Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lan Hữu - Nhượng Tống

Khu vườn của Nhượng Tống Năm 1940, đúng mười lăm năm sau khi Song An Hoàng Ngọc Phách cho xuất bản Tố Tâm, Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân in Lan Hữu ở nhà xuất bản Lê Cường, Hà Nội, với "Lời tựa" của Lưu Trọng Lư. Giờ đây nhìn lại, ta chỉ có thể kinh ngạc khi thấy hai cuốn tiểu thuyết gần nhau đến thế về nhiều mặt lại có số phận khác nhau đến vậy. Cách tồn tại của Nhượng Tống ở trong hậu thế rất giống một nhà văn lớn khác cùng thời: Khái Hưng. Sau này cả hai vẫn sẽ được biết đến, nhưng chủ yếu là theo lối phiến diện. Văn nghiệp của Nhượng Tống thường chỉ được nhìn nhận qua các bản dịch (những bản dịch tuyệt vời như Nam Hoa kinh, Thơ Đỗ Phủ, Mái Tây tức Tây sương ký... nhưng cả ở mảng này người ta cũng ít biết Nhượng Tống còn dịch Ngọc Lê Hồn một cách trác tuyệt, chưa kể nhiều dịch phẩm khác nữa), trong khi ông còn là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia tài năng, về phần Khái Hưng người ta chỉ biết đến Hồn bướm mơ tiên hay Nửa chừng xuân và một số tác phẩm khác, trong khi Băn khoăn, cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông, in năm 1943, mới thực sự là một kiệt tác. Rất có thể, toàn bộ mảng văn xuôi đồ sộ của văn chương tiền chiến Việt Nam chỉ có ba tiểu thuyết thực sự lớn, là Tố Tâm, Lan Hữu và Băn khoăn. Trong bộ ba ấy, chỉ mình Tố Tâm có được số phận tương đối xứng đáng với giá trị của mình. Nhưng lịch sử văn chương là câu chuyện của các giá trị, nếu không thì ta sẽ không có lịch sử văn chương. Cả Tố Tâm, Lan Hữu và Băn khoăn đều là những câu chuyện tình. Tố Tâm đã quá nổi tiếng với cốt truyện bi thảm của nó, Lan Hữu là cái nhìn đầy thương xót nhưng không kém phần tỉnh táo của một người trưởng thành nhớ lại mối tình xưa, còn Băn khoăn, với những câu chuyện tình ái lắt léo của nó, là cuốn tiểu thuyết Việt Nam xứng đáng nhất, và rất có thể cũng là duy nhất, của một giai đoạn suy đồi. Một cuốn tiểu thuyết được coi là lớn, là "giá trị" một cách toàn diện nhất, khi bên trong nó chứa đựng những điều kỳ diệu, giống như hạt mầm giấu kín ở đâu đó, sẽ hồi sinh và nảy nở mãnh liệt khi gặp được môi trường phù hợp và xứng đáng. Tố Tâm đã có một số phận như vậy, và giờ đã đến lúc chúng ta cần trả về đúng vị trí một tác phẩm khác, không kém phần kỳ diệu - Lan Hữu của Nhượng Tống. Đến nay, ngoài lần ra mắt năm 1940, nó mới chỉ tái xuất một lần duy nhất, tại nhà xuất bản Á Châu (Hà Nội) đầu thập niên 50, vài năm sau khi Nhượng Tống qua đời. Lan Hữu có thể được đọc trên ba phương diện: vì nó thuật lại rất trung thực một quãng đời tác giả, đây chính là một tài liệu quan trọng góp cho việc tìm hiểu tiểu sử Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân, một tiểu sử mới chỉ được biết đến sơ sài, với rất nhiều chi tiết nhầm lẫn. Vì gia cảnh, Nhượng Tống phải bỏ học rất sớm vào năm mười tám tuổi, sau khi thân phụ qua đời (người cha bất đắc chí, tuy từng là "thủ khoa thành Nam", nhưng giữa một thời kỳ lịch sử u tối, đã chán chường mà chết: cái chết này được thuật lại rất cặn kẽ trong Lan Hữu). Vụ việc liên quan đến mấy mẫu đất gây thiệt hại lớn cho gia đình Nhượng Tống cũng được kể lại trong Lan Hữu. Đặc biệt, tác giả viết rất chuẩn xác về dòng dõi của mình: "nối dõi cái mạch thư hương của nhà tôi, truyền từ đời Lê cho đến bấy giờ". Nhượng Tống thuộc một gia đình rất thành đạt về học vấn suốt nhiều thế hệ, tiền nhân của ông từng là thầy dạy hai nhân vật lớn của "thành Nam" là Nguyễn Khuyến và Trần Bích San. Nhượng Tống bộc lộ tài năng văn chương rất sớm, mười sáu tuổi đã có bài đăng trên Khai Hóa (tờ báo của nhà tư sản Bạch Thái Bưởi), đúng như trong Lan Hữu có kể. Sự nghiệp báo chí của Nhượng Tống còn dài: vài năm sau Khai Hóa là đến giai đoạn cộng tác với tờ Thực nghiệp dân báo với yếu nhân Mai Du Lân; ngay sau đó, ông cùng vài người bạn lập ra Nam Đồng thư xã, in một số sách, tài liệu. Nhượng Tống là thành viên sáng lập của Việt Nam Quốc dân đảng, dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học; vì được Nguyễn Thái Học giao nhiệm vụ ở Huế năm 1929 rồi bị mật thám Pháp bắt nên Nhượng Tống tình cờ mà thoát khỏi chuỗi án tử hình đẫm máu của thực dân đầu thập niên 30, trong đó chấn động hơn cả là "vụ Yên Bái", khi những người đồng chí thân thiết của ông như Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính bỏ mình dưới lưỡi dao máy chém. Thoát chết nhưng Nhượng Tống phải chịu cảnh tù đày ở Côn Đảo (trong Lan Hữu cũng có lúc ông ám chỉ chuyện này: "đày tôi ra Côn Đảo ba năm, tôi không sợ bằng đày tôi cửa chùa Thiên Trù suốt ba tháng hội") và tiếp theo là những năm dài bị quản thúc ở quê, định kỳ phải ra Phủ Lý trình diện mật thám. Nhượng Tống còn viết báo thêm vài năm từ sau 1945, ở các tờ như Chính nghĩa, Thời sự... ông mất năm 1949 ở Hà Nội. (Trong các tài liệu tra cứu phổ biến nhất hiện nay, ta thường đọc ở tiểu sử Nhượng Tống hai chi tiết: sinh năm 1897 và được thả từ Côn Đảo về năm 1936; hai chi tiết này đều sai, vì Nhượng Tống tuổi Bính Ngọ, sinh năm 1906 và sau các sự kiện của Việt Nam Quốc dân đảng, Nhượng Tống được thả khỏi Côn Đảo trước 1936 nhiều, bởi trước đó mấy năm ông đã lấy vợ ở quê nhà Ý