Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thành Phố Quốc Tế

Thành phố Quốc tế là cuốn sách khiêm tốn về dung lượng nhưng lại mang dáng dấp của một thiên sử thi bởi nó trình bày những mảnh ghép đa hình sắc của một thế giới vô phương cứu chữa. Don DeLillo không chú trọng về điều gì quá mới mẻ. Tự thân cuốn tiểu thuyết đã mang tính mới lạ với những dòng văn dồn nén, xô đẩy tương lai vào lưỡi dao sắc bén của những phút giây hiện tại. Nếu bạn là người yêu thích khía cạnh trừu tượng của sức mạnh tài chính và công nghệ; đồng thời, trân trọng vẻ đẹp của ngôn từ và tin vào vẻ đẹp nhân bản thì “Thành phố Quốc tế”   chính là cuốn tiểu thuyết đáng lưu tâm dành cho bạn. Với bối cảnh chính là một ngày tháng Tư năm 2000 ở New York, cốt truyện xoay quanh Erick Packer, một tỷ phú hết sức giàu có và chỉ mới 28 tuổi. Nhà tài chính này sở hữu một căn hộ 48 phòng, có bể bơi, có hai thang máy riêng theo nhịp một bản nhạc nổi tiếng, có phòng tranh với những bức tranh mà người xem không biết phải ngắm như thế nào, và có cả cá mập. Sau một đêm mất ngủ, thức trắng với sách và rượu mạnh, Eric quyết định dạo quanh New York trong chiếc limousine sang trọng để tìm chỗ cắt tóc. Chuyến đi của anh kéo dài cả ngày vì gặp phải một đoàn xe hộ tống Tổng thống, một cuộc biểu tình chống toàn cầu hóa và cả đám tang của một nghệ sĩ nhạc rap. Eric quan sát, liên lạc với thế giới bên ngoài thông qua hệ thống media và camera tối tân được trang bị trong xe. Chuyến đi đó có lẽ không khác một ngày làm việc bình thường: Eric vừa khám bệnh định kỳ với bác sĩ, vừa bàn công việc với cấp dưới ngay trong xe. Xen lẫn với các cuộc gặp gỡ về công việc, anh ta có đủ thời gian để gặp gỡ và ăn sáng với bồ, ăn trưa tâm sự với vợ. Khi Eric được vệ sĩ báo tin là có kẻ đang bám theo xe của họ, cốt truyện chuyến hướng sang hồi gay cấn. Một kẻ bất mãn đang bám theo để giết Eric. Điều này thực sự chẳng đáng ngạc nhiên chút nào, bởi vì bản thân nhà tài chính cự phách này tin rằng “logic mở rộng của công việc kinh doanh là án mạng”. Kẻ bám theo Eric là Benno Levin, tác giả của những dòng nhật ký đan xen trong mạch truyện về Eric. Đó là một người từng làm việc dưới quyền Eric, muốn giết Eric vì mối hận thù Eric – con người giàu có với cuộc sống xa hoa, vì hắn muốn trở thành nhà văn nhưng cuối cùng lại ngồi phân tích đồng Baht… Điểm thú vị của cuốn tiểu thuyết này không chỉ nằm ở các hành động; mà chủ yếu là ở lối dẫn dắt tài tình của nhà văn, đưa người đọc đến với thế giới ngoại hiện và nội cảm phong phú, phức tạp của Eric Packer. Bởi thế, có lẽ cách tốt nhất để đọc “Thành phố Quốc tế”   là đừng nhất nhất tâm niệm là mình đang đọc một cuốn tiểu thuyết. Bạn hãy xem như mình đang thưởng thức một áng thơ - văn xuôi về New York. Tác phẩm thiếu đi thứ mà người Mỹ Latinh gọi là “calor humano” (hơi ấm tình người); bởi thế, nó có thể làm một số độc giả nản lòng vì thứ logic lạnh lùng trong cõi lòng sâu hút như vực thẳm của Packer và giọng văn thờ ơ, bằng phẳng, yếm thế. Tuy nhiên, trí tuệ sắc sảo, lối văn kén người đọc của Don DeLillo lại dệt nên vầng sáng bao quanh từng sự kiện, bỏ xa tính gượng gạo và sự ngẫu nhiên. Ẩn đằng sau lớp bề mặt ngổn ngang và những lời bình luận chua cay về thị trường tài chính thế giới cuối thế kỷ XX, DeLillo muốn cảnh tỉnh người đọc về tình trạng mỏng manh, cô độc của con người. Dường như tác giả muốn khơi gợi ý nghĩ rằng, chúng ta đang sống trong thế giới của những đợt thủy triều không ngừng chuyển động, vượt quá tầm kiểm soát của con người. Cảm giác mình thuộc về ai đó hoặc quan tâm đến ai đó là thứ cuối cùng nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của giá trị. Cái nhìn giễu cợt sâu sắc và sự thờ ơ đúng mực, câu văn ngắn ngắt quãng đột ngột chuyển tải rất nhiều nội dung chính là điểm hấp dẫn nhất của “Thành phố Quốc tế”  . Mặc dù cuốn sách khá ngắn, có thể đọc toàn bộ nội dung chỉ trong một ngày nhưng câu chuyện trong đó sẽ kéo dài mãi. “Thành phố Quốc tế”  là sự thử thách, khiêu khích suy nghĩ và hoàn toàn khác biệt. NAM AN Review *** Trong vài thập kỉ trở lại đây, Don DeLillo là một trong những gương mặt ưu tú trên văn đàn Hoa Kỳ. Ông là ứng viên nặng kí cho giải thưởng Nobel văn học. Kế thừa thành tựu của những nhà văn hiện đại lớp trước, Don DeLillo khai mở lối viết hậu hiện đại độc đáo. Tác phẩm của ông, với hình thức ghép nối ngẫu nhiên, với sự tưởng tượng phong phú diệu kì, mang đậm tính khoa học giả tưởng,… đã đưa người đọc vào tâm điểm của sự hỗn mang đương đại trong một thế giới ngột ngạt bởi công việc, bởi tham vọng, sự sống và cái chết… Sự khai phóng ý tưởng táo bạo và tạo tác nên một thế giới mang bộ mặt quái gở song trùng với thế giới thực tại đã khiến những trang viết của Don DeLillo có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với nhiều thế hệ người đọc. Những đề tài được DeLillo thường xuyên hướng đến được giới nghiên cứu tập trung trong khái niệm Lí thuyết ngầm đa đề tài (themes-conspiracy theory), bao gồm bạo lực văn hoá, cuồng tín tín ngưỡng, đại biến cố, sự khủng bố của đám đông, bí mật lịch sử, con người cô đơn trong không gian hẹp… Cái nhìn tiên tri nhuốm màu phóng túng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tác phẩm của DeLillo ban đầu bị xem là mang tính chất hoang tưởng (paranoid), nhưng dần người ta hiểu ra giá trị đích thực của nó. Thành phố quốc tế (Cosmopolis, 2003) được viết dưới dạng đa đề tài ngầm ẩn. Xuyên suốt là đề tài về thị trường chứng khoán. DeLillo đề cao vai trò của thị trường chứng khoán trong mối quan hệ với nền kinh tế đương thời. Một tay trùm đầu tư cổ phiếu có thể làm xoay chuyển cán cân kinh tế thế giới. Một lần nữa, DeLillo cho thấy khả năng tiên tri của mình trong sáng tạo nghệ thuật. Phải đến 2008 nền kinh tế thế giới mới thực sự chao đảo mà nguyên do bắt đầu từ việc khủng hoảng tài chính. Câu chuyện ông kể về cái thành phố thế giới trong cơn khủng hoảng tài chính và đó có lẽ là nguyên nhân gây nên sự bạo động. Tình trạng hỗn loạn đến mức bản thân cảnh sát ban đầu cũng không thể nào lập lại trật tự. Đấy là một thế giới hoàn toàn bất an và quyền lực gần như là tuyệt đối khi nó tập trung vào một ai đó. Nhưng ngay cả khi nắm trong tay quyền lực thì người đó vẫn không có khả năng xoay chuyển tình thế của mình. Vẫn luôn tồn tại một thế lực, một quyền năng nào đó ngoài khả năng suy đoán của con người. Nhân vật chính trong truyện là tay trùm kinh doanh tiền bạc xuyên quốc gia, cụ thể là đầu tư vào đồng yên Nhật. Chàng trai ấy năm nay hai mươi tám tuổi. Trước khi kết hôn với một nhà thơ, người sẽ sở hữu một gia sản kếch xù của dòng họ Shifrin, anh ta có mấy người tình tên là Didi Fancher và Kendra Hays… Điều đáng lưu ý ở nhân vật này, tuy được giới thiệu là ông trùm chứng khoán và là một tay có hạng trong quan hệ tình dục với phụ nữ, nhưng cả hai yếu tố đó không phải là đích sống của anh ta. Người kể ở ngôi thứ ba đặt nhân vật vào một hành trình trong vòng một ngày (một ngày tháng tư năm 2000) trong thành phố New York được ngụ ý là Thành phố thế giới. Nơi đó tập trung đủ kiểu người, đủ công việc, đủ những hoạt động đời thường như kinh doanh cổ phiếu, ăn uống ở nhà hàng, đọc sách ở thư viện, vẽ ở xưởng, làm tình… Tất cả những hoạt động này xoay xung quanh nhân vật chính là Eric Packer đang đi trên chiếc xe hiệu limousine sang trọng. Đấy là chiếc xe chuyên dụng, được trang bị đầy đủ máy móc như một phòng làm việc tối tân. Từ trên xe, Eric có thể theo dõi diễn biến của thị trường qua màn hình. Từ trên xe, anh ta cũng có thể quan sát được hết mọi sự việc đang diễn ra trong ngày trên khắp thế giới. Đấy cũng là dạng chiếc xe thế giới, người sử dụng cũng là một dạng con người thế giới, có thể dùng chiếc xe đó vào những việc riêng tư như khám chữa bệnh, làm tình và đưa ra các chỉ thị điều hành kinh doanh… Như một nghịch lí, càng hiện đại, con người càng bị rơi vào nỗi cô đơn và gần như là mất phương hướng hành động. Để khắc hoạ đậm nét hơn bản thể con người trong kỉ nguyên hậu hiện đại, DeLillo đã thực hiện bút pháp mô phỏng đối với kiệt tác Ulysses của James Joyce và xa hơn là với Odyssey của Homer. Hành trình của Eric trên đường đi cắt tóc tương đồng với hành trình của Leopold Bloom lang thang trong một ngày tại thành phố Dublin. So với Bloom, hành động của Eric có mục đích hơn. Eric đang điều hành một tập đoàn kinh tế mà sức mạnh của nó có thể chi phối nền kinh tế toàn cầu. Trong khi đó, Bloom chỉ là một nhân viên chào hàng quảng cáo quèn. Sự tương phản giữa hai nhân vật này chính là sự khác biệt giữa thế giới hiện đại và hậu hiện đại. Một đằng thì lang thang vô mục đích. Một đằng thì vô mục đích ngay trong chính hành động ngỡ như có mục đích của mình. Rốt cuộc cả hai đều giống nhau ở cái