Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 2

Thoạt đầu nhìn tên của cuốn sách Outlander, được để nguyên không dịch ra tiếng Việt, cứ nghĩ cuốn sách thuộc dòng sách khoa học viễn tưởng, du hành ngoài không gian gì đó. Hóa ra không phải. Cuốn sách không mới - tác phẩm của Diana Gabaldon xuất bản lần đầu năm 1991, suốt 26 năm qua luôn là một trong những bộ tiểu thuyết lãng mạn hấp dẫn nhất của thời hiện đại, được dịch ra 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bản dịch tiếng Việt mới xuất hiện năm 2017. Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn là một trong những  bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất Trong một thời buổi hễ cứ nhìn thấy nhiều chữ là nhức đầu, cuốn sách phần nào làm người ta ngại: nó dày lắm, nặng trịch, dịch chưa hết nhưng đã tới tập 4 rồi, mỗi tập đều gần 500 trang, chữ không là chữ!   Nhưng đọc rồi, nhận ra cuốn sách cũng như một vòng tròn đá thiêng bí ẩn, người đọc mở trang đầu tiên là như đã ngã vào trong cánh cửa đá ấy, bị cuốn vào một không gian hun hút, mê đắm, dữ dội, và không muốn quay về. Outlander là một thông điệp nữ quyền ở dạng quyến rũ nhất, đàn bà nhất, thực tế trần trụi nhất, và do đó, cũng đẹp đẽ khó quên nhất.  Sau chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1945, một nữ y tá người Anh đang cùng chồng hưởng lại tuần trăng mật sau thời gian vợ chồng bị chiến tranh chia cắt, tại một vùng nông thôn cao nguyên Scotland. Một buổi bình minh trên ngọn đồi có một vòng tròn đá cổ xưa, cô được chứng kiến một nghi lễ ngợi ca mặt trời của những người đàn bà trong vùng. Ngày hôm sau, cô quay lại đó, khi chạm tay vào một phiến đá, cô bất ngờ bị hút vào quá khứ, rơi thẳng xuống thế kỷ XVIII với nghèo đói, lạc hậu, bệnh tật, chiến tranh và tình yêu. Cuộc hành trình bắt đầu, giữa hai cuộc sống là khoảng cách 200 năm, cô vẫn phải sống tiếp vì không thể quay trở về thời hiện đại. Với cuộc hôn nhân đầu tiên ở thế kỷ XX, cô là người vợ mất tích một cách bí ẩn; với thế kỷ XVIII và lãnh địa của dòng Mackenzie, cô mãi mãi là một người ngoài.  Những cuộc chinh phục của nhân loại thường được tiến hành về phía tương lai, phía những vùng đất mới, cùng với nam tính mạnh mẽ, thống trị. Trong khi cuộc du hành này được thực hiện ngược chiều kim đồng hồ, một cuộc trở về quá khứ, chuyến đi bất đắc dĩ của một người đàn bà mỏng manh. Kỳ lạ thay, cuộc trở về ấy giúp người ta hiểu rõ hơn bao giờ hết lịch sử và con người, tình yêu và thù hận, từ khởi đầu thụ động của chuyến đi, người đàn bà ngoại tộc ấy - mà xét cho cùng, người đàn bà nào chẳng là “người ngoại tộc”, đã chủ động, quyết liệt trong chọn lựa của mình, tồn tại, chữa lành, yêu và sống, tranh đấu và chiến thắng. Cô gái có tên Claire, nhưng cái tên ấy không ấn tượng bằng cái tên “Sassenach”, cũng là “Outlander”, chữ được dùng để gọi một người “ngoại tộc”. Chẳng phải không có dụng ý gì khi để cho một người ngoại tộc làm người xới lật lại lịch sử gia tộc và hơn thế nữa, đi ngược chiều phả hệ để hiểu và trải nghiệm: những kẻ ngoại tộc có con mắt quan sát và bản năng tìm hiểu để thích nghi, tồn tại. Đây là hành trình mang tính biểu tượng của một người đàn bà. Đây cũng chính là ý nghĩa sâu xa của thông điệp mang màu sắc nữ quyền ở tầm bản chất: chính người ngoại tộc ấy đã kết nối những thế hệ tổ tiên với con cháu của mình, chẳng phải thế sao? Nếu không có người đàn bà ngoại tộc ấy, những người đàn ông gieo hạt giống của mình ở đâu để có những vụ mùa kế tiếp? Sassenach có cuộc hôn nhân thứ nhất, và ở cuộc đời thứ hai này, cô có một người chồng nữa. Cô yêu cả hai. Một người đàn bà có thể yêu cả hai người đàn ông, một cách nào đó chung thủy với cả hai người, không phải chọn lựa, được không? Câu trả lời của cuốn sách này là: được. Cô đã đeo trên hai bàn tay mình hai chiếc nhẫn, chiếc nhẫn vàng từ người chồng trong cuộc hôn nhân thứ nhất, và chiếc nhẫn bạc của người chồng trong cuộc hôn nhân thứ hai. Không thể loại bỏ cái nào. Hai chiếc nhẫn, một vàng một bạc, là bí ẩn của nguồn cội sức mạnh của cô. Nó nhắc rằng phải có quá khứ, quá khứ phải diễn ra theo cách của nó, thì mới có hiện tại. Hiện tại ấy được quyết định từ trong quá khứ, và cho dẫu biết trước những đau thương, mất mát, cũng không thể tùy tiện thay đổi quá khứ để mong xếp đặt một hiện tại khác.  Claire, với khát vọng ban đầu cháy bỏng là trốn thoát khỏi thế kỷ XVIII để trở về với thế kỷ XX, trở về với cuộc đời hiện đại của cô, đã dần thay đổi: cô chọn ở lại với thế kỷ XVIII, với cuộc sống thiếu tiện nghi và lạc hậu, với sự mông muội hoang dã. Cô dùng khả năng của một nữ y tá để trị thương, để giúp đỡ mọi người, giảm thiểu những thiệt hại trong cái thất bại của tương lai mà cô biết trước. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái.  Cô ở lại vì tình yêu của mình, thứ tình yêu hoang dã, bản năng, gắn chặt với cuộc tồn sinh khó nhọc. Trách nhiệm với quá khứ, với lịch sử đã được chuyển thành ý thức cá nhân. Cô góp sức lực nhỏ bé của mình để phần nào làm cho cuộc sống của những người tốt xung quanh cô tốt hơn, thanh thản nhẹ nhàng hơn. Quyết định cuối cùng của Sassenach, một lần nữa dấn thân xuyên qua vòng tròn đá, trở lại thế kỷ XX, là một quyết định không vì cô, mà vì đứa con trong bụng. Đứa trẻ đã thay đổi ý nghĩa cuộc sinh tồn của cô, thay đổi quyết định của cô. Thiên chức làm mẹ chiến thắng. Thông điệp của tính mẫu, của nguyên lý mẹ có thể nhìn thấy ở đây. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái. Câu chuyện về hổ phách lại là một ẩn dụ mang tính biểu tượng nữa: những giọt nhựa cây ứa ra trong veo, nước mắt của loài thông, qua hàng ngàn năm kết tinh thành hổ phách. Con chuồn chuồn nhỏ bé, mỏng manh đông cứng trong mảnh hổ phách ấy, không hiểu sao cứ gợi người ta nghĩ đến những thân phận đàn bà. Chuồn chuồn hổ phách và sự bất tử mong manh mà nó chọn cũng chính là nước mắt của người phụ nữ, gói giấc mơ của mình - được bay lượn tự do giữa trời, trong sự hy sinh đã gần như là định mệnh.  Cuốn sách nói với người ta rằng: hiện tại là quan trọng, nhưng quá khứ chưa bao giờ là thứ chỉ ngủ yên, chỉ là những dòng lịch sử sách vở vô hồn. Quan trọng hơn, cuộc sống hiện tại của mỗi người thực ra đã được quyết định bằng chính quá khứ của họ, dù có khi họ không hay biết. Con đường để mình hiểu và đến với những người khác quanh mình nằm ở bên trong mỗi một con người, ở tầm bản lai diện mục, là sự chia sẻ mạnh mẽ của những tình cảm nguyên thủy cổ xưa, mà đôi khi, những thứ màu sắc hiện đại của ngày hôm nay vô tình che lấp. Thế giới đang toàn cầu hóa. Lúc nào đó, cách nào đó, mỗi con người đều có thể là một người ngoại tộc. Những cánh cửa mở ra không ngừng. Thế giới thay đổi mỗi ngày, công nghệ vùn vụt phát triển, nhưng nỗi băn khoăn tìm hiểu về chính bản thân mình, hiểu được người thương yêu của mình, hiểu để chia sẻ và sống cùng nhau trong tình yêu dưới một mái nhà… luôn luôn là nỗi băn khoăn hiện hữu. Con người chưa bao giờ thôi tự nhìn vào nguồn cội của mình, bản chất của mình. Theo cách đó, Outlander không viết về quá khứ theo kiểu tiểu thuyết lịch sử. Outlander viết về quá khứ như một cuộc du hành viễn tưởng, lãng