaakobs (Những câu chuyện của Jaakobs, 1933) Der junge Joseph (Joseph trẻ tuổi, 1934) Joseph in Ägypten (Joseph ở Ai Cập, 1936) Joseph, der Ernährer (Joseph, người nuôi sống, 1943), Lotte in Weimar (Lotte ở Weimar, 1939), tiểu thuyết Doktor Faustus (Bác sĩ Faustus, 1947), tiểu thuyết …   Mời các bạn mượn đọc sách Tình Yêu và Lý Tưởng của tác giả Thomas Mann.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trường Đời
Năm tôi 11, 12 tuổi, tôi đọc tiểu thuyết Trường Ðời của Nhà Văn Lê Văn Trương, tôi đọc tiểu thuyết Giông Tố của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Tôi đã viết nhiều lần: “Ai hỏi những tiểu thuyết nào có ảnh hưởng đến việc tôi thích viết truyện, tôi trả lời: Trường Ðời của Lê Văn Trương, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng.” Trước năm 1945 tôi théc méc về 5 chữ “Phổ Thông Bán Nguyệt San” in trên trang bià những quyển tiểu thuyết như quyển “Trường Ðời.” “Phổ Thông Bán Nguyệt San” là cái gì? Mấy ông anh tôi, các ông chú, ông cậu tôi có nhiều ông thích đọc tiểu thuyết, tôi hỏi nhưng không ông nào trả lời được. Những năm xưa ấy tôi không chú ý đến dòng chữ nhỏ “Tạp chí văn học ra đầu tháng và giữa tháng” nằm dưới hàng chữ “Phổ Thông Bán Nguyệt San.” Mà có chú ý tôi cũng không hiểu nghĩa. Nhiều năm sau, khi cuộc đời không còn những quyển tiểu thuyết “Phổ Thông Bán Nguyệt San” tôi mới biết  Phổ Thông Bán Nguyệt San là tờ báo tháng ra hai kỳ, Nhà Xuất bản Tân Dân dùng cách này để được dễ dàng trong việc kiểm duyệt sách, Như vậy mỗi tháng Nhà Tân Dân xuất bản 2 quyển tiểu thuyết, đều đều trong nhiều năm. Một nhà xuất bản mỗi tháng  in ra hai quyển tiểu thuyết phải kể là nhiều. Một kỷ lục trong số những nhà xuất bản Việt từ ngày Việt Nam có Nhà Xuất Bản Tiểu Thuyết. Tôi không biết sau chiến tranh năm 1946 ông Lê Văn Trương trở về Hà Nội năm nào, tôi chỉ thấy ít nhất ông cũng trở về sống ở Hà Nội hai, ba năm trước năm 1954 là năm ông vào Sài Gòn. Về Hà Nội sau năm 1946,, ông Lê Văn Trương, Nhà Văn viết nhiều tiểu thuyết nhất Việt Nam, nhiều tiểu thuyết của ông rất “ăn khách”, không viết gì cả. Nguồn sáng tác của ông bị cạn. Một truyện ngắn ông cũng không viết. Vào Sài Gòn năm 1954 ông cũng không viết qua một trang tiểu thuyết nào. Thời gian đầu ông tìm những tiểu thuyết đã xuất bản của ông, nhiều quyển ông lấy ở những nhà cho mướn truyện, đem đến dạm bán cho mấy tờ báo, đề nghị nhà báo mua, đăng. Theo lệ, nhân viên những nhà báo nhận tác phẩm dạm bán không trả lời không mua ngay, mà nói: “Ðể chúng tôi đọc. Tuần sau ông trở lại.” Tuần sau ông LV Trương trở lại, nhà báo đưa trả mấy quyển truyện của  ông: “Truyện này không hợp với báo chúng tôi. Xin gửi lại ông.” Nhà Văn LV Trương bắt đền: “Trong lúc báo ông giữ tác phẩm của tôi, có người hỏi mua, tôi không có tác phẩm để bán. Báo ông làm tôi bị thiệt hại..” Nhà báo phải bồi thường cho ông một khoản tiền. Tôi – CTHÐ – chứng kiến chuyện tôi vừa kể ở toà báo Ngôn Luận. Sau 1954 Sài Gòn tái bản những tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Bằng, Khái Hưng, nhưng không tái bản một tiểu thuyết nào của Lê Văn Trương. Tôi không biết tại sao. Ông Lê Văn Trương là nhà văn Việt Nam – có thể là duy nhất – có đàn em viết truyện, ông sửa lại rồi ký tên ông đem bán cho nhà xuất bản. Vì ông nổi tiếng, vì truyện ông có nhiều người mua đọc, nên cứ truyện ký tên ông là nhà xuất bản mua. Người Pháp gọi những người viết truyện loại này là nègre. Hai ông đàn em viết truyện cho ông Lê Văn Trương ký tên làm tác giả là ông Ðặng Ðình Hồng, và ông Tân Hiến. Hai ông này cùng  vào Sài Gòn năm 1954.  Cả ba ông cùng nghiện thuốc phiện. Tôi thấy từ ngày vào Sài Gòn ông Lê Văn Trương không làm qua một công việc gì cả. Ông nghiện thuốc phiện nặng. .