kết cục cô đơn và hư vô, nhưng con đường đến đó của họ thì khác nhau. Thành phố quốc tế mở đầu bằng hình ảnh một con người cô đơn: “Anh mất ngủ thường xuyên hơn, không chỉ một, hai lần mà tới bốn, năm lần một tuần. Anh đã làm gì khi điều này xảy ra? Anh không muốn đi dạo trong ánh bình minh lên. Anh không có bạn bè thân thiết để quấy quả bằng một cú điện thoại. Có gì để nói bây giờ? Chỉ là một sự tĩnh lặng, không đối thoại” (1). Điều này quả thực lạ với một nhà kinh tế mà đặc biệt là một ông trùm kinh tế. Sự mất ngủ được giới thiệu ngay từ đầu khiến người đọc nhầm tưởng về chuyện thị trường, nhưng chỉ mấy dòng tiếp theo, ta thấy sự mất ngủ đó có nguyên do chủ yếu từ bản thể hoặc từ những mối quan hệ hầu như không có liên quan gì đến công việc của “anh”. Tính chất hai mặt trong một con người được thể hiện ở đây. Một con người năng nổ hoạt động và một con người chán chường với những hoạt động của mình. Nếu chỉ nhìn trên bề mặt chúng ta sẽ gặp được nỗi bức bối, thúc ép vô cùng to lớn của công việc. Eric trong lúc đi cắt tóc vẫn phải liên tục theo dõi các chỉ số, lắng nghe các chuyên gia cố vấn báo cáo tình hình tài chính và đặc biệt là những báo cáo về tình hình an ninh của bản thân… Cùng một lúc Eric phải xử lí vô vàn các thông tin khác nhau. Đấy là một con người của công việc thực thụ. Con người ý thức được trách nhiệm của mình với công ty, với khối tài sản kếch xù của dòng họ. Có hai yếu tố chủ chốt chi phối mạnh đến hoạt động của Eric là thời gian và lợi nhuận kinh doanh. Lợi nhuận, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ phải chịu áp lực rất lớn về phương diện thời gian. Chỉ trong vòng một phần mười giây hay thậm chí thời lượng ngắn hơn cả thế là đủ để xoay chuyển cả cục diện kinh tế của công ty và cả nền kinh tế thế giới. Dưới áp lực của thời gian, con người hiện lên vô cùng kì quặc. Những nghi thức giao tiếp hay nghi thức công việc hầu như không còn chỗ đứng trong cuộc đời. Thay vào đó là những hành động cốt đạt mục đích tức thời. Còn gì khôi hài hơn là trước mặt nhân viên nữ trên chiếc xe, Eric tụt quần ra để bác sĩ khám tuyến tiền liệt. Có thể nói chưa bao giờ con người bị rơi vào sự quẫn bách như lúc này. Nếu lấy tiêu chí tự chủ của con người để làm thước đo hạnh phúc thì một người có quyền uy như Eric chẳng có lấy chút hạnh phúc nào. Trước đây, các hình tượng nhà tư bản tài chính trong giai đoạn chủ nghĩa hiện đại như trong tác phẩm của Dreizer thường tự tại, tự tin vào sức mạnh và khả năng tận hưởng cuộc sống vô tận của mình, thì sang thời hậu hiện đại, những con người càng có khả năng tận hưởng cuộc sống bao nhiêu lại càng cảm thấy sự bức bối, bị chèn ép bởi bao gánh nặng công việc từ bên ngoài bấy nhiêu. Vậy nên, trong họ không còn là cảm giác của sự tận hưởng cuộc đời mà chỉ là sự bị động chạy theo cuộc đời. Trên đường đi cắt tóc của Eric, biết bao biến cố xảy ra. Cái thời điểm một ngày tháng tư đó chất chứa bao nhiêu sự kiện dồn dập. Nỗi ám ảnh về một kẻ khủng bố đang tìm theo dấu vết để tiêu diệt mình trong Eric luôn thường trực. Eric thờ ơ với cuộc sống giàu có. Một phần cũng vì sở thích của anh không giống những người cùng giới. Phần khác vì “tuyến tiền liệt của anh không cân xứng”. Đấy là tất cả các dấu hiệu cho thấy sự bất bình thường ở Eric. Anh là kiểu nhân vật “khiếm khuyết” đặc thù của chủ nghĩa hậu hiện đại. Thực ra kiểu nhân vật này đã xuất hiện trong văn chương chủ nghĩa hiện đại, như ở tác phẩm Kafka chẳng hạn. Nhưng cái cách các nhân vật thể hiện thì có khác. Trên hành trình đi cắt tóc của Eric, dấu hiệu ẩn dụ cho sự khủng hoảng chính trị hay sự xáo trộn cuộc sống là việc xuất hiện xe tổng thống đang đi trong thành phố. Đương nhiên mọi tuyến đường đều bị xoá sổ để dành quyền ưu tiên cho con người đứng đầu quốc gia này. Trong dòng xe dường như là bất tận của sự tê liệt, chiếc limousine của Eric cũng bị tê liệt theo. Tất nhiên, ngồi trên xe Eric vẫn có thể tiếp tục làm việc, nhưng mối nguy hiểm là một khi dừng lại, chiếc xe của Eric dễ dàng bị những kẻ khủng bố tấn công bất cứ lúc nào. Eric có cả một đội bảo vệ, đứng đầu là Torval. Một nhân viên giàu kinh nghiệm và sẵn sàng làm mọi thứ để bảo vệ thân chủ mình. Sự xuất hiện của nhân vật này là tín hiệu báo hiệu mối nguy hiểm thường trực đang rình rập Eric. Và không ít lần nhân vật này phải ra tay. Vụ đầu tiên là với bác sĩ Ingram, người đến chữa bệnh thay cho bác sĩ Nevius. Torval nghi ngờ ông ta nên đã khống chế để Eric nhận diện. Vụ thứ hai thì thật là nghiêm trọng. Chiếc xe của Eric rơi vào tâm điểm của cuộc bạo động khi nó đi đến “nơi giao nhau giữa đại lộ thứ bảy và nhà hát Broadway”, nơi đó gần ngân hàng đầu tư và là nơi đang diễn ra vụ tấn công khủng khiếp. Những người bạo động đến “từ bốn mươi nước” cùng tấn công vào trung tâm chứng khoán New York. Bất chấp sự ngăn cản của cảnh sát họ vẫn chiếm được trụ sở chứng khoán và thay đổi các chỉ số trên bảng điện tử bằng dòng chữ Một con chuột trở thành đơn vị tiền tệ. Con chuột, một loài vật nhỏ bé và gần như vô giá trị lại có khả năng hình thành nên một hệ thống tiền tệ, nơi kết tinh nhất của văn minh nhân loại. Điều này đồng nghĩa với việc nền văn minh tiền tệ đương thời bị xóa sổ, con người quay lại với những hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp sơ khai thưở nguyên sơ của mình. Câu chuyện của DeLillo là một câu chuyện hoang đường nhưng nó vẫn hấp dẫn người đọc bởi những địa điểm và thời gian xác thực. Trong thực tế, làm gì có chuyện trụ sở chứng khoán New York bị tấn công, làm gì có vị sư nào tự thiêu trong tư thế ngồi thiền trên đường phố New York vào cái năm 2000 ấy… Nhưng bầu không khí bạo loạn và cuồng nộ của đám đông luôn rình rập chờ sự nổi dậy khắp mọi nơi thì không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Người đọc vẫn theo dõi câu chuyện hoang đường kia là nhờ vào khả năng dự báo của nó. Bởi trong một thế giới còn sự chênh lệch lớn giữa người giàu và người nghèo thì bạo loạn là đều tất yếu, luôn có thể xảy ra. DeLillo dẫn ý (có sửa đổi) một câu trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản để diễn tả điều này: Một bóng ma đang ám ảnh thế giới – bóng ma của chủ nghĩa tư bản. Và sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản là để sản sinh ra một thế lực lật đổ nó. Sẽ luôn có những cuộc bạo loạn mang tầm cỡ thế giới khi vẫn còn tồn tại những cá nhân nắm trong tay những giá trị tiền tệ để có thể xoay chuyển thế giới theo cách của mình. Câu chuyện của DeLillo không dừng ở đó, ông thấy được sự bấp bênh của các giá trị ngay trong chính những con người mang quyền lực nhất trên đời. Eric với khối tài sản của mình là một thế lực. Cũng giống như vị tổng thống mà mọi người phải nhường đường khi xe ông ta đi qua, Eric cũng liên tục được đưa lên màn hình. Vai trò của anh quan trọng gần như vai trò của tổng thống. Một mặt Eric ý thức tầm quan trọng đó, mặt khác anh muốn phá tung nó để sống một cuộc sống bình thường. Chuyện anh ta có tình nhân, không chỉ một mà thậm chí là hai hay ba người là minh chứng rõ ràng cho điều đó. Mặc dù tuyến tiền liệt của anh có vấn đề nhưng nó không ngăn được khả năng và khao khát tình dục trong anh. Kiểu tình dục luôn báo hiệu thảm hoạ. Đấy cũng chính là bản chất cuộc sống của anh. Một trong những thảm hoạ lớn mà anh luôn phải đối đầu là việc tri nhận thế giới xung quanh. Có thể nói nhân vật này nhận thức và hành động trước thế giới một cách ngẫu hứng và cực đoan theo cách của riêng mình. Trong lúc đang theo đuổi đồng yên Nhật Bản trong thế bất lợi, được trợ lí can ngăn đừng đầu tư nhưng anh vẫn phớt lờ và tiếp tục canh bạc cuộc đời với lập luận sẽ đến một giới hạn nào đó đồng yên sẽ suy thoái. Về mặt lí thuyết điều đó hoàn toàn đúng, nhưng cuộc sống tiền tệ có quy luật riêng của nó, đấy là quy luật thặng dư tuyệt đối. Không bao giờ đồng tiền trong đầu tư chịu dừng lại một khi nó đã chiếm được vị trí thượng phong. Trong sự cố chấp của mình, Eric vẫn liều đánh nốt canh bạc, rốt cuộc anh bị cháy túi và phá tán thêm cả chỗ tiền lớn của cô vợ giàu có của mình. Đối với cô vợ, Eric càng gặp rắc rối hơn trong nhận thức. Mối quan hệ vợ chồng của họ thật mỏng manh. Anh không luôn chắc chắn nắm giữ được hình ảnh của vợ. Đây là một trong số ít những lần gặp nhau trong ngày của hai vợ chồng: “Anh hạ cửa sổ xuống và nhìn kĩ một trong những người phụ nữ đứng ngoài đó. Đầu tiên anh cho rằng đó là Elise Shifrin. Thỉnh thoảng anh nghĩ về vợ anh với cái tên đầy đủ khi chợt bắt gặp những người họ hàng danh tiếng của cô trên những chuyên mục xã hội hay sách thời trang. Nhưng rồi anh không biết chắc đó là ai nữa, bởi tầm nhìn của anh bị che khuất và vì người phụ nữ mà anh đặt dấu hỏi đó đang cầm một điếu thuốc lá trên tay” (tr.156). Hoá