mạn, thú vị, gai góc. Con người hiện tại muốn thực sự hiểu về quá khứ cần phải dấn thân vào cuộc du hành ấy. Lịch sử nằm trong chính trải nghiệm của mỗi con người. Hoàng Mai - phunuonline.com.vn *** Linh tính Sự xôn xao do chuyến trở về bất ngờ và lời thông báo về cuộc hôn nhân của chúng tôi bị át đi gần như ngay lập tức bởi một sự kiện quan trọng hơn. Ngày hôm sau, chúng tôi ngồi ăn tối ở đại sảnh và nhận những lời chúc tụng. “Buidheachas, mo caraid”[1]. Jamie cúi đầu duyên dáng với người chúc tụng cuối cùng rồi ngồi xuống giữa tiếng vỗ tay đang dần thưa thớt. Băng ghế gỗ lung lay dưới sức nặng của anh và anh thoáng nhắm mắt. “Anh uống hơi quá chén rồi phải không?” Tôi thì thầm. Trong khi anh phải gánh trọng trách đáp lễ những lời chúc tụng, uống cạn từng cốc rượu, thì tôi chỉ phải nhấp môi lấy lệ và nở nụ cười rạng rỡ trước những lời chúc bằng tiếng Gaelic mà tôi không tài nào hiểu nổi. Anh mở mắt nhìn tôi, mỉm cười. “Ý em là anh có say không hả? Không, anh có thể uống thứ này suốt đêm.” “Anh gần như đã uống suốt đêm rồi,” tôi nói, nhìn những chai rượu và bia rỗng xếp thành hàng trên tấm ván trước mặt. “Khuya lắm rồi.” Những ngọn nến trên bàn của Colum chỉ còn ngắn ngủn, lớp sáp lỏng ánh lên màu vàng kim, ánh nến hắt lên người anh em nhà MacKenzie những cái bóng kỳ lạ và khiến da thịt họ lấp lánh khi họ ghé lại gần nhau, thì thầm trò chuyện. Trông họ giống như những cái đầu tượng được chạm khắc quanh viền chiếc lò sưởi khổng lồ, và tôi tự hỏi bao nhiêu trong số những cái đầu tượng biếm họa đó được lấy hình mẫu từ những đường nét đầy vẻ trịch thượng của những vị lãnh chúa MacKenzie trước đây - có lẽ người thợ chạm khắc phải có khiếu hài hước lắm... hoặc phải là một người vô cùng thân thiết với gia đinh họ. Jamie khẽ vươn vai, nhăn mặt, tỏ vẻ không thoải mái. “Tuy nhiên,” anh nói, “bàng quang của anh sắp nổ tung rồi. Anh sẽ quay lại ngay.” Anh chống hai tay lên mặt ghế, lanh lẹ nhảy qua nó và biến mất qua cái cửa tò vò ở đầu thấp hơn của đại sảnh. Tôi chuyển sự chú ý sang Geillis Duncan đang ngồi từ tốn nhấm nháp một cốc bia ở bên còn lại của tôi. Chồng cô ta, Arthur, ngồi ở bàn kế bên bàn Colum, phù hợp với địa vị biện lý của vùng, nhưng Geilie khăng khăng ngồi cạnh tôi với cái cớ là cô ta không muốn mệt mỏi vì phải nghe những câu chuyện của đàn ông suốt bữa tối. Arthur đang lim dim, đôi mắt thâm quầng trũng sâu vì rượu và sự mệt mỏi. Ông ta nặng nề chống tay lên cằm, khuôn mặt uể oải, chẳng buồn đoái hoài đến cuộc trò chuyện của anh em nhà MacKenzie ở bên cạnh mình. Trong khi ánh nến làm cho những đường nét sắc sảo của lãnh chúa và em trai trở nên thanh thoát hơn thì nó chỉ khiến cho Arthur Duncan trông càng béo ị và ốm yếu. “Chồng chị trông không được khỏe lắm,” tôi nhận xét. “Chứng bệnh về dạ dày của ông ấy đã tệ hơn à?” Những triệu chứng của ông ta khá khó hiểu; không giống như bị loét, cũng không phải ung thư - khi mà ông ta vẫn còn núng nính thế kia - có lẽ chỉ là viêm dạ dày kinh niên, như Geilie khẳng định. Geilie liếc qua chồng mình trước khi quay lại nhìn tôi và nhún vai. “Ồ, ông ấy vẫn khỏe,” cô ta nói. “Ít nhất cũng không tệ hơn. Còn chồng cô thì sao?” “Ơ, chuyện gì về anh ấy cơ?” Tôi thận trọng đáp. Cô ta hích mạnh cùi chỏ vào mạng sườn tôi với vẻ thân thiết, và tôi nhận ra ở đầu bàn của cô ta có khá nhiều cái chai rỗng. “Chà, cô nghĩ thế nào? Khi không mặc quần áo, trông anh ta có tuyệt như lúc có mặc quần áo không?” “Ừm...” Tôi tìm câu trả lời khi cô ta nghển cổ về phía cửa. “Vậy mà cô dám tuyên bố mình chẳng quan tâm tới anh ta chút nào! Thông minh lắm! Một nửa số con gái trong lâu đài sẽ muốn giật trụi tóc cô đấy - nếu tôi là cô, tôi sẽ cẩn thận với những gì mình ăn.” “Những gì tôi ăn ư?” Tôi hoang mang nhìn xuống cái đĩa lớn bằng gỗ hiện trống trơn ngoài một vệt mỡ và một miếng hành luộc trơ trọi. “Thuốc độc,” cô ta rít lên vẻ kịch tính bên tai tôi, phả ra mùi brandy. “Vớ vẩn,” tôi lạnh lùng nói, rụt người lại. “Sẽ chẳng có ai muốn đầu độc tôi chỉ đơn giản vì tôi... ờ, vì...” Tôi hơi lúng túng, và chợt nghĩ ra rằng có thể tôi đã uống nhiều hơn tôi tưởng. “Chà, thực sự thì, Geilie, cuộc hôn nhân này... tôi đã không lường trước. Tôi không hề muốn nó!” Tôi không nói dối. “Đó chỉ là một... sự... thu xếp cần thiết,” tôi nói, hy vọng ánh nến che giấu được khuôn mặt đỏ lựng của mình. “Ha,” cô ta nói, vẻ chế nhạo. “Chỉ cần nhìn là tôi nhận ra ngay cô gái nào có đời sống chăn gối mãn nguyện.” Cô ta liếc về phía cửa tò vò nơi Jamie đã đi qua. “Và tôi không ngốc đến nỗi nghĩ rằng những dấu vết trên cổ chồng cô là vết muỗi đốt.” Cô ta nhướng một bên lông mày màu bạc. “Nếu đây chỉ là một cuộc hôn nhân sắp đặt thì cô đã vớ được một món bở rồi đây.” Cô ta lại ghé sát tôi. “Chuyện đó có đúng không?” Cô ta thì thầm. “Chuyện về hai ngón tay cái ấy?” “Hai ngón tay cái? Geilie, nhân danh Chúa, chị đang nói linh tinh gì vậy?” Cô ta nhìn tôi, nhíu mày vẻ tập trung. Đôi mắt xám xinh đẹp hơi lờ đờ, và tôi hy vọng cô ta sẽ không ngã nhào. “Cô hẳn phải biết chứ? Ai cũng biết mà! Hai ngón tay cái của một người đàn ông sẽ cho cô biết kích cỡ “cái đó” của anh ta. Đương nhiên là cả những ngón chân cái nữa,” cô ta thận trọng nói thêm, “nhưng thường thì chúng khó đánh giá hơn vì đã bị giày che mất. Con cáo con đằng kia,” cô ta hất đầu về phía cửa tò vò, nơi Jamie vừa xuất hiện trở lại, “hai bàn tay anh ta có thể ôm trọn một quả bí xanh cỡ to. Hoặc một cái mông to, nhỉ?” Cô ta nói thêm, lại hích tôi cái nữa. “Geillis Duncan, chị... im... miệng... được không?” Tôi rít lên, mặt đỏ bừng. “Ai đó sẽ nghe thấy lời chị nói đấy!” “Ồ, không ai là...” Cô ta ngừng lại nửa chừng, nhìn chằm chằm. Jamie đã đi thẳng qua bàn chúng tôi như thể không trông thấy chúng tôi. Khuôn mặt anh tái nhợt, môi mím chặt, vẻ như đang quyết tâm làm nhiệm vụ gì khó chịu lắm. “Có chuyện gì thế nhỉ?” Geilie hỏi. “Trông anh ta giống như Arthur sau khi ăn củ cải sống vậy.” “Tôi không biết.” Tôi đây ghế lại, ngập ngừng. Jamie đang tiến về phía bàn của Colum. Tôi có nên đi theo anh không? Rõ ràng đã xảy ra chuyện gì đó. Geilie nhìn xuôi theo căn phòng, đột nhiên kéo tay áo tôi, chỉ về chỗ Jamie xuất hiện lúc nãy. Một người đàn ông đứng ngay ở cửa tò vò, cũng ngập ngừng như tôi. Quần áo anh ta lấm lem bùn đất và bụi đường; có lẽ anh ta vừa từ xa tới. Một người đưa tin. Dù tin tức đó là gì thì anh ta cũng đã truyền nó cho Jamie, và giờ đến lượt Jamie cúi người thì thầm vào tai Colum. Không, không phải là Colum. Là Dougal. Mái đầu đỏ cúi thấp giữa hai mái đầu tối sẫm, những đường nét đẹp đẽ của cả ba khuôn mặt trông giống nhau đến ngỡ ngàng trong ánh nến dần tàn lụi. Tôi nhận ra rằng trông họ giống nhau đến vậy là do cả ba người đang cùng mang vẻ mặt đau đớn, bàng hoàng. Bàn tay Geilie bấu chặt cánh tay tôi. “Tin xấu,” cô ta nói một câu thừa thãi. ••• “Hai mươi tư năm,” tôi khẽ nói. “Có vẻ là một cuộc hôn nhân lâu dài.” “Ừ, đúng vậy,” Jamie đồng ý. Một làn gió ấm áp khuấy động những nhành cây trên đầu chúng tôi, thổi mái tóc tôi tung bay, khiến những sợi tóc lòa xòa cọ vào mặt tôi nhột nhạt. “Còn dài hơn cả tuổi đời của anh nữa.” Anh đang dựa vào