Ðời sống của ông đi vào tình trạng thiếu đói, vất vả, cực khổ. Từ năm 1960 ngày ngày ông lang thang đi tìm người quen để xin tiền, giới văn nghệ sĩ Sài Gòn gọi việc đi xin tiền người quen này là “đi cốc.” Khoảng năm 1958 hai ông Hoàng Xứ Lào Phoumi và Phouma tranh quyền làm Thủ Tướng Chính Phủ. Mỗi ông Hoàng có một số quân sĩ, hai ông dùng quân đội đánh nhau, những cuộc binh biến xẩy ra liên miên trên đấi Ai Lao. Nguồn cung cấp thuốc phiện cho Sài Gòn thời ấy là Ai Lao. Thuốc phiện từ Lào về Sài Gòn bằng đường hàng không. Một lần xẩy ra cuộc binh biến, phi trường Vientiane bị đóng cửa nhiều ngày. Nguồn thuốc phiện từVientiane về Sài Gòn phải ngừng. Thuốc phiện trở thành khan hiếm ở Sài Gòn. Những nhà buôn thuốc phiện không bán hàng ra, có bán thì cầm chừng, và bán giá đắt. Giới đệ tử của Phù Dung Tiên Nữ rơi vào tai kiếp không có thuốc hút. Dân Hít Tô Phê – Hít Thuốc Phiện – có thể nhịn ăn vài ngày nhưng nhịn thoóc một bữa thì không được. Không có thoóc. có tiền cũng khó mua được thoóc. Mà 90/100 dân Hít Tốp là dân nghèo, không phải nghèo thường mà là nghèo mạt rệp, nghèo đến con rêp cũng không sống nhờ được. Thời ấy Sài Gòn có câu: “Phu-mi, Phu-ma đánh nhau. Phu-mơ chết.” Phu-mơ: fumeur: người hút. Trong cơn bĩ cực ấy có ông nghiện nghĩ ra chuyện lấy sái thuốc phiện nấu với nước, lọc cho hết chất sạn, than, tro, dùng ống chich hút chất nước sái thuốc phiện chích thẳng vào mạch máu. Chất thuốc phiện vào máu, người nghiện phê ngay trong nháy mắt. Ðang hút 100 đồng, chỉ cần chích 10 đồng là người nghiện phê hơn hút. Nhưng việc chích – dân nghiện gọi là choác – làm hại cơ thể người chích gấp nhiều lần việc hút. Chích 1 năm hại người bằng hút 10 năm. 10.000 người nghiện hút may ra có một, hai người bỏ được hút, người choác thì 10.000 người chết cả 10.000 người. Ông Lê Văn Trương trở thành dân choác. Người ông khô đét, da ông đen sạm. Bà vợ sống với ông từ Hà Nội trước 1946 tới ngày ông qua đời ở Sài Gòn là bà Ðào. Bà này không phải là vũ nữ Dancing Fantasio mà là bà cô đầu. *** Đôi bên họ đã thỏa thuận, thân bằng cố hữu đã biết cả, nay con làm ngang trái như thế, không sợ người ta cười ba và mẹ ư? - Nhưng con không yêu thì biết làm sao! - Thế sao trước kia con bằng lòng? - Trước kia con khác mà bây giờ con khác. Ông Nam Long kéo ghế, ngồi lại gần Khánh Ngọc: - Ba không biết trước kia và bây giờ, tính tình con thay đổi thế nào. Nhưng ba chỉ nói để con biết ba yêu và chiều con lắm. Con đã rõ. Nay ba chỉ muốn con nghĩ đến những việc thiết thực một chút. Ba thầu khoán, công việc thì nhiều mà nó thì đỗ kỹ sư cầu cống. Nó có thể giúp đỡ cho ba và làm nổi danh thế của ba nhiều lắm. Gia dĩ nó là người đỗ đạt to, có địa vị trong xã hội, con lấy nó rất xứng đáng. Con nghĩ sao? Khánh Ngọc vặn chiếc mùi soa không trả lời. - Thế sao trước kia con bảo yêu nó? - Con đã bảo với ba trước kia khác mà bây giờ khác. Trước kia, con là con bé học trò mới rời khỏi ghế nhà trường. Chứ bây giờ... con đã từng trải việc đời, con nghĩ và cảm khác trước. Nếu đời người mà chỉ là một cuộc đi thầu để kiếm lãi, thì vâng con xin lấy một ông kỹ sư. Nhưng đời người không phải thế, mà sự sống là một cái gì thiêng liêng hơn sự đi tìm lợi lộc thì lấy chồng, con phải lấy một người... đàn ông, một người đàn ông thật đàn ông, thì đời sống của con mới thật đầy đủ. - Thế con định lấy ai? - Lấy ai rồi thì ba sẽ biết. - Con định lấy ông Trọng Khang à? - Vâng, con yêu người ta. - Ông ấy thì tài giỏi và nhiều nết tốt thật đấy. Nhưng không có bằng cấp và địa vị... gì... Khánh Ngọc ngắt lời cha: - Ông ấy có nhiều bằng cấp giá trị bằng nghìn cái bằng luật khoa cử nhân của con, và cái bằng kỹ sư cầu cống của anh Giáp. Con vì theo ba lên trên ấy, trải mấy tháng nguy nan và trực tiếp ngay với cuộc đời, con mới biết được cái sự thật ấy. Mà Giáp cũng thế. Còn như cái địa vị của ông ta thì ở trong trái tim con. - Nhưng con không nghĩ đến chỗ Giáp theo đuổi con trong bao nhiêu lâu, và vì con mà phải khổ sở ư? - Con nghĩ lắm. Con thương lắm. Nhưng thương