Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiếc Cầu Trên Sông Drina - Ivo Andritch

Chiếc cầu danh tiếng xây trên sông Drina ở Vichégrad để nối xứ Bosnie với xứ Serbie, cả hai thời đó đều là những tỉnh trong đế quốc Thổ, mới là nhân vật chính trong bộ cố sự chép từ thế kỷ XVI tới năm 1914 đó. “Công trình kiến trúc quí báu, đẹp tuyệt vời” kia trong xứ hẻo lánh ấy làm cho người ta ngạc nhiên và giúp cho tác phẩm có tính cách nhất trí: Chương nào cũng chép một cố sự liên quan tới “chiếc cầu trên sông Drina” Chiếc cầu đó được xây 1571, chương 3 và 4 chép việc xây cầu, những khổ dịch, và đau khổ ghê gớm mà tên hiểm ác Abidaga, người tin cẩn của quan tể tướng, bắt dân chúng chịu âm mưu phá cầu do Radislav tổ chức bị phát giác, Radislav bị bắt giam rồi bị xử tử xóc xiên (cuộc hành trình này thật rùng rợn, bút pháp tả chân thành tàn nhẫn) Nhưng mọi thứ biến cố - hết thảy đều liên quan tới chiếc cầu trên sông Drina - nối tiếp nhau xảy ra trong những thế kỷ sau: nạn lụt, loạn lạc, bệnh dịch, và trên cầu đặt lính canh gác, kiểm tra mọi người qua cầu, vụ tự tử của thiếu nữ diễm lệ Fata, để tránh khỏi một cuộc ép duyên… Bố cố sự dài này xen lẫn nhiều truyện tình cảm hoặc khôi hài, hấp dẫn từ đầu tới cuối. Như trong tập Cố sự Travnik, biến cố lịch sử ghép vào những sự biến cố gia đình. Tác giả là một học giả mà cũng là một nghệ sĩ, mô tả tâm lý rất dài. *** Ivo Andrić là nhà văn Nam Tư đoạt giải Nobel Văn học năm 1961. Ivo Andrić sinh ở làng Dolac, gần Travnik, Bosna và Hercegovina, khi đó thuộc Đế chế Áo-Hung. Tên là Ivan nhưng mọi người thường gọi là Ivo. Bố mất năm Ivo lên 2, mẹ phải đưa con đến ở nhờ một bà dì. Thời trẻ Ivo Andrić sống ở Bosnia nên ông có điều kiện tiếp xúc với nhiều tầng lớp đại chúng của nhiều sắc tộc, nhiều tôn giáo, nhiều nền văn hóa khác nhau vùng Balkan. Ông học triết học tại các đại học ở Zagreb, Viên và Kraków. Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra khiến ông phải nghỉ học; sau đó bị bỏ tù do hành động chống Đế quốc Áo. Năm 1923, Ivo Andrić nhận học vị tiến sĩ tại trường Đại học Graz, làm việc tại Bộ ngoại giao Nam Tư. Chức vụ cuối cùng mà ông nắm giữ là Tham tán tại Đại sứ quán Nam Tư ở Berlin. Khi Đức xâm lược Nam Tư năm 1939, Ivo Andrić trở lại Beograd cho tới hết Chiến tranh thế giới thứ hai, sau đó tiếp tục sống ở thủ đô Nam Tư. Ivo Andrić bắt đầu sự nghiệp văn chương với vai trò là nhà thơ: năm 1918 ra đời tập thơ Ex ponto (Từ biển), và hai năm sau là tập Немири Lo lắng. Sau đó, ông tập trung viết truyện ngắn. Cuốn đầu tiên là Пут Алије Ђерзелеза (Chuyến đi của Alija Djerzelez), xuất bản năm 1920, được coi là một trong những tác phẩm nổi trội trong cuộc đời sáng tác của Ivo Andrić. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, ông gần như bị quản thúc tại nhà; không thể tham gia cuộc kháng chiến chống phát xít, ông tập trung sáng tác. Năm 1941 - 1945 ông viết bộ sách có tên gọi chung "Bộ ba Bosna" với ba tiểu thuyết trở thành kiệt tác, На Дрини ћуприја (Nhịp cầu trên sông Drina), Травничка хроника (Sử biên niên Travnicka) và Госпођица (Tiểu thư); trong đó nổi tiếng nhất là Nhịp cầu trên sông Drina, kể về cuộc chiến giữa những người Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo trong lịch sử mấy trăm năm của Bosna. Ivo Andrić đạt tới đỉnh cao