Yên; các chi tiết này hiện nay đều còn lại văn bản để kiểm chứng). Trong Lan Hữu, Nhượng Tống buộc lòng phải giấu đi nhiều chi tiết để tránh kiểm duyệt của chính quyền (thế nhưng vẫn bị kiểm duyệt bỏ thêm nhiều chỗ). Chí khí cách mạng của ông có lẽ thể hiện đậm nét hơn cả trong Lan Hữu ở đoạn luận thơ với cha và bác (người bác thích Lý Bạch, người cha nhiều phẫn uất lại thích Lục Du); khi được hỏi, cậu bé Ngọc nhận là mình thích nhất thơ Đỗ Phủ, bởi: thơ ấy gồm "biết bao nhiêu bài tả những cảnh huống khổ nhục của đám dân nghèo. Mỗi khi con đọc, lại thấy như có đám người khố rách, áo ôm ấy kêu khóc ở bên tai, mà trong lòng thì uất ức muốn đứng phắt dậy... Thơ như thế mới thật là 'khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán'." Câu chuyện này cũng được Nhượng Tống kể lại bằng thơ, bài thơ ấy dùng làm lời tựa cho bản dịch Thơ Đỗ Phủ in năm 1944, sau Lan Hữu bốn năm; đoạn đầu của bài thơ như sau: Tôi biết đọc thơ từ thuở nhỏ Trong thơ thích riêng thơ Đỗ Phủ. Một hôm thầy tôi hỏi: "Tại sao?" Đứng dậy chắp tay tôi sẽ ngỏ Rằng: "Tại thơ ông là đời ông: Lạ, đẹp, hùng tráng mọi vẻ đủ, Mà còn chan chứa một lòng thương Những kẻ nghèo nàn, phường xấu số. Vì tấm lòng ấy nên nhiều khi Đối với quan lại với vua chúa Ông thường chê trách, thường mỉa mai, Không thèm nịnh hót, không xu phụ. Ngoài một thiên tài hiếm có ra, Ông còn một tâm hồn hiếm có..." Nghe xong, thầy tôi gật đầu cười Dạy rằng: "Ồ! mày thật con bố! Thế nhưng bất lợi ở thời này! Rồi đó xem: Đời mày sẽ khổ!" Lan Hữu lại có thể được đọc như một sự "chuyển dịch cốt truyện" Hồng Lâu Mộng vào khung cảnh Việt Nam, với hai điều rất dễ thấy: đại quan viên của Vinh phủ trong Hồng Lâu Mộng được chuyển về tỉnh Thái Bình, trong khi mối tình tay ba Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa được tái hiện trong mối quan hệ của (Lương) Ngọc, (Mai) Hữu và Lan. Nhượng Tống chọn cho nhân vật của mình cái tên "Ngọc" với rất nhiều chủ ý. Nó rất gần với tên thật của ông nhưng ngay lập tức cũng gợi đến Giả Bảo Ngọc, và Ngọc của Lan Hữu cũng mau chóng nhắc thẳng tới Hồng Lâu Mộng (thông qua Thạch đầu ký), và cụ thể hơn, bài thơ "Khóc hoa" nổi tiếng mà Ngọc dùng để dò xem Hữu có yêu mình hay không. (Lan Hữu, qua chuyện Ngọc dịch "Táng hoa từ", nhắc ta nhớ đến Nhượng Tống trong vai trò một dịch giả kiệt xuất. Giai đoạn rực rỡ nhất của sự nghiệp dịch thuật Nhượng Tống là mấy năm trước 1945, chủ yếu in ở nhà xuất bản Tân Việt với ông chủ Lê văn Văng là một người thân tình với ông. Tính riêng "Lục tài tử thư" do Kim Thánh Thán bình chọn, ông đã dịch ít nhất năm: Nam Hoa kinh, Ly Tao, Sử ký, Thơ Đỗ Phủ, Mái Tây (Tây sương ký). Có tài liệu cho biết Nhượng Tống từng dịch cả Hồng Lâu Mộng, Đạo đức kinh, thậm chí cả cuốn thứ sáu của "Lục tài tử thư" là Thủy hử. Trước đó, cuối thập niên 20, ông cũng đã dịch Ngọc Lê Hồn của Từ Chẩm Á với nhan đề tiếng Việt Dưới hoa cùng một số tác phẩm nhỏ khác. Riêng năm 1945, ông in ít nhất ba cuốn sách: Nguyễn Thái Học, Tân Việt Cách mệnh đảng và Hỗ trợ. Thảo luận - đây là thời điểm Nhượng Tống chứng tỏ vai trò sử gia và nhà bình luận chính trị-xã hội của mình. Từ 1945, Nhượng Tống còn viết vài vở kịch, dịch một ít Liêu Trai chí dị và tác phẩm Hương ngọc; dùng bút danh Mạc Bảo Thần để dịch Đại Việt sử ký toàn thư và Lam Sơn thực lục. Ông còn giúp Thi Nham Đinh Gia Thuyết hiệu chỉnh và dịch thêm Ức Trai tập - tác phẩm mới chỉ ở dạng bản thảo. Trước tác của Nhượng Tống còn rải rác trong một số tuyển tập giờ đây ít người được biết đến như Tản văn mới của "Thư viện Tố Như" trước 1945; thơ của ông từng được Trúc Khê Ngô văn Triện bình luận trên Văn học tạp chí và xuất hiện không ít trong Thi thoại của Văn Hạc Lê văn Hòe in năm 1942; một nhà phê bình văn học nổi tiếng từng bình luận về văn chương Nhượng Tống là Vũ Ngọc Phan miêu tả văn chương ấy "tài hoa lãng mạn"). Bởi vì trước hết là những bông hoa: "Nguyên từ bé tôi đã có tính yêu hoa", ngay ở đầu cuốn sách, Nhượng Tống đã viết như vậy. Lan là tên một loài hoa, còn Hữu có tên đầy đủ là "Mai Hữu", cũng liên quan đến một loài hoa khác (ngay câu chuyện tình với hai cô gái trong đó một là họ hàng cũng từng xảy ra trong đời thật Nhượng Tống). Tình yêu hoa xuất phát từ tình yêu đối với người ông qua đời năm Ngọc mười bốn tuổi, một người rất gắn bó với cậu bé trong một thời gian dài: "ngoài sự sợ, tôi cũng yêu ông tôi và yêu cả những cây hoa mà ông tôi yêu. Là vì ông tôi yêu thứ hoa nào, lại cắt nghĩa cho tôi biết tại sao mà ông tôi yêu. Và tôi khi ấy, ông tôi nói gì tôi cũng cho là phải cả. Những khi tôi theo ông tôi ra vườn, lại được nghe ông tôi kể cho nghe các chuyện cổ tích về hoa. Nào chuyện Võ Tắc Thiên bắt hoa đi đày, nào chuyện Đường Minh Hoàng giục hoa phải nở. Nào vô số những chuyện hoa hóa ra người, người hóa ra hoa. Nghe nhiều những chuyện ấy, tôi thành ra coi các hoa trong vườn đều là những người bạn có cảm giác như tôi, chỉ kém tôi cái biết đi và biết nói". Nhiều khi ta tưởng như tình của Ngọc nồng nàn nhất là với các loài hoa, thậm chí còn hơn tình của Ngọc với Lan và Hữu; để tang cuộc tình suốt mấy năm trời, Ngọc đặt trước ảnh họ lọ hoa để thờ, và những câu văn đẹp nhất trong Lan Hữu là dành cho hoa: "Dưới