hàng rào của bãi giữ ngựa, cao ráo và chắc khỏe. Tôi thường quên mất anh còn rất trẻ; anh luôn có vẻ quá tự tin và giỏi giang. “Tuy nhiên,” anh nói, búng một cọng rơm vào đống bùn nhão ở bãi giữ ngựa, “anh nghĩ Dougal ở với mợ ấy không quá ba năm. Ông ấy thường ở Leoch hoặc đi đây đi đó quanh lãnh địa, làm việc cho Colum.” Vợ của Dougal, Maura, đã mất ở điền trang Beannachd của họ vì một cơn sốt bất ngờ. Dougal đã rời khỏi lâu đài từ lúc bình minh cùng với Ned Gowan và người đưa tin đêm qua để lo liệu tang ma và giải quyết vấn đề tài sản của vợ ông ta. “Vậy ra đó không phải là một cuộc hôn nhân khăng khít?” Tôi tò mò hỏi. Jamie nhún vai. “Anh nghĩ nó cũng khăng khít như hầu hết các cuộc hôn nhân khác. Mợ ấy còn bận rộn với con cái và việc trông nom nhà cửa; có lẽ mợ ấy cũng không nhớ Dougal nhiều lắm, dù mợ ấy có vẻ vui mừng mỗi khi Dougal về nhà.” “Phải rồi, anh đã sống với họ một thời gian, đúng không?” Tôi im lặng suy nghĩ. Liệu đây có phải là quan niệm của Jamie về hôn nhân không? Bình thường thì sống riêng, chỉ thi thoảng mới ở với nhau để sinh con. Tuy nhiên, từ những câu chuyện vụn vặt anh đã kể, cha mẹ anh rất gần gũi và yêu thương nhau. Như thể có một mánh lới thần bí nào đó để đọc được những ý nghĩ của tôi, anh nói: “Với gia đình anh thì khác. Cuộc hôn nhân của Dougal là một cuộc hôn nhân sắp đặt, giống như cuộc hôn nhân của Colum vậy, họ kết hôn vì đất đai và những lợi ích khác chứ không phải vì ham muốn nhau. Nhưng cha mẹ anh - ờ, họ lấy nhau vì tình yêu, trái với ý muốn của cả hai bên gia đình, vì vậy nhà anh... không hẳn là bị cắt đứt quan hệ; nhưng hầu như không giao thiệp với ai khi ở Lallybroch. Cha mẹ anh không hay đi thăm người thân hoặc đi làm việc ở bên ngoài, vì thế anh nghĩ họ gắn bó với nhau nhiều hơn những cặp vợ chồng thông thường.” Anh đặt tay lên eo lưng tôi, kéo tôi lại gần, rồi cúi đầu, lướt môi qua vành tai tôi. “Cuộc hôn nhân của chúng ta là một sự sắp đặt,” anh khẽ nói. “Tuy nhiên, anh mong... có lẽ một ngày nào đó...” Anh vụng về ngừng lời, nở nụ cười nửa miệng và xua tay như muốn gạt đi câu nói ấy. Không muốn khuyến khích anh tiếp tục, tôi mỉm cười đáp lại với vẻ bình thản nhất có thể và quay mặt về phía bãi giữ ngựa. Không cần chạm vào nhau, tôi vẫn có thể cảm nhận được anh đang ở bên cạnh tôi, bàn tay to lớn của anh nắm lấy thanh chắn trên cùng của hàng rào. Tôi cũng nắm lấy thanh chắn để ngăn mình không cầm lấy tay anh. Tôi rất muốn quay sang để an ủi, trấn an anh bằng cả cơ thể và lời nói rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi không chỉ dừng lại ở mức độ của một cuộc hôn nhân sắp đặt. Nhưng chính sự thật ấy đã ngăn tôi lại. Cảm xúc giữa hai chúng ta, anh đã nói, khi anh chạm vào em, khi em nằm bên anh. Không, nó không bình thường chút nào. Nó cũng không phải là một sự say nắng đơn thuần, như tôi đã nghĩ ban đầu. Tuy nhiên, tôi đã bị trói buộc với một người đàn ông khác bởi những lời thề, lòng chung thủy và luật pháp. Và cả tình yêu nữa. Tôi không thể, không thể nói với Jamie tình cảm tôi dành cho anh. Nói ra rồi sau đó lại bỏ đi, như thế sẽ là sự độc ác tột cùng. Tôi cũng không thể nói dối anh. ... Mời các bạn đón đọc Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 của tác giả Diana Gabaldon & Khánh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cha Con Nghĩa Nặng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Cha Con Nghĩa Nặng của tác giả Hồ Biểu Chánh. Trần Văn Sửu là một người nông dân hiền lành, lại chăm chỉ. Sửu lấy thị Lựu sinh được ba người con: Tí, Quyên và Sung. Sửu hết mực yêu thương vợ con nhưng vợ Sửu lại có tính xấu. Một hôm, Sửu bắt gặp vợ mình ngoại tình với hương hào Hội. Thị Lưu không những không hối cải, mà còn để cho nhân tình chạy thoát. Trong lúc tức giận, Sửu không may xô ngã vợ, khiến vợ chết ngay tại chỗ. Sửu bỏ trốn, còn mọi người tưởng anh đã nhảy xuống sông tự tử. Anh em Tí về ở với ông ngoại. Sung ốm chết, còn Quyên và Tí thì đi ở cho bà Hương quản Tồn, được bà yêu thương và gây dựng gia đình cho. Sau nhiều năm trốn tránh, Sửu lẻn về thăm con nhưng rồi sợ liên lụy tới con lên đã định nhảy sông tự tự. Nhưng lại gặp lại thằng Tí, hai cha con gặp gỡ bịn rịn không nỡ rời. Sau đó, Trần Văn Sửu được xóa án, cha con đoàn tụ. *** Tóm tắt Tiểu thuyết "Cha Con Nghĩa Nặng" của Hồ Biểu Chánh kể về câu chuyện của Trần Văn Sửu, một người nông dân hiền lành, chất phác, nhưng lại có một người vợ lăng loàn, ngoại tình. Trong lúc nóng giận, Sửu đã vô tình đẩy vợ ngã xuống đất và chết. Sửu hoảng sợ, bỏ trốn khỏi làng, để lại ba người con thơ dại. Những năm tháng trốn tránh, Sửu luôn ân hận về nỗi lầm của mình và không nguôi thương nhớ con. Anh đã nhiều lần lẻn về thăm con, nhưng vì sợ liên lụy đến con nên đã phải quay về. Còn những đứa con của Sửu, sau khi mẹ mất, đã được ông ngoại nuôi dưỡng. Sau đó, Quyên và Tí được bà Hương quản Tồn nhận làm con nuôi. Bà Hương là một người phụ nữ tốt bụng, đã yêu thương và chăm sóc cho hai đứa trẻ như con đẻ. Sau nhiều năm trốn tránh, Sửu được xóa án và trở về làng. Anh gặp lại con trai mình, Tí, và hai cha con vô cùng xúc động. Sửu và Tí đoàn tụ, cùng nhau xây dựng cuộc sống mới. Review Tiểu thuyết "Cha Con Nghĩa Nặng" là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi tình cha con thiêng liêng, bất diệt. Dù có bao nhiêu khó khăn, thử thách, tình cha con vẫn luôn là chỗ dựa vững chắc cho con người. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên tình cảm gia đình. Thị Lưu là một nhân vật phản diện điển hình, với những thủ đoạn độc ác, mưu mô. Bà đã khiến cho gia đình Sửu tan nát, khiến cho Sửu phải chịu án oan và bỏ trốn suốt nhiều năm trời. Tiểu thuyết "Cha Con Nghĩa Nặng" được viết bằng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, nhưng lại rất giàu cảm xúc. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Đánh giá Tiểu thuyết "Cha Con Nghĩa Nặng" là một tác phẩm xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Cha Con Nghĩa Nặng" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Cha Con Nghĩa Nặng" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Trần Văn Sửu là một người cha yêu thương con hết mực, dù có bao nhiêu khó khăn, thử thách cũng không bao giờ bỏ rơi con. Tí là một người con hiếu thảo, luôn yêu thương và bảo vệ cha. Thị Lưu là một người phụ nữ lăng loàn, ngoại tình, khiến cho gia đình tan nát. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Cha Con Nghĩa Nặng" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi tình cha con thiêng liêng, bất diệt. Dù có bao nhiêu khó khăn, thử thách, tình cha con vẫn luôn là chỗ dựa vững chắc cho con người. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên tình cảm gia đình. Thị Lưu là một nhân vật phản diện điển hình, với những thủ đoạn độc ác, mưu mô. Bà đã khiến cho gia đình Sửu tan nát, khiến cho Sửu phải chịu án oan và bỏ trốn suốt nhiều năm trời. Tóm lại, tiểu thuyết "Cha Con Nghĩa Nặng" là một tác phẩm có giá trị văn học sâu sắc. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Mời các bạn mượn đọc sách Cha Con Nghĩa Nặng của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Ai Làm Được
