Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lang Thang Chữ Nghĩa - Tập 4

  Tạp văn Lang thang chữ nghĩa Phan Huy Đường 1.Ngày ngày Lang thang chữ nghĩa Trong văn học Pháp, Lang thang chữ nghĩa thuộc loại Carnet của nhà văn, thi sĩ, triết gia. Lúc viết, họ hay giả vờ : ghi cho mình đừng quên thôi, không có ý đăng. Như Pensées của Pascal ấy mà. Nhưng nhiều người thầm kín mong sẽ được người đời đăng và quan tâm, thậm chí mê, sau khi mình đã đi chầu Diêm Vương. Ở Alain, thường là những châm ngôn (aphorismes). Ở Sartre thì mỗi đề tài són thành vài... trăm trang : Carnets de la drôle de guerre, Carnets pour une morale et tutti quanti. Sartre trung thực với triết lý của chàng khi chàng cho phép đăng tất cả thư từ, bản nháp et tutti quanti mà chàng đã từng viết : chúng đã từng là (est été) chính mình, sao phải phụ nhận chúng ? Ở tôi, Lang thang chữ nghĩa là triết dưới hình thái... mì ăn liền ! Nó chỉ khác mì ăn liền thông dụng ở một điểm thôi : thiếu bột gia vị phong phú của công nghiệp đánh chén. Muốn thưởng thức nó một cách trọn vẹn, phải tưới nước dùng độc nhất hợp khẩu vị với nó : Tư duy tự do (Nxb Đà Nẵng, 2006) và http://amvc.free.fr/PHD/TDTD/TuDuyTuDoTable.htm. 2009-05-30. PHD 2.Ngôn ngữ đời thực và nghệ thuật bằng ngôn ngữ Ngày nào con người biết nói chuyện thật thà với nhau vì biết tin cậy, quý trọng và trìu mến nhau bất kể khác biệt thậm chí đối kháng nhau, ngày ấy thơ văn tiêu vong. Chính vì ngôn ngữ chính trị và ý thức hệ, trong đó có thơ văn, là công cụ hữu hiệu nhất cho phép con người lừa nhau, giả dối với đời, giả dối với chính mình, một cách rất văn chương, mà trong thế giới ngôn ngữ[1] còn có đất sống cho thơ văn. Khi người ta gọi một kế hoạch đào thải con người ra ngoài xã hội, biến nó thành kẻ thất nghiệp, không cần thiết nữa cho xã hội – môi trường tồn tại, nên người và làm người của nó – và, vì thế, không có quyền kiếm ăn để tồn tại bằng lao động của mình, không có quyền sống như một con người, là kế hoạch xã hội tính (plan social, hàm ý : một kế hoạch nhân ái bảo vệ con người trong xã hội), thơ văn sẽ còn điều đáng nói với người đời. Sau đó, chỉ còn những điều chưa hề có ai nói tới mà vẫn đầy người khát khao hướng tới, trên khắp thế giới, ở cả loài người hôm nay. Như em chẳng hạn, hè hè. Khó lắm đấy, bạn đời văn chương Ziao Chỉ ơi… Có mấy nhà văn nhà tư tưởng Ziao Chỉ đã làm được điều ấy cho người đời không Ziao Chỉ trong thế kỷ 20-21 ? Trong lĩnh vực tư tưởng, nếu có, ta xin lạy thầy cho con được làm đệ tử. Trong khi chờ đợi, ta đành lang thang chữ nghĩa. Bạn đời ơi, hãy cùng ta lang thang nhé. Chẳng vinh hiển gì, nhưng cũng zui zui, và chẳng chết ai cả. Biết đâu cũng có lúc gặp nhau. Ngoài chuyện ấy, ta chẳng là gì, có gì, còn ai. Hè hè… 2009-04-09.PHD [1] quan hệ hoàn hảo nhất giữa người với người trong tư cách người. Không có nghĩa là tốt đẹp nhất, chỉ có nghĩa là đầy đủ nhất, kể cả dưới dạng "nghệ thuật" nhất, đểu nhất : văn chưong. 3. Quán tính của ngôn ngữ Ta tư duy bằng ngôn ngữ. Quan tính của ngôn ngữ của người đời trong đầu ta, rất đáng sợ. Nhưng quán tính của ngôn ngữ của chính ta trong đầu ta, có lúc còn đáng sợ hơn. Ta bấp bênh tự do giữa hai sự lệ thuộc ấy. 2009-04-11.PHD 4.Một loại nhà văn Chúng ta nặng tình chữ nghĩa, sống với nội tâm nhiều hơn với đời thực người thực. Chữ nghĩa quay cuồng trong đầu ta, tỏa vào cơ thể, lộ thành nét vui nỗi buồn trong vẻ mặt, hơi thở, cử chỉ, lời nói… Thỉnh thoảng tuôn vào ngòi bút. Năm thì mười họa biến thành văn. Máu thịt của ngôn từ ở ta là như thế. Nó cũng cho phép con người thương nhau. 2009-04-13.PHD 5.Ngôn ngữ của tiềm thức Khi viết văn tiếng Việt hay tiếng Pháp, tôi không bao giờ dịch từ tiếng này qua tiếng kia. Tuy vậy, trong văn tiếng Việt của tôi, thỉnh thoảng có cách nói đúng là "Tây con". Rõ ràng tiếng Pháp đã ngấm vào tiềm thức của tôi nên ngay khi viết chính mình bằng tiếng Việt, nó cũng hồn nhiên tự phát. Trong lĩnh vực này, con người chưa tự do ở đó. Nó mãi phải vươn tới tự do ngay ở chính mình. Thỉnh thoảng đọc văn tiếng Pháp của mình, tôi phát hiện điều ngược lại : rõ ràng có ý, có câu, gốc gác VN. Tôi không bao giờ sửa : đó là tiếng Pháp của tôi và tôi không có nhu cầu đầu quân Hàn lâm viện Pháp. Giao lưu văn hoá có thể như thế đó. Học thuyết Darwin hiện đại hoá + Khoa học về neuron + Ngôn ngữ học có thể giải thích được Freud lắm. Nếu như Marx nói, "gốc gác của con người chính là con người"[1], thì bản-thể của ta là ngôn ngữ của loài người đọng ở trong óc não của ta. Ngoài vài tiếng nói đang tiêu vong của các bộ lạc đang ngắc ngoải trong rừng thẳm vùng Amazonie, mọi ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt, đều lai căng vì không ngôn ngữ nào phát triển và tồn tại được cho tới ngày nay một cách biệt lập với các ngôn ngữ khác. Ai muốn đi tìm bản-thể của mình, chỉ cần trực diện đối đầu với ngôn ngữ đanh hoành hành trong đầu mình, tri phối tình cảm và tư duy của chính mình. Không dễ nhé, bạn đời ơi. 2009-04-13.PHD [1] Mais la racine pour l’homme, c’est l’homme lui-même. Marx Engels, Études Philosophiques, Éditions Sociales, 1974, p. 27 6. Sợ - 2 Nỗi sợ cho thân phận của chính mình tự nó đã khủng khiếp. Nhưng có lúc nỗi sợ cho thân phận của thân nhân – cha mẹ, anh chị em, con cháu, bạn bè… chẳng hạn, hay cho những người ta quý trọng đang đứng mũi chịu sào trong hoàn cảnh khác hoàn cảnh êm ả của ta, còn kinh hoàng hơn nữa : nó có khả năng thắt họng ta, người dám liều cầm bút. Không có phương trình giải đáp toàn hảo, tuyệt đối, vĩnh cửu. Ứng xử thế nào đi nữa cũng đượm mùi ngụy biện. Hậu sinh nhớ nhé. Làm gì, nói gì bây giờ đây ? Đến bao giờ kiếp người mới hết là kiếp nhục ? Hè hè… 2009.04.22.PHD 7.Hành động bằng văn chương Khi hành động vì những giá trị, ý tưởng, tri thức đáng khiến ta hành động, vẫn phải biết nhắm hiệu quả trong bối cảnh nào đấy. Khi viết văn, chỉ có thể yêu điều "vô tư" và, nếu được, zui zui ! Câu hỏi nan giải của kẻ muốn hành động bằng văn chương một cách có ý thức đó. 2009-04-24.PHD Phan Huy Đường *** Vĩnh biệt người “Ăn mày văn chương” Trần Tuấn Không nhớ rõ tự bao giờ, trong hộp thư điện tử của tôi vào mỗi tháng lại nhận được một email gửi từ “Ăn mày văn chương”. Mỗi email bên dưới đều có mấy lời lịch lãm, đại ý rằng “Nếu bạn không muốn nhận thông tin hàng tháng này ở đây -Xin cho tôi một lời - phanhuy.duong@...”. Lúc đầu tôi cũng hơi ngạc nhiên, nhưng vào đọc thì thật thú vị. Đó là một website về văn chương nghệ thuật được điều hành bởi một nhóm 6 nhà văn, nhà thơ, dịch giả, nghiên cứu văn chương hiện đang sống tại Pháp. Nhưng nhóm tác giả lại không coi đó là Website văn nghệ thông thường, mà gọi đó là “Trạm Đọc”. Người khởi xướng “Ăn mày văn chương” là nhà văn, dịch giả, nghiên cứu triết học Phan Huy Đường. Ông sinh năm 1945 ở Hà Nội, từ 1963 sang Pháp du học rồi định cư luôn tại đây. Phan Huy Đường viết tiếng Pháp và tiếng Việt, là tác giả và dịch giả của rất nhiều cuốn sách: “Một hành trình tư duy”, “Vẫy gọi nhau làm người”, “Tư duy tự do”, “Chơi trò Babel”, “Aimer – Mourir – Yêu-Chết”, “Thơ người dị ứng với thơ”, “Một mối tình ngụ cư”, “Nhạc ở tôi”, “Lang thang chữ nghĩa”,… (Trong đó cuốn “Tư duy tự do” được in tại NXB Đà Nẵng, 2006). Ông nghiên cứu triết học, là chuyên gia về Jean-Paul Sartre, về các tác giả thơ Pháp, về Hậu hiện đại. Ông viết tiểu thuyết. Ông dịch sang tiếng Pháp hầu hết các tác phẩm của Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Trần Vũ, Bảo Ninh, Nguyễn Duy… Bộ “sưu tập” văn chương đương đại Việt Nam mà ông hợp tác với NXB Philippe Picquier (Pháp) thật bền bỉ và đồ sộ, lên đến hơn 50 tác giả… … Sau rồi tôi mới dần hiểu ra vì sao hàng tháng tôi lại được mời đọc “Ăn mày văn chương”. Bởi Phan Huy Đường cũng chính là một sáng lập và biên tập viên của Diễn Đàn (diendan.org), nơi tôi thường được đăng tác phẩm. Với ông, tôi là một bạn đọc đáng tin cậy chăng? Và có lẽ còn vì ông và tôi cùng thân thiết với nhà văn Đà Linh, nguyên TBT Nhà xuất bản Đà Nẵng… Còn “ĂN MÀY VĂN CHƯƠNG”? Một tiêu chí văn chương thật độc đáo và khiêm nhường. Như những gì ông lý giải:  “Trong văn học, Tôi có thể ăn mày văn chương trong nghĩa sau: Tôi kêu gọi người khác đọc những gì Tôi viết vì không có ai đọc thì những gì Tôi viết chỉ tồn tại như một mớ giấy lem nhem mực, không thành tác phẩm, không thành văn. Tác phẩm và văn chương hình thành trong quá trình đọc của độc giả. Vì thế nó có khả năng tồn tại trong một không gian và thời gian rộng lớn hơn không gian và thời gian của tác giả. Điều trên cần thiết nhưng không đầy đủ. Nếu người đọc tiếp cận bài vở của Tôi với một tấm lòng bẩn thỉu đầy hận thù, ganh ghen, với đầu óc đầy thành kiến, nghi