không thể đi với yêu được. Bây giờ con mới nhận ra trước kia, con chỉ thích anh ấy, chứ con không yêu anh ấy bao giờ cả. - Anh về bao giờ mà không đánh dây thép cho tôi biết, để tôi ra ga đón. Thế nào công việc xong rồi chứ? - Ô kìa, thế Khánh Ngọc không nói gì cho anh biết cả à? - Có, tuần lễ trước đây gặp tôi ở bàn quần, cô ấy có bảo rằng công việc sắp xong. Nhưng tôi không ngờ chóng thế. - Thế mấy hôm nay anh không gặp à? Tôi tưởng anh với cô ấy ngày nào cũng phải gặp nhau chứ. Tôi ngỡ năm ngoái ở trên ấy về là cưới ngay, sao để trùng trình thế? Giáp lấy thuốc nhồi vào cái "píp" của mình, rồi đưa cho Trọng Khang: - Anh hút thử cái "píp" của tôi xem, ngon đáo để. Khánh Ngọc thích lắm nhé, vẫn bảo tôi chờ anh về để biếu anh. - Ừ, dáng đẹp lắm. - Anh cũng thích? Trọng Khang gật đầu. - Khánh Ngọc biết lựa tính anh lắm. À còn câu chuyện tôi với Khánh Ngọc thì bây giờ... chúng tôi là bạn, Khánh Ngọc không viết thư từ gì cho anh cả à? - Thì cũng như anh, tuần lễ viết hai lần, nhưng không thấy đả động đến chuyện nhân duyên... - Cuộc nhân duyên ấy không có nữa. Vì... Khánh Ngọc không yêu tôi, và tự tôi xét thấy không xứng đáng. - Có lý đâu thế! Đã cùng nhau sống những phút... - Những phút đó làm cho tôi hiểu... Anh Trọng Khang, tôi với anh... chỉ có sự thành thực mới xứng đáng với cái tình của chúng ta nó đã nảy nở ở bên cái chết. Khánh Ngọc yêu anh, yêu anh lắm, yêu như người ta yêu một cái gì đẹp đẽ và cao quý nhất ở trên đời. Trọng Khang đứng phắt dậy: - Nhưng tôi không thể yêu như thế? Tôi với anh... - Anh hãy khoan để cho tôi nói hết. Rồi anh muốn nói gì, tôi xin nghe. Trước nhất, tôi nói để anh biết: tôi không đau đớn mấy về chỗ Khánh Ngọc không yêu tôi. Mà Khánh Ngọc sẽ đau đớn vô cùng, nếu không lấy được anh, nghĩa là được anh yêu. Kìa thì anh hãy khoan để tôi nói. Anh đừng thương tôi, trước anh phải thương Khánh Ngọc, và yêu nữa. Bởi đối với một con người như thế mà không yêu, thì chúng ta thực không còn là con người nữa. Anh sở dĩ bắt trái tim anh phải câm là vì anh không muốn cướp mối tình của tôi. Nhưng mối tình ấy, có bao giờ thuộc về tôi đâu mà bảo anh cướp. Mối tình ấy mọc ra ở trong lòng nàng từ khi gặp anh, vì anh mà có. Còn đối với trước kia, chẳng qua là một thứ cảm tình ẻo lả, chạm vào những sự thực gay go là chết ngay. Sao gọi là tình yêu được! Lúc ấy, tôi là cái bóng một người đàn ông, mà Khánh Ngọc thì cái bóng một người đàn bà. Làm sao có chân ái tình. Mà nếu có thì cũng là cái bóng của ái tình thôi. Bây giờ, nếu anh không yêu thì Khánh Ngọc đau đớn lắm; và cũng chẳng ích gì cho tôi. Mà có lẽ vì thế, tôi cũng đau đớn. Chắc chả cần phải nói, một khi đã sống một cuộc đời như anh, hay thấp hơn, một cuộc đời như tôi đã tập ở bên cạnh anh thôi, thì những cái hình thức bề ngoài và những thành kiến nhỏ hẹp chúng ta chẳng tính đến. Tôi biết anh không khuyến khích mối tình của Khánh Ngọc và anh đã tìm hết cách để làm cho thui chột đi, nhưng một khi mối tình đã chớm mọc lên trong một trái tim hào hùng như thế, còn cái gì làm thui chột cho được. Anh về hỏi cô Tuyết Vi xem Khánh Ngọc thờ phụng anh đến thế nào, hắt hủi một mối tình như thế là một cái tội. Bây giờ, tôi đã nhờ sống bên anh mà... thành... người rồi, có bằng cấp làm người rồi, tôi tưởng tôi có quyền nói với anh: "Không hèn nhát trước nguy nan, chưa đủ, phải không hèn nhát trước hạnh phúc nữa". Trọng Khang lấy que diêm cời cái "píp": - Tôi về nhà lúc bốn giờ. Tắm rửa, thay quần áo xong là lại thăm anh ngay. Em Tuyết Vi cũng chưa nói gì cho tôi biết cả. - Mà cần gì phải ai nói. Mối tình Khánh Ngọc đối với anh sáng lòe ở đôi con mắt. Tôi tưởng anh biết rõ hơn ai hết. - Tôi biết nhưng... - Nhưng... vì một tình thương không phải đường, anh không thành thật được với anh chứ sao. À, Marie đến kia rồi. Chắc biết tin anh về đi tìm đấy. Khánh Ngọc chạy đến nắm tay Trọng Khang: - Em lại cô Tuyết Vi, nghe nói anh về, em đến thẳng ngay đây, vì em biết thế nào anh cũng đến đây trước. Anh về không đánh dây thép cho em ra đón, tệ thế thì thôi. Chà anh đen quá, thật bóng như Tây đen. Em ở nhà với cô Tuyết Vi, hai chị em chỉ lo anh ngã nước. Anh Giáp, hôm nay phải lại cả đằng nhà ăn cơm đấy nhé. Không thấy Giáp trả lời, Khánh Ngọc quay lại đã chẳng thấy Giáp đâu. Khánh Ngọc bỗng thẹn, má đỏ ửng: - Ồ, lủi đi đâu chóng thế thì thôi. Mời các bạn đón đọc Trường Đời của tác giả Lê Văn Trương.