trăng, các cây hoa hiện ra trước mắt tôi như những mặt bạn thân, vắng mấy ngày mới lại gặp", hoặc khi gặp lại Hữu trên Phú Thọ: "Dưới ánh trăng tà, các cây hoa trồng trong các chậu in bóng cành bóng lá xuống đầy sân. Tôi ước ao lại được cùng Hữu ngồi đôi nói chuyện ở giữa cảnh vườn xuân". Mối sầu tình của Ngọc trong Lan Hữu cũng có yếu tố họ hàng như cuộc tình duyên bi lụy của Hồng Lâu Mộng. Hoa và tình, nhưng cũng thêm cả mộng nữa: ít có tiểu thuyết Việt Nam nào tả mộng nhiều và hay như Lan Hữu. Về sau, cuộc tình không còn là thực nữa, chỉ là mộng mà thôi: "Trong mộng, tôi với họ cùng sống cuộc đời êm ái năm xưa. Trong mộng, nhan sắc của họ càng thêm rực rỡ, câu chuyện của họ càng thêm thơ ngây". Lan Hữu "viết lại" Hồng Lâu Mộng theo một cách thức chưa từng có, không khỏi làm ta liên hệ tới những gì mà Nguyễn Du từng làm với Kiều. Và tất nhiên, trước hết, Lan Hữu cần được đọc cho chính nó, với chính nó. Câu chuyện của Lan Hữu rất ý vị và không hề đơn giản. Nó lại được viết một cách hết sức chín chắn, bởi con mắt hồi cố của một người đã trải đời nhìn lại tuổi hoa niên thơ mộng. Ngọc không phải là Đạm Thủy của Tố Tâm, vì Ngọc ý thức rất rõ sự phi lý của tình duyên, thậm chí đến cả tính chất vớ vẩn của những mối tình thơ trẻ. Nhưng vẫn có đó nỗi ngậm ngùi khôn nguôi: "Tuy trong khi yêu ấy tôi đă tốn bao nước mắt, bao tiếng thở dài, cùng chịu bao mối cảm xúc mệt người, năm mười sáu tuổi, tôi nhìn lại vẫn là một năm có hạnh phúc"; hạnh phúc ở tuổi mười sáu là điều được Nhượng Tống nêu lên ngay từ đầu Lan Hữu, và sẽ được lặp lại nhiều lần trong suốt tác phẩm. Khởi đi là nỗi bàng hoàng của tình yêu đầu đời, càng bàng hoàng hơn vì nhận ra cùng một lúc mình yêu cả hai người con gái: "Tôi bắt đầu cảm thấy cuộc đời phiền phức vô cùng", và nảy sinh một khát vọng rất trẻ con: "Người tôi yêu chẳng phải là người tri kỷ, mà người tri kỷ lại chẳng phải là người tôi yêu! Tôi ước ao có thể hợp cả Lan lẫn Hữu làm một người". Hữu, cô em họ, xuất hiện trước, đó là mối tình đầu tiên, nên khi có thêm Lan, thoạt tiên với Ngọc, tình cảnh là: "Vướng có Lan, tôi mất cả tự do yêu Hữu", nhưng dần dần Ngọc nhận ra Lan có những điều mà Hữu không hề có, "[h]uống chi Lan yêu tôi có khi còn hơn Hữu: Lan còn biết thương cái tài của tôi nữa. Ở đời, được một người yêu mình, biết mình cũng khó lắm chứ!" Không chỉ là bạn thanh khí với Ngọc, Lan còn là tri kỷ, lại có một tấm lòng yêu tường chừng như mù quáng; Lan cũng là một con người quyết liệt, như thể sẵn sàng chống đối mọi ràng buộc gia đình, xã hội để được yêu Ngọc. Trước mối cuồng tình như vậy, một cậu bé mười sáu tuổi đầy nhút nhát khó có thể thoát được mảnh lưới đã buông, cho đến lúc phải bật ra ý nghĩ: "tôi vẫn tin ái tình chuyên nhất mới thật là ái tình, mà nay tôi tự trông thấy trái tim tôi chia đôi cho Lan và Hữu". Nhìn lại một cách tỉnh táo, pha rất nhiều "vỡ mộng", nhưng tài năng tiểu thuyết của Nhượng Tống nằm ở chỗ ông vẫn thổi được vào câu chuyện lẽ ra không mấy đặc sắc một tấm màn vi diệu của tình cảm, của lòng thành thực yêu mến tuổi trẻ; giọng văn đầy tiết chế, nhiều khi lạnh lùng, thiên hẳn về hướng phân tích, lại càng làm nổi bật lên một tâm hồn yêu đương nồng cháy, lẫn vào với những dằn vặt nội tâm không ngừng, thậm chí còn nhiều khi đi tới chỗ tự khinh bỉ chính mình. Tâm hồn ấy cũng có thể rất lạ: khi mới đến một khu vườn mới, thỏa lòng mong mỏi được kề cận với những bông hoa, trong lòng Ngọc nảy ra một ý nghĩ: "Thiếu giai nhân, tôi đành mong được gặp hồ, gặp quỷ như những anh chàng nào trong truyện Liêu Trai". Cái tâm hồn Á Đông đa tình trộn lẫn với huyền hoặc này, thỉnh thoảng ta mới thấy, một cách kỳ diệu, ở một số tác phẩm văn chương Việt Nam, chẳng hạn như khi Đinh Hùng viết những câu thơ: Có những bông hoa, tiền thân là thiếu nữ Những mùi hương rạo rực hiện hình người Hương công chúa và men say hoàng tử Cánh bướm thời gian treo võng tóc buông lơi Lan Hữu là cả một bầu trời huyền hoặc của tình tuổi trẻ được Nhượng Tống, sau khi đã thấm thìa rằng "đời là một cuộc đổi thay, muôn sự, muôn vật ở trên đời, nào có cái gì là vĩnh viễn", thuật lại một cách kỳ diệu. Dau câu chuyện này, đúng như Lưu Trọng Lư đã nhìn ra khi viết lời tựa cho bản in 1940, là chuyện mà ai cũng có, ai cũng giấu đâu đó trong ngóc ngách ký ức mình, thì cách kể của Nhượng Tống, bởi nó thu gom được những tinh túy của Hồng Lâu Mộng lẫn những gì mà chỉ mình tâm hồn Nhượng Tống mới có, vẫn còn gây rung động mãnh liệt ở độc giả sau đến ba phần tư thế kỷ. Lan Hữu chính là một khu vườn, khu vườn ngôn từ của nhà nghệ sĩ Nhượng Tống, cho đến giờ vẫn không hề cũ kỹ, thậm chí còn mới mẻ đến bất ngờ, và đó cũng là một khu vườn hoa, nhưng là một khu vườn không hề tầm thường, nơi in dấu hạnh phúc và cũng chứa đựng biết bao nhiêu thương xót của một dĩ vãng: "Kìa cảnh vườn hoa, tôi không dám bước chân ra nữa: Đấy là nơi nghĩa địa đã vùi xương [cái "tôi" mơ mộng và sung sướng]". Khu vườn ấy xứng đáng được những tâm hồn đồng điệu viếng thăm với lòng ngưỡng mộ chân thành. Cao Việt Dũng *** Lời tựa (cho ấn bản 1940) Người đề tựa với tác giả là chỗ thân tình, nhưng không phải vì cớ ấy mà tán hươu tán vượn, vẽ rồng vẽ rắn vào cuốn sách. Người đề tựa cũng