danh tiếng sau chiến tranh và trở thành một trong những nhà văn hàng đầu của Liên bang Nam Tư (mà Bosna là một trong sáu thành viên), vào Đảng Cộng sản và giữ chức Chủ tịch Hội Nhà văn Nam Tư. Năm 1948, ông giới thiệu cuốn Nove pripovetke (Những câu chuyện mới) viết về vấn đề con người xã hội lúc bấy giờ, về tâm lý của con người trong chiến tranh, về thời kì hậu chiến. Năm 1960, ông cho xuất bản tuyển tập truyện ngắn Lica (Những gương mặt). Ivo Andrić cũng viết một số khảo luận, trong đó nổi bật là Zapisi o Goji (Những ghi chép về Goya). Năm 1961 ông được nhận giải Nobel vì tài năng nghệ thuật sử thi "cho phép đặt ra những vấn đề và những số phận con người gắn với lịch sử đất nước một cách đầy đủ nhất". Ông mất năm 1975 ở Beograd. Tác phẩm: Ex ponto (Từ biển, 1918), tập thơ Немири (Lo lắng, 1919), tập thơ Пут Алије Ђерзелеза (Chuyến đi của Alija Djerzelez, 1920), tiểu thuyết Pripovetke (Truyện ngắn, 3 tập, 1924, 1931, 1936), truyện ngắn На Дрини ћуприја (Nhịp cầu trên sông Drina, 1945), tiểu thuyết Травничка хроника (Sử biên niên Travnicka, 1945), tiểu thuyết Госпођица (Tiểu thư, 1945), tiểu thuyết Nove pripovetke (Những câu chuyện mới, 1948), tập truyện Проклета авлија (Khu vườn bị nguyền rủa, 1954), truyện vừa Lica (Những gương mặt, 1960), tuyển tập truyện Zapisi o Goji (Những ghi chép về Goya, 1961), tiểu luận Омерпаша Латас (Omer-Pasha Latas, in sau khi mất vào năm 1977) *** Bối cảnh của truyện này là xứ Bosnie – Herzégovine, nhưng trong vài chương xứ Serbie cũng thường được nhắc tới; mà những xứ đó, đa số độc giả chưa được biết, nên chúng tôi giới thiệu ít hàng dưới dây để độc giả dễ hiểu truyện. Chúng ta thường nghe nói đến Nam Tư Lạp Phu (tiếng Pháp là Yougoslavie có nghĩa là xứ của dân tộc Slave phương Nam, mà Slave trỏ một giống người ở Trung Âu, nhất là Đông âu như dân tộc Ukraine, Serbie, Croatie, Nga, Bảo Gia Lợi …) và Thống chế Ti to, vị anh hùng Nam tư theo chế độ cộng sản. Ông có tinh thần quốc gia mạnh mẽ, ngày càng xích gần lại với Tây Âu. Bosnie – Herzégovine và Serbie nay là hai trong sáu tiểu bang của Liên bang Cộng hòa Nhân dân Nam Tư, bốn tiểu bang kia là Croatie, Slovénie, Monténégro, Dalmatie. Liên bang đớ nằm trên bờ vịnh Adriatique, phía Tây ngó qua Ý, phía Đông Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, phía Bắc giáp Áo, phía Nam giáp Hy Lạp; dân số năm 1954 khoảng 17 triệu, kinh đô là Belgrade, trên tiểu bang Serbie. Bosnie – Herzégovine và Serbie là hai tiểu bang giáp nhau, rộng nhất, dân số mỗi tiểu bang năm 1954 khoảng bốn triệu. Cả hai đều nhiều núi, từ thế kỷ XIX trở về trước nguồn lợi canh là canh nông và mục súc. Kinh đô của Bosnie – Herzégovine là Sarajevo, của Serbie là Belglade. Dân hai xứ đều là giống Slave, hiện nay khoảng một phần ba theo Hồi giáo, hai phần ba theo Ki tô giáo. Lịch sử của họ rất gian truân, có lẽ nhờ vậy mà họ anh dũng và có tinh thần quốc gia mạnh. Mới đầu họ lệ thuộc La Mã, qua thế kỷ VII mới thành lập những tiểu quốc gần như độc lập: Bọsnie – Herzégovine, Serbie. Họ phải chống với những dân tộc ở chung quanh: Hi Lạp, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi. Thế kỷ IX họ theo Ki tô giáo. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Cầu Trên Sông Drina của tác giả Ivo Andritch.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vĩnh Biệt Mùa Hè - Nguyễn Đông Thức
