Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Áo Nghĩa Thư [pdf]

Uống nước uống tận nguồn.

Một công trình khảo cứu dù tinh vi đến đâu cũng không thể nào thay thế được kinh văn cội gốc. Giỏi lắm chỉ là một bộ xương khổ so với con người sống thật co linh hồn long lanh trong ảnh mắt và tỏa ra trong hơi thở. Ấy là chưa kể những công trình phản bội, làm sai nghĩa chiếm đến chín mươi phần trăm số sách khảo cứu. Xin kể một thí dụ.

Trước khi đọc những mảnh tàn văn của Parmenide, triết gia vĩ đại phải Eléc, tôi đã tìm hiểu qua những bộ triết sử và nghiên cứu của những học giả Tây phương đã thừa hưởng công trình vài chục thế kỷ. Đến khi bắt đầu đọc, tôi đi từ sửng sốt này đến sửng sốt khác vì mọi sách khảo cứu mà tôi được biết đều phản bội, lật ngược lại chủ ý sâu xa của Parménide, của phái Elée, một triết phải không để lại nhiều sách vở nhưng được coi là một trong những trường phải lớn của tư duy Hy Lạp, của thế giới Tây phương. Thời gian tôi dùng để đọc dăm trang khảo cứu là một vài giờ, còn đọc thẳng vào vài trang bản văn là mười lăm đêm, mỗi đêm 4 tiếng đồng hồ, tức là 60 giờ. Đỏ là một chuỗi hàm số liên tiếp mà người đọc phải tự giải, nhưng giải xong thì thấy cả núi sách khảo cứu dầu đúng cũng không đi vào chiều sâu, vào cải thần, ấy thế mà lại giải sai.

Nếu Parménide với triết phái Elée, được người Tây phương khảo sát nhiều thế kỷ vì tự coi là thừa kế triết học Hy Lạp, mà còn bị phản bội như thể thì những triết thư Ấn Độ như Upanishads được khảo sát ra san, ta có thể suy đoán được.

Người Việt ta vài ngàn năm quen với một dòng của triết đạo Ấn Độ là Phật giáo, nhưng về những dòng khác thì mới bắt đầu từ vài chục năm nay. Cho đến bảy giờ những bộ căn bản nhất như Upanishads cũng chỉ được trích dẫn vài câu đã trở thành sảo ngữ trong vài cuốn khảo cứu. Đã đến lúc uống nước uống tận nguồn. Bởi thế cho nên chúng tôi lựa chọn ba bộ tiêu biểu được đạo sư có uy tín người Ấn Độ là Shri Aurobindo vừa thừa hưởng được truyền thống, vừa có căn bản triết học Tây phương để bình giải, trình bày cho chúng ta thời bấy giờ hiểu nổi.

Ấn Độ có ba dòng lớn về triết học là: Bà-la- môn giáo, Kỳ-na giáo, Phật giáo. Trong lòng Bà la-môn giáo lại có sáu phải mà quan trọng nhất là hai phải. Số luận tức là Samkhya, Vệ Đàn-Đà tức Védanta nghĩa là Viên thành Vệ Đà.

Gạt ra ngoài vấn đề so sánh giá trị nội tại của hai phải này, mà chỉ nói quan niệm của đa số người Ấn cũng như học giả thế giới thì Vệ Đàn Đà được coi như tiêu biểu cho tư tưởng Ấn Độ, là cái phần tinh túy nhất mà văn hóa Ấn Độ cung hiến cho nhân loại. Đó là tư tưởng nhất nguyên coi vũ trụ, nhân loại, Thượng đế chỉ là một, chỉ có một Đại Ngã, Đại Hồn. Bởi thế cho nên Upanishads nhắc đến Thượng để hay đáng Chủ Tề thì ta chở nền lẫn với nhất thần giáo mà chỉ coi là một lối nói tạm để bị vượt ngay trong một bộ sách như phép giải toán lập số khử số để đi đến đáp số cuối cùng. Nó là nhất nguyên luận mà người Tây phương gọi là phiếm thần giáo, Phật giáo Đại thừa gọi là nhất như thuyết. Vedanta với Đại thừa cùng một dòng tư tưởng, đó là điều hiển nhiên tuyệt đối.