không phải là cốt để giới thiệu ông Nhượng Tống với độc giả. [...] Quyển Lan Hữu chính là một trong những tập văn của Nhượng Tống viết trong thời gần đây. Một cuốn tiểu thuyết tình không hơn, không kém. [...] Nhượng Tống, trong một thuở, đã có những rung động tưng bừng, trong sáng hay âm u mà nay anh cứ việc chép lại, qua ký ức. Người ta trong một đời, ai lại không có một câu chuyện tâm sự để thuật lại hay để chép ra. Nhưng cả cái giá trị, cả nghệ thuật là ở sự kể lại mà thôi, chứ thực ra, những câu chuyện của người ta đều na ná giống như nhau cả: cũng chỉ là những bản đàn thiên cổ - tuy có đổi xoang, đổi điệu mà vẫn là những bản xưa, đã giấu ở trong lòng người, cái lòng người duy nhất, không xứ sở không kim cổ. Lan Hữu cũng chỉ là cái mộng - hay những cái bóng mộng ở trong giấc ngủ tưng bừng của các người niên thiếu, ở đây, cũng như ở trong các giấc mộng khác của người niên thiếu, người ta cũng vẫn tìm thấy ở trong, cái rộn rực, cái quằn quại, cái bâng khuâng: sự chia ly ở trong tâm hồn, ở trong cuộc đời. Nhưng mộng đẹp đến đâu, rồi cũng tàn, và chì để lại cho người ta một chút thương tiếc ở trong lòng hay đầu lưỡi. Mối tiếc thương ấy, ở văn nhân, thành gần như là một duyên nợ cả đời. Người ta lúc nhỏ ai cũng có một điều buồn não, một chuyện thương tâm. Cái buồn ấy ở một vài người thường thường mỗi năm về một lần... giống như cái cuộc du lịch hằng năm của các con chiên về đất Thánh. Truyện Lan Hữu chính là cái buồn hằng năm của người ta, đã về theo một ngọn gió đầu thu hay cuối hạ. Lan Hữu cũng là một ngọn gió hằng năm đến gợi dậy ở trong lòng ta những hình bóng âm u của một chuyện cũ - mà ai ai lại chẳng có một câu chuyện như thế...? Đó chỉ là như lời Baudelaire đã nói: Một giấc mộng nồng nàn dệt xe trên gối kẻ thiếu niên. Vì thế, Lan Hữu là cuốn sách của mọi người... Nhưng không phải là một cuốn sách tầm thường: tác giả đã cho nó một sức mạnh huyền diệu khiến cho ta không thể ngừng lại một quãng nào ở trên quyển sách. Ta chỉ muốn đọc nhanh đi cho chóng hết, để hưởng thú gấp sách lại. Tất cả giá trị, tất cả tài nghệ của cuốn sách là ở chỗ này: tác giả là một người kể chuyện rất khéo, khiến cho một câu chuyện của mình mà người tưởng như của người, một câu chuyện rất bình thường mà tưởng như rất mới lạ, một giấc mộng hằng ngày ở bên gối, mà tưởng như xa vời ở trong một trời nước xa xôi... Vì tác giả là một nhà tiểu thuyết xứng với danh nghĩa ấy. Và đó chỉ mới là sự bắt đầu... Lưu Trọng Lư Mời các bạn đón đọc Lan Hữu của tác giả Nhượng Tống.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hiệu Sách Nhỏ Ở Paris
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết  Hiệu Sách Nhỏ Ở Paris của tác giả Nina George & Chi Ân (dịch) "Nếu bạn đang muốn bị mê hoặc đến quên cả đời trong vòng vài giờ đồng hồ, hãy ngồi xuống và đ5oc cuốn tiểu thuyết thông mình và hấp dẫn này."  - OPRAH.COM Cuốn sách là câu chuyện về Monsieur Perdu, chủ tiệm sách bên bờ sông Seine, người tự gọi mình là dược sĩ văn chương. Nhờ giác quan đặc biệt của mình, ông có thể kê đơn cho độc giả chính xác những cuốn sách giúp họ vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Chữa lành vết thương, hàn gắn trái tim người khác, song Monsieur Perdu lại không thể chữa cho chính mình, và trái tim ông vẫn luôn rỉ máu từ khi người yêu ông bỏ ra đi để lại một bức thư mà ông chưa từng mở ra. Rồi đến một ngày, ông đọc lá thư và quyết định khám phá kết cục của câu chuyện đời mình. Cùng với một tác giả sách bán chạy nhưng bị cấm xuất bản, và một đầu bếp người Ý thất tình, Perdu du hành dọc theo những dòng sông nước Pháp, cho chúng ta thấy rằng thế giới văn chương có thể đưa tâm hồn con người lên một cuộc du hành hàn gắn và chữa lành như thế nào.   Hiệu sách nhỏ ở Paris là một lá thư tình gửi đến sách, đến tất cả những người tin rằng sức mạnh của những câu chuyện có thể định hình cuộc sống của chúng ta. New York Times Bestseller A Barnes and Noble Best of 2015 Selection A Library Reads Favorite of the Favorites Selection *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết "Hiệu sách nhỏ ở Paris" của tác giả Nina George kể về câu chuyện của Monsieur Perdu, chủ tiệm sách bên bờ sông Seine, tự gọi mình là "dược sĩ văn chương". Nhờ giác quan đặc biệt của mình, ông có thể kê đơn cho độc giả chính xác những cuốn sách giúp họ vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Chữa lành vết thương, hàn gắn trái tim người khác, nhưng Monsieur Perdu lại không thể chữa cho chính mình. Trái tim ông vẫn luôn rỉ máu từ khi người yêu ông bỏ ra đi để lại một bức thư mà ông chưa từng mở ra. Rồi đến một ngày, ông quyết định đọc lá thư và khám phá kết cục của câu chuyện đời mình. Cùng với một tác giả sách bán chạy nhưng bị cấm xuất bản, và một đầu bếp người Ý thất tình, Perdu du hành dọc theo những dòng sông nước Pháp, cho chúng ta thấy rằng thế giới văn chương có thể đưa tâm hồn con người lên một cuộc du hành hàn gắn và chữa lành như thế nào. Review "Hiệu sách nhỏ ở Paris" là một câu chuyện nhẹ nhàng, sâu lắng về sức mạnh của văn chương. Cuốn sách đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình và độc giả trên toàn thế giới, được bình chọn là một trong những cuốn sách bán chạy nhất