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Ai Làm Được của tác giả Hồ Biểu Chánh. Nguyễn Thanh Liêm   Văn học chữ Quốc Ngữ đã được thành hình ở Miền Nam ngay từ hạ bán thế kỷ XIX với Petrus Trương Vĩnh Ký và Paulus Huỳnh Tịnh Của. Nhờ công của hai ông, chữ Quốc Ngữ bành trướng nhanh chóng trong dân gian. Với sự bành trướng của chữ Quốc Ngữ và phương tiện in ấn mới, phong trào đọc tiểu thuyết càng ngày càng lan rộng. Tiểu thuyết trở thành món tiêu khiển rất ăn khách ở Miền Nam vào đầu thế kỷ XX. Các báo chí, các nhà in, và nhà xuất bản đều đói tác phẩm tiểu thuyết. Khởi đầu là những tiểu thuyết dịch, phần lớn là truyện Tàu, rồi đến những sáng tác của người Việt. Một trong những tiểu thuyết gia nổi tiếng trong thời kỳ mở đầu này là Hồ Biểu Chánh. So với các tiểu thuyết khác cùng thời thì tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có tính cách mới mẻ hơn và hấp dẫn hơn.  Với tác phẩm đầu tiên, „U Tình Lục“, thành hình năm 1909 và xuất bản năm 1913, Hồ Biểu Chánh còn chịu ảnh hưởng truyện Nôm trong cách dùng thể văn lục bát trường thiên như Ðoạn Trường Tân Thanh hay Lục Vân Tiên. Tuy vậy mầm mới mẻ của tiểu thuyết của ông cũng đã khởi sắc qua bối cảnh (câu chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhất là ở quê hương Gò Công của ông ở Miền Nam), qua cách dàn dựng cốt truyện (plot) cũng như qua văn tự (dùng chữ Quốc Ngữ). U Tình Lục chỉ củ ở thể văn (thể lục bát trường thiên) và ở một số các từ ngữ và lối diễn tả trong một số câu thơ mà nghe qua ta thấy tương tự như truyện Kiều, như trong hai câu sau đây:                         „Cúc-Hương trở gót trướng hoa,                         Ruột gò chín khúc, lụy sa đôi hàng.“       Nhưng đến tác phẩm „Ai Làm Ðược“, ra đời liền sau U Tình Lục, thì Hồ Biểu Chánh đã là một tiểu thuyết gia loại mới hẳn.  Ai Làm Ðược  là quyển tiểu thuyết đầu tiên viết theo thể văn xuôi bằng chữ Quốc Ngữ. Bản thảo đã thành hình hồi năm 1912 lúc Hồ Biểu Chánh còn làm ký lục ở Cà Mau, nhưng phải đến năm 1922 tác phẩm tiểu thuyết đầu tay này mới chính thức ra đời sau khi đã được ông nhuận sắc. Ai Làm Ðược là tiểu thuyết viết theo kỷ thuật mới, nghĩa là viết theo cách viết tiểu thuyết của Pháp, chớ không viết theo kiểu truyện Tàu (chương hồi tiểu thuyết), hay kiểu truyện Nôm của các nhà nho Việt Nam xưa (viết theo thể lục bát trường thiên) như Nguyễn Du hay Nguyễn Ðình Chiểu. Hồ Biểu Chánh thành công ngay với tác phẩm đầu tiên theo loại mới này. Liền sau Ai Làm Ðược là một loạt 15 quyển tiểu thuyết khác của ông được xuất bản trong những năm kế tiếp trong thập niên1922-29. Ðiều này cho thấy độc giả rất ưa thích loại tiểu thuyết mới này của ông. So với truyện Tàu còn rất ăn khách trong thời gian này thì Ai Làm Ðược tỏ ra mới lạ và hấp dẫn hơn nhiều. Trước hết là mới trong bối cảnh của câu chuyện. Ðây là câu chuyện xảy ra ở Miền Nam Việt Nam, ở ngay tại Cà Mau, chớ không phải ở một nơi xa xôi nào bên Trung Quốc. Và chuyện xảy ra ngay trong thời gian gần đây chớ không phải chuyện xảy ra hồi xửa hồi xưa nào, với những nhân vật là người Việt Nam, và những sinh hoạt quen thuộc trong xã hội Miền Nam (Nam Kỳ Lục Tỉnh) vào khoảng thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX. So với truyện Tàu dịch ra tiếng Việt, và với các truyện Nôm xưa, bối cảnh của Ai Làm Ðược hoàn toàn mới mẻ với tính cách phong tục (hay môi trường văn hóa/xã hội) của nó. Và đó là điểm hấp dẫn đầu tiên của quyển tiểu thuyết mới này.  Kế đó và quan trọng hơn nữa là cách dàn dựng cốt chuyện của Hồ Biểu Chánh. Phần đông truyện Tàu đều theo mẫu dựng mấu chốt chung của câu chuyện tựa trên những thử thách (challenges) bên ngoài để cho người anh hùng (nhân vật chánh) phải đương đầu và vượt qua những thử thách đó. Thử thách càng nhiều, càng lớn thì sự chiến thắng của người hùng càng vẻ vang và câu chuyện càng lôi cuốn hấp dẫn. Kết thúc câu chuyện là sự chiến thắng của người anh hùng, của người quân tử, của lẽ phải và luân lý đạo đức, với sự thỏa mãn của đọc giả. Loại chuyện tạo xúc động tựa trên những thử thách bên ngoài đó (loại melodrama) có cái hay của nó nhưng chưa nói hết được tấn kịch sâu sắc của con người trong loại drama. Ở đây không những có thử thách bên ngoài mà còn có xung đột giữa những tính tình khác nhau của các nhân vật và những mâu thuẫn bên trong tâm lý của các nhân vật chính. Từ những xung đột, những mâu thuẫn đó câu chuyện thường ẩn chứa nhiều ngang trái, éo le, gây nhiều xúc động trong lòng độc giả. Cũng từ những xung đột, mâu thuẫn ngang trái, éo le đó mà câu chuyện xảy ra, và diễn tiến một cách hợp tình, hợp lý, đưa dần đến đỉnh cao nhất (climax) của câu chuyện để kết thúc. Mấu chốt của câu chuyện trong Ai Làm Ðược là những xung đột, mâu thuẫn đó, những xung đột, mâu thuẫn dẫn đến những éo le ngang trái trong đời. Xung đột giữa mẹ ghẻ độc ác và con chồng cương quyết trả thù cho mẹ ruột. Mâu thuẫn trong bổn phận làm con đối với cha và bổn phận trả thù cho mẹ. Xung đột giữa luân lý về danh dự, tiết hạnh và về chữ hiếu, v.v. . . Qua những mâu thuẫn, xung đột trong tâm lý nhân vật, Hồ Biểu Chánh đã khéo léo kích thích và gây nhiều cảm xúc mạnh trong lòng người đọc khiến họ bị lôi cuốn vào câu chuyện từ đầu đến cuối. Câu chuyện diễn tiến như sau: Có một phú ông tên Bạch Khiếu Nhàn, nhà ở gần chợ Cà Mau, góa vợ, sống một mình trong ngôi nhà to lớn với mấy người gia nhân. Ông có một người con gái độc nhất đã gả cho ông Tri Phủ Lê Xuân Thới ở tại đó. Nhưng con gái ông không may đã lìa đời sau khi sinh được một cô con gái đặt tên là Bạch Tuyết. Ông Tri Phủ thì đã có thêm một người vợ lẽ là bà Nguyễn Thị Phường con của ông hương thân ở Ðầm Dơi trước khi mẹ Bạch Tuyết chết. Bạch Tuyết sống với cha là ông Tri Phủ và bà mẹ ghẻ bây giờ đã chính thức trở thành bà Tri Phủ sau cái chết của mẹ cô. Bà này có nhan sắc, lanh lẹ, ở với ông Tri Phủ có một đứa con trai tên là Lê Xuân Sắc. Bạch Tuyết thường hay qua lại nhà ông Bạch Khiếu Nhàn để thăm viếng ông ngoại.  Câu chuyện bắt đầu vào một buổi chiều năm 1894 khi ông Nhàn vào quán cơm chú Lỳ ở chợ Cà Mau. Ở đây ông có dịp gặp một thanh niên, người ở Vĩnh Long, mồ côi cha mẹ, tên Phan Chí Ðại, người thông minh, có chút học vấn, nhưng nghèo khổ đang muốn tìm việc làm ở Cà Mau. Mến tài Chí Ðại và cũng thương cho tình cảnh của người thanh niên này, ông Nhàn đem Chí Ðại về ở nhà mình và xin cho Chí Ðại một chân thơ ký trong văn phòng ông con rể là quan Tri Phủ. Chí Ðại rất có tư cách, làm việc mẩn cán, được mọi người thương mến, kính nể. Ban ngày Chí Ðại đi làm bên phủ, buổi tối thì về ở nhà Bạch Khiếu Nhàn. Chí Ðại xem ông Nhàn như sư phụ của mình, còn ông Nhàn thì thương mến Chí Ðại như cháu ruột của ông. Bạch Khiếu Nhàn là người gốc ở Thừa Thiên. Từ ngày con gái chết ông buồn rầu không đi về Trung thăm mồ mả ông bà. Bây giờ có Chí Ðại ông muốn nhờ Chí Ðại trông coi nhà cửa để ông đi về nguyên quán chơi chừng vài tháng. Nhưng ông Tri Phủ Lê Xuân Thới thì đề nghị nên để Chí Ðại qua ở bên phủ trong thời gian ông Nhàn đi chơi, để tiện dạy thêm cho con trai ông chớ để Chí Ðại ở một mình bên đó thì buồn chết chịu gì nổi. Ông Nhàn chìu ý ông Tri Phủ và từ đó Chí Ðại sang ở luôn bên phủ. Chí Ðại thường thấy Bạch Tuyết nhưng không hề dám nhìn hay đến gần nói chuyện.  