Kinh điển nòng cốt của Vedanta là những bộ Upanishads. Chúng tôi dịch là Áo Nghĩa Thư với danh từ thông dụng từ lâu của những nhà Phật học nhưng giá trị của nó không ở dưới những bộ được gọi là kinh thư như tử thư so với Ngũ Kinh. Là vì bên Ấn Độ, những bộ được gọi là Sutras, vẫn được dịch là kinh, chưa hẳn giá trị hơn những bộ không được gọi là Sutras. Bởi thế những bộ như Vedas tôn quí bậc nhất mà không gọi là sūtras. Và người ta đã có lý khi dịch kinh Vệ Đà. Vậy Áo Nghĩa Thư hay Áo Nghĩa Kinh cũng vậy.

Những bộ này được xếp sau những bộ Vệ Đà nên được coi là Liễu Kết Vệ Đà hay Viện Thành Vệ Đà với hai nghĩa đen và bóng: Nó được coi là rút tỉa tinh hoa của Vệ Đà, đào sâu mở rộng cái trực giác thần diệu nhất giữa nhiều trực giác ở Vệ Đà phong phủ như cái mỏ. Đó là trực giác về nhất nguyên luận hay nhất như thuyết

Những bộ Áo Nghĩa Thư thật nhiều, khởi từ trước hay ngang thời Phật Thích Ca đến cuối Trung cổ, nhưng những bộ căn bản được coi là có mười hai, mà ba bộ sau đây ở trong số đó. Những tác giả thường vô danh, những vị được nhắc đến ở bộ này bộ nọ là những bậc truyền miệng được người ta ghi lại thêm bớt mà có vị chỉ là nhân vật huyền thoại.

Những bộ này thường được coi là thần kỳ bí hiểm, những bản dịch nhiều khi khác nhau đến mực đưa ra những nghĩa không liên quan gì với nhau. Nên chúng tôi lựa chọn những bộ do đạo sư người Ấn dịch ra Anh ngữ, hơn hẳn những bản dịch của những học giả Tây phương mà tôi có để đối chiếu. Bản dịch từ Anh ngữ ra Pháp ngữ v hai bộ Isha và Mundaka do ông Jean Herbert đã được đạo sư Aurobindo hiệu chính, còn bản dịch Kena do ông Jean Herbert cộng tác với hai bạn là Cunulle Rao và René Daumal tuy không được đạo sự hiệu chính nhưng chắc chắn dùng tin cậy để tôi dịch lại ra tiếng Việt vì ông Jean Herbert đã cả đời hiến mình cho việc dịch, khảo và truyền bá triết đạo Ấn Độ, có tiếp xúc với nhiều bậc thầy Ấn hiện sống.

Chỉ xin có đôi lời về lối dịch của chúng tôi.

chữ Tat, Phạn ngữ, được dịch sang Pháp ngữ là chữ Cela, Cái y để ám chỉ Chân Thể mà người nghe được coi là đã ngầm hiểu. Người Việt tu đã quen từ lâu với tiếng Chân Như nên chúng tôi dịch là Chân Như. Đó là trong cuốn Isha nhưng sang cuốn Kena thì tài phải dịch sát là Cái Ấy vì Chân Thể trong cuốn này được coi như là một nghi vấn, một ẩn số đối với chủ thần, mãi đến cùng mới nhận ra.

Soham, tiếng Phạn, dịch sát ra Pháp ngữ là Je Suis Lui – chúng tôi dịch: Ta là Chân Như cũng vì lẽ trên.

Tattvam asi: - Tu es Cela – chúng tôi dịch: Ngươi là Chân Như cũng vì lẽ trên.