kỵ, không gợn chút tự do tin người, có đọc nghìn lần đi nữa thì trước tác của Tôi cũng không thành văn được. Chỉ khi nào người ấy đọc trước tác của Tôi với lòng nhân và lý trí tự do của con người, trước tác đó mới có khả năng thành văn, mới có khả năng tồn tại vượt thời gian và thời đại của Tôi. Và đây là điều kiện cuối cùng, cơ bản nhất : trước tác của Tôi phải có khả năng khơi lòng nhân và lý trí tự do nơi người đọc, như thế nó mới có khả năng tìm được người đọc xứng đáng và trở thành văn chương. Vì vậy, khi Tôi đọc văn của người khác, điều đầu tiên Tôi cố gắng làm là quét sạch kiến thức của Tôi để có thể đón nhận một con người khác Tôi, trong tư thế của một con người tự do, bình đẳng và trìu mến. Đó, với Tôi, là thái độ ăn mày văn chương. Và cũng chỉ là thái độ văn chương thôi. Còn phải viết sao cho hình thức với nội dung quyện lại thành một, biến thành văn phong trung thực của một con người, biến thành nghệ thuật” (hết trích). Con người uyên bác, hài hước mà cũng đầy lặng lẽ, khiêm nhường Phan Huy Đường vừa từ biệt cõi đời này. Khiêm nhường đến nỗi cuộc chia xa của ông cả tôi và nhiều người cũng biết thật muộn màng... Theo như tin buồn trên diendan.org, ông đã đột ngột từ trần ngày 4 tháng 10 năm 2019 tại bệnh viện Georges Pompidou, Paris, thọ 74 tuổi. Lễ hoả táng đã cử hành ngày 11.10.2019 trong vòng tay gia đình… Một mùa mất mát lớn của văn chương chữ nghĩa, từ Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Trần Tuấn Kiệt, nay đến Phan Huy Đường. Xin vĩnh biệt Người đã cho chúng ta “Ăn mày văn chương” suốt cõi! Trần Tuấn Mời các bạn đón đọc Lang Thang Chữ Nghĩa của tác giả Phan Huy Đường.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đối Thoại Với Án Tử Hình
 Lời nhà xuất bản Trong thời gian qua, việc thi hành các bản án tử hình đối với trùm ma túy Vũ Xuân Trường, tên cướp Phước tám ngón của các cơ quan pháp luật đã tranh thủ được sự đồng tình, nhất trí của đông đảo nhân dân. Tính nghiêm minh của luật pháp quốc gia đã được xác lập; công lý ở đời đã được khẳng định. Xa hơn, việc thi hành các bản án tử hình này còn có tác dụng răn đe, giáo dục các loại tội phạm khác. Việc thi hành các bản án tử hình luôn luôn đặt ra cho người làm công tác pháp luật sự cẩn trọng, sự dè dặt. Một khi đã thi hành xong bản án tử hình, nếu phát hiện có sự sai lầm và dù có thiện chí thú nhận sai lầm, thành tâm cải sửa thì cũng không còn có thể cải sửa được nữa. Cũng vậy, việc xác minh làm rõ mọi chi tiết phức tạp trong một trọng án; việc tôn trọng các chứng cứ trong quá trình lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm pháp y, thực nghiệm hiện trường; việc nghiên cứu kỹ lưỡng và toàn diện hồ sơ vụ án để đưa ra những bằng chứng buộc tội; việc đắn đo, cân nhắc trước khi tuyên phạt mức án tử hình là nhiệm vụ cao nhất mà các khâu trong quy trình tố tụng phải triệt để tuân thủ. Tiếc thay trong thực tế, một số hoạt động nghiệp vụ tố tụng đã bị giản lược dẫn đến một số trường hợp tuyên án tử hình chưa chuẩn xác, khiến các cơ quan tố tụng mất nhiều công sức để cải sửa, tạo ra mối hoài nghi trong một bộ phận nhân dân về tính chính xác, tính nghiêm minh của pháp luật. Nhằm góp thêm một tiếng nói xây dựng với cơ quan tố tụng, Nhà xuất bản Trẻ cho in tập Đối thoại với án tử hình của nhà báo Vũ Đức Sao Biển. Cơ sở của vấn đêà ở đây chính là lòng quý trọng, thương yêu phẩm giá và sinh mạng con người được nhìn qua đôi mắt mẫn cảm của một nhà báo, một nhạc sĩ. Toàn bộ nội dung anh trình bày lấy từ thực tế tuyên án tử hình ở nhiều địa phương khác nhau, đã được anh điêàu tra, tìm hiểu, đúc kết, can thiệp... Về mặt quan điểm, Đối thoại với án tử hình thể hiện rõ rệt tính chất đối thoại. Đối thoại là con đường đưa đến sự đồng cảm, sự nhất trí. Thảng hoặc, có đôi chỗ văn chương, ngôn ngữ chưa mềm mại lắm thì đó cũng chính là tính chất của đối thoại. Ý hướng cao nhất mà tác giả vươn tới là phải hoàn toàn nghiêm túc, công minh khi tuyên phạt một bản án tử hình. Nhà xuất bản Trẻ xin gởi đến bạn đọc tập sách nhỏ này, góp thêm một tiếng nói trong việc thực thi pháp luật. Đối thoại với án tử hình vừa mang dấu ấn của một bút ký văn học, vừa mang dấu ấn của một phóng sự điều tra. Hy vọng tập sách nhỏ này đón nhận được sự đồng cảm của đông đảo bạn đọc. Nhà xuất bản Trẻ ***  Lời tác giả Tôi đang sống trong