ra đó chính là vợ anh. Chi tiết điếu thuốc lá này cho thấy hai người tuy là vợ chồng nhưng khoảng cách giữa họ là thật lớn. Bởi hôn nhân của họ chủ yếu được dựa trên tiền bạc, danh tiếng dòng họ mà thôi. Còn đây là lần gặp gỡ cuối cùng trong ngày và cả trong đời của Eric với vợ. Đấy là khi Eric rời xe tham gia vào việc đóng phim tự nguyện. Một nhóm làm phim đang quay cảnh những người khoả thân nằm trên đường. Eric nằm cạnh một cô gái. Hai người trao đổi đôi lời với nhau nhưng không nhận ra nhau. Eric ngờ ngợ đấy là vợ mình: “Chẳng phải Elise cũng có mái tóc màu nâu đỏ sao? Anh không thể nhìn thấy gương mặt của người phụ nữ và cô cũng không thể nhìn thấy anh. Nhưng anh đã nói và hiển nhiên là cô cũng nghe thấy tiếng anh. Nếu đây là Elise, sao cô không phản ứng lại tiếng nói của chồng cô? Nhưng tại sao cô phải làm như vậy? Đó không phải là việc gì thú vị cho lắm” (tr.233). Quả là Elise thật. Cuối cùng hai vợ chồng cũng nhận ra nhau. Tay trong tay, họ đi đến vỉa hè, “nơi đây, anh đẩy cô vào bóng tối hôn cô và gọi tên cô. Cô trèo lên anh, quấn quanh cơ thể anh. Họ đã làm tình giữa đống gạch vụn đổ nát, với tư thế người đàn ông đứng còn người phụ nữ cưỡi phía trên” (tr.236). Tư thế làm tình này thật là bất bình thường đối với một xã hội văn minh, nhưng nó lại hoàn toàn có lí khi con người quay lại với đời sống bản năng của mình. Lần gặp trước đó của hai vợ chồng Eric được kết thúc bằng bữa ăn. Lần nay là một cuộc làm tình. Tại cuộc làm tình đó, Eric cho vợ biết anh đã làm mất toàn bộ chỗ tiền của cô. Phản ứng của cô là “anh thấy cô bật cười. Anh cảm thấy hơi thở bật ra từ miệng cô, toả ra làn hơi ẩm bao trùm gương mặt anh. Lâu nay anh đã lãng quên niềm vui thích trước nụ cười của cô, một cái ho nhuốm mùi khói, một nụ cười có hương vị thuốc lá giống như trong những bộ phim đen trắng kinh điển. – Lúc nào em cũng mất tất cả mọi thứ, – cô nói. – Sáng nay em đánh mất xe rồi. Em đã kể cho anh về chuyện này chưa? Em không nhớ nữa” (tr.236). Toàn bộ hành trình sống của các nhân vật trong truyện như đi trong đám mây mù của số phận. Cái số phận do chính họ đặt ra (hay do chính tác giả đặt ra cho họ). Người ta thực hiện những hành động kì quặc trên đời. Những chuyện được mất dễ dàng xảy ra với họ đến mức mà khi được họ không hề cảm thấy thực sự hạnh phúc và khi mất họ cũng chẳng hề lấy đó làm điều tiếc nuối. Thái độ bàng quang với cuộc sống là nét đặc trưng dễ nhận thấy ở những con người hậu hiện đại. Thái độ đó thoát thai từ việc tranh đấu không ngừng với cuộc sống nhằm khẳng định mình để cuối cùng họ chỉ còn đối diện với một cái thế giới mịt mùng không lối thoát. Bản chất của họ không phải lười biếng hay phó mặc cuộc đời,… nhưng những gì họ nhận được trên cuộc đời sau chuỗi nỗ lực không ngừng nghỉ rốt cuộc cũng chỉ là một sự mất mát vô cùng tận. Sau cuộc làm tình trên phố đó, hai vợ chồng Eric mỗi người đi một ngả vì cả hai còn nhiều việc phải làm. Người đọc không thể đoán định họ đang làm gì. Đây cũng là đặc thù của chủ nghĩa hậu hiện đại. Động cơ hành động của con người không được miêu tả. Nhân vật cứ liên tục hành động theo lối ngẫu hứng, bất chợt, không đầu không cuối. Cuộc sống gia đình vợ chồng Eric dường như được xác lập ngoài đường. Họ không đủ thời gian để có những khoảnh khắc bên nhau trong một căn phòng hay một ngôi nhà tử tế. Ngay đối với những người tình của Eric cũng vậy, anh làm tình với họ trong lúc đang tạt qua trên đường đi làm và bản thân họ cũng đang loay hoay với công việc của mình. Đỉnh điểm của việc thiếu thời gian ở đây là cảnh họ làm tình mà không cởi quần áo. Sự “tranh thủ” lên đến đỉnh điểm của nó và hiện diện khắp mọi nơi. Được xem là người mở đầu cho chủ nghĩa hậu hiện đại, Beckett trong các vở kịch của mình đã miêu tả sự xa lạ của con người với môi trường và với cả chính bản thân mình. Cảm thức đó đến DeLillo vẫn hiện diện. Chỉ có khác là DeLillo đẩy nó lên đến cận đỉnh bằng cách gia tăng các cảnh ghép nối ngẫu nhiên vào với nhau. Thời hiện đại, con người đã ý thức thời gian như một vật cản họ cần phải chinh phục và ít nhiều đã thực hiện được ước vọng, nhưng đến thời hậu hiện đại thời gian không còn là đối tượng chinh phục mà là chủ thể chinh phục con người. Việc đánh mất phương hướng của con người trên cuộc đời đa phần là do không còn tự chủ về mặt thời gian mà để thời gian nhấn chìm bản thân vào công việc và bao thứ lo toan bất thành văn trên cuộc đời. Nguyên nhân cũng chỉ vì những toan tính để được sống tốt hơn, để được hơn người, để được thống trị thế giới từ chính con người gây ra mà thôi. Những yếu tố cá nhân đan xen một cách quái gở với những yếu tố cộng đồng đã tạo cho câu chuyện của DeLillo một không khí khác lạ. Những đề tài chính của truyện cũng xoay quanh những vấn đề này. Đó là vũ khí chiến tranh (Eric sở hữu một chiếc máy bay TU – 160 của Nga, loại máy bay chiến đấu mang tên lửa lắp đầu đạn hạt nhân), là tiền tệ (thị trường chứng khoán), là hôn nhân, làm tình, là khủng bố, là điện ảnh, nhà hàng, bạo loạn… Dường như mọi chuyện thường nhật nhân sinh từ riêng tư nhỏ bé đến những chuyện trọng đại của thời đại đều được DeLillo tái hiện trong sách của mình. Nhà văn hậu hiện đại không đi phân tích bình luận các biến cố, không tập trung truy tìm nguyên nhân – kết quả. Mọi luật nhân quả đều bị phá sản tại đây, con người chỉ còn một mệnh lệnh, một động thái tối thượng là tiến lên phía trước. Nhưng bi đát thay, cái phía trước đó không hề rõ ràng chút nào. Càng tiến lên, họ càng vấp phải sự mù mịt (một trạng thái tương tự ở Kafka) để cuối cùng trong nỗi hoang hoải nhân sinh ấy, họ đối diện với cái chết một cách thờ ơ vô cùng tận. Với họ chết thì chết, điều đó đâu thành vấn đề. Cái chết như một tất yếu. Họ không hề có tham vọng biến cái chết của mình thành một sự kiện cứu thế, không hề cầu mong một chút xúc cảm nào từ phía người chứng kiến. Chết, đơn giản chỉ là chết mà thôi: “Kẻ đã giết anh, Richard Sheets, ngồi đối diện với anh. Anh đã mất đi niềm vui thích đối với người đàn ông này. Bàn tay anh mang nỗi đau cuộc đời, tất cả nỗi đau, cảm xúc và những thứ khác. Một lần nữa, anh khép đôi mắt lại. Đây không phải là kết thúc. Anh chết bên trong bề mặt chiếc đồng hồ nhưng vẫn tồn tại trong không gian và chờ đợi tiếng súng vang lên” (tr.279). Con người anh đã được lập trình. Ngay đến cái chết của anh cũng được trình chiếu cho tất thảy bàn dân thiên hạ và cả chính anh chiêm ngắm. Ý thức chết của anh cũng thật bình dị như những suy nghĩ về mọi vấn đề khác của anh một khi “anh đã tự bão hoà bản thân mình”. Nhưng dẫu thế, anh vẫn hướng suy nghĩ về những chuyện đời thường khác. Về người tình Kendra Hays, “vệ sĩ và cũng là người tình của anh, đang dội rửa nội tạng của anh bằng rượu cọ trong buổi lễ ướp xác”, về “trưởng phòng tài chính và là người tình trong tâm tưởng của anh, Jane Melman, đang thủ dâm một cách lặng lẽ ở hàng ghế cuối cùng của nhà thờ, trong buổi lễ tang”, về “việc anh đã kết hôn và rồi để lại người vợ goá bụa. Anh nghĩ đến việc vợ mình cạo trọc đầu để tang anh và mặc đồ tang trong suốt một năm, rồi việc cô cùng với bà mẹ và các phương tiện truyền thông tham dự lễ an táng anh tại một khu sa mạc biệt lập ở một nơi xa xôi”, về anh “không chôn mà là hoả thiêu” cùng với chiếc máy bay TU – 160 “bay lên với tốc độ siêu âm rồi lao vào cát và nổ tung” nhưng không phải là vĩnh viễn biến mất mà “để lại một tác phẩm nghệ thuật bằng cát, và nó sẽ được lưu giữ bằng niềm tin bất diệt của người thực hiện di chúc và cũng là người tình gắn bó với anh từ rất lâu, Didi Fancher” (tr.278). Khát vọng được bất tử của Eric thật mong manh, bởi hai lẽ: thứ nhất người tình rồi cũng sẽ quên anh như quên bao người tình khác trong đời, may ra thì Didi có thể nhớ anh lâu hơn một vài người khác và sau nữa, cát thì chẳng thể nào lưu giữ được bức tranh nghệ thuật là cái chết của chính anh đó, gió và bụi thời gian sẽ cuốn trôi hết mọi dấu vết của anh trên đời. Như thế ngay trong chính khát-vọng-chết-bất-tử này cũng đan cài yếu tố nghiêm túc và yếu tố bông phèng. Eric nửa như muốn được bất tử, nửa như giễu cợt sự bất tử đó. Ai muốn hiểu thế nào thì tuỳ. DeLillo là nhà văn chuyên viết về đề tài khủng bố. Đặc biệt sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, thế giới bắt đầu nhìn nhận một cách nghiêm túc về chuyện khủng bố trong tác phẩm của DeLillo. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc DeLillo sáng tạo tiểu thuyết Người rơi về sự kiện 11-9 thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Thực tế là suốt ba mươi năm sáng tác của mình, DeLillo cũng đã không ngừng viết về đề tài này. Những kẻ khủng bố là gương mặt thường xuyên xuất hiện trong các tiểu thuyết của ông kể từ cuốn Tay chơi (Players, 1977). Tác phẩm tái hiện một bức chân dung biếm hoạ về một đôi vợ chồng có liên quan đến chuyện khủng bố. Người chồng là thành viên của một nhóm khủng bố đang lên kế hoạch cho nổ tung toà nhà Giao dịch Chứng khoán New York nơi anh ta đang làm việc. Người vợ thì làm thuê cho một công ty có cái tên mùi mẫn Uỷ ban Quản lí nỗi buồn, có trụ sở đóng tại toà tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới. Tại mỗi bữa tiệc trên sân thượng, cô vợ trông thấy một chiếc máy bay bay qua và sợ máy bay va phải toà nhà, cô ta đã kêu toáng lên. Chi tiết này được các nhà nghiên cứu đưa ra như là bằng chứng của sự tiên tri về việc toà tháp đôi bị tấn công sau này bằng máy bay của DeLillo. Nhân vật khủng bố trong truyện là người trước đây từng làm việc cho Eric. Anh ta muốn sát hại Eric nhưng không vì lí do gì cả. Đơn giản anh ta muốn Eric chết. Hành động của nhân vật này mang đậm tính phi lí. Nhưng điều phi lí hơn là Eric gần như không tỏ vẻ gì lo lắng cho tính mạng mình. Eric xem chuyện cảnh báo có kẻ muốn sát hại anh là bình thường như bao chuyện khác. Ngay cả khi đội trưởng đội bảo vệ Torval đưa súng cho anh, anh cũng không hề thoáng chút e ngại cho tính mạng mình. Thay vào đó, khi Torval nói cho anh biết mật mã bằng giọng nói của khẩu súng, anh liền bắn chết Torval. Hành động của Eric mang tính phi lí của chủ nghĩa hiện sinh. Luật nhân quả không còn đúng trong kỉ nguyên hậu hiện đại. Câu chuyện của Eric và Torval đưa ra những phản đề với nhiều hàm nghĩa trái ngược: người bảo vệ bị người được bảo vệ sát hại, vũ khí của cá nhân bị lạm dụng để sát hại cá nhân đó, hành vi con người thật bất ngờ và không thể nào kiểm soát được… Thế nhưng, đằng sau câu chuyện súng ống đó nó cho thấy khả năng sát hại con người ngày một tinh vi của công nghệ vũ khí. Nếu để ý, người đọc có thể liệt kê ra hàng loạt các loại vũ khí có khả năng sát thương con người một cách… hiệu quả. Thống kê sơ bộ ta có dùi cui điện, súng cao su, súng ngắn, thuốc nổ, đầu đạn hạt nhân… những thứ vũ khí con người lạnh lùng mang ra đối phó với nhau. Hậu quả là có nhiều người chết. Một tác phẩm hậu hiện đại thì luôn có nhiều cái chết. Nhưng những cái chết đó không hề có chút bi lụy nào, nó nhại những cái chết mang tính anh hùng ca. Đơn giản các nhà hậu hiện đại xem cái chết cũng giống như sự sống. Chết hay sống đều là quy luật tất yếu của cuộc sống, con người chẳng thể nào làm khác được. Từ quan niệm này, các nhà hậu hiện đại tái hiện cái chết không hề giống những cái chết trước đó. Trong Thành phố quốc tế, nhân vật Eric trước khi đối đầu với phát đạn kết thúc đời mình đã được xem xét toàn bộ tiến trình dẫn đến cái chết của mình thông qua chiếc đồng hồ cá nhân có màn hình theo dõi anh và anh biết cái chết đang diễn ra với mình như thế nào. Tháng 7 năm 2007 tờ New York Time in bài phỏng vấn DeLillo. Nhà văn đã trả lời Mark Binelli trong lần phỏng vấn cho tờ Guernica, về việc viết về cuộc khủng bố kinh hoàng ngày 11 tháng 9, cũng như việc thường xuyên đưa những yếu tố kinh dị chết người như đám mây độc treo lửng lơ trên bầu trời trong tác phẩm Âm thanh trắng… DeLillo cho biết: “Đấy thực sự là nỗi kinh hoàng. Thực tế là việc tôi quyết định viết ngay vào giữa sự kiện đã không khiến nó dễ dàng hơn. Tôi không muốn viết một cuốn tiểu thuyết mà những cuộc tấn công xảy ra vọt qua vai phải của nhân vật và tác động đến một vài sinh mạng theo cách từ xa. Tôi muốn ở trong ngọn tháp và ở trong máy bay. Tôi không bao giờ tư duy về các cuộc tấn công theo cách hư cấu nói chung, chí ít là trong vòng ba năm. Ngày 11 tháng 9 tôi đang viết cuốn Thành phố thế giới và tôi đã phải dừng lại mất một khoảng thời gian và tôi quyết định viết một bài tiểu luận. Về sau, sau khi kết thúc Thành phố thế giới, tôi bắt đầu nghĩ về một tác phẩm khác trong vòng vài tháng khi tôi bắt đầu phác thảo ý tưởng về cuốn Người rơi. Hình ảnh nhân vật hiện lên qua cái nhìn thị giác: một người đàn ông mặc veston và thắt cà vạt, mang túi xách, bước qua cơn bão khói và tro tàn. Tôi chẳng hình dung thêm được gì ngoài những điều đó. Rồi mấy ngày sau, hóa ra là tôi nhận thức được cái túi xách đó không phải của ông ta. Điều đó như thể khởi đầu cho một chuỗi ý tưởng dẫn đến việc xếp đặt những từ ngữ thực sự lên trang giấy”(2). Như thế, dẫu không trực tiếp viết về cuộc khủng bố 11 tháng 9, nhưng dư âm của cuộc khủng bố vẫn in đậm trong tác phẩm của ông. Nạn khủng bố không còn là chuyện viễn tưởng, là sản phẩm của hư cấu đơn thuần. Đấy là một thế giới mà yên bình chỉ là tạm thời, còn bạo loạn và chết chóc là nhân tố thường trực. Dường như, DeLillo không hề có tham vọng lấy cái bất ổn để hướng đến sự bình ổn của cuộc đời. Ông có vẻ như nhìn cuộc hỗn loạn đó bằng con mắt giễu cợt, có phần bi đát khi con người đánh mất đi sự tự chủ, đánh mất đi chính bản thân mình trong cái mớ bòng bong quyền lực và tiền bạc do chính họ tạo nên. Khi được hỏi ông có cảm nghĩ gì về những cách thức hành động bạo lực cực đoan trong thời đại hiện nay, DeLillo đáp: “với những kiểu chủ nghĩa cực đoan như thế, một mặt con người ta phải hiểu nguồn gốc của nó. Mặt khác, đa phần nguyên nhân dường như không được lưu ý và bị làm cho mơ hồ bởi môi trường sống của thời đại. Anh biết, tôi từng tham gia diễu hành phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cùng với hàng ngàn hàng ngàn người khác. Nhưng tôi hoàn toàn không hiểu những quả bom được đặt trong những phòng thí nghiệm khoa học hay trong những tòa nhà văn phòng”(3)1 Lê Huy Bắc Review *** Anh mất ngủ thường xuyên hơn, không chỉ một, hai lần mà tới bốn, năm lần một tuần. Anh đã làm gì khi điều này xảy ra? Anh không muốn đi dạo trong ánh bình minh lên. Anh không có bạn bè thân thiết để quấy quả bằng một cú điện thoại. Có gì để nói bây giờ? Chỉ là một sự tĩnh lặng, không đối thoại. Anh thử đếm cừu để rủ cơn ngủ đến nhưng chỉ thành ra tỉnh táo hơn mà thôi. Anh đọc sách khoa học và thi ca. Anh thích khoảng trống của những câu thơ, và trật tự con chữ nổ bùng trên trang giấy. Thơ ca làm anh ý thức được rằng mình đang còn tồn tại. Trong khoảnh khắc, thơ ca hé lộ ra những điều mà bình thường anh không bao giờ để ý tới. Đây chính là sắc thái của những dòng thơ, chí ít là đối với anh, hàng đêm, hàng tuần dài đằng đẵng, hơi thở này tiếp nối hơi thở khác, trong căn phòng xoay ở tầng trên cùng của ngôi nhà ba căn hộ. Có một đêm anh đã thử ngủ đứng trong phòng thiền, nhưng không đủ điêu luyện, và đắc đạo để làm được như vậy. Anh đành bỏ qua giấc ngủ và đi vòng quanh cho cân bằng, một đêm tĩnh mịch không trăng sao khi mà mọi sức mạnh đều trở nên cân bằng với nhau. Đây là cách tốt nhất để làm giảm căng thẳng, một quãng ngưng nhỏ sau những cảm giác bồn chồn. Một câu hỏi không có lời đáp. Anh cố uống thuốc ngủ và thuốc an thần nhưng chúng khiến anh bị lệ thuộc và đẩy anh vào tâm đường trôn ốc kín. Mọi việc anh làm đều là tự ám ảnh và giả tạo. Những ý nghĩ màu xám phủ một bóng đen đáng sợ. Anh đã làm gì? Trên chiếc ghế bành bọc da, anh đã không tham khảo một nhà phân tích nào. Freud xong rồi, tiếp theo sẽ là Einstein. Đêm nay anh đọc cuốn Học thuyết đặc biệt bằng tiếng Anh và tiếng Đức, nhưng rồi cuối cùng anh lại quăng sách sang một bên, cố gắng dồn mọi quyết tâm để nói ra một lời có thể làm tắt ngấm mọi chân lý. Xung quanh anh không có gì tồn tại. Chỉ có âm thanh văng vẳng trong đầu anh, trong tâm trí anh lúc này. Khi anh chết, đối với anh, đây không phải là tận cùng, chỉ có thế gian này là chấm dứt mà thôi.   