Bà Phủ là người tham lam, độc ác nhưng bề ngoài rất khôn khéo với chồng và con ghẻ. Bà luôn khéo léo chìu chuộng, phục vụ cho ông chồng ghiền thuốc phiện, và lúc nào cũng tỏ vẻ thương yêu lo lắng cho cô con gái con riêng của chồng. Bà thấy ngày nào ông Nhàn, ông ngoại Bạch Tuyết, chết đi thì gia tài đồ sộ của ông sẽ thuộc về Bạch Tuyết. Bà thèm muốn gia tài đồ sộ đó nên muốn xui chồng gả Bạch Tuyết cho cháu ruột của bà. Bà nhỏ nhẹ, thiệt hơn với chồng, khuyên chồng sớm làm theo ý muốn đó của bà. Bà muốn đặt ông Nhàn trước một sự đã rồi để khi trở về dù ông Nhàn có không bằng lòng đi nữa thì cũng không còn làm gì được. Ông Phủ nghe lời vợ, cho Bạch Tuyết biết là ông đã quyết định gả Bạch Tuyết cho anh Ðồ, cháu ruột của bà Phủ. (Câu chuyện trở nên gay cấn bắt đầu từ đây).  Bạch Tuyết mạnh dạn phản đối quyết định của cha, không chịu về làm vợ anh Ðồ, cô cũng nói rõ là cô chê chỗ đó. Thật ra thì Bạch Tuyết từ chối vì một lý do quan trọng hơn là chê chỗ đó nhưng mà cô không thể nói ra lý do đó được. Cô thầm biết âm mưu sang đoạt gia tài của người kế mẫu. Cô cũng biết là trước đây mẹ cô chết không phải vì bệnh mà là vì bị bà kế mẫu tráo thuốc độc giết chết. Việc ác độc này cha cô không hề hay biết gì cả. Cha cô lại rất thương yêu, rất nghe lời bà kế mẫu độc ác này. Cô ôm mối hận thù trong thâm tâm và quyết chí chờ cơ hội trả thù cho mẹ ruột. Ðó là lý do thầm kín quan trọng khiến cô cương quyết từ chối cuộc hôn nhân. Thấy việc ép gả Bạch Tuyết chưa có kết quả tốt, bà phủ xoay qua cách khác. Bà nói với chồng là vì Bạch Tuyết đã có tư tình với người nào rồi nên mới từ chối cuộc hôn nhân do cha định đoạt. Bà tạo cơ hội để cho Bạch Tuyết phải có dịp đem thuốc cho Chí Ðại uống, và nói chuyện với Chí Ðại trước mắt đám gia nhân. Từ đó có tiếng xì xầm về việc Bạch Tuyết lo thuốc men cho Chí Ðại và hai người trò chuyện riêng với nhau. Chắc là họ có tư tình gì với nhau rồi. Từ tin đồn đó bà xui chồng đuổi Chí Ðại đi. Ông phủ lúc nào cũng thấy bà có lý, luôn nghe lời bà. Chí Ðại bị đuổi không một lời giải thích. Bị đuổi vô cớ, Chí Ðại sợ ở lại Cà Mau sẽ còn nhiều chuyện không hay nên biên thơ cám ơn Bạch Khiếu Nhàn và đi về Sài Gòn tìm việc làm. Chí Ðại đi là bà Phủ đã thành công một bước trong mưu tính của bà. Bà phải làm sao cho ông Phủ thấy là con gái mình đã bị hư và muốn che dấu sự hư hỏng đó để người ngoài đừng biết thì chỉ có cách là phải gả nó cho cháu bà càng sớm càng tốt. Chí Ðại đi rồi thì việc cho rằng Bạch Tuyết đã hư hỏng với anh chàng này càng được dễ dàng dựng nên. Ông Phủ liền nghe theo bà Phủ, chỉ thị thuộc hạ gắp rút chuẩn bị làm đám cưới cho Bạch Tuyết.  Bạch Tuyết cương quyết từ chối thì bị ông Phủ đánh cho một trận đòn đích đáng về tội hư hỏng. Bạch Tuyết không cách gì minh oan dược. Nhờ bà mẹ ghẻ can thiệp, xin cho cô, ông Phủ mới không đánh nữa. Bạch Tuyết chẳng những không mang ơn bà mẹ ghẻ mà còn căm hận nhiều hơn. Bạch Tuyết khổ sở quá mà không biết làm sao, không còn biết cầu cứu với ai được. Cô định tự tử, nhưng nghĩ lại nếu chết rồi thì còn ai để lo trả thù cho mẹ. Cô nghĩ đến việc thà trốn đi theo trai, thà mang tiếng xấu mà còn có thể trả thù được chớ ở lại đây thì chắc sẽ chết vào tay bà mẹ ghẻ mà thù nhà không trả được. Nhân một hôm ông bà Phủ đi xa, cô lén trốn nhà ra đi. Trước khi đi cô có qua nhà ông ngoại định viết thơ để lại nhưng chỉ mới viết có mấy chữ ông ngoại rồi bỏ dở. Nhưng cô đã có cơ hội đọc thơ Chí Ðại để lại cho Bạch Khiếu Nhàn. Qua thơ này cô biết Chí Ðại đi về đâu, và do đó cô quyết lòng đi theo Chí Ðại. Bạch Tuyết tìm gặp được Chí Ðại ở Sài Gòn. Cô kể rõ tình cảnh đớn đau, nguy hiểm, cô đơn, bơ vơ của cô cho Chí Ðại nghe, cô nói cho Chí Ðại biết tâm sự thầm kín của cô trong vấn đề trả thù cho mẹ, cô mong ước được sự giúp đỡ của Chí Ðại. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo này cô chỉ còn biết trông cậy vào Chí Ðại mà thôi, và cô mong được sống chung với Chí Ðại. Thương cho thân phận của Bạch Tuyết lại đã từng mang ơn Bạch Khiếu Nhàn, tất nhiên Chí Ðại phải hết lòng lo cho Bạch Tuyết nhưng để cho Bạch Tuyết đi theo ở chung với mình thì thật là khó coi nếu không nói là tội lỗi. Chí Ðại phân tích lợi hại, tốt xấu cho Bạch Tuyết nghe và khuyên nàng nên trở về Cà Mau để bảo toàn danh tiết. Nhưng Bạch Tuyết quả quyết thà tự tử chết chớ không thể về Cà Mau được. Cuối cùng Chí Ðại đành phải để Bạch Tuyết theo, sống chung với mình. Hai người sống với nhau và trở thành vợ chồng dù không chánh thức cưới hỏi. Nhưng cuộc sống của hai người vô cùng khổ cực. Chí Ðại không tìm được việc làm vững chắc, vợ chồng thiếu trước hụt sau, nợ nần không trả nổi. Bạch Tuyết có thai, sinh con, nhưng con đau và chết đi vì không tiền thuốc thang chạy chửa. Hoàn cảnh của họ thật vô cùng bi đát. Sau gần bốn tháng đi chơi ở Huế, Bạch Khiếu Nhàn trở về Cà Mau mới hay việc Chí Ðại bị đuổi và Bạch Tuyết đã trốn đi rồi. Ông đọc thơ Chí Ðại và Bạch Tuyết và nghĩ có thể Bạch Tuyết đã theo Chí Ðại lên Sài Gòn thành ra ông vội vã đi ngay lên Sài Gòn tìm cháu. Sau một thời gian khó nhọc tìm kiếm ông đã đến được chỗ ở đậu tồi tàn của hai người. Ông cho tiền trả nợ, mua sắm áo quần, giúp hai người làm hôn thú, rồi đưa hai người về Cà Mau. Ông hùn vốn với một người khách trú mua tàu lớn sang Ấn Ðộ Dương vớt ngọc điệp đem về bán ở bên Trung Quốc. Ông cho Chí Ðại theo tàu điều hành công việc để Chí Ðại có cơ hội gầy dựng sự nghiệp. Còn Bạch Tuyết thì ở nhà với ông. Nhưng bà Phủ đâu có để yên, bà lại xúi ông Phủ sang xin cho Bạch Tuyết về ở với ông bà. Trước lời cầu xin tuy hợp tình hợp lý của ông Phủ, ông Nhàn vẫn chưa chấp thuận. Nhưng Bạch Tuyết lại sợ rồi đây thế nào bà kế mẫu độc ác kia cũng tìm mọi cách ám hại nàng cho nên nàng phải một lần nữa trốn lên Sài Gòn để xa lánh bà mẹ ghẻ độc ác này.  Lần này thì Bạch Tuyết phải sống một mình ở Sài Gòn, nhưng cũng may là cô có mang theo được chút ít tiền và cô đã biết rành cuộc sống ở đây. Lần này cô cũng có cơ hội quen biết và giúp đỡ cho hai người bạn mà sau này họ sẽ trở thành đôi vợ chồng. Họ là những người bạn rất thân của cô, hết lòng giúp đỡ cô trong cơn hoạn nạn về sau. Một người là Băng Tâm, một cô gái quê ở Vĩnh Long, nghèo khổ, bơ vơ lần đầu đến Sài Gòn, và một người là Lý Trường Khanh, nhà giàu có, và là chỗ quen biết với chồng cô từ trước. Cuộc sống của Bạch Tuyết ở Sài Gòn lần này tuy có đỡ hơn lần trước nhưng cũng vẫn rất khổ cực. Cô lại bị đau yếu phải nhờ đến sự chăm sóc tận tụy của Băng Tâm và Trường Khanh. Bà Phủ thì không bao giờ chịu để cho Bạch Tuyết yên thân. Cái gia tài đồ sộ của ông Nhàn lúc nào cũng ám ảnh bà. Không cưới được Bạch Tuyết cho cháu bà thì phải làm sao giết được Bạch Tuyết để may ra ông Phủ và con trai bà còn được hưởng phần nào cái gia tài đồ sộ đó. Bà đích thân lên Sài Gòn tìm gặp Bạch Tuyết, dùng lời ngon ngọt dụ Bạch Tuyết về Cà Mau sống với ông bà. Bạch Tuyết nhất định không chịu. Bà Phủ lật đật về Cà Mau xúi ông Phủ lên Sài Gòn bắt Bạch Tuyết về. Biết thế