của năm 2015. Nina George đã khéo léo lồng ghép những câu chuyện văn học kinh điển vào tác phẩm của mình, tạo nên những chi tiết đầy cảm xúc và ý nghĩa. Cuốn sách cũng đề cập đến những vấn đề sâu sắc trong cuộc sống, như tình yêu, sự mất mát, và quá trình chữa lành. "Hiệu sách nhỏ ở Paris" là một cuốn sách đáng đọc cho tất cả những ai yêu thích văn học và muốn tìm kiếm một câu chuyện nhẹ nhàng, ấm áp về tình yêu, cuộc sống và những khả năng kỳ diệu của văn chương. Đánh giá Tình tiết: Cuốn sách có cốt truyện đơn giản, dễ hiểu nhưng không kém phần hấp dẫn. Các nhân vật được xây dựng chân thực, gần gũi với người đọc. Cốt truyện: Cuốn sách đề cập đến những vấn đề sâu sắc trong cuộc sống, nhưng được xử lý một cách nhẹ nhàng, tinh tế. Nội dung: Cuốn sách mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về tình yêu, sự mất mát, và quá trình chữa lành. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong cuốn sách mượt mà, cuốn hút, dễ dàng đi vào lòng người. Kết luận "Hiệu sách nhỏ ở Paris" là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc cho tất cả những ai yêu thích văn học và muốn tìm kiếm một câu chuyện nhẹ nhàng, ấm áp về tình yêu, cuộc sống và những khả năng kỳ diệu của văn chương. Mời các bạn đón đọc sách Hiệu Sách Nhỏ Ở Paris của tác giả Nina George & Chi Ân (dịch)
Thân Phận Con Người
Năm 1933 quyển La Condition humaine (“Thân phận con người”) ra đời. Quyển tiểu thuyết thứ ba của Malraux lấy lại bối cảnh là cuộc đấu tranh cách mạng tại Trung quốc, vào thời kỳ xảy ra cuộc tranh chấp giữa quân đội Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch và những lực lượng cộng sản trong thời kỳ manh nha. Quyển tiểu thuyết chấm dứt vào thời điểm xảy ra cuộc tàn sát các đảng viên cộng sản do quân đội Tưởng Giới Thạch tiến hành, trước khi Mao Trạch Đông quyết định cuộc trường chinh về phía Bắc để bảo toàn lực lượng. Một lần nữa, tiểu thuyết của Malraux không phải là một tài liệu lịch sử, kể lại cuộc xung đột giữa các lực lượng Quốc Dân đảng và cộng sản năm 1927. “Thân phận con người”, sau quyển “Những kẻ chinh phục”, lại dùng bối cảnh lịch sử để trình bày quan điểm của tác giả về con người và ý nghĩa cuộc sống. Thay vì có một, hai nhân vật chính chi phối toàn bộ tác phẩm, quyển “Thân phận con người” dựng lên hàng chục nhân vật có tầm quan trọng ngang nhau: những chiến sĩ cách mạng, vài tên khủng bố quá khích, một nhà hiền triết Nhật, một nhân vật lập dị sống trong ảo tưởng và thêu dệt những câu chuyện hoang đường, một nhà tư bản Âu châu v.v. Một số nhân vật này vẫn bị dằn vặt bởi những lo âu siêu hình: niềm đơn độc lẻ loi, nhận thức về sự phi lý của cuộc đời… và mỗi người tìm một phương cách giải thoát riêng cho mình. Nhưng điều mới là sự xuất hiện của những nhân vật anh hùng cách mạng. Những nhân vật này không còn bị ám ảnh vì những thắc mắc siêu hình, mà họ tìm thấy lẽ sống trong việc đấu tranh để đem lại hạnh phúc, danh dự và phẩm giá cho đồng loại của mình. Hành động có một mục đích lịch sử, trở thành một phương tiện để thay đổi trật tự xã hội, hoàn trả lại danh dự làm người, không phải cho một anh hùng đơn độc, mà cho toàn thể những người sống trong một cộng đồng. Với quyển “Thân phận con người”, trong tác phẩm của Malraux xuất hiện một triết lý nhân bản cách mạng. Từ tình trạng suy đồi do thương tích, bệnh tật, gây ra khiến cho con người phải chịu khuất phục trước định mệnh, đến một tình trạng suy đồi do cực khổ khốn cùng, khiến con người mất hết nhân cách. Trật tự xã hội của người giàu khiến cho nhân phẩm bị chà đạp. Danh dự của người hùng cách mạng của Malraux là đứng lên chống lại một trật tự xã hội chối bỏ nhân phẩm và tìm thấy ý nghĩa cuộc sống trong cuộc chiến đấu này. Quyển “Thân phận con người” được giải thưởng Goncourt cuối năm 1933, và sau này được công nhận là một trong những tác phẩm lớn nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 20. Nhà văn 32 tuổi bỗng nhiên nổi danh, với một hào quang là kẻ trở về từ châu Á sôi sục, xa xôi và bí hiểm. Đối với xã hội Pháp vào những thập niên 1920-30, châu Á còn là một một lục địa xa vời, huyền bí, chìm trong màn sương mù của huyền thoại, tượng trưng cho phiêu lưu mạo hiểm… Những người có óc phiêu lưu đều bị thu hút, mê hoặc bởi vùng đất còn bí hiểm này. Nhiều huyền thoại được thêu dệt quanh tác giả quyển “Thân phận con người” (người đã tham gia vào hoạt động cách mạng tại Trung Quốc, là ủy viên chính trị cạnh Borodine trong cuộc cách mạng Trung quốc…). Tác giả im lặng không đính chính, và huyền thoại kéo dài trong mấy thập niên, cho đến khi một học giả Hoa Kỳ, Walter Langlois, nghiên cứu tường tận về thời gian Malraux ở Đông Dương và quyển tiểu sử André Malraux do Jean Lacouture viết, xuất bản năm 1973, cho biết sự thật về thời gian nhà văn ở châu Á trong các năm 1924-1925. Cho đến năm Malraux viết quyển “Thân phận con người”, ông chỉ biết có Việt Nam, và thời gian ông đặt chân lên đất Trung Quốc là chỉ vỏn vẹn mấy ngày vào mùa thu 1925 khi ông đến Hương Cảng mua bộ chữ in để có thể tiếp tục in tờ báo đối lập Indochine. Kinh nghiệm kể lại trong “Thân phận con người” về những người dân đen sống trong cảnh bần cùng, bị áp bức và chà đạp, là những kinh nghiệm sống tại Việt Nam, khi André Malraux chứng kiến những bất công và cách đối xử đàn áp mà chính quyền thực dân dành cho người dân bị trị. Quyển “Thân phận con người” chấm dứt một bộ ba tác phẩm được gọi là thuộc “thời kỳ châu Á” trong văn nghiệp của Malraux. Một năm hoạt động báo chí tại Sài Gòn chưa đủ để cho André Malraux một danh hiệu là chiến sĩ cách mạng, nhưng đã chuyển hướng ý nghĩ và hành động của ông khiến cho từ nay, André Malraux sẽ dành phần lớn cuộc đời và tác phẩm của mình cho cuộc chiến đấu cho công bằng xã hội, chống lại sự áp bức, chà đạp phẩm giá con người… V.