Anh đứng cạnh cửa sổ và ngắm nhìn ánh bình minh. Từ đây có thể nhìn ra những cây cầu, những con đường hẹp đang yên giấc và phía xa kia là thành phố, là khu ngoại ô lấp lánh làm thành một đường viền ngăn cách bầu trời và mặt đất, mà chỉ có thể miêu tả rằng đó là một không gian sâu thẳm. Anh không biết mình muốn gì. Đêm vẫn trôi trên sông, chỉ còn một phần của đêm thì đúng hơn, và những làn khói xám đang bốc lên từ ống khói phía bờ xa. Anh tưởng tượng ra cảnh những cô gái điếm rời khỏi những góc phố sáng ánh đèn, rũ rũ mái tóc mỏ vịt, một mánh khóe cũ rích với việc khởi đầu bằng vài động tác quyến rũ, anh tưởng tượng ra những chiếc xe tải lăn bánh ra khỏi khu chợ, những chiếc xe tải ra khỏi bến bốc dỡ hàng. Những thùng xe chở đầy bánh mỳ đang đi qua thành phố và lác đác vài chiếc ô tô tách ra khỏi đám hỗn loạn đó, len lỏi trên những đại lộ, còi xe bấm đến chói tai. Cảnh tượng huy hoàng nhất vẫn là những cây cầu bắc ngang qua sông được viền một vừng đông đang bắt đầu nhô lên. Anh quan sát hàng trăm con mòng biển đang bay theo chiếc xà lan lắc lư dọc dòng sông. Chúng có những trái tim mạnh mẽ và phóng khoáng, anh biết rõ điều này, tương phản với kích thước cơ thể chúng. Đã có lần anh say mê nghiên cứu những chi tiết phong phú về bộ môn giải phẫu loài lông vũ. Những con chim có bộ xương rỗng tuếch. Anh đã tìm thấy những thông tin cực kỳ bất ngờ trong suốt cả nửa buổi chiều. Anh đã không biết mình muốn gì, nhưng giờ thì anh nhớ ra rồi. Anh cần phải đi cắt tóc. Anh còn nấn ná thêm một lúc để ngắm nhìn một chú mòng biển đang chao lên, lượn xuống, để ngưỡng mộ loài chim, để luôn nghĩ về chúng và để cố gắng tìm hiểu, thậm chí để có thể cảm nhận được những nhịp đập rộn rã trong trái tim đói khát của một loài chim ăn xác chết. ❃ Anh khoác bộ com lê lên mình và thắt cà vạt. Bộ com lê cọ vào khuôn ngực nở nang quá mức của anh. Anh bước qua căn nhà có bốn mươi tám phòng. Mỗi khi cảm thấy do dự và phiền muộn, anh lại sải bước qua phòng bơi, phòng khách, phòng tập thể thao, qua bể nuôi cá mập và phòng chiếu phim. Anh dừng lại trước cửa chuồng của chú chó borzoi và trò chuyện với nó. Anh rẽ vào khu nhà sau. Ở đó, anh thường làm công việc khảo sát thị trường tiền tệ và xem xét các bản nghiên cứu. Chỉ sau một đêm, đồng yên tăng hơn cả mong đợi. Anh quay lại khu phòng khách bằng bước chân chậm rãi và dừng lại ở từng phòng, từ từ hấp thụ những gì đang hiện hữu tại đó, quan sát và lưu giữ từng tia, từng sóng hạt năng lượng. Tranh treo trên tường chủ yếu là những mảng màu, những khối hình học lớn thống trị toàn bộ những căn phòng và khiến cho không gian bên trong căn nhà trở nên im lặng lạ thường. Bên trong căn nhà ẩn chứa sự căng thẳng và hồi hộp của một không gian cao ngất ngưởng, nó đòi hỏi sự im lặng ngoan đạo để được nhìn và cảm nhận một cách đúng đắn. Khách đến nhà thường không biết cách thưởng thức những bức tranh yêu thích của anh, đó là những bức họa màu trắng khó hiểu, những vệt màu được phết bằng dao vẽ. Tác phẩm bộc lộ sự lợi hại khi nó không còn mới. Sự mới mẻ không còn ẩn chứa nguy hiểm nữa. Anh đi xuống khu hành lang lát đá cẩm thạch bằng chiếc thang máy cá nhân tự động chơi bản nhạc của Satie1. Tuyến tiền liệt của anh không cân xứng. Anh bước ra ngoài, băng qua đại lộ, rồi quay lại và đứng đối diện với tòa nhà nơi anh sống. Anh cảm thấy mình đang cận kề với nó. Đó là tòa nhà tám mươi chín tầng, một số nguyên tố, được gói gọn trong cái vỏ bọc tầm thường là những tấm kính loang loáng màu ánh đồng. Chúng có chung một cạnh hoặc một ranh giới, tòa nhà chọc trời và con người. Với độ cao chín trăm feet, nó là tòa nhà cao nhất thế giới. Tòa nhà được thiết kế theo hình chữ nhật kiểu cũ mà người ta chỉ có thế biết được kích cỡ của nó qua những bản báo cáo. Ngày này qua ngày khác nó tự bộc lộ vẻ tầm thường đến tột cùng của mình. Vì lý do này mà anh yêu thích nó. Anh thích đứng ngắm nhìn nó mỗi khi cảm giác uể oải và hư ảo xâm chiếm lấy anh. Mời các bạn đón đọc Thành Phố Quốc Tế của tác giả Don Delillo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố
Curzio Malaparte (1898-1957) là nhà văn và phóng viên chiến trường người Ý. Trong cuốn “tiểu thuyết” viết tặng các sơn binh Pháp và Ý ngã gục trên dãy núi Alpes vào tháng 6.1940 này, tất cả đều đúng sự thật: thời gian, con người, sự kiện, cảm xúc, không gian. Khi đó tác giả đang làm đại úy trong một trung đoàn trên đỉnh Bạch Sơn (Mont Blanc), quyển “Mặt trời mù” đã ra đời và được đăng thành nhiều kỳ trên tạp chí Thời đại. Curzio Malaparte tên thật là Curt Erich Suckert sinh ngày 9/6/1898 ở Prato, Tuscane Ý. Mất ngày 19/7/1957 tại Rome. Ông là một nhà văn, nhà làm phim, nhà báo, phóng viên chiến trường và còn là nhà ngoại giao. Trong tổng số hơn 35 tác phẩm, cuốn Kaputt và La Pelle là hai tác phẩm lớn được biết đến nhiều nhất tại Châu Âu. Curzio Malaparte vốn dấn thân vào con đường binh nghiệp từ rất sớm, ông đã phải chứng kiến hàng loạt thảm cảnh của Thế chiến 2 ngay từ những buổi đầu. Chính cái nhì chân xác của người trong cuộc kết hopwj với ngòi bút tuyệt kỹ của một cây viết gạo cội đã làm nên một trong những tiểu thuyết ấn tượng bậc nhất của văn chương Ý... Chiến tranh là chết chóc. Đứng trước cái chết là lúc con người ta bộc lộ bản thân mình rõ rệt nhất. Những con người trong quyển sách này coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chiến tranh vì thế lại hiện ra với cảnh núi non hùng vĩ, những bãi đồng xanh lục tốt tươi, những bông hoa violet, những mẫu đơn màu huyết, giọng thác lách dưới cành cây… Thiên nhiên tráng lệ và khổng lồ như đang làm dịu đi cái chết chực chờ, khỏa lấp tiếng bom đạn, mở rộng tâm hồn con người. Trước cảnh đẹp, người nào lại không muốn được ngồi xuống, gối đầu trên bãi cỏ và im lặng lắng nghe tiếng chim hót, người nào lại không khao khát hòa bình để trở về với gia đình? Với viên đại úy, hình ảnh cậu sơn binh ngồi trên chiếc ghế với hình bóng lờ mờ, nét rắn rỏi trong khuôn mặt nhỏ nhắn và thơ trẻ cùng tiếng chiếc lạc bò êm trầm, là tất cả những gì bình yên mà anh luôn khao khát nơi chiến trường khốc liệt. Calusia gợi nên trong lòng viên đại úy cảm giác con người – hồn nhiên, thân thiện, trẻ thơ, an yên. Theo dõi và quan sát những hoạt động của Calusia như là một niềm vui giản đơn, một phút thư giãn thanh bình. Tiếng lòng của viên đại úy đồng thời là hàng triệu tiếng kêu gào trong chiến tranh, dùng một sự điên loạn để lên án chiến tranh đã tổn thương và hủy hoại hoàn toà Mời các bạn đón đọc Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố của tác giả Curzio Malaparte.
Mặt Trời Mù
Giữa dãy Alpes, cơn ác mộng bắt đầu, những sĩ quan Ý ra lệnh cho đám sơn binh chất phác xung kích dưới làn đạn pháo. Trong số các sĩ quan đó, vì cảm tình và thương xót, có một viên đại úy luôn dõi theo một cậu sơn binh chăn bò luôn đeo chiếc lạc bò trên cổ. Cậu sơn binh đó đã bị giết chết, như hàng trăm con vật, hàng trăm con người lúc tươi vui lúc lầm lũi trên các đỉnh Bạch Sơn (Mont Blanc) phủ tuyết. Còn đại úy, cảm thấy có trách nhiệm trong cái chết của cậu bé, đã phát điên... Ở nơi trận mạc máu tuôn lệ đổ, nơi chỉ có vầng mặt trời mù soi chiếu, sự điên loạn hay mất trí đôi khi chính là những tiếng kêu thét không thành tiếng của lương tri con người. Curzio Malaparte vốn dấn thân vào con đường binh nghiệp từ rất sớm, ông đã phải chứng kiến hàng loạt thảm cảnh của Thế chiến 2 ngay từ những buổi đầu. Chính cái nhì chân xác của người trong cuộc kết hopwj với ngòi bút tuyệt kỹ của một cây viết gạo cội đã làm nên một trong những tiểu thuyết ấn tượng bậc nhất của văn chương Ý... *** Curzio Malaparte (1898-1957) là nhà văn và phóng viên chiến trường người Ý. Trong cuốn “tiểu thuyết” viết tặng các sơn binh Pháp và Ý ngã gục trên dãy núi Alpes vào tháng 6.1940 này, tất cả đều đúng sự thật: thời gian, con người, sự kiện, cảm xúc, không gian. Khi đó tác giả đang làm đại úy trong một trung đoàn trên đỉnh Bạch Sơn (Mont Blanc), quyển “Mặt trời mù” đã ra đời và được đăng thành nhiều kỳ trên tạp chí Thời đại. “Mặt trời mù” là một quyển sách mỏng nhưng nặng nề, giống như tâm tư người lính chiến trận. Cái chết chỉ là gang tấc, không ai biết được giây tiếp theo mình có còn sống không. Nhân vật chính là một đại úy dành sự quan sát đặc biệt cho một cậu sơn binh luôn đeo chiếc lạc bò trên cổ tên Calusia. Chứng kiến cậu bị giết chết ngay trước mặt, đại úy cho rằng mình đã giết chết cậu, phát điên không ngừng hồi tưởng lại những ký ức về Calusia và liên tục gào thét gọi tên cậu. Chiến tranh là chết chóc. Đứng trước cái chết là lúc con người ta bộc lộ bản thân mình rõ rệt nhất. Những con người trong quyển sách này coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chiến tranh vì thế lại hiện ra với cảnh núi non hùng vĩ, những bãi đồng xanh lục tốt tươi, những bông hoa violet, những mẫu đơn màu huyết, giọng thác lách dưới cành cây… Thiên nhiên tráng lệ và khổng lồ như đang làm dịu đi cái chết chực chờ, khỏa lấp tiếng bom đạn, mở rộng tâm hồn con người. Trước cảnh đẹp, người nào lại không muốn được ngồi xuống, gối đầu trên bãi cỏ và im lặng lắng nghe tiếng chim hót, người nào lại không khao khát hòa bình để trở về với gia đình? Với viên đại úy, hình ảnh cậu sơn binh ngồi trên chiếc ghế với hình bóng lờ mờ, nét rắn rỏi trong khuôn mặt nhỏ nhắn và thơ trẻ cùng tiếng chiếc lạc bò êm trầm, là tất cả những gì bình yên mà anh luôn khao khát nơi chiến trường khốc liệt. Calusia gợi nên trong lòng viên đại úy cảm giác con người – hồn nhiên, thân thiện, trẻ thơ, an yên. Theo dõi và quan sát những hoạt động của Calusia như là một niềm vui giản đơn, một phút thư giãn thanh bình. Tiếng lòng của viên đại úy đồng thời là hàng triệu tiếng kêu gào trong chiến tranh, dùng một sự điên loạn để lên án chiến tranh đã tổn thương và hủy hoại hoàn toàn cuộc sống con người. Sau cùng, chỉ còn lại vầng mặt trời lạnh lẽo vẫn dửng dưng soi bóng, lãnh đạm và đui mù trước bao nỗi thống khổ của con người. Mời các bạn đón đọc Mặt Trời Mù của tác giả Curzio Malaparte.