một thời điểm thiêng liêng nhất: giờ giao thừa của năm Kỷ Mão chuyển qua năm Canh Thìn. Giờ phút này, nhiều người đang an vui, đoàn tụ, quây quần với gia đình. Tôi chọn một vùng núi non im ắng hoang dã, tĩnh tâm suy nghĩ và trong thời điểm thiêng liêng này, tôi cũng đang nói về một vấn đề hết sức thiêng liêng: mạng sống của con người qua các án tử hình. Chế độ chúng ta vốn quý trọng con người, quý trọng phẩm giá làm người. Tuy nhiên, trong một giai đoạn mà sự phát triển của xã hội đang diễn ra quá nhanh, những loại tội phạm nghiêm trọng có chiều hướng gia tăng, lương tri nơi một số cá nhân gây án hầu như không còn nữa thì Bộ luật Hình sự cho phép cơ quan tố tụng đề nghị và tuyên mức án cao nhất: tử hình. Khi quyết định xóa đi cuộc sống của một trọng phạm, từ Cơ quan Cảnh sát điều tra ra kết luận điều tra, từ Viện Kiểm sát ra cáo trạng đề nghị khung hình phạt và mức án đến các vị trong Hội đồng xét xử, các cấp Tòa, Đội thi hành án... ai ai cũng cảm thấy trái tim đau đớn. Ngay cả những người không biết trọng phạm ấy là ai, đọc trên báo thấy đưa tin đã thi hành án tử hình, lòng cũng ngậm ngùi xót thương cho một số phận. Nhiều người đã nằm xuống bởi sự trừng phạt nghiêm khắc của pháp luật quốc gia vì những tội ác của họ gây ra là không thể dung thứ được. Thế nhưng, vấn đề là con đường đi đến án tử hình. Ở nơi nầy nơi khác, do định kiến ban đầu, do non yếu nghiệp vụ, do cả tin vào hồ sơ, do chạy theo thành tích, đã có những vụ án oan và đã tuyên những bản án tử hình vội vã. Tôi có một số trường hợp có thể chứng minh rằng thực tế đáng sợ trên đây là có thật. Và chính vì vậy, bằng tất cả lương tâm của người cầm bút có trách nhiệm trước cuộc sống, trước số phận con người, tôi viết tập sách Đối thoại với án tử hình. Cũng như những tập sách khác của tôi, quan điểm của tập sách nầy là đối thoại. Bản chất đối thoại là thẳng thắn, cởi mở, biết lắng nghe và biết khắc phục, sửa chữa. Nếu có những sự kiện thật, con người thật được đưa ra thì đơn thuần đó chỉ là những thí dụ để chứng minh rằng tôi không nói sai sự thật, không hư cấu những tình huống, không nói thêm ngoài những điều mắt thấy, tai nghe sau khi đã được tham khảo hồ sơ. Toàn bộ nội dung tập sách dừng lại ở chỗ đặt vấn đề để chúng ta cùng suy ngẫm, cùng tìm ra giải pháp tối ưu giải quyết một phần hay toàn thể vấn đề. Đạo Khổng thường ca ngợi cái “xích tử chi tâm “(trái tim trong sáng của đứa hài nhi còn đỏ hon hỏn). Thánh kinh của đạo Thiên Chúa cũng có câu: “Hãy để con trẻ đến cùng ta”. Từ xưa, nhân loại đã biết yêu sự hồn nhiên bởi chính sự hồn nhiên mới là bản chất của trái tim con người. Nhân loại cũng đã quá khổ sở với những lý luận dù lý luận được xem là bằng chứng của sự minh triết vẫn làm cho con người dễ xa nhau. Tôi viết tập sách nầy với tất cả sự hồn nhiên của một nhà báo viết văn, biết đau với nỗi đau của số phận con người. Ở một chừng mực nào đó, tôi là một “con trẻ”, một “xích tử” đang xin được đối thoại với các cơ quan tố tụng và bạn đọc bằng thứ ngôn ngữ hồn nhiên nhất. Có thể ở chỗ nầy chỗ kia, giọng điệu chưa mềm mại lắm nhưng tính chân tình thì rất thật. Sai lầm trong công tác tố tụng là một điều mà pháp luật hoàn toàn không cho phép, dù tỉ lệ có nhỏ đến cỡ một phần ngàn. Sai lầm trong những bản án nhẹ đã đáng sợ huống chi sai lầm trong những bản án tử hình. Tuy nhiên, sự sai lầm trong bản án tử hình cũng chưa đáng sợ. Điều đáng sợ là não trạng không mạnh dạn thú nhận sai lầm, biết sai mà vẫn tiến tới, vẫn làm nhân danh thành tích, vị trí, vai vế. Và vì là công dân có ý thức tôn trọng pháp luật, chúng tôi có quyền đề nghị các cơ quan luật pháp truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người làm án oan cho các công dân vô tội theo đúng quy định của Bộ luật Hình sự. Tôi xin cám ơn Nhà xuất bản Trẻ cho phép in quyển sách nầy, xin cám ơn sự góp ý, phê bình,chỉ giáo thêm của các bạn đọc. Đơn giản, quyển sách nầy chỉ góp thêm một tấc lòng gởi lại cho cuộc sống. Núi Takou, Bình Thuận, ngày mồng Một năm Canh Thìn Vũ Đức Sao Biển ***  Vũ Đức Sao Biển tên thật là Vũ Hợi, sinh ngày 12 tháng 2 năm 1948, tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Nguyên quán ông tại Duy Vinh, Duy Xuyên, Quảng Nam. Năm 18 tuổi, ông vào Sài Gòn học Đại học Sư phạm (ban Việt - Hán) và Đại học Văn khoa (ban Triết học phương Đông). Tháng 10 năm 1970, ông tốt nghiệp rồi xuống Bạc Liêu dạy học các môn Văn và Triết học bậc trung học tại Trường Công lập Bạc Liêu cho đến năm 1975. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông trở về Thành phố Hồ Chí Minh dạy học, có một thời gian làm tại phòng Giáo dục huyện Nhà Bè; Để rồi bắt đầu cộng tác với các báo: Tuổi Trẻ Cười, Thanh Niên, Kiến Thức Ngày Nay, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh,... Mười năm sau đó, ông trở lại Bạc Liêu và sáng tác loạt ca khúc về Bạc Liêu và miền đất phương Nam. Những bài như Điệu buồn Phương Nam, Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang, Đau xót lý chim quyên, Trở lại Bạc Liêu, Trên sóng Cửu Long... là những tác phẩm được rất nhiều người yêu thích. Giai đoạn sau thập niên 2010, một số đài truyền hình trung ương và địa phương mời ông thực hiện phim tư liệu về tác giả và tác phẩm nhạc vàng. Ngoài sáng tác nhạc, ông còn viết báo, tiểu thuyết, tiểu phẩm trào phúng và đặc biệt là phiếm luận về truyện kiếm hiệp Kim Dung (Kim Dung giữa đời tôi). Ông là thành viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hội Nhà báo Việt Nam. Năm 1999, theo gợi ý của Bí thư tỉnh ủy Bạc Liêu Nguyễn Văn Út, ông tiến hành phục dựng lại bài Dạ Cổ Hoài Lang đem cho nhạc sĩ Quốc Dũng hòa âm và ca sĩ Hương Lan, Hạnh Nguyên trình diễn lần đầu tiên trên sóng VTV1. Năm 2013, ông lại cùng ba nhà báo Anh Đức, Liêu Phúc Minh, Tố Loan dịch tiếp bản Dạ Cổ Hoài Lang ra ba thứ tiếng Anh, Pháp và Quan thoại. Năm 2009, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh mời ông thỉnh giảng hai môn “Tạp văn và tiểu phẩm” và "Tường thuật chuyên ngành văn hóa - nghệ thuật" cho Khoa Báo chí - Truyền thông của trường này. Hiện ông đang điều trị ung thư vòm họng tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Tác phẩm Thể loại Năm Nhà xuất bản Ghi chú Bản báo cáo biết bay Tiểu phẩm trào phúng 1983 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Hoa hồng trên cát Tiểu thuyết 1989 NXB Đồng Nai   Vạn tuế đàn ông Tiểu phẩm trào phúng 1989 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Ảo ảnh sương khói Tiểu thuyết 1991 NXB Long An   Kiếm hoàng hoa Tiểu thuyết 1995 NXB Long An   Kiều Phong - Khát vọng của tự do Biên khảo 1996 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Thượng Vĩnh biệt thốt nốt Tiểu phẩm trào phúng 1996 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân Biên khảo 1997 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Trung Ngôn ngữ từ những phiến cẩm thạch Bút ký 1998 NXB Trẻ   Thỏ thẻ cùng hoa hậu Tiểu phẩm trào phúng 1998 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Ba đời ham vui Tiểu phẩm trào phúng 1999 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Người mang số Q1 2629 Phóng sự 1999 NXB Trẻ   Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo Biên khảo 1999 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Hạ Đi tìm sự thật Phóng sự 2000 NXB Trẻ   Thanh kiếm và cây đàn Biên khảo 2000 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Kết Đối thoại với bản án tử hình Phóng sự 2001 NXB Trẻ   Tiếu ngạo giang hồ (8 tập) Dịch 2001 NXB Trẻ Dịch chung Lê Thị Anh Đào, Trần Hải Linh Nhân vật Kim Dung nhìn qua lăng kính pháp luật Biên khảo 2002 NXB Trẻ   35 năm chuyện trò cùng chữ nghĩa Bút ký 2003 NXB Trẻ   Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung Biên khảo 2003 NXB Trẻ   Úi chao, 60 năm Hồi ký 2007 NXB Trẻ   Chuyện dây cà kéo ra dây bí Tiểu phẩm trào phúng 2010 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Hai tuồng hát bội Truyện ngắn 2010 NXB Trẻ   Quảng Nam hay cãi Tạp văn 2010 NXB Trẻ   Án lạ phương Nam Bút ký 2011 NXB Trẻ   Dài & To Tiểu luận 2011 NXB Trẻ   Hướng đến Chân Thiện Mỹ Triết lý dành cho tuổi thanh niên Kỹ năng sống 2011 NXB Trẻ   Phía sau mặt báo Bút ký 2011 NXB Trẻ   Thâm sơn kỳ cục án Truyện ngắn 2011 NXB Trẻ   Sông lạc đường về Tiểu thuyết 2012 NXB Trẻ   Xuân dược Tiểu phẩm trào phúng 2013 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Đối thoại với tuổi đôi mươi Tản văn 2016 NXB Trẻ   Ơi, cái tuổi trăng tròn Kỹ năng sống 2018 NXB Văn hóa - Văn nghệ   Lắng nghe giai điệu Bolero Biên khảo 2019 NXB Trẻ   Phượng ca Hồi ký 2019 NXB Văn hóa - Văn nghệ   Mời các bạn đón đọc Đối Thoại Với Án Tử Hình của tác giả Vũ Đức Sao Biển.