Bộ tứ 4H (Hân, Hằng, Hoa, Hạ) của lớp 12A đã “làm mưa làm gió” không chỉ trên thị trường sách mà cả trong điện ảnh và âm nhạc trên dưới 20 năm. Ca khúc Vĩnh biệt mùa hè của nhạc sĩ Thanh Tùng viết năm 1992 một thời là ca khúc phổ biến của giới học sinh, sinh viên, nhất là các bạn năm cuối cấp với những ca từ thiết tha đầy nỗi nhớ: “Mùa hè bâng quơ, Bâng quơ nỗi nhớ, Những chiếc lá non vươn trên cành cây khô… Mùa hè đi qua rồi, Tình yêu cũng qua rồi…” Không chỉ có vậy, tác phẩm đã được hãng phim Giải phóng dựng thành phim nhựa năm 1992 và sau đó đạo diễn Bùi Thạc Chuyên chuyển thể thành phim truyền hình dài 4 tập 12A và 4H. Câu chuyện về 4 cô học trò Hằng, Hân, Hoa và Hạ. Hằng xuất thân là con nhà giàu, xinh đẹp, thông minh, học giỏi. Cứ ngỡ rằng cuộc sống sẽ trải thảm dưới chân cô. Thế nhưng việc người mẹ bỏ nhà đi theo tiếng gọi của tình yêu đã đẩy Hằng vào nỗi cô đơn đến tột độ. Và cô ngã vào vòng tay của thầy Minh – một người đàn ông đầy thủ đoạn. Để rồi khi cha cô đối mặt với vòng tù tội do có liên quan đến vụ án tiêu cực thì Hằng nhận ra mình chẳng còn gì: không mẹ, không cha, và người tình cũng cao chạy xa bay. Và nếu cô không may mắn gặp được Đoàn Hùng – người thanh niên xung phong năm xưa thì chưa biết cô sẽ trôi về đâu. Hạ là con gái của gia đình có cha mẹ làm bác sĩ. Cô học trò giỏi văn, bí thư chi đoàn lớp có một mối tình đẹp đẽ và thơ mộng với Long – con trai một sĩ quan chế độ cũ. Vì sự không “môn đăng hộ đối” này mà mẹ Hạ đã quyết liệt ngăn cản. Mọi thứ trong Hạ dường như vụn vỡ khi cô phát hiện ra thủ đoạn mẹ mình đã dùng để chia rẽ hai người. Hân giàu tình cảm, Hoa hồn nhiên. Chính vì vậy mà có lẽ cuộc đời đã dành cho hai cô gái này những ưu ái hơn. Hân tiếp tục học vào đại học, còn Hoa được mẹ giao lại cho gian hàng ở ngoài chợ. Bên cạnh 4 cô gái là Thiện chính trực, dũng cảm bảo vệ lẽ phải, Long giàu nghị lực. Đối lập là Ngôn – một học sinh cá biệt, du côn và kết thúc đời học sinh của mình bằng những nằm tù dài đăng đẳng. Và thầy Minh – một kẻ thủ đoạn. Câu chuyện dẫn dắt người đọc đi qua năm tháng học trò, có những giây phút hồn nhiên đùa nghịch, và cũng có những nỗi buồn đau của đời thường. Và kết thúc với chút buồn man mác. “Hân bước vào sân trường. Khoảng sân giờ đây bỗng rộng mênh mông, trống vắng đến lạnh lùng, đầy những lá rụng và hoa tàn.Mùa hè đang đi qua. Cái mùa hè cuối cùng của đời học sinh trong một năm học đầy biến động….Lần đầu tiên trong cuộc đời, Hân bắt đầu ý thức được sự tạm bợ và phù du của kiếp người. Cô cảm thấy buồn man mác. Tại sao người lớn cứ sống như vậy, khác hẳn những điều mà người trẻ được dạy dỗ, để cuối cùng không còn ai biết tin vào ai nữa. Mùa hè đã vĩnh viễn đi qua” *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook ...   Giải thưởng Giải A cuộc thi sáng tác do thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh với tác phẩm Một bông hồng cho cô bộ đội. Giải nhì cuộc thi sáng tác do thành đoàn Hồ Chí Minh cho tác phẩm Truyện rất khó viết. Giải ba cuộc thi sáng tác do Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh cho tác phẩm Mưa khuya. Giải nhì cuộc thi sáng tác do báo Sài Gòn giải phóng cho tác phẩm Hạnh phúc. Mời các bạn đón đọc Vĩnh Biệt Mùa Hè của tác giả Nguyễn Đông Thức.