Lỗi Nhịp Trái Tim
Chiều nay, chậm rãi bước bên nhau dạo mát quanh vườn, ngang luống hoa cánh chuồn đang nở rộ, chợt Hạ hỏi anh về sự thắc mắc của mình từ bấy lâu nay.  - Anh à ! Sao nhà mình lại trồng loài hoa dơn sơ, tầm thường như loại cỏ dại này, mà không là hồng, cúc, lan, huệ, lưu ly, cẩm chướng... hay một loài hoa vương giả nào khác hả anh ?  Thiệu Dân hơi khựng lại đúng một giây, rồi nhìn Hạ hỏi dò :  - Em hỏi chi vậy ?  Hạ cũng lấy làm lạ cho cử chỉ không bình thường của anh.  - Sao vậy ? Em có nói sai điều gì à ?  Anh hơi lựng khựng rào đón :  - Nhưng em hứa không được giận anh mới nói.  Hạ nhìn nhìn anh một lúc rồi cũng gật đầu, nhưng phải mất vài giây như suy nghĩ thật chu đáo mọi điều trước khi nói, với gương mặt đanh lạnh.  - Vì ngày trước lúc anh yêu Bích Ly, cô ấy nói rất ghét loài hoa này, vì nó vừa vô duyên vừa không hương sắc . Khi cổ chia tay anh chạy theo người khác, lúc đó anh rất tuyệt vọng chán đời. lại vừa oán hận cô ta, nên anh quyết định trồng nó để trả thù và nhìn nó mà nhớ đời cho sự ngu muội, mù quáng của mình khi đem trái tim nguyên sơ trao cho quỷ dữ.  Hạ nhìn anh lạ lẫm . Lúc này mặt anh dịu lại, nói tiếp :  - Nhưng theo thời gian, anh đã nghiệm ra rằng : cô ta không xứng đáng và thấy mình lúc đó thật trẻ con, nên anh quên ngay cô ấy trước khi cưới em . Rồi dần dần anh lại thấy loài hoa này cũng dễ thương, nên anh bảo chú Tám chăm sóc cẩn thận hơn.  Nói xong, anh nhìn cô nheo mắt :  - Anh đã nói thật tất cả rồi đó, em có tin không ?  Hạ hỉnh mũi.  - Em tin anh, nhưng chưa là tất cả . Vì theo em biết, anh rất đào hoa.  Anh khịt mũi :  - Vậy em còn muốn điều tra gì nữa đây ?  Hạ Ỡm ờ :  - Em muốn anh tự nguyện.  Anh gãi đầu như khó xử :  - Làm sao anh nhớ nổi mà khai.  Hạ trợn mắt kêu trời :  - Trời đất ! Anh yêu hết người đẹp hiện diện trên đất này sao ?  Anh nhăn nhó, giọng ỉu xìu :  - Làm gì có . Chỉ một mình em còn sắp tắt thở rồi, anh đâu dám đèo bồng.  Hạ chì chiết :  - Anh làm như hiền lắm . Về chuyện này còn phải xét lại.  - Thôi mà em, anh "tu" lâu lắm rồi, em không thấy sao ?  Hạ nhìn vào mắt anh nói như tâm sự :  - Em biết anh "ghê" lâu lắm rồi, nhưng không biết tại sao vẫn cứ yêu . Anh thấy em có khờ dại lắm không ?  - Đừng nói vậy, anh buồn chứ em . Yêu anh là em khôn ngoan đó chứ ở mà khờ . Em có biết bao nhiêu người muốn như em mà có được đâu.  - Anh cao giá dữ vậy sao ?  Anh kéo Hạ Ôm vào lòng, âu yếm :  - Nhưng còn thua em xa.  Hạ vùi đầu vào ngực anh, thủ thỉ :  - Anh có biết là em yêu thích loài hoa cánh chuồn nhất trong các loài hoa không ? Nên ngày đầu tiên bước về nhà chồng, luống hoa này đã đập vào mắt em trước nhất và đột nhiên em cảm thấy yêu ngôi nhà và cảnh vật ở đây vô cùng . Tuy hoa không có hương thơm ngào ngạt, mỏng manh dễ vỡ, nhưng rất thanh nhã tinh khôi . Anh nhìn kỹ xem, hoa thật quyến rũ mà lại dễ trồng . Dù bất cứ nơi đâu, chúng cũng sống được.  Thiệu Dân chưng hửng nhìn cô :  - Sao nào giờ anh không nghe em nói ? Vậy là vô tình anh đã làm được một việc có ý nghĩa cho vợ anh rồi . Vậy thưởng anh đi chứ !  - Hổng dám đâu . Em còn chưa hỏi tội anh ở đó mà thưởng.  Thiệu Dân ngơ ngác :  - Ủa ! Sao kỳ vậy, anh có tội gì ?  - Không phải sao ? Hồi đó anh còn không thèm nhìn mặt em méo, tròn ra sao nữa, chứ ở đó mà nói đến chuyện hoa lá cành . Hơn nữa anh trồng hoa là để trả thù chứ không phải vì em.  