Cuốn Sách Và Tôi
Quyển “Thú chơi sách” của nhà văn – học giả Vương Hồng Sển được in năm 1960 và cái tên sách đó đã trở nên quen thuộc với nhiều người, nhiều thế hệ. Ngày hôm nay, tức đúng 50 năm sau lần in đầu của “Thú chơi sách” - khi mà cụ Vương cũng đã ra người thiên cổ từ lâu - một di cảo đặc biệt của ông được xem như “Thú chơi sách, quyển 2”, với nhan đề Cuốn sách và tôi được xuất bản. Có lẽ điều này cũng gây nên một cảm xúc đặc biệt đối những độc giả mong đợi nó từ lâu. Còn với những bạn đọc trẻ, cuốn sách này chắc hẳn là một “món ăn tinh thần” mới lạ, bổ ích.       Cụ Vương Hồng Sển viết Cuốn sách và tôi trong năm 1984, như là một sự “tỏ bày cảm tình riêng với sách” - trút hết nỗi lòng, kinh nghiệm viết và đọc sách; một chút tiếc nuối cho những cuốn sách có số phận long đong, cũng như cho bản thân ông không còn nhiều thời giờ để lang thang trong thế giới bao la khôn cùng của sách... Những ghi chép của ông về thú chơi sách bao giờ cũng gắn với một kỷ niệm nào đó trong quá khứ, chuyện riêng tư lẫn câu chuyện chung của thời cuộc (như chuyện “thu gom sách” vốn gây tranh luận một thời), dẫu đã xa xôi nhưng khi đọc lại vẫn khiến chúng ta bâng khuâng không ít... Với cụ Vương Hồng Sển, chơi sách cũng như những thú chơi khác, vẫn thường có những lúc thăng trầm, và người chơi tùy cảnh tùy thời phải biết cách giữ cho lửa say mê không tắt, và với một người chơi có lòng đam mê thực thụ thì cho dù hoàn cảnh nào họ vẫn tìm thấy được lạc thú. Cũng vì cái tình yêu sâu đậm đó, mà qua thời gian, thú chơi sách của cụ Vương đã được nâng lên thành một nghệ thuật, với tất cả sự sâu thẳm của nó. Trong nghệ thuật chơi sách của ông, có thể thấy được sự hòa trộn của tính tài tử (chơi sách) và tính bác học (đọc sách). Ông thường đánh máy những đoạn văn, những sử liệu từ nhiều loại sách đông tây kim cổ, lưu lại phòng khi sách bị mất hay thất lạc; lúc rỗi rảnh, ông lại dịch ra tiếng Việt, vừa thỏa cái thú văn chương, vừa để nhẩn nha thưởng thức...; nhờ vậy mà chúng ta lại có cơ hội đọc được những bài tuyệt hay chứng tỏ trong lĩnh vực dịch thuật ông cũng là một bậc thầy. Với Cuốn sách và tôi, cụ Vương Hồng Sển không chỉ dâng hiến sự hiểu biết của mình về nhiều mặt của đời sống, mà còn mang theo những hương xưa độc đáo, tràn trề xúc cảm qua từng trang viết - văn chương của ông giản dị, tự nhiên mà lôi cuốn vô cùng, - một lối hành văn duyên dáng lạ lùng và luôn luôn gây bất ngờ. Trước khi xuất bản tác phẩm này, chúng tôi đã làm việc rất cẩn trọng nhằm giữ lại hầu như nguyên văn di cảo của cụ Vương, từ văn phong rất riêng biệt cho tới những từ ngữ xưa mà ngày nay ít người dùng đến, thiết nghĩ đó cũng là một cách để bảo tồn những vốn quý (phong vị cũ) của tiếng nói Việt Nam. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập di cảo Cuốn sách và tôi với mong ước chia sẻ cùng bạn đọc một phần nhỏ di sản tinh thần mà cụ Vương Hồng Sển để lại. Tháng 3 năm 2010 *** Vương Hồng Sển (1902 - 1996), tên thật là Vương Hồng Thạnh hay Vương Hồng Thịnh (khi làm giấy khai sinh bị viết nhầm là Sển, vì đọc theo cách phát âm tiếng Triều Châu của người Quảng Đông, Trung Quốc). Ông sinh tại Sóc Trăng, mang dòng máu Việt, Hoa, Khmer, là một nhà văn, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng; được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Thời học sinh, ông học tại trường Collège Chasseloup Laubat (nay là trường Phổ thông trung học Lê Quý Đôn). Sau khi đậu bằng Brevet Elémentaire, ông làm công chức ngạch thư ký và phục vụ nhiều nơi từ năm 1923 đến năm 1943, trong đó có dinh Thống đốc Nam Kỳ (1939-1943). Từ năm 1948, ông làm Quyền quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn cho đến khi về hưu vào năm 1964. Thuở nhỏ ông thích tìm hiểu về đồ cổ. Sau khi về hưu, ông chuyên sưu tập