nguy, Bạch Tuyết nhờ Trường Khanh tìm chỗ ở khác để trốn lánh. Nhưng Trường Khanh chưa tìm được chỗ thì ông Phủ đã lên tới. Lúc này Bạch Tuyết đau nhiều. Ông Phủ thuê ghe đưa Bạch Tuyết về Cà Mau với ông. Bạch Tuyết không trốn tránh nữa được, đành phải để cho ông Phủ bắt về thôi. Sợ Bạch Tuyết bị hại nên Băng Tâm nài nỉ xin được theo bên cạnh để săn sóc cho Bạch Tuyết. Bà Phủ không thích nhưng cũng không làm sao ngăn cản được. Khi Bạch Tuyết và Băng Tâm theo ông bà Phủ đi rồi thì Trường Khanh cũng hối hả xuống Cà Mau tìm gặp ông Nhàn để thông báo mọi việc. Ông Nhàn và Trường Khanh hết sức lo lắng cho số phận của Bạch Tuyết. Trường Khanh nghĩ kế đem Bạch Tuyết ra khỏi nhà ông bà Phủ, nhưng mưu kế bị bại lộ. Bà Phủ biết được bèn tương kế tựu kế cho gia nhân bao vây bắt Trường Khanh và Băng Tâm, vu cáo cho hai người thông đồng ăn trộm đồ nhà bà, kêu ông Phủ phải làm tờ trình gắp rút giải họ lên tòa để Bạch Khiếu Nhàn không kịp can thiệp, giúp đỡ. Giải quyết được Băng Tâm và Trường Khanh, bà Phủ bây giờ đã có đủ điều kiện và cơ hội để giết Bạch Tuyết. Bà tráo thuốc độc cho Bạch Tuyết uống cũng như bà đã làm trước đây cho mẹ ruột Bạch Tuyết. Biết thuốc của bà Phủ bưng vào là thuốc độc nên Bạch Tuyết không chịu uống. Bà Phủ bèn đóng chặt cửa phòng, đè Bạch Tuyết xuống, định đổ thuốc vào miệng. Bạch Tuyết chống cự mãnh liệt nhưng vì đau yếu lâu ngày thành ra không chống nổi sức mạnh của bà Phủ. Nhưng vừa lúc bà Phủ đè được Bạch Tuyết để sắp sửa đổ thuốc vào thì có người tông mạnh cửa phòng, nhào tới kéo bà Phủ ra, giải thoát cho Bạch Tuyết. Người đó là Chí Ðại, vừa về kịp đúng lúc để cứu Bạch Tuyết. Chí Ðại không quên giữ kỷ chén thuốc độc để làm tang chứng tố cáo bà Phủ.  Chí Ðại lên tòa giải oan cho Trường Khanh và Băng Tâm, và nhờ trạng sư đầu đơn tố cáo bà Phủ. Bà Phủ bị tòa tuyên án 8 năm cấm cố về tội giết người. Tri Phủ Trần Xuân Thới thì bị bắt phải về hưu sớm. Ông hết sức ăn năn. Chí Ðại đã thành công lớn lao trong chuyến đi vớt ngọc điệp ở Ấn Ðộ dương. Bạch Khiếu Nhàn vô cùng mừng rỡ. Trường Khanh và Băng Tâm làm lễ thành hôn ở đây với sự giúp đỡ của ông Nhàn. Chí Ðại và Bạch Tuyết vui mừng sum họp, nhưng niềm vui chưa trọn thì Chí Ðại bỗng thấy bức thơ tuyệt mạng của vợ viết cho mình mà chưa ký tên. Ðọc thơ xong Chí Ðại sợ quá nhưng may mà Bạch Tuyết chưa kịp tự tử. Chí Ðại phải hết lời khuyên giải, cắt nghĩa thiệt hơn, Bạch Tuyết mới bỏ ý định đó. Câu chuyện kết thúc ở đây với cảnh mọi người vui vẻ sống hạnh phúc bên nhau.    Ngoài sự hấp dẫn của câu chuyện, tâm lý các nhân vật cũng được khéo léo xây dựng để góp phần quan trọng vào tính logic của câu chuyện. Bà Phủ đẹp đẽ, lanh lợi, rất khéo léo bên ngoài nhưng bên trong vô cùng thâm độc, lúc nào cũng mưu tính giết người, đoạt của. Bên ngoài bà là người vợ hiền thục, hết sức lo lắng, chìu chồng, là người mẹ ghẻ tốt lúc nào cũng để ý lo lắng cho con riêng của chồng, nhưng bên trong bà là người hết sức tham lam và vô cùng ác độc, có thể mưu tính làm bất cứ cái gì, kể cả giết người, để đoạt lấy sự sản gia tài của người khác. Ông Phủ thì hiền từ nhưng lôi thôi, chỉ biết hưởng thụ (hút thuốc phiện), lúc nào cũng nghe lời bà Phủ, không hề biết những mưu toan và hành động gớm ghê của vợ. Vì chỉ biết nghe theo bà Phủ nên ông không biết được những đớn đau, khổ sở của con gái, ông không thấy và cũng không ngờ được sự nguy hiểm đến tính mệnh của Bạch Tuyết trước mưu toan hiểm độc của bà Phủ. Lại là người có học, biết trọng đạo lý Nho giáo nên ông phải nghe lời vợ mạnh dạn trừng trị đứa con gái bất hiếu, không nghe lời cha dạy lại mang tiếng hư hỏng, tư tình với trai.  Bạch Khiếu Nhàn là người giàu có, rất thương con cháu, nhất là thương Bạch Tuyết và sau này thêm Chí Ðại. Ông cũng biết con gái ông bị bà Phủ thuốc chết nhưng ông không nuôi ý định trả thù mà lại muốn tha thứ hết. Khi Bạch Tuyết bày tỏ với ông ý muốn trả thù cho mẹ ruột của cô thì ông cũng khuyên nên tha thứ chớ không tích cực giúp Bạch Tuyết trong vấn đề này. Ông rất thương yêu cháu ngoại và cũng rất thương Chí Ðại. Thấy Chí Ðại có học, có tài, có đức, nhưng không gặp thời ông đem về ở nhà, giúp Chí Ðại tìm việc, và có ý thầm muốn gả Bạch Tuyết cho Chí Ðại nhưng chưa tiện nói ra. Khi gặp được Chí Ðại và Bạch Tuyết ở Sài Gòn, ông không hề có một lời trách móc hay phê phán gì về hành động của hai người. Ông lại vui vẻ, hết lòng giúp đỡ hai người. Sợ Chí Ðại có mặc cảm nghèo khó trước cô vợ giàu ông tìm cách giúp Chí Ðại lập nên sự nghiệp. Chỉ tiếc là ông quá nhân từ và không có đủ thủ đoạn để giúp cháu ngoại đương đầu với mẹ ghẻ độc ác, tội lỗi. Bạch Tuyết, nhân vật chính của truyện, là một thiếu nữ thông minh, khá trí thức, biết lễ nghi, đạo lý, có ý thức và rất có ý chí. Biết mẹ bị dì ghẻ giết, cô âm thầm mang mối thù trong tâm, quyết chí tìm cơ hội trả thù. Cô không độc ác, không đủ bản lĩnh làm chuyện hung dữ, không dự tính hại bà Phủ bằng những hành vi ám muội. Cô chỉ mong có cơ hội đưa vấn đề ra trước pháp luật để luật pháp trừng trị tội phạm một cách công minh. Nhưng điều kiện sinh sống của cô không cho phép cô làm theo như cô muốn. Ngược lại cô bị đặt trong hoàn cảnh thật éo le ngang trái. Cô bị bắt buộc phải sống dưới bàn tay vô cùng độc ác của bà Phủ. Là người sẽ có gia tài đồ sộ, cô là miếng mồi ngon của bà mẹ ghẻ tham lam. Hằng ngày sống bên cạnh bà Phủ chẳng khác nào sống dưới tay tử thần. Ai có thể bảo vệ được cho cô? Người thứ nhất là ông ngoại cô. Ông rất thương cô nhưng ông không ở cạnh bên, không có quyền gì đối với ông bà Phủ, lại quá nhân từ, không có đủ thủ đoạn để đối phó, đương đầu với một người khôn lanh độc ác như bà Phủ. Người thứ nhì là cha cô. Cha cô chắc cũng thương cô nhưng lại rất nghe lời bà Phủ. Ở gần bên nhưng thật sự rất cách xa. Ông cha này không hề hiểu biết gì về cô thành ra vô tình ông trở thành đồng lõa với bà Phủ trong kế hoạch hãm hại cô. Tệ hơn nữa vì quá nhu nhược trước bà Phủ, ông bị bà biến thành một công cụ trong mọi dự tính thực hiện ý định độc ác của bà. Vô cùng cô đơn trước những hiểm nguy, Bạch Tuyết phải vớ vào cái phao cuối cùng là Chí Ðại. Theo trai là hư hỏng, là mất danh tiết, nhưng đó là con đường sống sót còn lại cho người thiếu nữ này. Theo trai để không chết, để còn có thể có cơ hội trả thù cho mẹ. Nàng là đứa con có hiếu, nhưng không phải vì thế mà dễ dàng để cho cha mẹ sai khiến lẽ nào cũng được. Ðặt trong cảnh ngặt nghèo nàng dám liều. Nàng chống lại quyết định của cha. Nàng quyết định trốn ra khỏi nhà. Nàng liều lĩnh ra đi, phiêu lưu chẳng kể, miễn sao tránh được bàn tay ác độc của bà mẹ ghẻ. Khi gặp Chí Ðại nàng liều lĩnh bày tỏ ý muốn sống với Chí Ðại một cách không mấy ngại ngùng. Thật ra Bạch Tuyết không mù quáng, điên rồ khi quyết định theo sống với Chí Ðại. Nàng cũng không phải chỉ có ý định dùng Chí Ðại như một công cụ hay một phương tiện để trả thù nhà. Trong thâm tâm, Bạch Tuyết rất kính nể mến yêu Chí Ðại. Có thể là cô thầm yêu Chí Ðại.  