Chữ Étre thường được dịch là Hữu Thế mà theo Parménide, cổ triết gia Hy Lạp người đã xây dựng toàn bộ học thuyết trên ý niệm này, thì thuộc tỉnh lớn nhất của Hữu Thế là hằng hữu, bất sinh bất diệt, vậy chúng tôi dịch là Hằng Hữu để phân biệt với être thường không viết hoa dịch là hữu thể.

Chữ Existence có hai nghĩa chính là thực hữu hay hiện hữu và sinh tồn, chúng tôi dịch thành hữu tồn, tuy cũng có khi là sinh diệt, khi là sinh hóa, khi là sáng hóa, vừa theo tinh thần triết học Ấn Độ vừa uốn theo sắc thái, nhịp độ tư tưởng rất biến hóa linh động của Aurobindo.

Chữ Dissolution thường được dịch là hòa tan hay tiêu diệt chúng tôi dịch là tiêu nhập theo tinh thần ở dây.

Chữ Jeu có nhiều nghĩa, mà kể ba là trò chơi, sự vận dụng, sự xếp đặt xảo diệu, chúng tôi dịch, là trò diệu hóa hay diệu hóa lực theo hệ thống tư tưởng của Aurobindo vẫn gọi bằng tiếng Phạn là Lila thay cho Mâyân tức Huyễn Hóa.

Egoisme thường được dịch là vị kỷ, vị ngã, nhưng tư tưởng Ấn Độ còn suốt nguồn gốc vị ngã là chấp ngã vậy chúng tôi dịch là ngã chấp. Mental theo nghĩa của Tây triết là tâm trí và Mentalité là tâm tính, nhưng ở đây theo Ấn triết phải dịch là phàm thức và thức tỉnh đối với siêu thức tuy đôi chỗ có thể dịch đại khái là tâm thức hay thức và tâm tính.

Đó chỉ là một vài trong số nhiều thí dụ về lối dịch của chúng tôi không thể hoàn toàn y theo những tự điển hiện hành, nhưng có lẽ độc giả cũng thừa thông cảm.

Ngoài ra cũng nhắc đến một danh từ thường dùng đến là Phạm Thể dịch từ tiếng Phạn, Brahman. Theo quan niệm Ấn Độ thị Brahma là thần linh tối cao đã sinh ra vũ trụ, mà Brahman là bản thể của Brahmô cũng như chư thần, cũng như chúng ta cũng như vũ trụ theo lẽ nhất nguyên, vậy nếu Brahmà đã được dịch từ mấy ngàn xưa là Phạm Thiện thì bây giờ chúng tôi dich Brahman là Phạm Thể.

Về cú pháp, nhiều chỗ mông lung, hàm súc vì huyền diệu mà ông Jean Herbert cùng các bạn phải vượt khuôn khổ của Pháp ngữ, vốn nổi tiếng là minh bạch, khúc chiết, để phản ảnh với những câu như buông lơi, lỏng lẻo nên phải đọc kỹ bình giải mới quyết nghĩa được. Xem kinh văn, nếu thấy những chỗ bí hiểm thì độc giả không nên khổ công tìm hiểu mà cứ tạm để đó, tiến đến phần bình giải sẽ vỡ ra.

Đọc thẳng một bộ như thế này, quí vị sẽ thâm nhập hơn là loanh quanh mãi ở vành ngoài với những bộ khảo cứu có công dụng giúp ta bước đầu với những ý niệm đại khái như bộ xương khô so với người sống thực.