Đ Review *** André Malraux ( 3 tháng 11, 1901 tại Paris - 23 tháng 11, 1976 tại Créteil, Val-de-Marne) là một nhà văn (từng đoạt Giải Goncourt), nhà phiêu lưu Pháp, và chính trị gia (từng làm Bộ trưởng Pháp 1959-1969). Gia đình ông không đầm ấm, ông nội và cha đều tự tử vì phá sản và chán đời. Thuở nhỏ ông thích đọc sách, thăm viếng các viện bảo tàng. Nội chiến Tây Ban Nha bùng nổ, Malraux chạy sang giúp phe Cộng hòa, thuyết phục chính phủ Pháp giao cho ông một đội phi cơ để chống lại phe Francisco Franco, nhưng chỉ mấy tháng sau phi đội ấy tan rã. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Malraux gia nhập vào đội kỵ binh ở Provins. Nước Pháp thua trận, đầu hàng. Malraux bị giam ở Sens, rồi vượt ngục và trốn xuống vùng tự do tại Roquebrune. Tháng 4 năm 1944, Malraux tự xưng là đại tá Berger và cố gắng tập hợp kháng chiến quân trong vùng Tây Nam. Bị thương hồi tháng 7, bị giam ở Toulouse, ông được lực lượng kháng chiến FFI giải thoát. Do các hệ thống kháng chiến vùng Tây Nam đã có người đảm trách nên Malraux đề nghị cầm đầu quân du kích vùng Alsace-Lorraine, nằm dưới quyền của tướng De Lattre. Ông trở thành Tổng trưởng Thông tin, rồi Tổng trưởng Văn hoá trong các chính phủ của Tổng thống Charles de Gaulle. Tác phẩm văn học Lunes en papier, 1921 La Tentation de l'Occident, 1926 Les Conquérants, 1928 Royaume-Farfelu, 1928 La Voie royale, 1930; đoạt giải thưởng Interallié 1930 La Condition humaine / Thân phận con người, 1933, đoạt giải thưởng Goncourt. Le Temps du mépris, 1935 L'Espoir, 1937 Sierra de Teruel, phim, 1939, (1945 tái bản với tựa L'Espoir), đoạt Giải thưởng Điện ảnh Louis Delluc 1945 La Lutte avec l'ange, 1943 tại Thụy Sĩ, 1948 với tựa đề Les Noyers de l'Altenbourg tại Pháp Le Démon de l'Absolu, 1946 Esquisse d'une psychologie du cinéma, 1946 Psychologie de l'Art: Le Musée imaginaire - La Création artistique - La Monnaie de l'absolu, 1947-1948-1950 Les Voix du silence, 1951 Le Musée Imaginaire de la sculpture mondiale: La Statuaire - Des Bas-reliefs aux grottes sacrées - Le Monde Chrétien"", 1952-1954 La Métamorphose des dieux, 1957, sau đó với tựa đề Le Surnaturel Antimémoires, 1967 (phần đầu của Miroir des Limbes) Les Chênes qu'on abat..., 1971 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Oraisons funèbres, 1971 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) La Tête d'obsidienne, 1974 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Lazare, 1974 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Hôtes de passage, 1975 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) La Corde et les souris, 1976 (phần 2 của Miroir des Limbes) Le Miroir des Limbes, 1976 (I. Antimémoires + II. La Corde et les souris và Oraisons funèbres) Le Surnaturel, (1977, hiệu đính và bổ sung cuốn La Métamorphose des Dieux L'Irréel, La Métamorphose des Dieux. II, 1975 L'Intemporel, La Métamorphose des Dieux. III, 1976 L'Homme précaire et la littérature, 1977 Mời các bạn đón đọc Thân Phận Con Người của tác giả André Malraux.
Khói Lửa
Henri Bacbuyxơ (Henri Barbusse, 1873 – 1935) là một nhà văn cách mạng lớn đã đặt nền móng cho phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Pháp. Ông là một chiến sĩ cộng sản kiên quyết bênh vực những kẻ bị áp bức bóc lột, dũng cảm đấu tranh cho tự do và tiến bộ. Hội nhà văn quốc tế đánh giá ông là “người chiến sĩ phản đối chiến tranh đế quốc đầu tiên và lớn nhất trong văn học thế giới”. Và G. Đimitrôp viết: “Tên tuổi của H. Bacbuyxơ sẽ chói lòa trên những lá cờ của hàng triệu người đấu tranh chống lại thế giới cũ, thế giới của sự bóc lột, của sự nô lệ và của những cuộc chiến tranh ăn cướp”.[1]   Henri Bacbuyxơ sinh ngày 17 tháng 5 năm 1873 tại Axnierơ (quận Xen) nước Pháp. Cha ông, Anđriên Bacbuyxơ, là một nhà viết báo và viết kịch. Mẹ, Eni Benxơ, là con một chủ trại ấp người Anh. Bà mẹ chết lúc Bacbuyxơ mới lên ba tuổi.   Lúc còn là học sinh, Bacbuyxơ đã tỏ ra có biệt tài về văn thơ. Năm 1895, sau khi tốt nghiệp đại học, ông chính thức bước vào nghề viết văn, làm báo. Cũng chính năm đó, ông cho xuất bản tập thơ đầu tay, một tập thơ được Catuylơ Mendet (một nhà thơ Pháp nổi tiếng đương thời) hết sức ca ngợi.   Năm 1903, Bacbuyxơ viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Những người van xin (Les suppliants) và năm 1908 viết cuốn Địa ngục (L’Enfer). Hai cuốn này được các nhà văn Mateclink và Anatôn Franxơ coi là những tác phẩm lớn của một nhà văn có thiên tài.   Trong giai đoạn sáng tác này, Bacbuyxơ đã bắt đầu đi theo phương hướng hiện thực chủ nghĩa, nhưng mãi đến những năm chiến tranh 1914 – 1918, ông mới thực sự bước vào con đường sự nghiệp của một nhà văn và nhà chiến sĩ cách mạng.   