các loại sứ gốm cổ, khảo cổ về hát bội, cải lương và cộng tác với đài Phát thanh Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn khảo cứu về các trò chơi cổ truyền: đá dế, chọi gà, chọi cá, chơi chim, trồng kiểng, nghệ thuật chơi cổ ngoạn, nghiên cứu về chuyện tiếu lâm. Những ai muốn nghiên cứu về lịch sử miền Nam thế kỷ XX chắc hẳn sẽ tìm thấy trong các tác phẩm của ông những nguồn tài liệu bổ ích. Một số tác phẩm có giá trị của ông có thể kể đến: Thú chơi sách (1960); Sài Gòn năm xưa (tập I, II 1960, III 1992); Hồi ký 50 năm mê hát (1968); Phong lưu cũ mới (1970); Thú xem chuyện Tàu (1970);  Thú chơi cổ ngoạn (1971); Chuyện cười cố nhân (1971); Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa (1972); Cảnh Ðức trấn đào lục (1972);... (1993); Tạp bút năm Quý Dậu (1993); Tự vị tiếng Việt miền Nam (1994); Nửa đời còn lại (1995); ... Mời các bạn đón đọc Cuốn Sách Và Tôi của tác giả Vương Hồng Sển.
Tạp Bút Năm Quí Dậu 1993
Ông Vương Hồng Sển sống từ đầu thế kỷ 20 là người rất hiếu học, là người sinh trưởng ở SÓc Trăng mà dân số ở miền quê hầu như cô lập, tự túc tự cấp lại may mắn là gia đình tương đối khá giả, thêm học giỏi nên lần hồi học ở Sài Gòn - bấy giờ là chuyện lớn, một tỉnh có mấy người được như vậy, nhất là trường Bổn quốc Chasseloup-Laubat (nay là Lê Quí Đôn) dành cho người Pháp, Pháp tịch hoặc người Việt có thân thế. Buổi ấy, phải là giáo sư giỏi như Diệp Văn Cương, Nguyễn Văn Mai…; và học sinh có y phục riêng. Ra trường, ông S. kiếm sở làm thật nhanh, thường là làm thơ ký “có máu mặt”, làm trực tiếp với một trưởng phòng người Pháp. Ông nói tiếng Pháp dòn dã, sau nầy ở Sài Gòn ông đã hưu, ông vẫn nói thao thao bất tuyệt cho cử tọa người Pháp nghe về phong tục Á Đông và Việt Nam… Những bài ngắn trong quyển nầy quá đa dạng, khó đúc kết nhưng ta có thể tạm kết luận rằng ông là người có cá tính rất mạnh khỏe: giữ ý kiến mình tận cùng. Vì thích sưu tầm đồ cổ mà ông gọi là “cổ ngoạn”, ông theo dõi sâu sắc nhiều vấn đề chuyên môn mà giới nghiên cứu người Âu lắm khi cho là tủn mủn nhưng khá quan trọng đối với người Việt Nam. Tạp Bút Năm Quý Dậu 1993 được cụ Vương Hồng Sển viết như trăng trối, có khi chỉ là những chuyện lụn vụn, “tào lao”, “loạn xà ngầu”, nhưng với người đến sau, nó mang một giá trị to lớn, chất chứa những niềm say mê, và quyến rũ… bởi đó là những âm thanh của cuộc biến động ngoài xã hội được vọng lại, dồn nén, rồi bật ra thành lời… Là một người rất khoa học trong tổ chức công việc, cụ Vương Hồng Sển ghi chép vào sổ tay những số liệu của đời sống riêng và chung, từ chi tiết lặt vặt như giá mua một bộ đồ trà, cho đến những chuyện lớn như Nguyễn Du đi sứ năm nào và Truyện Kiều ra đời vào năm nào… Những chi tiết được xâu chuỗi tài tình khiến người đọc như bị thôi miên và thỉnh thoảng giựt mình vì những khám phá mới lạ. Ông cũng là một nghệ sĩ tài hoa và dày dạn kinh nghiệm (với cả một chút cực đoan) trong việc thể hiện cảm xúc lên trang giấy. Điều này đã làm nên một phong cách rất đặc biệt, có thể nói là “độc nhất”. Cái lối viết vừa ngang tàng, vừa say sưa, vừa mềm mại uyển chuyển, luôn hút mắt người đọc! *** Vương Hồng Sển (1902 - 1996), tên thật là Vương Hồng Thạnh hay Vương Hồng Thịnh (khi làm giấy khai sinh bị viết nhầm là Sển, vì đọc theo cách phát âm tiếng Triều Châu của người Quảng Đông, Trung Quốc). Ông sinh tại Sóc Trăng, mang dòng máu Việt, Hoa, Khmer, là một nhà văn, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng; được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Thời học sinh, ông học tại trường Collège Chasseloup Laubat (nay là trường Phổ thông trung học Lê Quý Đôn). Sau khi đậu bằng Brevet Elémentaire, ông làm công chức ngạch thư ký và phục vụ nhiều nơi từ năm 1923 đến năm 1943, trong đó có dinh Thống đốc Nam Kỳ (1939-1943). Từ năm 1948, ông làm Quyền quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn cho đến khi về hưu vào năm 1964. Thuở nhỏ ông thích tìm hiểu về đồ cổ. Sau khi về hưu, ông chuyên sưu tập các loại sứ gốm cổ, khảo cổ về hát bội, cải lương và cộng tác với đài Phát thanh Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn khảo cứu về các trò chơi cổ truyền: đá dế, chọi gà, chọi cá, chơi chim, trồng kiểng, nghệ thuật chơi cổ ngoạn, nghiên cứu về chuyện tiếu lâm. Những ai muốn nghiên cứu về lịch sử miền Nam thế kỷ XX chắc hẳn sẽ tìm thấy trong các tác phẩm của ông những nguồn tài liệu bổ ích. Một số tác phẩm có giá trị của ông có thể kể đến: Thú chơi sách (1960); Sài Gòn năm xưa (tập I, II 1960, III 1992); Hồi ký 50 năm mê hát (1968); Phong lưu cũ mới (1970); Thú xem chuyện Tàu (1970);  Thú chơi cổ ngoạn (1971); Chuyện cười cố nhân (1971); Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa (1972); Cảnh Ðức trấn đào lục (1972);... (1993); Tạp bút năm Quý Dậu (1993); Tự vị tiếng Việt miền Nam (1994); Nửa đời còn lại (1995); ... Mời các bạn đón đọc Tạp Bút Năm Quí Dậu 1993 của tác giả Vương Hồng Sển.
Dỡ Mắm
Trong cuốn sách này, Vương Hồng Sển viết về nhiều sự kiện và con người - kéo dài từ thời Pháp thuộc cho đến thời điểm 1983. Các nhân vật “có máu mặt” như các quân vương, toàn quyền, thống đốc, các kỹ nữ, ngôi sao màn bạc, các thường nhân của dĩ vãng hiện lên sống động qua hồi ức và tư liệu mà tác giả lưu giữ được. "Ngồi buồn dở mắm nhau ra Mắm ông thì thúi mắm bà không thơm Tục đã sẵn câu: "Mắm ngon chi lắm cũng có giòi". biết kinh nghiệm, chịu khó vớt giòi ra là ăn được rồi. Thuở nay, ai chết không thành giòi? Giòi là hậu kiếp của con người, sạch hay dơ đều hóa giòi một thứ. Trước sau cũng phải thành giòi thì há dám lời nào? Nhưng tập này, dặn lại, khi chết rồi mới được in hay làm gì thì làm. Vậy, mạnh dạn cứ viết. Có người nào khi đọc không bằng lòng, dẫu trách cứ, S. vẫn không nghe, vì còn ở đây đâu nữa mà nghe!" (Vương Hồng Sển) *** Vương Hồng Sển (1902 - 1996), tên thật là Vương Hồng Thạnh hay Vương Hồng Thịnh (khi làm giấy khai sinh bị viết nhầm là Sển, vì đọc theo cách phát âm tiếng Triều Châu của người Quảng Đông, Trung Quốc). Ông sinh tại Sóc Trăng, mang dòng máu Việt, Hoa, Khmer, là một nhà văn, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng; được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Thời học sinh, ông học tại trường Collège Chasseloup Laubat (nay là trường Phổ thông trung học Lê Quý Đôn). Sau khi đậu bằng Brevet Elémentaire, ông làm công chức ngạch thư ký và phục vụ nhiều nơi từ năm 1923 đến năm 1943, trong đó có dinh Thống đốc Nam Kỳ (1939-1943). Từ năm 1948, ông làm Quyền quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn cho đến khi về hưu vào năm 1964. Thuở nhỏ ông thích tìm hiểu về đồ cổ. Sau khi về hưu, ông chuyên sưu tập các loại sứ gốm cổ, khảo cổ về hát bội, cải lương và cộng tác với đài Phát thanh Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn khảo cứu về các trò chơi cổ truyền: đá dế, chọi gà, chọi cá, chơi chim, trồng kiểng, nghệ thuật chơi cổ ngoạn, nghiên cứu về chuyện tiếu lâm. Những ai muốn nghiên cứu về lịch sử miền Nam thế kỷ XX chắc hẳn sẽ tìm thấy trong các tác phẩm của ông những nguồn tài liệu bổ ích. Một số tác phẩm có giá trị của ông có thể kể đến: Thú chơi sách (1960); Sài Gòn năm xưa (tập I, II 1960, III 1992); Hồi ký 50 năm mê hát (1968); Phong lưu cũ mới (1970); Thú xem chuyện Tàu (1970);  Thú chơi cổ ngoạn (1971); Chuyện cười cố nhân (1971); Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa (1972); Cảnh Ðức trấn đào lục (1972);... (1993); Tạp bút năm Quý Dậu (1993); Tự vị tiếng Việt miền Nam (1994); Nửa đời còn lại (1995); ... Mời các bạn đón đọc Dỡ Mắm của tác giả Vương Hồng Sển.