THẠCH TRUNG GIA 

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Sách Của Enoch (Enoch)
Cuốn sách của Hê-nóc thuộc về cái gọi là giả-epigraph. Nó được viết vào thế kỷ thứ nhất. BC. thay mặt cho tộc trưởng Hê-nóc trong Cựu ước. Về Hê-nóc, hậu duệ thứ bảy của A-đam, những điều sau đây được biết đến từ Kinh thánh: “Enoch đã sống 65 năm và sinh ra Mafusal. Và Hê-nóc đã đi trước mặt Đức Chúa Trời, sau khi sinh ra Methusal, ba trăm năm, và sinh ra các con trai và con gái. Tất cả những ngày của Hê-nóc là ba trăm sáu mươi lăm năm. Và Hê-nóc bước đi trước mặt Đức Chúa Trời; và anh ấy không còn nữa, bởi vì Chúa đã bắt anh ấy. " (Sáng thế ký 5: 21-24) Điều này đã làm nảy sinh các bình luận khẳng định rằng Hê-nóc (cũng như sau ông là nhà tiên tri Ê-li) đã được đưa lên thiên đàng khi còn sống, hoặc vì sự công bình đặc biệt, hoặc vì một số lý do. Cuốn sách của Hê-nóc, được viết bởi một tác giả (hoặc các tác giả) vô danh, kể về cuộc hành trình lên thiên đàng của Hê-nóc, nơi ông theo dõi cuộc nổi dậy của các Con Chúa, những bức tranh về ngày tận thế, hiểu được cơ chế trên trời và tương lai của các con trai của Y-sơ-ra-ên và nhiều điều bí mật khác. Những khải tượng và lời tiên tri của ông đã tạo thành cuốn sách này. Sách Hê-nóc được coi là trong thế giới Cơ đốc giáo sơ khai, mặc dù không phải là kinh điển, nhưng có thẩm quyền độc quyền. Nó được trích dẫn trực tiếp bởi tác giả của Thư tín Giuđa Giu-đe 1:14, những ám chỉ gián tiếp về nó là do Sứ đồ Phi-e-rơ, Clement thành Alexandria, Orgen và Tertyllian đề cập đến, cũng như tác giả của Thư tín không kinh điển. của Varnava (sau này thậm chí còn nói về nó như một phần của Kinh thánh). Sau khi quy định về Sách Thánh được thành lập, thẩm quyền của Sách Hê-nóc đã bị mất và văn bản của nó cũng bị mất. Tìm mua: Sách Của Enoch TiKi Lazada Shopee Nó chỉ được phát hiện một lần nữa vào năm 1773 bằng ngôn ngữ Ethiopia (Amhara), trong một bản dịch kép từ tiếng Aramaic hoặc tiếng Do Thái sang tiếng Hy Lạp, nhưng hoàn toàn, đây là một điều rất hiếm. Sau đó, trong cuộc khai quật ở Ahmim (Ai Cập), người ta đã tìm thấy hai mảnh vỡ lớn của văn bản tiếng Hy Lạp, và ở Qimran (Palestine) - một số lượng lớn các mảnh vỡ ngắn của tiếng Aramaic. Sự so sánh của họ cho phép chúng tôi coi văn bản này, được dịch từ tiếng Ethiopia, là xác thực. Việc chia nhỏ nó thành các chương rất đơn giản, các nhà nghiên cứu (R. Charles) thấy trong đó có nhiều phần hỗn hợp, khác nhau, bao gồm sự kết hợp của các đoạn (được đánh dấu trong văn bản của chúng tôi bằng số trong dấu ngoặc vuông). Có một thần tích khác của Enoch trong Old Church Slavonic - cái gọi là. Cuốn sách thứ hai của Hê-nóc Để dễ đọc, chúng tôi đã chia nó thành năm phần lớn. 1. Cuộc hành trình thần bí của Hê-nóc 2. Three of Enoch's Pitch 3. Về các thiên thể 4. Hai khải tượng của Hê-nóc 5. Hướng dẫn cho trẻ emĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sách Của Enoch PDF của tác giả Enoch nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Phật Giáo Nam Tông Tại Vùng Nam Bộ (Thích Nhật Từ)