Anh nhăn mặt kêu lên :  - Trời ! Vậy mà em cũng nói được . Anh giải thích chuyện này rồi, em còn muốn gì nữa ?  Hạ cười khúc khích khi thấy mặt anh méo xẹo . Anh siết Hạ chặt hơn, thì thầm :  - Định ăn gian anh, phải không ?  Hạ mắc cỡ đẩy anh ra, vì cô biết anh đang muốn hôn cô.  - Thôi đi mẹ nhìn thấy bây giờ.  Thiệu Dân lì lợm :  - Anh không sợ.  Hạ la lên, dọa :  - Anh làm em đau rồi nè.  Anh tưởng thật, buông Hạ ra ngay không dám đùa dai . Anh bảo :  - Vào nhà đi em, sắp tối rồi. Một tuần lễ sau, Vọng Thường từ Đà Lạt vào lại Sài Gòn . Lúc này, Hạ thấy anh buồn hơn, lầm lì như chiếc bóng . Anh thường ra khỏi nhà rất sớm, mà về lại rất khuya, có khi say mèm . Mẹ chồng cô thấy vậy lo lắng hỏi, anh bảo bận giao dịch chuyện làm ăn.  Hôm nay cũng chỉ một mình Hạ Ở nhà, ai nấy đều có công việc riêng . Dì Tư thì đi chợ . Đang ngồi nghe nhạc nơi phòng khách, chợt chuông cửa reo lên . Tưởng dì Tư đi chợ về, Hạ đi ra mở cổng . Trước mặt cô không phải là dì Tư mà là Vọng Thường, cùng với hai người đàn ông lạ, khá thanh lịch và một cô gái thật đẹp . Một nét đẹp rực rỡ nhờ biết tận dụng phấn son và quần áo thời trang đắt tiền . Hạ gật đầu chào rồi cùng họ vào nhà . Vọng Thường làm một màn giới thiệu.  Anh vỗ vai người bạn tên Vĩnh là người đàn ông có nước da nâu đồng thật mạnh mẽ có nụ cười thật duyên . Còn người đàn ông cỡ tuổi Vọng Thường tên Thạch da hơi ngâm, đặc biệt anh ta có đôi mắt thật đen, tia nhìn rất dữ, gương mặt góc cạnh nét đàn ông đượm sương gió phong trần . Còn cô gái có cái tên thật kiêu kỳ : Mỹ Phụng.  Quay qua chỉ vào Hạ, anh nói với mọi người . Nghe thì đơn giản, nhưng tinh ý một tí ai cũng nhận ra bên trong câu nói có phần chua chát :  - Còn đây là Khiết Hạ, vợ anh Thiệu Dân, là chị dâu của tôi đó các bạn.  Anh nhấn mạnh từ "chị dâu" nghe rất nặng.  Hạ miễn cưỡng gật đầu đáp lễ rồi viện cớ để cáo từ.  - Các anh chị cứ tự nhiên, tôi bận chút việc . Xin phép vào trong.  Vọng Thường đưa tay ngăn lại, mắt hơi nheo :  - Hạ ngồi chơi đã, lâu lâu mới có dịp rủ bạn bè về nhà chơi, chẳng lẽ Hạ không nhín chút thời gian nói chuyện cho vui với bạn bè tôi được sao ?  Cách nói chuyện như ra lệnh của Vọng Thường làm Hạ khó chịu . Nhưng trước mặt người lạ, Hạ đành làm thinh nuốt giận.  Thấy vậy, anh bạn tên Vĩnh lên tiếng :  - Chị ngồi chơi cho vui, chúng tôi đều quen biết anh Dân cả . Nghe tin ảnh cưới vợ, nhưng đến hôm nay mới biết mặt . Bởi hôm đám cưới, chúng tôi đều bận công tác nước ngoài, nên không dự được . Thôi thì bây giờ gặp mặt làm quen cũng chưa muộn, phải không ?  Thấy Vĩnh cởi mở, Hạ cũng dịu dàng :  - Không có chi . Nếu đã là người quen thì không có gì là muộn cả.  Vọng Thường kín đáo nhìn cô, rồi nhìn các bạn, mời :  - Mời các bạn uống nước.  Anh bưng ly nước cam đưa tận tay Hạ giọng ân cần :  - Hạ uống nước cam đi, rất tốt cho sức khỏe.  Hạ nhận ly nước rồi đặt xuống bàn . Cô thấy ngượng với ba đôi mắt đang tò mò nhìn mình nên đâm cáu . Nhất là Mỹ Phụng, tia nhìn sắc lạnh pha nỗi ghen hờn tức tối.  - Tôi lại không thích uống nước cam . Các anh, chị cứ tự nhiên.  Vọng Thường phật ý nhìn chỗ khác . Mỹ Phụng lại châm chọc :  - Cùng chung dưới mái nhà bao nhiêu năm mà sở thích của chị Hạ, anh cũng không biết thì quá tệ . Bởi vậy anh mới thua.  Vọng Thường trừng mắt nhìn cô, giọng gắt gỏng :  - Ai mượn em nhiều chuyện.  Mỹ Phụng quắc mắt lại anh định gây hấn.  Thấy tình hình hơi căng thẳng, Vĩnh giảng hòa :  - Cho tôi xin đi các bạn . Chỉ một ly nước thôi mà, đâu có gì phải ầm ĩ.  Vọng Thường rít thuốc liên tục, vẻ mặt khó đăm đăm, làm bầu không khí vui vẻ như chùn lại . Lúc này anh chàng tên Thạch mới lên tiếng, mắt nhìn Hạ chăm chăm không cần che giấu :  - Tôi cũng có nghe bạn tôi là Hoàng Đáng ca ngợi về chị khá nhiều, nên mới có dịp diện kiến, quả không sai . Anh Dân thật có mắt tinh đời  Mỹ Phụng xen vào, giọng mỉa mai :  - Tượng đá mà hôm nay còn mở miệng khen thì chị đúng là trên cả tuyệt vời.  