Ánh Sao Lấp Lánh
Ông Tuấn bảo tất cả người nhà phải chuẩn bị chu đáo cho bữa cơm chiều nay. Hôm nay, ông khó khăn lắm mới mời được Vỹ Khang đến nhà, mục đích của ông là muốn giới thiệu cô con gái của mình cho anh. Nếu thành công, công ty của ông sẽ thoát được khó khăn và ông tin con gái mình đủ khả năng để làm mềm trái tim của người đàn ông sắt đá này. Buổi chiều, Vỹ Khang đến cùng trợ lý của mình, ông Tuấn thoáng thất vọng khi ông chỉ muốn Khang đến một mình để buổi tiệc có phần thân mật hơn. Nghĩ thế, nhưng ông vẫn tươi cười bắt tay anh: - Cảm ơn cậu đã đến! Tôi đã bảo người nhà chuẩn bị cơm, coi như cảm ơn cậu đã giúp đỡ tôi thời gian qua. Vỹ Khang khẽ cười không nói gì. Khi cả ba ngồi xuống phòng khách thì Hiểu Ngọc đã xuống đến bậc thang cuối, cô cười thật đẹp. Ông Tuấn nhìn con thầm hài lòng. - Ngọc! Con lại chào anh Khang và anh Nguyên đi. Hiểu Ngọc thật quyến rũ trong bồ đồ mặc nhà, cô duyên dáng gật đầu chào rồi xin phép ra phía sau. Ông Tuấn thầm quan sát nét mặt của Khang. Đôi mắt ông thoáng thất vọng, khi vẫn là khuôn mặt lạnh lùng cố hữu. Ông nói như vô tình: - Nó đang học năm cuối khoa Quản trị. Rất ngoan và học giỏi nên tôi rất yên tâm. Nguyên mỉm cười: - Tôi có biết Hiểu Ngọc, cô ấy rất nổi tiếng. Vừa là hoa khôi của trường lại là sinh viên xuất sắc. Ông Tuấn cười thật tươi không giấu được vẻ hãnh diện về con gái mình, ông nói khiêm tốn: - Tôi chỉ mong nó ra trường phụ tôi một tay. Nó còn khờ lắm, chưa biết gì về cách làm ăn bên ngoài cả. Cả ba nói chuyện một lúc thì Hiểu Ngọc bước ra, cô lễ phép mời mọi người vào dùng cơm. Ngọc ngồi đối diện với Vỹ Khang, cử chỉ hiền ngoan đến mềm lòng. Hình như suốt bữa ăn, chỉ có Nguyên là gợi chuyện với Ngọc, cô thoáng thất vọng nhưng cũng lịch sự đáp lại Nguyên. - Anh Khang chắc khó lắm nhỉ? Vỹ Khang khẽ nhướng mày như hỏi nhưng không nói gì. Ngọc mỉm cười: - Em chỉ nói theo cảm nhận của mình. Em nói có đúng không? Nguyên khẽ cười nhún vai: - Rất chính xác. Vỹ Khang hớp một ngụm rượu rồi nhìn Ngọc, cái nhìn thẳng thắn lần đầu tiên kể từ lúc gặp cô đến giờ. Như một luồng điện chạy khắp người cô, Hiểu Ngọc chớp mắt bối rối. Cùng lúc đó bà vú từ nhà sau mang lên một mâm cơm nhỏ trên tay. Bà Tuấn chặn lại: - Nhớ pha cho con bé ly sữa, hôm qua nó không ăn gì nhiều. - Dạ. Nói rồi bà vú đi thẳng lên phòng khách để lên lầu. Bà Tuấn quay lại, thấy cái nhìn của Nguyên, bà khẽ cười: - Con bé là em của Ngọc, nó bị bệnh nên không thể xuống. Chỉ một câu giải thích rồi chấm dứt, mọi người cũng không bận tâm. Lúc sau thì bà vú hớt hải chạy xuống: - Con Hân nóng quá, hình như là sốt rất cao. Bà Tuấn đứng bật dậy: - Để tôi xem. Tất cả đều ra phòng khách, ông Tuấn cũng không giấu được vẻ lo lắng khi gọi điện cho bác sĩ. Vỹ Khang và Nguyên đều trầm ngâm nhìn. Lúc sau bà Tuấn đi xuống: - Không hiểu sao nó bị bệnh như thế. Nó đâu có đi ra ngoài. Bác sĩ đến nhưng ông đề nghị phải đưa vào bệnh viện. Cả nhà lo lắng lên phòng của Hiểu Hân. Ông Tuấn ái ngại nhìn Vỹ Khang: - Xin lỗi cậu... Vỹ Khang khoát tay. Không thể làm khác, anh và Nguyên cùng lên xem sao. Đó là một căn phòng toàn một màu vàng ngộ nghĩnh, từ drap giường đến chiếc đèn ngủ nhỏ. Bấy giờ Khang mới lên tiếng: - Cô ấy không sao chứ? Anh bước vào phòng và nhìn đăm đăm cô gái nằm bất động được ủ ấm bằng chiếc chăn thật dày trên giường. Nguyên cũng nhìn nhưng đôi mắt không giấu giếm được sự say mê. Không ngờ ông Tuấn lại có hai người con gái đẹp đến như thế, nhưng ở Hiểu Hân lại có sức quyến rũ lạ thường dù cô đang bệnh. Chưa bao giờ Nguyên gặp người đẹp nào hoàn hảo đến thế. Anh cứ đứng lặng nhìn quên mọi thứ xung quanh. Bỗng Khang lên tiếng: - Sẵn có xe, để tôi giúp mọi người đưa cô ấy vào viện. Ông Tuấn dù đang lo cũng không giấu được sự ngạc nhiên về cách quan tâm của Khang. Bà Tuấn thì ngân ngấn nước mắt lăng xăng soạn đồ cho con. Ông Tuấn định đỡ Hiểu Hân nhưng Khang đã bước đến: - Để tôi giúp ông! Nói rồi anh bồng xốc Hiểu Hân trên tay trước đôi mặt ngạc nhiên của Nguyên. Khang đi nhanh ra xe bằng những bước chân hối hả, biểu lộ một sự lo lắng thực sự chứ không phải giúp xã giao. Hiểu Hân được đưa vào phòng cấp cứu, khoảng gần một tiếng bác sĩ mới bước ra: - Cô ấy bị suy nhược lại sốt rất cao, cũng may là đưa đến kịp. Mọi người đều thở nhẹ dù chưa hết lo lắng. Hiểu Hân được đưa vào phòng riêng biệt mà ông Tuấn đã đặt sẵn, cô vẫn chưa tỉnh. Sau khi đã an tâm về con, ông Tuấn quay qua Vỹ Khang: - Cám ơn cậu! - Không có gì. Cô ấy không sao là tốt rồi. Đôi mắt Khang lại chiếu vào Hiểu Hân đang nằm thiêm thiếp, ông Tuấn cũng nhận thấy sự khác lạ đó và khẽ thở dài. Một lúc sau thì Vỹ Khang và Nguyên ra về. Suốt đoạn đường, Nguyên thầm quan sát bạn, khuôn mặt của Vỹ Khang rất trầm ngâm, anh không nói một lời nào từ lúc lên xe. - Hôm nay mày lạ quá, có thể giải thích không? Khang châm cho mình điếu thuốc: - Không có gì. Nguyên thấy mình nên dừng lại và đừng hỏi gì cả, dù là bạn nhưng Nguyên thầm nhận mình rất ngán Khang. Hiểu Hân dựa vào cạnh giường. Mẹ vừa về nên cô cũng thấy thoải mái vì nếu có bà, bà sẽ ép ăn đủ thứ, mà Hiểu Hân lại rất ngán những thứ đó. Bà vú đã ra ngoài mua cháo, chỉ có một mình cô trong phòng. Bỗng có tiếng gõ, Hiểu Hân lắng tai nghe, chắc chắn không phải người nhà, cũng không thể là Uyên khi nhỏ đã vào lúc sáng. Hân nghĩ ngay đến Bình: - Vào đi! Tiếng chân bước hoàn toàn xa lạ, Hân không nhận ra âm thanh nào quen thuộc. Cô run giọng: - Ai? Tiếng bước chân dừng lại bên cạnh rồi một giọng nói trầm ấm vang lên. - Tôi là bạn của ba cô. Lúc cô vào bệnh viện tôi cũng có mặt nên tôi đến đây xem cô thế nào. Hiểu Hân chớp mắt: - Xin lỗi, tôi không biết ông. Người đàn ông khẽ cười: - Tôi tên Vỹ Khang. Cô khỏe chưa? - Tôi đỡ nhiều rồi. Cảm ơn ông. - Cô thấy tôi già lắm sao? Hiểu Hân chớp mắt, không hiểu ông ta vô ý hay cố tình khi nói như thế. Cô có thấy gì đâu? Không lẽ ông ta không biết cô không thể nhìn thấy ánh sáng hay sao? Hân bỗng nhớ ra cặp mắt kính mình đang đeo khi ra ngoài lúc nãy. - Xin lỗi, vì tôi nghĩ ông là bạn của ba mình. Vỹ Khang khẽ nhướng mắt, anh không thấy được gì khi cô che giấu cặp mắt của mình. - Tôi có nghe mẹ kể lại, chắc ông là người đã đưa tôi vào bệnh viện, đúng không? Vỹ Khang gật đầu không trả lời. Hiểu Hân cũng ngồi im vì không biết nói gì. Cô không quen khi tiếp xúc với người lạ như thế này. Cửa phòng được đẩy nhẹ, Hân nhẹ nhõm khi nhận ra tiếng chân bà vú: - Vú về rồi à? - Ừ. Bà vú quay qua nhìn Khang, cái nhìn đầy vẻ ngạc nhiên: - Cậu Khang đến lâu chưa? - Mới đây thôi. Vỹ Khang đưa cho bà vú bọc trái cây và một bó hoa rồi đưa mặt nhìn Hân: - Chúc Hân mau bình phục! - Cảm ơn. Khang hơi nhíu mày vì vẻ thờ ơ của Hân. Bà vú hình như nhận ra, liền nói: - Tôi nhận giùm Hân được rồi. Cảm ơn cậu. Khang trao tất cả cho bà vú. Hân chỉ gật đầu không nói gì. - Chào cô. Hân khẽ gật đầu chào lại, cử chỉ như đề phòng. Đợi cánh cửa khép lại, Hân vội hỏi: - Ai thế vú? Bà vú đặt vào tay cô cà mèn cháo: - Ba con rất quý cậu ấy. Ông định gả Hiểu Ngọc cho cậu ấy đấy. Hiểu Hân gỡ chiếc kính ra: - Vậy sao? Tại ông nói là bạn của ba con nên con thấy lạ, vì có bao giờ bạn của ba đến thăm con đâu. Hiểu Hân không hỏi nữa, cô ngoan ngoãn múc từng thìa cháo trong cái nhìn thương yêu của bà vú. Đây là lấn thứ hai Vỹ Khang đến nhà theo lời mời của ông Tuấn. Đặt tách trà xuống bàn, Khang hỏi: - Tôi có thể thăm Hiểu Hân không? Ông Tuấn nhìn Khang lo ngại: - Dĩ nhiên là được. Hiểu Ngọc từ trên lầu đi xuống, cô ngạc nhiên khi thấy Khang đứng lên. - Anh Khang về hả? Vỹ Khang đưa mắt nhìn cô: - Tôi lên thăm Hiểu Hân. Hiểu Ngọc chớp mắt, cô nói bình thản: - Để em đưa anh đi. Khang không