Khi trở thành vợ Chí Ðại nàng là người hết sức lo lắng thương yêu chồng. Con người liều lĩnh này vẫn trọng danh tiết cho nên mới có cái màn viết thơ tuyệt mạng để lại cho chồng trong phần kết thúc. Cô định tự tử để chứng tỏ rằng cô là người trọng danh dự, muốn bảo toàn danh tiết chớ không phải là người theo trai hư hỏng. Sở dĩ cô phải theo Chí Ðại là vì mối thù phải trả mà thôi. Bây giờ thù đã trả xong cô muốn tự tử chết đi để chứng tỏ lòng trọng danh tiết của cô. Chí Ðại rất xứng đáng là người yêu, là người chồng lý tưởng của Bạch Tuyết. Có học thức, rất đạo đức, có khả năng, làm việc tận tụy, rất trung thành, ngay thẳng, Chí Ðại là một chàng trai lý tưởng trong xã hội bấy giờ. Nghèo nhưng không bao giờ ham muốn nhận tiền của của người khác, dù đó là của vợ hay của bên vợ. Gặp cơn túng thiếu thì làm bất cứ việc gì dù là những nghề tay chân cực khổ bị người ta coi thường hay khinh khi, miễn có chút tiền nuôi vợ con. Chí Ðại rất xứng đáng với tình thương của Bạch Khiếu Nhàn, và càng xứng đáng hơn nữa với tình yêu và sự trao thân gởi phận của Bạch Tuyết. Phần đông người ta đọc tiểu thuyết là để được thích thú với câu chuyện, để quên cuộc sống thực tế mệt nhọc của mình trong phút chốc. Ðọc tiểu thuyết là để tiêu khiển, để „mua vui một vài trống canh“ như một nhà văn xưa đã nói. Thành ra tiểu thuyết phải có câu chuyện, và câu chuyện càng gay cấn, càng có nhiều động tác (actions) thì tiểu thuyết càng hấp dẫn đối với phần đông đọc giả. Câu chuyện phải có phần tưởng tượng ly kỳ nhưng cái ly kỳ tưởng tượng đó đừng quá xa cuộc sống thực tế. Câu chuyện phải có những bất ngờ mà người đọc không quá dễ dàng đoán trước sự việc, nhưng những bất ngờ đó đừng trái ngược tính hợp tình, hợp lý hay logic ở đời. Và câu chuyện phải sít sao với tâm lý các nhân vật, những động tác không trái ngược với tâm lý nhân vật. Phần đông độc giả đều có ý hướng đạo đức, phần đông đều mong đến một kết thúc có hậu, ơn đền oán trả, thiện thắng ác, người ngay/người tốt được thưởng, kẻ ác/kẻ gian phải bị trừng trị. Cái ý hướng luân lý đó thiếu thì đa số đọc giả sẽ rất phiền, sẽ ngại đọc những tác phẩm khác nữa của tác giả, nhưng nếu luân lý đó được đặt lên hàng đầu để buộc câu chuyện phải uốn nắn theo, thì câu chuyện sẽ trở nên nhàm chán, không còn đủ lôi cuốn, hấp dẫn. Câu văn cầu kỳ, khó hiểu cũng không mấy hấp dẫn đối với đa số độc giả, nên giản dị, nên nói cái ngôn ngữ của người đọc để cho họ dễ đọc. Ðó là những điều kiện để tiểu thuyết được nhiều người ưa thích. Ai Làm Ðược và nhiều tiểu thuyết khác của Hồ Biểu Chánh có đủ những điều kiện đó, ông đã đáp ứng đúng nhu cầu đọc tiểu thuyết để tiêu khiển của đa số độc giả Miền Nam trong các thập niên 1920- 1940 của thế kỷ XX.   ***   Tóm tắt Câu chuyện kể về cuộc đời của Bạch Tuyết và Chí Đại, hai nhân vật chính trong tiểu thuyết "Ai Làm Được" của Hồ Biểu Chánh. Bạch Tuyết là con gái của ông Tri Phủ Lê Xuân Thới và bà vợ cả, nhưng sau khi mẹ cô mất, bà Phủ, vợ lẽ, đã giết mẹ cô để chiếm đoạt gia tài. Bạch Tuyết ôm mối hận thù, quyết tâm trả thù cho mẹ. Chí Đại là một thanh niên nghèo, mồ côi cha mẹ, được ông Tri Phủ nhận về làm thơ ký. Chí Đại và Bạch Tuyết gặp nhau và yêu nhau, nhưng bà Phủ tìm cách chia rẽ hai người. Bà vu oan cho Bạch Tuyết hư hỏng và ép ông Tri Phủ đuổi Chí Đại đi. Bạch Tuyết đau khổ, bỏ nhà theo Chí Đại. Hai người sống với nhau ở Sài Gòn, nhưng cuộc sống rất khó khăn. Bà Phủ tiếp tục tìm cách hãm hại Bạch Tuyết. Bà dụ Bạch Tuyết về Cà Mau, rồi cho thuốc độc giết cô. Chí Đại kịp thời ngăn cản, cứu sống Bạch Tuyết. Cuối cùng, bà Phủ bị bắt vì tội giết người. Chí Đại và Bạch Tuyết đoàn tụ, sống hạnh phúc bên nhau. Review Tiểu thuyết "Ai Làm Được" được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Ai Làm Được" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Ai Làm Được" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bà Phủ là nhân vật phản diện điển hình, với những thủ đoạn độc ác, mưu mô. Ông Tri Phủ là một người hiền lành, nhưng nhu nhược, dễ bị bà Phủ lừa gạt. Bạch Tuyết là một cô gái xinh đẹp, có cá tính mạnh mẽ, quyết tâm trả thù cho mẹ. Chí Đại là một chàng trai hào hoa, phong nhã, có tình yêu thủy chung, son sắt. Tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Ai Làm Được" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm lên án những thế lực tàn ác, độc ác, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự kiên cường, ý chí trả thù. Kết luận Tiểu thuyết "Ai Làm Được" là một tác phẩm văn học có giá trị, góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Mời các bạn mượn đọc sách Ai Làm Được của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Cơn Cuồng Si
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Cơn Cuồng Si của tác giả Annie Ernaux & Thu Phương (dịch). Xuất bản tại Pháp năm 1991, CƠN CUỒNG SI đánh dấu sự đoạn tuyệt của tác giả so với năm tác phẩm trước đó bằng việc khai thác chủ đề đam mê tình dục, chủ đề mà bà chỉ có thể đề cập trực tiếp sau khi mẹ mình đã qua đời. Trong cuốn sách rất mỏng và khó xếp loại này, bà kể lại cuộc phiêu lưu tình ái ngắn ngủi của mình với một nhà ngoại giao nước ngoài đã có vợ, một cuộc tình vụng trộm, thoáng qua nhưng mãnh liệt, đầy đam mê và đã để lại cho bà nhiều khổ đau, nhung nhớ. “Hồi tôi còn bé, sự xa xỉ đối với tôi đó là áo choàng lông thú, các thứ váy dài cùng những biệt thự ven biển. Về sau, tôi đã tưởng ấy là sống một cuộc đời trí thức. Giờ đây, tôi thấy có thể sống trọn cơn cuồng si dành cho một người đàn ông hoặc một phụ nữ cũng chính là xa xỉ.” Tuy nhận về dư luận khá chia rẽ, nhưng CƠN CUỒNG SI đã bán được hơn 200.000 bản ở Pháp, nhiều lần được chuyển soạn thành kịch và gần đây nhất, năm 2020, được chuyển thể thành phim điện ảnh.   *** Độc giả Việt Nam từng biết đến Annie Ernaux qua hai tác phẩm Hồi ức thiếu nữ, Một chỗ trong đời. Dịp này, độc giả tiếp tục khám phá ba tác phẩm mới được chuyển ngữ. Một người phụ nữ kể lại hành trình Annie Ernaux tìm lại những gương mặt khác nhau của người mẹ, một người phụ nữ vốn rất khỏe, xông xáo, cởi mở, qua đời sau một thời gian mắc bệnh Alzheimer. “Annie xử lý chất liệu trong đời thật, coi cuộc đời mình như kiểu mẫu để nghiên cứu về dân tộc, giai cấp và không chỉ đơn thuần là những sự kiện hư cấu tự sự mà bà nghĩ ra để thu hút khán giả”, nhà văn Hiền Trang. Cơn cuồng si là cuốn sách kể lại chuyện tình đầy nhục dục và ám ảnh, khổ đau và thương nhớ của bà với một nhà ngoại giao nước ngoài đã có gia đình. Nữ văn sĩ luôn trung thực, thành thật với nỗi đau, không né tránh sự thật. Trong cuốn Nỗi nhục, câu văn mở đầu khiến bất kỳ độc giả nào cũng phải bất ngờ bởi nội dung lẫn tính trần thuật: "Bố tôi đã định giết mẹ tôi vào đầu buổi chiều một Chủ nhật tháng Sáu". Câu văn như sự tường thuật rất phẳng, không ẩn dụ. Đó cũng chính là nguồn cơn của nỗi nhục mà thiếu nữ Annie Ernaux cảm thấy về cha mẹ mình, về nghề nghiệp và môi trường sống của họ. “Annie xử lý chất liệu trong đời thật, coi cuộc đời mình như kiểu mẫu để nghiên cứu về dân tộc, giai cấp, không chỉ đơn thuần là những sự kiện hư cấu tự sự mà bà nghĩ ra để thu hút khán giả”, nhà văn Hiền Trang nói. Đấu tranh giai cấp, nữ quyền Nỗi mặc cảm về nguồn gốc là yếu tố cốt lõi của văn phong Annie. Annie luôn bị đày đọa bởi những nỗi mặc cảm, tự ti, ngượng ngùng khi xuất