Ngày 19 tháng 7 năm 1914, cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Nguyên nhân chủ yếu của cuộc chiến tranh này là những mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt là mâu thuẫn giữa bọn đế quốc Anh và đế quốc Đức. Với mục đích đòi chia lại thị trường thế giới, ngay trong những năm 1879 – 1882 Đức đã liên minh với Áo, Hung và Ý nhằm chống lại Nga, Pháp và Anh. Và từ đầu thế kỷ XX, ở châu Âu đã dần dần thành hình hai phe đối địch. Cuộc chiến tranh thế giới năm 1914 đã lôi cuốn 28 nước với số dân trên một tỷ rưỡi, và có đến 74 triệu người bị động viên.   Lúc đó, Henri Bacbuyxơ đã ngoài bốn mươi, đã quá tuổi tòng quân. Nhưng dù tuổi cao, sức yếu, ông vẫn tình nguyện gia nhập quân đội. Ông vào quân đội không phải để phiêu lưu, mạo hiểm mà là để làm bổn phận đối với tổ quốc và nhìn cho rõ thực chất ghê tởm của chiến tranh đế quốc, đặng vạch trần nó, góp phần tiêu diệt nó. Tháng chạp năm 1914, ông được điều ra mặt trận với trung đoàn bộ binh 231, sống với một tiểu đội mà ông đã mô tả sâu sắc trong tác phẩm Khói lửa (Le Feu) bất hủ.   Sau những ngày lăn lộn ở chiến hào, sát cạnh những người lính bình thường, hàng ngày đụng đầu với gian khổ, khủng khiếp và chết chóc, Bacbuyxơ mang về hậu phương một quyển sổ ghi chép bết bùn. Từ quyển sổ tầm thường ấy, bắt đầu từ cuối năm 1915 và sau 6 tháng, Khói lửa ra đời.   Từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1916, Khói lửa được đăng dần trên báo Sự nghiệp, (Œuvre), bị kiểm duyệt cắt mất nhiều chỗ, và năm 1917, được xuất bản thành sách. Ngay từ lúc đầu, độc giả đã nhiệt liệt hoan nghênh, mặc dầu những công kích của bọn sô vanh chủ nghĩa. Tác phẩm đoạt giải thưởng Gôncua (Goncourt) và đến nay đã được dịch ra trên sáu mươi thứ tiếng.   Sau Khói lửa, cuốn Ánh sáng (Clarté), ra đời năm 1919, là một tác phẩm khác nổi tiếng của Bacbuyxơ. Ánh sáng có thể được coi là tiếng lòng của tác giả và của cả một lớp người trẻ tuổi đáp lại tiếng vọng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga. Viết Ánh sáng, H. Bacbuyxơ đã gửi vào đấy một mối hy vọng: Từ cảnh chết chóc của chiến tranh, do sức mạnh của quần chúng, một thế giới mới sẽ ra đời, trong đó con người được nảy nở toàn diện và cuộc sống thật là tốt đẹp.   Từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, Bacbuyxơ càng ra sức hoạt động chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Ông đã thành lập Hội cựu binh và thương binh ở Pháp (năm 1919) và Tổ chức cứu tế của Cựu binh sĩ (năm 1920). Cũng năm 1920, cùng với Raymôn Lơfevrơ (Raymond Lefevre) và Pôn Vayăng Cutuyriê (Paul Vaillant Couturier), ông sáng lập tạp chí Ánh sáng, cơ quan của nhóm Ánh sáng, một nhóm còn có tên là Tổ chức quốc tế của tri thức. Trong những năm đầu, tạp chí Ánh sáng đã có ảnh hưởng khá lớn, được sự cộng tác của các nhà trí thức tiến bộ toàn thế giới.   Từ năm 1917, trong những bài báo và diễn văn của mình, Bacbuyxơ luôn luôn lên tiếng ca ngợi Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa cộng sản. Đến năm 1923, giữa lúc chính phủ phản động Pháp ráo riết đàn áp phong trào của giai cấp công nhân, lùng bắt các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản, Henri Bacbuyxơ đã chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Ông tuyên bố: “Tôi đã lấy tư tưởng của họ làm tư tưởng của tôi thì ngày nay tôi phải chịu đựng những gian nguy mà họ phải chịu”.   Dưới lá cờ của Đảng, H. Bacbuyxơ càng có thêm nhiệt tình và phương hướng đúng đắn đấu tranh cho chân lý, cho sự nghiệp giải phóng những người bị áp bức bóc lột. Tiếng nói chính nghĩa của ông đã không ngớt vang lên tố cáo mọi bất công và tàn bạo. Năm 1925, ông đã kêu gọi chống chiến tranh xâm lược Marôc. Khi bọn thống trị ở Bancăng tiến hành khủng bố trắng đối với nhân dân vùng này, ông đã sang tận nơi điều tra, đã thành lập những ủy ban bảo vệ nhân dân của cuộc khủng bố và lúc về nước Pháp, đã viết bản tố cáo đanh thép Những tên đao phủ (Les bourreaux) (1925).   Cạnh những hoạt động chính trị có ý nghĩa lớn đó, Bacbuyxơ vẫn hăng say tiếp tục sự nghiệp văn học của mình, một sự nghiệp văn học tích cực phục vụ hoạt động chính trị chân chính. Năm 1925, ông cho xuất bản cuốn Những sự trói buộc (Enchainements) một cuốn sách vạch trần nguyên nhân đầu tiên của mọi tội lỗi: nạn người bóc lột người.   Năm 1926, cuốn Sức mạnh (Force), tập truyện ngắn, và năm 1927, cuốn Jêdu (Jésus) của ông ra đời. Cũng trong năm 1927, Bacbuyxơ đã đi thăm Liên-xô, và ở Mạc-tư-khoa, ông đã tham dự vào việc thành lập Tổ chức quốc tế của các nhà văn cách mạng, mà sau này ông là một trong những người lãnh đạo. Khi trở về Pháp, ông đã viết cuốn Đây, người ta đã làm gì cho xứ Georgi (Voici ce qu’on a fait de la Géorgie) (1927). Năm 1928, Bacbuyxơ sáng lập tờ tuần báo Thế giới (Le monde). Tờ báo được coi như là một công cụ để giải phóng trí thức và là cơ quan liên lạc của những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa.   Năm 1932, Bacbuyxơ viết tác phẩm Đời Zôla (La vie de Zola). Trong công trình lịch sử và phê bình văn học này ông đã vạch rõ tác dụng tích cực và những hạn chế của Zôla và của chủ nghĩa tự nhiên trong văn học. Ông cũng đã trình bày tính chất và nhiệm vụ của văn học là phải thật sự hiện thực và phải phục vụ cho sự nghiệp giải phóng con người.   