nói gì, bước theo cô lên lầu. Ông Tuấn trầm ngâm nhìn theo. Ông không hiểu Khang là người thế nào, nhưng cách quan tâm của anh đối với Hiểu Hân thì chỉ có kẻ ngốc mới không nhận ra tình ý của Khang. Hiểu Ngọc mở cửa phòng em. Hân đang nằm ôm con gấu bông trên giường. Nhận ra ngay tiếng bước chân của chị, cô khẽ cười. - Có anh Khang đến thăm em nè. Ngồi dậy đi! Hiểu Hân bối rối ngồi lên. Hiểu Ngọc quay qua Khang: - Anh Khang ngồi chơi. Khang nhìn đăm đăm gương mặt của Hiểu Hân. Bây giờ anh mới thấy đôi mắt thật đẹp của cô nhưng có nét gì đó không linh động bình thường. - Hân nhớ tôi chứ? Hiểu Hân gật đầu không nói. Hiểu Ngọc chợt hỏi: - Cái đồng hồ chị tặng cho em đâu rồi? Hiểu Hân nhíu mày, cô luôn để trên đầu giường mà. Hân đưa tay tìm ở chỗ cũ nhưng trống không. Cô quờ quạng tìm chỗ khác, không hay có đôi mắt đang sững sờ nhìn theo từng cử chỉ của mình: - Em để ở đây mà, không biết ai lấy đi đâu mất rôi. Hiểu Ngọc bước đến nắm tay em: - Thôi đừng tìm nữa, để chị hỏi mọi người cho. - Dạ. Hiểu Hân lại ngồi im như lúc đầu. Khang như đã qua phút ngỡ ngàng, anh nhìn Hiểu Hân dịu dàng: - Tôi thấy Hân hồng hào hơn trước nhiều. Theo phản xạ, Hân đưa tay sờ lên mặt mình: - Vậy sao? Khang vẫn không rời mắt khỏi cô. Hiểu Ngọc cảm nhận được những gì Vỹ Khang đang thể hiện. Một nỗi cay đắng trào lên trong cô. - Hân có muốn hỏi gì về tôi không? Hân ngồi im, không hiểu Khang muốn nói gì, nhưng cô vẫn trả lời theo những gì mình biết: - Xin lỗi vì lần trước tôi không biết anh là ai. Nhưng giờ thì tôi biết rồi. - Biết gì? Hân ngước lên, có cái gì đó đau thắt trong Khang khi anh nhìn vào đôi mắt tuyệt đẹp của cô. Nó vẫn rất trong sáng, không ai ngờ được rằng cô không thấy được gì. - Anh là bạn của chị Ngọc. Vỹ Khang nhíu mày: - Và của Hân nữa, nếu em muốn. Hiểu Hân khẽ cười: - Tôi không vô phép thế đâu. Vỹ Khang nhìn cô không nói gì. Một lúc sau thì Khang ra về. Anh bước xuống phòng khách thì gặp ông bà Tuấn đang ngồi: - Cậu về sao? Vỹ Khang gật đầu: - Tôi có một cuộc hẹn nên phải đi. Hiểu Ngọc tiễn Khang ra cổng. Nhìn vẻ lạnh lùng cố hữu của anh, Ngọc khẽ quay đi. - Tôi về nhé! - Vỹ Khang bước đi. - Anh Khang! Vỹ Khang đứng lại chờ đợi. - Em muốn biết anh đến đây vì cái gì? Vỹ Khang quay lại nhìn cô: - Vì lời mời của ba em. - Thật không? Vỹ Khang nhướng mắt: - Nhưng bắt đầu từ ngày mai, tôi sẽ là vị khách không mời mà đến. Tim Hiểu Ngọc nhói đau, cô cố nói bình thản: - Nghĩa là sao? - Tôi sẽ nói chuyện với ba em về quyết định của mình. Em vào nhà đi! Hiểu Ngọc chớp mắt, cô muốn nghe Khang nói rõ ràng hơn, nhưng nhìn vẻ dứt khoát của anh, cô không dám. Tuần sau, ông Tuấn hoàn toàn kinh ngạc vì những điều Khang nói. Ông về nhà với tâm trạng vừa mừng lại vừa lo, một điều mà chưa bao giờ ông dám mơ. Hiểu Ngọc nghe với một nỗi đau không gì gượng nổi, Khang đã đánh vào lòng tự trọng của cô quá nặng nề. Anh là người đầu tiên cô đem tất cả tình cảm để yêu và hy vọng, thế mà Khang đã gạt bỏ không cần bận tâm. Ông Tuấn ngồi trầm ngâm bên tách trà, ông không biết mình phải nói gì với Hiểu Hân, con bé sẽ có thái độ gì? Vỹ Khang lại đến, bây giờ anh có thể tự do lên thăm Hiểu Hân mà không cần phải e dè. Khang gõ nhẹ cửa: - Vào đi! Sự im lặng của Hân làm Khang thấy thất vọng khi cô vẫn chưa quen được tiếng chân anh: - Em không đoán được ai à? - Xin lỗi, tôi không quen. Vỹ Khang ngồi xuống, đối diện với cô: - Nhận ra tiếng anh không? Hiểu Hân chớp mắt, cô thấy ngại vì cách nói thân mật gần như âu yếm của Khang: - Chị Ngọc không lên với anh sao? Vỹ Khang nhìn cô rồi cố ý hỏi để cho cô hiểu: - Tại sao Hiểu Ngọc phải lên với anh? Hiểu Hân chớp mắt, cô ngồi thẳng người lên, cách nói chuyện của Khang luôn làm cô bất an, luôn đề phòng. - Đừng căng thẳng như thế, anh hỏi rất nghiêm túc. Em cứ nói những gì mình nghĩ. Hiểu Hân lắc đầu: - Tôi không hiểu anh nói gì, khi tôi thấy mình không nói điều gì sai cả. Vỹ Khang khẽ cười: - Em không nói sai, nhưng anh muốn em hiểu rằng việc anh đến thăm em không liên quan gì đến Ngọc. Anh đến vì anh thích, thế thôi. Hiểu Hân ngồi im. Vỹ Khang nhìn cô đăm đăm như quan sát, cái nhìn của anh sắc đến nỗi nó lây sang cả Hân, dù không thấy nhưng cô vẫn cảm nhận được. Hân vụng về nắm chặt bàn tay mình lại, cử chỉ đó không qua mắt Khang: - Em không hiểu anh nói gì phải không? - Không và cũng không muốn hiểu. Anh đừng nói nữa. - Tại sao? Hiểu Hân chớp mắt như sắp khóc, cô thấy giận cay đắng: - Không tại sao cả. Nếu muốn lên thăm tôi, tốt nhất là anh hãy đi cùng chị Ngọc. Tôi mệt lắm, tôi muốn nghỉ. Xin lỗi anh... Vỹ Khang vẫn ngồi yên, không ngờ cách thể hiện của anh lại làm cô giận đến thế. Vỹ Khang hiểu để làm Hân chấp nhận thì là cả một quá trình, nhưng quan trọng là anh sẽ không bỏ cuộc. Vỹ Khang bước đến gần cô. Hân hơi lùi lại khi cảm nhận được sự gần gũi rất gần. Cô run giọng: - Anh muốn gì? Vỹ Khang thấy đau lòng khi nhìn vẻ sợ sệt của cô. Không ngờ có lúc anh khó diễn đạt tình cảm của mình như thế này. - Hôm nay, anh muốn em hiểu đúng những gì anh nói. Anh đến đây là vì em, Hiểu Ngọc không liên quan gì cả. Đừng suy nghĩ lung tung mà hãy đón nhận và suy nghĩ xem em có chấp nhận được anh không? Hiểu Hân im lìm. Vỹ Khang khẽ quay đi: - Em nghỉ đi. Anh về đây. Nói rồi Vỹ Khang bước ra ngoài. Anh biết cách thể hiện tình cảm của mình sẽ làm Hiểu Hân hoang mang, đề phòng nhưng Khang chấp nhận, chứ anh không bao giờ muốn Hân hiểu lầm tình cảm của mình. Ông Tuấn lên phòng Hân sau khi đã tiễn Khang về. Ông cứ ngồi trầm ngâm bên giường của con. Nhìn dáng vẻ im lìm thụ động của con, ông không khỏi đau lòng: - Con thấy Vỹ Khang thế nào Hân? - Sao ba lại hỏi thế? Ông nắm tay con khẽ cười: - Thằng Khang nó muốn cưới con. Con nghĩ sao? Hân nắm chặt tay ba mình: - Con không thể... Ông Tuấn vuốt tóc cô: - Ba hiểu con khó chấp nhận, nhưng Khang là người đáng tin cậy. Ba tin nó sẽ mang hạnh phúc đến cho con. Hiểu Hân khóc lặng lẽ, cô quá yếu đuối: - Con không muốn. Ba đừng đồng ý, sao ba không hiểu... Ông Tuấn ngắt ngang: - Ba hiểu tất cả, nhưng con đừng sống như thế nữa. Cơ hội chỉ đến một lần thôi, đó là hạnh phúc cả đời, con nên nắm lấy. Hiểu Hân im lìm, cô khẽ lắc đầu nhưng không diễn tả được suy nghĩ của mình. - Con xin lỗi. Ông Tuấn khẽ thở dài: - Ba nói thật, công ty sắp phá sản rồi mà Khang lại là người có thể cứu gia đình mình. Ba nói thế, con hiểu không Hân? Ông Tuấn gục đầu trong tay, ông không nhìn Hiểu Hân vì thấy mình không xứng đáng. Gương mặt thất thần, tuyệt vọng của con như ngọn roi quất vào lương tâm ông đau nhói: - Ba xin lỗi, nếu con không đồng ý, ba sẽ không ép. Con nghỉ đi. Nói rồi ông bước ra khỏi phòng, bỏ lại Hiểu Hân một màu đen tối cả ở ngoài lẫn trong tâm hồn. Cô không còn nhận biết được thứ ánh sáng nào có thể dìu dắt mình nữa. Vỹ Khang đưa cô vào phòng, anh để cô ngồi trên giường: - Em mệt lắm hả? Hiểu Hân im lìm, Khang khẽ nắm tay cô, Hân rút nhẹ: - Tôi muốn gặp vú. Khang vẫn dịu dàng: - Em cần gì? Hiểu Hân chớp mắt: - Xin lỗi, tôi chỉ quen với sự chăm sóc của vú. - Anh là chồng em, đó là bổn phận của anh. Hiểu Hân rụt tay lại: - Đừng làm tôi sợ, anh Khang. Vỹ Khang nhìn cô im lìm, ước gì cô đọc thấy tình yêu của anh dành cho cô: - Em nghỉ đi. Nói rồi anh bước ra ngoài, lát sau thì bà vú vào. Hiểu Hân nắm tay bà áp lên má: - Vú đừng đi đâu nhé, ở lại với con. Bà vú khẽ vuốt tóc cô: - Con nên tập làm quen với sự hiện diện của Vỹ Khang, cậu ấy mới là người con cần đấy. Hiểu Hân chớp mắt, cô hiểu chứ. Nếu được như những người bình thường khác, có lẽ cô sẽ không như thế này. Tâm trạng của cô làm sao mọi người hiểu được. Mời các bạn đón đọc Ánh Sao Lấp Lánh của tác giả Hoàng Anh.