Trang Trại Hoa Hồng - Đỗ Kim Cuông
C huyến hàng sang Singapore đã xuất xong từ ngày hôm qua. Tôi còn nấn ná chơi với Vân, nhỏ bạn cùng học từ thời đại học. Nó rủ rê: “- Hai đứa mình về miền Tây chơi thăm vợ chồng Cư - Thơm. Nó cứ nhắc mi hoài”. Không một giây lưỡng lự, tôi ừ liền. Vân giao cửa hàng cho chồng, giao con cho chị giúp việc. Hai đứa leo lên chiếc xe Camry đời mới hướng ra đường cao tốc về miền Tây. Tôi không chút âu lo. Còn những hơn hai tháng nữa mới đến ngày đại giỗ của nhà tôi. Mọi việc chuẩn bị cho ngày trọng đại này tôi đã bàn bạc với chị Thoa cách nay cả tháng. Con lộ mới mở về đến ngã ba Trung Lương, đường rộng, sáu làn xe hai chiều, đi thật mát ga. Xe mới. Cô bạn tôi lại là tay lái bạo, chỉ hơn một giờ cả người và xe đã chìm đắm trong cái màu xanh miên man của dừa, của những vườn cây trái bên bờ sông Tiền, sông Hậu. Thơm thoáng nhìn thấy tôi và Vân đã kêu ré lên: “- Chu cha! Mắt tao có nhìn nhầm không đấy? Hai đứa bay sao lại xuất hiện ở xứ này? Đang định tính chuyện chi ở đây?”. Tôi cười cười. Vân đáp tỉnh queo: “- Tụi tao nhớ mày xuống chơi. Mai về. Có xin nghỉ được lấy một ngày tiếp tụi tao không?”. Thơm nói không đắn đo: “- Giám đốc là tao. Nhân viên văn phòng cũng là tao. Có lúc còn kiêm cả chân bảo vệ. Lo gì? Tiếp tụi bay còn khoái hơn là ngồi với mấy ổng trên thành phố xuống. Mấy cha chưa tan việc đã lo mời đi nhậu. Mệt thấy bà… Hai đứa chờ tao vài phút, tao dặn dò văn phòng. Ta đi uống cà phê. Để tao gọi chồng về, bắt cá đãi tụi bay trưa nay”. *** Nhà văn Đỗ Kim Cuông sinh ngày 25 tháng 4 năm 1951, quê quán phường Hồng Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông gia nhập quân đội, tham gia từ cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, tại chiến trường Trị Thiên Huế với tư cách là một người lính bộ binh, trực tiếp chiến đấu cho đến Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất. Năm 1976, Đỗ Kim Cuông được trở lại giảng đường Đại học tại Khoa Ngữ văn Viện đại học Huế. Sau khi tốt nghiệp, ông về giảng dạy tại Trường cao đẳng sư phạm Nha Trang - Khánh Hoà. Ông nguyên là Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Khánh Hoà, kiêm Tổng Biên tập tạp chí Văn Nghệ Nha Trang, đại diện tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) tại Nam Trung Bộ. Đỗ Kim Cuông đã từng giữ chức Vụ trưởng Vụ Văn hoá văn nghệ Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (2010 - 2021), sống và làm việc tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1990), Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Tác phẩm đã xuất bản: - Người đàn bà đi trong mưa (tiểu thuyết, 1987); - Một nửa đại đội (tiểu thuyết, 1989); - Hai người còn lại (tiểu thuyết, 1989); - Thung lũng tử thần (tiểu thuyết, 1990); - Miền hoang dã (tiểu thuyết, 1991); - Mảnh sân sau u ám (tiểu thuyết, 1993); - Vùng trời ảo mộng (tiểu thuyết, 1993); - Tự thú của người gác rừng (tập truyện ngắn, 1996); - Đêm ngâu (tập truyện ngắn, 1999); - Cát trắng (tiểu thuyết, 1997); - Người dị hình (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, 2000); - Thủ lĩnh vùng sông Tô (tiểu thuyết, NXB Công an Nhân dân, 2001); - Phòng tuyến Sông Bồ (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2009); - Lỗi hẹn với Sê pôn (tiểu thuyết, 2011); - Chớp biển (tập truyện ngắn, 2010); - Lời hẹn với Sê pôn (tập truyện ngắn, 2012); - Gió rừng (tập truyện ngắn, 2012); - Trang trại Hoa Hồng (tiểu thuyết, 2014).  Mời các bạn đón đọc Trang Trại Hoa Hồng của tác giả Đỗ Kim Cuông.