Hạ nhíu mày suy nghĩ : "Cô đâu thù oán gì với cô ta, mà sao cô nàng cay cú trong từng lời nói ? Được dịp là cô ta không bỏ qua một cơ hội nào . Đúng là thứ đàn bà lòng dạ hẹp hòi . Hạng người này cũng không nên kết thân làm gì chỉ tổ mang họa vào thân . Vậy mà Vọng Thường và những người bạn của anh sao có thể kết bạn được với cô ta không biết ?"  Dứt dòng suy nghĩ, Hạ buông giọng lạnh lùng :  - Cám ơn lời khen tặng của các anh chị, tôi không dám nhận vì tôi cũng chẳng có gì đặc biệt.  Vừa dứt câu, Hạ đứng dậy dù Vọng Thường đưa mắt nhìn cô không vừa ý.  - Xin lỗi, tôi có chút việc phải vào trong.    Mời các bạn đón đọc Lỗi Nhịp Trái Tim của tác giả Thụy Vũ.
Ngọn Cỏ Gió Đùa
Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh đã thành công trên bình diện: khắc thảo những chân dung con người đói khổ, khốn cùng, trong xã hội Việt Nam thế kỷ XIX dưới thời nhà Nguyễn, với ảnh hưởng đạo đức và triết lý Á đông, và thảo ra một khuôn mặt Jean Valjean (Những người khốn khổ - Victor Hugo) Việt Nam trong Lê Văn Đó, khuôn mẫu cho những khuôn mặt cùng đinh sau này sẽ xuất hiện trong tiểu thuyết Việt Nam. Chúng ta cũng có thể dựa vào tác phẩm Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh như một nguồn văn hoá có thể khai thác, để rút ra những bức chân dung, những chủ đề, những phong tục tập quán, những ngôn ngữ, y phục, những trữ lượng thông tin vô cùng quý giá về xã hội Việt Nam thế kỷ XIX. Ngọn cỏ gió đùa ngoài chất bi kịch còn chuyên chở những tư tưởng cải tạo xã hội Việt nam, dựa trên giáo lý nhà Phật và nhà Nho, khác hẳn với tinh thần đạo lý Thiên chúa giáo của Victor Hugo. Hồ Biểu Chánh đã dành 5 năm để dựng truyện Ngọn cỏ gió đùa, và khi dựng xong, ông viết trong vòng 2 tháng. Tác phẩm hoàn tất và in năm 1926. Và thời điểm 1926, ở Việt Nam chưa tiểu thuyết nào có tầm cỡ như Ngọn cỏ gió đùa. Jean Valjean, Việt hóa dưới căn cước Lê Văn Đó, một nông dân khốn cùng, trong thời mất mùa đói kém, không kiếm được việc. Vì không đành lòng nhìn lũ cháu 7 đứa sắp chết đói, Lê Văn Đó lén bưng trộm nồi cháo cho heo ăn, ở nhà một điền chủ giàu, bị người ta bắt, xông vào đánh đập. Lê Văn Đó chống cự lại. Rút cục vẫn bị bắt. Bị đánh đòn 100 trượng, bị tù 5 năm về tội cướp của và hành hung. Nhiều lần vượt ngục, mỗi lần tăng án, tổng cộng 20 năm mới được thả. Từ một anh lực điền hiền lành chất phác, chưa hề biết oán hận lúc vào tù. 20 năm sau, khi ra tù, Lê Văn Đó trở thành một thứ thảo khấu lầm lỳ và hung hãn… Chân dung thứ nhì trong Ngọn cỏ gió đùa là Ánh Nguyệt. Ánh Nguyệt hay Fantine là hai người phụ nữ sống hai xã hội khác nhau trong cùng một thế kỷ. Tâm thức Ánh Nguyệt gắn liền với giáo lý Khổng Mạnh, lấy chữ hiếu làm đầu. Vì hiếu với cha mà nàng mắc vòng ở đợ. Khi bị chồng phản bội bỏ rơi, nàng vẫn giữ trọn phẩm tiết. Không thể bán mình nuôi con như Fantine, trong xã hội Pháp; Ánh Nguyệt chết trong cảnh nghèo khó vì muốn giữ tròn trinh tiết của mình. Tác phẩm cúi xuống những thân phận lạc loài, làm nhiệm vụ cứu khốn phò nguy của những lương tri văn học… *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** (Cảm tác Les Misérables của Victor Hugo) Năm mậu-thìn (1808) nhằm Gia-Long thất niên, tại huyện Tân-Hòa, bây giờ là tỉnh Gò-Công, trời hạn luôn trong hai tháng, là tháng bảy với tháng tám, không nhểu một giọt mưa. Lúa sớm gần trổ, mà bị ruộng khô nên không nở đòng đòng [1], lúa mùa vừa mới cấy, mà bị đất nẻ [2], nên cọng teo lá úa. Cái cánh đồng, từ Rạch-Lá tới Bến-Lội, là vú sữa của nhơn dân trong huyện Tân-Hòa, năm nào cũng nhờ đó mà nhà nhà đều được no cơm ấm áo, ngặt vì năm nay cả đồng khô héo, làm cho dân cả huyện trông thấy đều buồn-bực thở than. Tại Vồng-Tre có nhà bà Trần-Thị bần cùng đói rách, thuở nay trời cho trúng mùa mà nhà bà cũng không được vui, huống chi năm nay mất mùa, thiên hạ nhịn đói, thì nhà