Bảy Ngày Đếm Ngược
“Tốt nhất là không gặp, không gặp sẽ không yêu. Tốt nhất không quen, không quen sẽ không nhớ. Nhưng từng gặp thì sẽ quen, gặp hay không gặp khác gì nhau? Đành cùng người quyết đoạn tuyệt, tránh được thương nhớ giữa sống chết.” Nếu biết còn 7 ngày để sống, tôi sẽ……… Đã bao giờ bạn tưởng tượng bạn sẽ được báo trước 7 ngày nữa mình sẽ chết? Nghe thật buồn cười nhưng một ngày như thế sẽ làm bạn phải suy nghĩ lại chứ? Những lời nào bạn muốn nói Người nào bạn muốn gặp gỡ Việc gì bạn muốn làm Cô nghệ sĩ hết thời từng danh nổi như cồn lại ôm trong lòng sự hối tiếc đối với tình thân Cô gái trẻ xuất thân trộm cắp vùng vẫy nơi đáy xã hội, khư khư ôm chặt ước mơ của mình Chàng dũng sĩ nhí cô độc lẻ loi chưa từng từ bỏ hi vọng, kiên trì tìm đến vòng tay của người thân “Bảy ngày đếm ngược” có thể sẽ lấy đi những giọt nước mắt, cũng có thể mang theo cả nụ cười cho bạn đọc. Hơn cả, cuốn sách này sẽ mang lại cho bạn cả những lúc cần phải lặng người hỏi bản thân “Tôi đã sống trọn vẹn hay chưa?”  *** Chuyện không liên quan thứ nhất là dạo này nóng thật, nóng khủng khiếp ấy. :((( Chuyện không liên quan thứ hai là mình rất thích đọc tiểu thuyết Đài Loan, cá nhân mình thấy thích hơn tiểu thuyết Trung Quốc luôn ấy. ❤ (Không, mình nghĩ là có liên quan đó. :3) Chuyện không liên quan thứ ba là chúc các bạn một ngày tốt lành! Rồi, giờ vào chuyện liên quan luôn nhé. Lâu rồi mình chưa đọc sách giấy, toàn ôm điện thoại đọc thôi. Xong rồi mình nhìn thấy một bài giới thiệu Bảy ngày đếm ngược trên Facebook, lúc đó mình kiểu quyết tâm phải mua về đọc ấy. Và mình không hề thất vọng, quyển này hay lắm luôn ấy. Bảy ngày đếm ngược là tiểu thuyết Đài Loan, không phải ngôn hay đam đâu, nên ai không đọc được hai thể loại này cứ mạnh dạn mà rước về nhé. Sơ Tam – nhân vật chính làm việc tại Cục tử vong của Thiên giới, công việc của cậu là lắng nghe tiếng lòng sau cuối của các vong linh, sau đó ghi lại cuộc đời họ. Thiên giới thử nghiệm kế hoạch Thông báo tử vong, mỗi người trước khi chết sẽ được thông báo trước 7 ngày, Sơ Tam chính là người được chọn để quan sát quá trình ấy. Đọc đến đây, chắc bạn đã có câu trả lời về nội dung truyện rồi nhỉ? Chính là kiểu truyện lồng trong truyện đó. Thật sự thì mình đã khóc khi đọc truyện này đấy, sợ hãi, tuyệt vọng, hy vọng, chờ đợi, cuốn sách này có cả. Bảy con người, bảy số phận khác nhau, điểm chung giữa họ là chỉ còn bảy ngày để sống. Diễn viên hết thời, kẻ móc túi, anh lính cứu hỏa, thanh niên mắc ung thư, cậu bé bị bỏ rơi, kẻ khủng bố, vị bác sĩ chân chính cống hiến cả cuộc đời. Nội dung chi tiết ra sao, bạn hãy tự đọc để cảm nhận nhé. Nghe truyện có vẻ u ám đúng không? Nhưng mình cam đoan là HE hết nhé. À, nói sơ qua về hình thức một chút nhé, sách cầm chắc tay, mình mở sách thô bạo lắm ấy mà quyển sách nhìn vẫn siêu đẹp. Vẫn có lỗi chính tả, nhưng mình không khó tính lắm nên thôi bỏ qua. Một số đoạn, mình thích dùng từ “cô” hơn là “cô ta”, cứ “cô ta”, “cô ta” suốt làm mình kiểu hơi ngừng lại một chút, hoặc là “cô ấy” nghe cũng hay hơn mà. Chung quy lại thì mình không thích văn phong dịch lắm. Không phải mình ship mù quáng đâu nhưng mình thích Phạm Khương Dịch Trạch x Sơ Tam, nhưng mà Phạm Khương Dịch Trạch x Trì Linh Dao kiểu cực đẹp ấy nên mình ship cả hai luôn. Mình nghĩ là sẽ kha khá người ship Tiêu Bang x Sơ Tam đó. ❤ Nói gọn lại là thì quyển này đáng mua lắm luôn, mọi người thử đọc và cảm nhận nhé. *** “Bảy ngày đếm ngược” của Cát Bốc Lặc đem lại cho độc giả những trăn trở sâu thẳm về đời người, với những mảnh số phận khác nhau khi đối diện với bản án chỉ còn bảy ngày để sống. Sơ Tam là người làm việc tại Cục Tử vong của Thiên giới, được giao công việc ghi chép lại cuộc đời của người đã khuất. Công việc đó khiến Sơ Tam có cơ hội được lắng nghe những tiếng lòng sau cuối của những vong linh, cảm nhận được những xúc cảm chân thật nhất của con người vào giây phút cận tử. Khi ấy, con người bộc lộ nguyên vẹn nhất với đầy đủ những hỷ nộ ái ố trong đời. Ở vị trí ấy, Sơ Tam cũng nhận ra rằng, dẫu cuộc đời mỗi người từng trải qua những biến cố ra sao, điều họ khao khát nhất vẫn là được sống. Những câu chuyện của người sắp chết khiến Sơ Tam ám ảnh. Cậu sống trong trạng thái bị quấy nhiễu bởi những ký ức trở đi trở lại. Cho đến một ngày, Sơ Tam được phân công nhiệm vụ trở thành người thông báo tử vong. Nhiệm vụ mới đặt cậu vào vai trò thông báo cho con người về cái chết của họ trước bảy ngày, và quan sát xem trong bảy ngày cuối cùng ấy, con người sống ra sao. Đây là một trải nghiệm đặc biệt đối với Sơ Tam, cũng mở ra những khoảng không vô tận, khiến cậu thấu hiểu hơn về con người nơi trần thế. Họ là một diễn viên hết thời, một cô gái hành nghề móc túi, anh lính cứu hỏa luôn hết mình với công việc, người thanh niên mắc ung thư, cậu bé bị bỏ rơi, kẻ khủng bố, vị bác sĩ chân chính cống hiến cả cuộc đời. Bảy số phận khác nhau ấy cùng ghép lại thành một bức tranh đa sắc về số phận con người trong cuộc sống hiện đại dù cuộc đời họ chỉ được tái hiện trong bảy ngày cuối cùng ngắn ngủi. Củng Thiên Nghi là một diễn viên ngôi sao hết thời, đang vướng vào những vụ lùm xùm, sống trong cảnh buồn chán vì ế show. Khi Sơ Tam xuất hiện, thông báo rằng sinh mệnh của cô chỉ còn bảy ngày, ấy cũng chính là chìa khóa mở cánh cửa bí ẩn về cuộc đời cô. Bảy ngày ấy, với vai trò người quan sát, Sơ Tam đã có cơ hội để hiểu những tâm tư sâu thẳm của một ngôi sao. Trước đó, vì đuổi theo những thành công của sự nghiệp, cô đã rời bỏ cha mẹ, từng có con nhưng đành để cho người em gái nuôi nấng, đã mang trong mình một mối thâm tình nhưng rồi cũng lìa bỏ. Cuộc đời của Củng Thiên Nghi đến hôm ấy tưởng như trống không, chỉ còn lại là những ảo ảnh của sự nổi tiếng. Nhưng bảy ngày cuối cùng ấy, chính là những giây phút duy nhất trong đời cô có thể hàn gắn lại cuộc đời mình. Củng Thiên Nghi về thăm bố, dùng máu của mình để cứu ông. Rồi cô dành những thời gian hiếm hoi còn lại cho người con trai cô đã bỏ rơi, kết nối lại sự đồng cảm giữa cô và em gái. Khoảng thời gian ngắn ngủi biết bao nhưng có lẽ là khoảng thời gian ý nghĩa nhất, để đến giây phút cuối cùng, dùng sinh mệnh của mình để cứu con trai, cô có thể nở một nụ cười viên mãn trước khi nhắm mắt. Được kể bằng giọng văn đầy chất mê hoặc tạo dựng nên một không gian mênh mang xóa nhòa những lằn ranh giữa nhân gian, thiên đường, địa ngục, nhưng vẫn tập trung lột tả được đời sống, tâm tư của con người một cách chân thật chính là tài năng của tác giả Cát Bốc Lạc trong Bảy ngày đếm ngược. Đời người vốn ngắn ngủi, còn thời gian cứ thế trôi đi. Sống thế nào, đều do mỗi cá nhân tự chọn lựa… Qua cuộc đời của những nhân vật được thử nghiệm thông báo cái chết trước bảy ngày, mỗi người đều có cơ hội nhìn lại bản thân mình, kẻ hối hận, người hài lòng, kẻ hối hận, người mãn nguyện… đó đều là những xúc cảm rất chân thật, ai từng sống trên đời đều sẽ trải qua, không thể trốn tránh. Với cách kể truyện lồng trong truyện khiến Bảy ngày đếm ngược tựa như một chiếc gương soi, để con người soi chiếu cuộc đời mình, để có thể nhìn thấu suốt cuộc đời, cũng là thấu suốt bản thân. Sơ Tam, khi làm công việc quan sát, cuối cùng đã gặp lại ân nhân của mình trước khi anh chết. Những ngày còn sống trên nhân gian trở về sắc nét trong tâm trí anh, khiến anh càng xót xa trước sự ngắn ngủi của đời sống. Người bác sĩ tên Trâu Khoan Thủ năm nay 75 tuổi, đã dành cả đời để chữa bệnh cứu người. Cuộc đời ông đến đây là những ngày đã trọn vẹn. Ông không còn gì hối hận trên đời. Bởi thế, khi nhận được thông báo về cái chết của mình, ông dành những ngày cuối đời để ngẫm nghĩ về những chuyện quá khứ đã qua. “Cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời, khi quay đầu nhìn lại, nếu bạn vẫn có thể mỉm cười mà hồi tưởng lại quá khứ. Chứng tỏ cuộc đời này, bạn đã sống không uổng phí”. Cuộc đời của bác sĩ Trâu chính là như vậy, nhắm mắt xuôi tay, nhẹ nhàng thanh thản. Đời người vốn ngắn ngủi, còn thời gian cứ thế trôi đi. Sống thế nào, đều do mỗi cá nhân tự chọn lựa. Bảy ngày đếm ngược viết về đời người, về quá trình mà con người phải trải qua trong đoạn đời sống của chính mình nhưng được thể hiện dưới hình thức hư ảo đặc biệt, trong vùng sương khói của không gian thiên giới, hạ giới và địa phủ, tạo nên những ngữ nghĩa thâm sâu, khiến toàn bộ câu chuyện vừa có nỗi đau đớn lại cũng không thiếu những hân hoan, cảm động. Bảy ngày đếm ngược của Cát Bốc Lạc là cuốn sách đoạt giải nhất trong cuộc thi viết tiểu thuyết ngắn của Nhà xuất bản Phi Yến, Đài Loan. theo Thủy Nguyệt/Zing.vn   Mời các bạn đón đọc Bảy Ngày Đếm Ngược của tác giả Cát Bốc Lặc & Mỹ Linh (dịch) & Dinh Dinh (dịch).