thân từ gia đình tầng lớp bình dân lao động chân tay - tầng lớp tiểu tư sản. Trong diễn từ nhận giải, Annie Ernaux thừa nhận bà viết văn để "trả thù" cho những người dân của mình, tạo ra thứ văn chương dành cho những người trong gia đình, bảo vệ những con người của tầng lớp mình. Nỗi mặc cảm về nguồn gốc là cốt lõi của văn phong của Annie Ernaux. Giai cấp tiểu tư sản luôn phải chắt chiu để trang trải qua ngày. “Bố cậu làm gì đây? Bán tạp hóa à? Thế thì cậu được ăn kẹo miễn phí nhỉ? Thật tuyệt!”, nhà văn bị bạn bè chế giễu. Ngôn ngữ như xoáy sâu vào nội tâm cô bé khiến cô vô cùng xấu hổ, tủi nhục. Annie dần nhận thức được rằng muốn thoát khỏi ngục tù của mình buộc phải "trả thù" trường học, chứng minh năng lực, tự giải phóng bản thân. Con đường duy nhất là học, nỗ lực không ngừng. Văn chương của Annie bình thường hóa những tâm tư, trải nghiệm khó nói của phái nữ. Ba cuốn sách đầu tiên Annie vẫn được coi là tiểu thuyết, tuy nhiên từ cuốn thứ tư trở đi bà theo đuổi thể loại tự truyện xã hội, thuật lại chính xác đời mình, đưa ra những lát cắt cuộc đời. “Annie viết theo thể thức tự truyện xã hội, coi tác phẩm là đại diện tầng lớp, viết cho giai cấp mình”, TS. Nguyễn Quyên nhận định. Ngòi bút dũng cảm, sắc lạnh Viết về nữ quyền, phong cách của Annie mang màu sắc, dấu ấn của văn học hiện thực. Văn chương của bà đã bình thường hóa những tâm tư, trải nghiệm khó nói của họ. Trong thời gian mang thai ngoài ý muốn, bà vẫn nghĩ đàn ông là người tốt. Ở Pháp, trước năm 1975, người dân vẫn chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa phụ quyền. Yếu tố thống trị của nam giới đã du nhập vào trong cơ thể nữ giới, trở thành “bộ phận không thể thiếu” trong cơ thể họ. Annie muốn dùng ngòi bút để giúp người phụ nữ tự giải phóng mình khỏi những quy ước xã hội gò bó. Ông Hervé Malagola - giáo viên văn học Pháp và La tinh, Trường Pháp Quốc tế Alexandre Yersin tại Hà Nội khẳng định nữ chủ nhân giải Nobel Văn học 2022 luôn là người muốn thăng tiến trong xã hội. Ông nhận định cách đây hơn 20 năm khi đọc Annie Ernaux, ông chưa hiểu thấu chủ đề đấu tranh cho nữ quyền trong tác phẩm của bà. Thông qua sáng tác, Annie Ernaux dẫn dắt độc giả vào những thăng trầm cuộc sống đời thường chân thực. Với văn phong tối giản, câu văn ngắn gọn, từng trang sách của nữ văn sĩ vừa là “liều thuốc chữa lành”, vừa là “vũ khí đấu tranh” cho cuộc đời chính mình. *** Annie Ernaux kể lại cuộc phiêu lưu tình ái ngắn ngủi của mình với một nhà ngoại giao nước ngoài đã có vợ. Một cuộc tình vụng trộm, thoáng qua nhưng mãnh liệt và đầy đam mê. Ba cuốn sách mới nhất của nhà văn Pháp Annie Ernaux được giới thiệu đến công chúng, gồm: Một người phụ nữ, Cơn cuồng si và Nỗi nhục. Các tác phẩm hé lộ những hồi ức sâu thẳm, từ kỷ niệm thơ ấu đến những bí mật thầm kín nhất của tác giả, là những điều mà có lẽ không phải ai cũng đủ dũng cảm để phơi bày. Một người phụ nữ kể về mẹ của Annie Ernaux. Cuốn sách mở đầu bằng thông báo về cái chết của bà và kết thúc bằng cảm giác của tác giả khi thực sự nhận ra mẹ không còn trên cõi đời. Xuyên suốt cuốn sách, Annie Ernaux tìm lại những gương mặt khác nhau của mẹ - vốn là một phụ nữ khỏe mạnh, xông xáo, cởi mở, qua đời sau thời gian mắc bệnh Alzheimer (suy giảm trí nhớ). Nữ nhà văn cũng cho thấy sự tiến triển, tính hai mặt của những tình cảm mà một người con gái dành cho mẹ: tình yêu, lòng thù ghét, sự âu yếm, cảm giác tội lỗi và cuối cùng là sự gắn bó máu thịt. Tác phẩm là tuyên ngôn tình yêu đầy tinh tế và sắc sảo của Annie Ernaux dành tặng người mẹ quá cố, qua ngòi bút tưởng như lạnh lùng (một cách có chủ đích) của bà.   Cuốn sách "Một người phụ nữ" kể về mẹ của tác giả Annie Ernaux Cơn cuồng si kể về mối tình bí mật bị chôn giấu của Annie Ernaux. Nữ nhà văn kể lại cuộc phiêu lưu tình ái ngắn ngủi của mình với một nhà ngoại giao nước ngoài đã có vợ. Một cuộc tình vụng trộm, thoáng qua nhưng mãnh liệt, đầy đam mê và đã để lại cho bà nhiều khổ đau, nhung nhớ. Vào thời điểm ra mắt tại Pháp, cuốn sách đã nhận về nhiều ý kiến trái chiều. Bởi thời đó, một nữ trí thức theo chủ nghĩa nữ quyền lại mô tả một mối tình nơi đàn ông là bên thống trị, là điều không thể chấp nhận. Tuy nhiên, Annie Ernaux viết về chủ đề ngoại tình nhưng không bào chữa, cũng không thuyết giảng. Bà không nói đúng hay sai mà chỉ kể về tình cảm đơn phương cùng những cung bậc cảm xúc của mình trong cuộc tình ấy. Một cuộc tình với cái kết được báo trước là không có hậu và "vô nghĩa" như chính tác giả đã thừa nhận. Tất cả mang đến cho câu chuyện một cái nhìn đầy thực tế và vượt qua mọi chuẩn mực. "Cơn cuồng si" là mối tình bí mật bị chôn giấu của Annie Ernaux Nỗi nhục bắt đầu bằng một câu văn lạnh lùng gây bất ngờ: "Bố tôi đã định giết mẹ tôi vào đầu buổi chiều một Chủ nhật tháng Sáu". Đây chính là nguồn cơn mà thiếu nữ Annie Ernaux cảm nhận về cha mẹ, về nghề nghiệp và môi trường sống của họ. Mỗi người đều có một nỗi nhục, một cảm giác xấu hổ thầm kín tuyệt đối không thể nói ra. Người ta thường chạy trốn, che giấu và cố quên nó, nhưng Annie Ernaux, bằng một sự dũng cảm phi thường, đã phơi bày tất cả. Cảnh tượng cha suýt giết mẹ là điều mà Annie Ernaux từng không dám viết, nhưng lại là cảnh không thể nào quên và liên tục xuất hiện trở lại trong đầu bà. Câu chuyện cứ thế tiếp tục, chen vào bằng những hồi ức khác về tuổi thơ, về thành phố, về ngôi trường Công giáo bà từng theo học… Nỗi nhục, nỗi xấu hổ càng nhân lên gấp bội khi cô thiếu nữ bước vào tuổi dậy thì trong một xã hội đang xuống cấp và vấn đề phân chia giai cấp ngày một sâu hơn. Mối tình bí mật gây chấn động của nữ nhà văn đoạt giải Nobel Văn học - 3 "Nỗi nhục" là nguồn cơn mà tác giả cảm nhận về cha mẹ, về nghề nghiệp và môi trường sống của họ (Ảnh: Nhã Nam). Trong suốt hành trình sáng tác của mình, Annie Ernaux có một góc nhìn khác biệt về cuộc sống, giới tính và giai cấp. Thay vì cuốn người đọc vào những thăng trầm cuộc đời hay những chủ đề to tát, bà chỉ tập trung những sự kiện nhỏ nhặt, đời thường mà chân thực. Lịch sử của bà là lịch sử nhỏ, nhưng lịch sử nhỏ gắn kết với lịch sử lớn. Câu văn ngắn gọn, rõ ràng, văn phong tối giản và không hoa mỹ, những tác phẩm của Annie Ernaux đôi lúc bị chê khô khan, nhưng sự lạnh lùng ấy mới chính là thứ tạo nên vẻ đẹp riêng. Những cuốn sách của bà chạm đến tâm hồn người đọc, truyền tải những cảm xúc thô sơ mà không cần bất cứ thứ gì tô điểm. Tháng 10/2022, Annie Ernaux được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học. Bà trở thành nữ nhà văn người Pháp đầu tiên giành giải thưởng văn học danh giá nhất thế giới. Hội đồng trao giải Nobel đã vinh danh Annie Ernaux "vì lòng dũng cảm và sự nhạy bén sắc lạnh bà sử dụng để khám phá ra gốc rễ, sự bất hòa và những hạn chế của ký ức cá nhân". Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã nhận xét: "Suốt 50 năm qua, Annie Ernaux viết cuốn tiểu thuyết về ký ức tập thể và riêng tư của đất nước chúng ta. Tiếng nói của bà là tiếng nói của tự do, của người phụ nữ và của những điều đã bị lãng quên trong thế kỷ qua".  Mời các bạn mượn đọc sách Cơn Cuồng Si của tác giả Annie Ernaux & Thu Phương (dịch).