bà càng thảm khổ hơn nữa. Bà Trần-Thị đã 65 tuổi rồi, bà góa chồng mà con trai lớn của bà là Lê-văn Ðây cũng bất hạnh, khuất năm trước, để lại cho bà một nàng dâu là Thị-Huyền, với bảy đứa cháu nội, đứa nhỏ hơn hết thì còn bú, đứa lớn hơn hết thì chưa quá 12 tuổi. Bà già yếu, từ đầu năm chí cuối năm thường òi ọp hoài, còn Thị-Huyền thì bị sắp con thơ, đứa dắt, đứa bồng nên có đi làm thì đi hái rau, bắt ốc, một giây một lát mà thôi, chớ không đi làm mướn làm thuê tối ngày cho được. Tuy vậy mà bà Trần-Thị nhờ có thằng con nhỏ, tên là Lê-văn-Ðó, tuổi vừa mới hai mươi, vóc-vạc cao lớn, sức lực mạnh-mẽ hơn người, tánh nó chơn-chất thiệt-thà, trí nó chậm-lục u-ám, song nó hết lòng lo làm mà nuôi mẹ già, nuôi chị dâu, nuôi cháu dại. Khi Lê-văn-Ðó mới được 12 tuổi, thì cha mẹ đem cho ở đợ chăn trâu cho nhà giàu. Hễ trời gần sáng thì Lê-văn-Ðó đuổi trâu ra đồng, rồi khi thì nằm dưới tàng cây lớn, lúc thì ngồi trên lưng trâu cò [3], dầm mưa dang nắng tối ngày, bữa nào cũng như bữa nấy, trời chạng-vạng tối rồi mới về nhà chủ được. Có lẽ Lê-văn-Ðó nhờ ở ngoài đồng luôn luôn hấp thụ thanh khí nên sức lực mạnh-mẽ khác thường, nhiều khi trâu chạy, nó nắm đuôi mà kéo, trâu phải đứng lại, chớ không chạy nổi. Mà có lẽ cũng tại Lê-văn-Ðó ở ngoài đồng luôn luôn, gần-gũi với trâu bò, bạn bè cùng cây cỏ, nên trí tuệ không phát được, không biết lễ nghĩa, mà cũng không thông-thế sự chi hết. Lê-văn-Ðó ở đợ gần 8 năm, đến năm ngoái anh cả là Lê-văn-Ðây chết rồi, mẹ mới đem về để giúp đỡ trong nhà và cho làm mướn làm thuê mà nuôi sắp cháu. Hồi đầu mùa mưa, Thị-Huyền xới đất trồng khoai, vun vồng [4] tỉa bắp chung quanh nhà, còn Lê-văn-Ðó thì đi cày mướn lấy tiền đổi gạo đem về nuôi mẹ và nuôi sắp cháu. Hết cày rồi tới cấy, thì Lê-văn-Ðó lại đi nhổ mạ đắp bờ, làm cực nhọc tối ngày, tuy tiền công không được bao nhiêu, song mẹ với chị dâu tiện tặn, người xúc tôm bắt cá, người đào củ hái rau, khi ít thì để ăn, khi nhiều thì đem bán, nên trong nhà dầu không dư ăn dư để, chớ cũng không đến nỗi hụt thiếu bữa nào. Ðến tháng chín tháng mười, ngoài đồng chẳng còn công việc gì làm nữa, mà trời hạn thất mùa, lúa cao gạo kém, các nông-gia đều ngồi khoanh tay nhau nháu [5], nên cũng không ai mướn làm việc gì trong nhà. Trong huyện Tân-Hoà lúa cũ đã ăn hết rồi, còn lúa mới thì không có mà ăn tiếp. Các nhà nghèo thảy đều khốn-đốn nên có nhiều người phải bỏ nhà dắt vợ con qua xứ khác mà kiếm ăn. Lê-văn-Ðó ngày nào cũng vậy, hễ sớm mai thức dậy thì đi từ xóm nầy qua xóm nọ, kiếm chỗ làm mướn đặng lấy gạo đem về cho mẹ với sắp cháu ăn, mà đi năm ba ngày mới có người ta mướn làm một ngày, lại ngày nào làm được thì họ huờn công (trả công) bằng một vùa gạo (một nửa sọ dừa dùng đong gạo), không đủ nấu cháo cho gia quyến húp mỗi người một chén, có đâu tới nấu cơm chia nhau ăn cho no được. Lúc ban đầu trong nhà còn khoai còn bắp, hễ bữa nào Lê-văn-Ðó kiếm gạo không được thì Thị-Huyền nấu khoai hoặc bắp, rồi chia cho sắp con mỗi đứa con một củ khoai, hoặc đôi ba muỗng bắp mà ăn đỡ, sắp nhỏ ăn không no, đến tối Lê-văn-Ðó đi làm về, chị dâu lấy tộ bắp nấu để dành mà đưa cho Lê-văn-Ðó ăn, thì sắp nhỏ bu lại đứng ngó lom lom, đứa xin cho một vài hột. Thị-Huyền rầy con, biểu để cho chú ăn no, đặng ngày sau có sức đi làm mà kiếm gạo. Sắp nhỏ sợ mẹ nên dang ra, song bụng đói quá, nên mặt buồn xo. Lê-văn-Ðó thấy vậy thương xót, không đành ngồi ăn một mình, day qua bên nầy đút cho đứa nầy một muỗng, trở qua bên kia đút cho đứa khác một muỗng nữa, đút gần hết tộ, té ra cũng không còn đủ cho nó ăn no được. Cách chẳng bao lâu, khoai bắp trong nhà ăn đã sạch hết. Bữa nào không ai mướn Lê-văn-Ðó làm, thì cả nhà đều phải luộc rau luộc cỏ mà ăn đỡ, chớ không có cháo mà ăn. Sắp nhỏ nhịn đói mặt mày vàng ẻo; còn Trần-Thị đã già yếu rồi, mà trót mấy tháng nay bà lại chịu cơ hàn nữa, nên bà nhuốm bịnh nằm thiêm thiếp không dậy nổi. Một bữa nọ Lê-văn-Ðó đi tối một ngày mà không có ai mướn làm việc chi hết. Lúc trời chạng-vạng tối, nó trở về nhà, hai chơn mỏi rụng, bụng đói xếp ve, lỗ tai lùng-bùng, cặp mắt cháng-váng. Chừng gần tới nhà, nó dừng chưn lại, gục đầu ngó xuống đất một hồi, rồi chậm rãi bước từ bước, dường như nhút nhát không muốn trở về nhà. Mời các bạn đón đọc Ngọn Cỏ Gió Đùa của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Vì Nghĩa, Vì Tình
“Vì nghĩa vì tình” như chính tên gọi của nó cho chúng ta thấy được nhân nghĩa và tình cảm ở đời. Vì một chữ tình nên sanh ghen rồi vô tình khiến mẹ phải lìa con, chồng lìa vợ, gia đình ly tán. Mẹ khóc hết nước mắt vì mất con nên lúc tỉnh lúc dại. Chồng vì nỗi vợ không tha thứ nên u uất, thối chí. Con vì cha nên sống cảnh cơ hàn, sống đời lang bạt, đói cơm rách áo… Và vì một chữ nghĩa để rồi cuối cùng mẹ lại được gặp con, chồng lại được gần vợ, trẻ con hết sống cảnh côi cút, bơ vơ, nhà cửa coi hực hỡ mà mặt ai nấy đều vui vẻ, hớn hở lắm. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Mất con lìa vợ gần sáu năm trường rồi, thình lình trong một buổi mà cha con tương phùng, vợ chồng hội hiệp; làm người ai gặp cái cảnh như vậy, dầu tánh tình trầm tịnh đến thế nào đi nữa cũng khó mà giấu cái mừng, cái vui trong lòng được. Chánh Tâm được sum hiệp với vợ con, tuy chàng không lộ cái vẻ vui mừng của chàng cho ai thấy, nhưng mà chàng ngồi cứ ngó vợ rồi ngó con mà cười hoài. Lâu lâu chàng ngoắc con lại gần rồi ôm mặt nó mà hun, hoặc chàng lại đứng một bên vợ mà coi vợ may áo cho con bận. Chàng hưởng thú hòa hiệp một cách êm ái như vậy đó, người ngoài dòm vô ai cũng tưởng chàng không vui mừng cho lắm duy Cẩm Vân biết tánh ý chồng, nên nàng hiểu cái cử chỉ ấy là cử chỉ khoái lạc của chồng thuở nay. Trọn buổi sớm mơi, Chánh Tâm xẩn bẩn ở nhà mà chơi với vợ con. Buổi chiều, chàng đi ra Sài Gòn, mướn Trưởng tòa ra giấy ký cho người mướn nhà lầu của chàng trong vòng 15 ngày phải dọn đồ đi và trả lại cho chàng ở. Việc đó xong rồi chàng mới lại hãng xe hơi chồng bạc mà lấy xe. Đến 5 giờ chiều, chàng đem xe về. Chánh Hội nghe thấy xe thì mừng quýnh, chạy vô trong nó kéo má nó ra coi. Chánh Tâm mời Cẩm Vân với cô Ba Hài đi thử. Cẩm Vân từ rằng: - Để tôi may đồ sắp nhỏ riết cho rồi đặng mai có đi, chớ đi chơi rồi mai đi sao được. Chánh Tâm nghe nói như vậy thì không dám ép nên đi một vòng với cô Ba Hài và hai đứa nhỏ, còn để vợ ở nhà may đồ. Áo quần của sắp nhỏ may xong rồi, Chánh Tâm bèn thưa với cô Ba Hài đặng rước vợ về Láng Thê thăm nhà ít bữa. Cô Ba Hài nói rằng : - Nó phải đi chớ. Nó có nói với tao rằng, hồi chị Tổng mất, nó có bịnh nó không hay. Mấy năm nay nó phiền mầy nên nó không tới nhà được mà lạy chị Tổng. Bây giờ vợ chồng con cái hiệp với nhau rồi, thì nó đi mới phải chớ. Cẩm Vân lo thâu xếp áo quần bỏ vào hoa ly. Chánh Tâm lấy đồ tây mà bận cho Chánh Hội với thằng Qui, sửa soạn xong rồi mới từ cô Ba Hài mà lên xe. Hai đứa nhỏ rủ nhau ngồi phía trước với sốp phơ, bỏ Chánh Tâm với Cẩm Vân ngồi sau chen ngoẻn. Xe mới, máy còn êm nên chạy nghe tiếng vù vù xuống tới nhà ga An Lạc, Chánh Hội ngoái đầu lại mà nói rằng: - Tôi với thằng Quì có ngủ lại đây một đêm má a. Chánh Tâm ngó vợ mà cười. Xuống tới chợ Đệm, Chánh Hội lại chỉ quán bà già cho ăn cơm hồi trước, rồi xuống tới Gò Đen nó chỉ luôn trường học nó học ngày xưa nữa. Hai đứa ngồi trước, nói chuyện cãi lẽ om sòm. Vợ chồng Chánh Tâm ngồi sau cứ ngó rồi cười cùng nhau. Có một lúc xe đương chạy mau, Chánh Tâm nắm tay vợ mà nói rằng: - Em ốm lung quá ! Để dọn nhà ở yên rồi qua đem em cho quan thầy thuốc coi, để cho thuốc em mập lại như xưa mới được. Cẩm Vân lắc đầu đáp rằng : - Em có đau đâu mà uống thuốc. Bây giờ em gặp con rồi, em hết buồn rầu nữa, thì trong ít ngày đây em mập lại chớ gì. Mời các bạn đón đọc Vì Nghĩa, Vì Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.