Người Đi Săn Và Con Sói Lửa - Nguyễn Quỳnh
Người Đi Săn Và Con Sói Lửa gồm có: NHỮNG CHUYỆN KHÔNG NGỜ TỚI CON CHÓ CON XA RỪNG CON SÓI LỬA VỚI HAI CON LỢN VÀ EM BÉ NẰM VÕNG NỖI OAN CỦA CON SÓI LỬA CON SÓI LỬA LÀM KHÁCH QUAN CHÁNH SỨ CON SÓI LỬA VỚI CON BÁO VÀNG VÀ CON KHOANG MẸ SĂN HỔ CHẠM TRÁN VỚI CON HỔ BẠC MÁ CON SÓI LỬA BỎ TRỐN MỘT LẦN ĐI SĂN BÒ RỪNG NHỮNG CUỘC GẶP GỠ GIỮA RỪNG GIÀ SỨC MẠNH CỦA BẦY ĐÀN BỊ ĐÀN SÓI BAO VÂY TRÊN ĐƯỜNG VỀ CHIẾN KHU ***  Nguyễn Quỳnh là tác giả quen thuộc với nhiều bạn đọc nhỏ tuổi qua nhiều tác phẩm như: Châu Cá Lóc, Rừng Đêm, Viên tuỳ tướng và con voi thần… mà vào những năm 80 của thế kỷ trước cứ vào lúc 6g kém 15′ thế hệ 7x chúng tôi lại mong chờ, háo hức để được đón nghe truyện của Ông trên Loa Truyền Thanh ( không phải là Đài Radio đâu nhé :raised eyebrow. Một trong những chuyện của ông đã để lại trong tôi những dấu ấn sâu sắc về một con vật tình nghĩa cho mãi đến tận bây giờ. Chả thế mà ” Người đi săn và con Sói Lửa” đã được trao giải B (không có giải A) cho truyện dài dành cho thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam. *** Khu rừng vẫn chìm ngập trong không khí ban mai. Lũ khỉ vượn sau cơn ngái ngủ giờ đã náo nức nô đùa, chuyền từ cành nọ sang cành kia. Sóc đuôi cờ, đuôi đỏ ra khỏi tổ. Công đàn đã sà xuống các bãi cỏ. Những chàng công trống đã cất những tiếng kêu cảnh giác: “T... ồ! T... ồ! T... ồ!”. Chúng đánh hơi thấy hơi người. Bỗng có một tiếng kêu kéo dài: “Cho… éc...!” tiếng con hoẵng. Ông Giáp reo lên: - Con hoẵng! Chắc con Báo Vàng đã vồ được con hoẵng! Thả chó ra anh em ơi! Theo tôi! ... Mời các bạn đón đọc Người Đi Săn Và Con Sói Lửa của tác giả Nguyễn Quỳnh.