Quyển sách trên tay quý vị “Phật giáo Nam tông tại vùng Nam bộ” là tập hợp một phần những bài viết của các nhà Phật học, các nhà nghiên cứu tham dự hội thảo quốc gia về cùng chủ đề, do Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. HCM đồng tổ chức vào ngày 10/01/2021. Bốn quyển sách còn lại được xuất bản từ hội thảo nêu trên gồm: (i) Phật giáo vùng Nam bộ: Sự hình thành và phát triển, (ii) Phật giáo vùng Nam bộ trong thế kỷ XX, (iii) Các hệ phái Phật giáo và tôn giáo mới tại vùng Nam bộ, (iv) Phật giáo các tỉnh và thành phố tại vùng Nam bộ. Phật giáo vùng Nam bộ luôn đi đầu về sự nghiệp phát triển Phật giáo toàn quốc trong thế kỷ XX. Vùng Nam bộ không chỉ là mảnh đất phát triển các trường phái, hệ phái, giáo phái Phật giáo, mà còn là nơi phát sinh các tôn giáo mới có nguồn gốc từ Phật giáo và một số tôn giáo mới chịu ảnh hưởng từ Phật giáo. Vùng Nam bộ là nơi khởi nguyên của các tổ chức, phong trào chấn hưng Phật giáo trong thế kỷ XX, nổi trội nhất có Lưỡng Xuyên Phật học hội (1934), Hội Phật giáo kháng chiến miền Tây Nam bộ (1940), Hội Phật học Nam Việt (1950), Giáo hội Tăng già Nam Việt (1951), Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam (1957), Ủy Ban liên phái bảo vệ Phật giáo Việt Nam (1959), Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (1964), nhập thế mạnh và phát triển bền vững nhất là Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981-nay).Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Thích Nhật Từ":Nghệ Thuật Hạnh Phúc Trong Thế Giới Phiền NãoTinh Hoa Trí TuệKinh Phật Cho Người Mới Bắt ĐầuHạnh Phúc Giữa Đời ThườngChuyển Hóa Cảm XúcChuyển Hóa Sân HậnChìa Khóa Hạnh Phúc Gia ĐìnhPhật Giáo Nam Tông Tại Vùng Nam BộKinh Vu Lan Bồn - Vu Lan Báo HiếuĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Phật Giáo Nam Tông Tại Vùng Nam Bộ PDF của tác giả Thích Nhật Từ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ngũ Giới Là Thường Giới Của Mọi Người (Dhammarakkhita Bhikkhu)
Ngũ-giới (pañcasīla) là thường-giới (nicca-sīla) của tất cả mọi người trong đời, không ngoại trừ một ai cả, không phân biệt già trẻ, trai gái, dân tộc nào cả, hễ là người tại gia thì phải giữ gìn ngũ-giới cho được trong sạch và trọn vẹn, bất luận là người có thọ trì ngũ-giới hoặc không thọ trì ngũ-giới cũng đều có bổn phận giữ gìn ngũ-giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ngũ Giới Là Thường Giới Của Mọi Người PDF của tác giả Dhammarakkhita Bhikkhu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tìm Hiểu Phước Bố Thí (Dhammarakkhita Bhikkhu)
Ðức Phật thí dụ về phước bố thí: Một căn nhà bị cháy, chủ nhân đem ra được khỏi nhà đồ vật nào, đồ vật ấy hữu dụng đối với chủ nhân; những đồ vật còn lại trong nhà bị thiêu hủy, chẳng ích lợi gì cho chủ nhân cả. Cũng như vậy, sắc thân này cũng ví như một căn nhà luôn luôn bị thiêu hủy do bởi 11 thứ lửa không ngừng nghỉ, bậc Thiện trí biết vậy, nên sử dụng của cải nào đem ra bố thí, của cải ấy là nhân tạo nên phước thiện, thuộc của riêng mình, hỗ trợ cho thí chủ được sự an lạc trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai. Nếu phước thiện bố thí ấy trở thành pháp hạnh bố thí ba la mật, thì hỗ trợ cho các ba la mật khác được thành tựu, để dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và cuối cùng đạt đến cứu cánh Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, nhờ pháp hạnh bố thí ba-la-mật làm nền tảng.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tìm Hiểu Phước Bố Thí PDF của tác giả Dhammarakkhita Bhikkhu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.