Bên Dòng Sầu Diện - Nguyễn Đình Tú
Là câu chuyện về cuộc đời Minh Việt sinh ra ở thị trấn An Lạc – thị trấn Nét Mặt Buồn, đất Cảng. Là chàng trai được sinh ra từ cuộc gặp gỡ giữa chàng Vệ quốc quân và cô gái con nuôi bà bán cháo lòng thuộc xứ đạo An Lạc. Những uẩn khúc trong khi sinh ra không được bố thừa nhận vì sợ ảnh hưởng đến cương vị công tác đến lúc trưởng thành, đi bộ đội chống Mỹ, bị thương lạc đơn vị và được người bạn thời niên thiếu bên kia chiến tuyến của của bố cứu giúp đến những di hại về sau của bản thân và gia đình như cuộc trêu ngươi cùng số phận. Cuộc đời của Minh Việt là cuộc đời của những lỡ lầm và bất trắc, từ trẻ cho đến lúc chớm già, nó như một định mệnh bám lấy anh trong dòng xoáy của những ý thức hệ, của những hiểu lầm và những tổn thương. Nó vẫn bám lấy anh trong những ngày cuối đời trở lại quê nhà, tìm lại tuổi thơ trong ngậm ngùi, nuối tiếc. Một cuốn tiểu thuyết không chỉ để đọc cho vui, để suy ngẫm về một thời chưa xa trong tâm thức mỗi người. *** Nhà văn Nguyễn Đình Tú quê ở Kiến An, Hải Phòng, là nhà văn quân đội. Anh được biết đến nhiều qua những cuốn tiểu thuyết mang đậm thông điệp dành cho những người trẻ với những hoang hoải, lạc loài, bâng khuâng đi tìm cái tôi thời đại. Nguyễn Đình Tú học luật, từng làm “sĩ quan quân pháp” và anh đến với nghề văn chuyên nghiệp chỉ vì muốn được thoải mái dịch chuyển cả về địa lý và trí tưởng tượng. Là một nhà văn thuộc lứa tuổi 7X, trong anh vừa là một quân nhân, vừa là một nhà văn chính hiệu. * Giải thưởng văn học: Giải thưởng truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ quân đội, năm 1999. Giải thưởng văn học 5 năm Bộ Quốc phòng. Giải thưởng văn học 10 năm Bộ Công an. Giải thưởng tiểu thuyết Nxb Công an nhân dân phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam, năm 2002. * Các tác phẩm chính đã xuất bản: Bên bờ những dòng chảy (2001); Hồ sơ một tử tù (2002); Không thể nào khác được (2002); Nháp (2008); Nỗi ám ảnh khôn nguôi (2003); Nét mặt buồn (2005); Phiên bản (2009). Bên dòng Sầu Diện (2007); Chú bé đeo ba lô màu đỏ Giọt sầu đa mang ... *** K hi tôi chào đời thì cái mà tôi cảm nhận được đầu tiên là mùi cháo lòng. Buồng mẹ tôi nằm chờ đẻ nối liền với một chái bếp lợp giấy dầu. Trong bếp nồi cháo lòng sôi lục bục, bắn những tia bột dính như keo lên nắp vung mở hé. Mùi cháo lòng ngậy quá chừng! Lúc đầu tôi hớn hở hít lấy hít để. Thế rồi một cảm giác ngơn ngớn chạy dọc người tôi (tất nhiên vẫn trong tư thế nằm co) khiến tôi buồn nôn. Nhưng mà tôi không nôn được. Miệng tôi lúc ấy lòng thòng rất nhiều thứ dây dợ, dạ dày của tôi chỉ quen tiếp nhận, chưa bao giờ biết phản ứng ngược lại, vì thế tôi muốn khóc nhưng cũng không khóc được. Rồi tôi lại ngửi thấy mùi thơm thơm của thứ lục diệp đang ải dần trước sức nóng của chiếc nồi gang. Ấy là lúc bà tôi cho hành, rau răm, mùi tàu vào nồi cháo. Mùi thơm này nhanh chóng trở nên khó chịu vì mỗi lúc một ngai ngái, nồng nồng khiến tôi ngạt thở. Thế rồi một mùi tanh khủng khiếp lại ập vào mũi tôi. Ấy là lúc bà tôi đang lấy tay vét vét những vụn tiết, vụn mỡ, vụn rau bám trên thành chậu, những thứ còn sót lại sau khi dồi lòng. Cũng còn phải đến hơn một vốc tay. Nghiêng chậu, lại còn tới hơn một bát nước tiết nữa. Bà tôi úp cái chậu vào nồi tiết đang bốc khói, đập “cành cạch” lên thành nồi cho mọi thứ rơi vào khoảng mờ mịt của hơi nước. Lẳng cái chậu vào góc bếp, bà với lấy cái đũa cả to ngoáy nồi cháo theo chiều vun từ ngoài vào trong. Có vẻ như đã bằng lòng với nồi cháo cho buổi hàng của mình, bà nhặt hai mẩu rơm bện, gồng mình bê nồi cháo đặt sang một bên bếp. Bị giảm nhiệt, lập tức nồi cháo sôi nhỏ lại. Bà đi vào buồng mẹ đang nằm. - Vẫn đau hả? - Dạ... ... Mời các bạn đón đọc Bên Dòng Sầu Diện của tác giả Nguyễn Đình Tú.