Trong những năm cuối cùng của đời mình, Bacbuyxơ đã ra sức chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh đang đe dọa thế giới, mặc dầu sức khỏe của ông ngày càng giảm sút. Ông đã tham dự và lãnh đạo nhiều cuộc hội nghị quốc tế chống chiến tranh và chủ nghĩa phát xít. Năm 1933, ông đã sang tận nước Mỹ nói chuyện trước nhiều cuộc mít-tinh và thành lập Liên đoàn chống chiến tranh và chủ nghĩa phát xít ở châu Mỹ.   Xtalin một thế giới mới nhìn qua một con người (Staline, un monde nouveau vu à travers un homme) ra đời năm 1935, là tác phẩm cuối cùng của đời ông. Trong cuốn sách này, ông đã hết lòng ca ngợi ý chí, tài năng của Xtalin, người đồng chí, người bạn và người kế nghiệp của Lênin.   Tháng 7 năm 1935, nhận lời mời của các nhà văn Xô-viết, ông lại sang thăm Liên-xô và đã tham dự Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế cộng sản. Lúc này, thân thể ông đã suy nhược, lại bị bệnh sưng phổi, nên ngày 30 tháng 8 năm 1935, ông đã từ trần tại Mạc-tư-khoa.   Nhân dân Pháp, nhân dân Liên-xô và nhân dân thế giới hết sức thương tiếc Henri Bacbuyxơ. Suốt trong ba ngày, nhân dân thành phố Mạc-tư-khoa liên tục diễu qua trước linh cữu ông. Sau đó, linh cữu ông được đưa về Pháp và ngày 7 tháng 9 tang lễ đã được cử hành trọng thể ở Pa-ri.   Đối với Việt Nam chúng ta, thân thế và sự nghiệp văn học của Henri Bacbuyxơ đã có ảnh hưởng lớn đến các nhà văn và các nhà hoạt động cách mạng ngay trong những năm trước Cách mạng tháng Tám. Bacbuyxơ đã nghiêm khắc lên án chế độ thuộc địa vô cùng tàn bạo của thực dân Pháp. Đã từ lâu, báo chí Việt Nam đã có những bài giới thiệu H. Bacbuyxơ như một nhà văn dùng nghệ thuật của mình để phục vụ nhân dân, phục vụ chân lý, phục vụ chủ nghĩa xã hội.[2]   Khói lửa mà Henri Bacbuyxơ gọi là “Nhật ký của một tiểu đội” và đề tặng hương hồn những bạn đồng đội đã hy sinh bên cạnh mình ở Cruy và trên sườn đồi 119, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng không những trong sự nghiệp sáng tác của Bacbuyxơ mà cả trong nền văn học hiện đại Pháp.   Có thể khẳng định rằng giá trị chủ yếu của Khói lửa là ở chỗ đã chống đối mãnh liệt chiến tranh đế quốc. Annet Viđan (Annette Vidal), nữ thư ký của H. Bacbuyxơ, đã từng phân tích Khói lửa, coi đó là cuốn tiểu thuyết của chiến tranh, của chiến hào, của người lính, của sự thật và là cuốn tiểu thuyết viết cho nhân dân. Ý nghĩa phản đối chiến tranh đế quốc của tác phẩm biểu lộ trước hết ở chỗ vạch trần sự thật khủng khiếp và cái vô lý của chiến tranh.   Trong Khói lửa, những người phải trực tiếp ra mặt trần phần lớn là công nhân, nông dân và dân nghèo. Lấy tiểu đội của tác giả làm ví dụ: hầu như không có ai là nghệ sĩ, tri thức hoặc tư sản. Dưới bề ngoài bình thường và phức tạp, họ chứa chất những tình cảm dịu hiền, lành mạnh. Họ hết sức thương yêu bố mẹ, vợ con, làng mạc, quê hương, trân trọng giữ từng lá thư nhà để sưởi ấm lòng. Blerơ đã từng chăm chú mài giũa làm chiếc nhẫn tặng vợ, Fuiat những lúc rảnh rỗi đã từng mơ tưởng về quê hương yêu dấu. Pôteclô vì mong thấy mặt vợ mà quên hết mọi gian nguy và trước hoàn cảnh éo le, những ý nghĩ ghen tuông của anh đã pha trộn nhiều niềm tha thứ. Lamuydơ coi trọng tình đồng đội, nhiều lúc quên mình để cứu bạn. “Họ không phải là lính tráng, họ là những con người…”. Nhưng chiến tranh đã bắt buộc người lính làm những điều trái ý muốn và tâm tư của họ. Ở trận địa có khi họ đánh đổi một mạng người lấy một bao diêm, một cặp ống chân lấy một đôi bốt. Họ phải trở thành ích kỷ, phải xoay sở, giành giật lẫn nhau. Có người đã phải kêu lên: “Tiến đến đây, thì ai cũng như thú dữ. Sống mãi như súc vật rồi đến thành súc vật cả nút”… Chiến tranh còn là chia ly, tan tác. Một lá thư của Bikê gửi an ủi mẹ, một bà mẹ suốt đời chỉ sống vì con bị trả về tiểu đội anh khi anh đã vĩnh viễn lìa đời: chiến tranh đã đẩy mẹ anh phiêu bạt không biết đi đâu. Lamuydơ bị đạn đại bác cướp mất Ođôxi và, khi anh được tự do gần nàng, ôm nàng thì nàng đã thành một trong những cái xác rữa nát, hôi thối dưới cái hầm bị sập. Và Pôteclô lìa đời trong lúc hình ảnh vợ anh cười nụ bên cạnh mấy thằng sĩ quan Đức trong căn buồng đầy ánh sáng, ở miền bị Đức chiếm, chưa làm anh hết băn khoăn. Cả một tiểu đội gồm 17 người, đến cuối tác phẩm bị tiêu hao gần hết. Cảm động nhất là cái chết của Mexin Anđrê. “Hắn có sáu anh em… Bốn đứa đã ngoẻo rồi, hai đứa nghoẻo ở Anđat, một ở Sampanhơ và một ở Acgôn…” Và Mexin cũng đã hy sinh.   Trong lúc ấy, bọn giàu sang ở thành thị coi chiến tranh chỉ là một việc bình thường, và cho rằng mỗi người một nghề, chúng ở hậu phương buôn bán, bóc lột làm giàu, công lao cũng không kém những người ra trận!   Bên cạnh việc mô tả đầy tính chất hiện thực cuộc chiến tranh đế quốc với những thảm trạng và bất công của nó; Khói lửa còn phản ánh được quá trình giác ngộ của những người lính. Lúc đầu, họ hục hặc với tất cả, họ phá phách và đôi khi độc ác. Dần dần sự phản ứng ấy đã hướng được vào đúng chỗ. Từ thái độ đối với bọn nhà báo bồi bút, đến sự phản kháng có ý nghĩa trước cái chết của Caja, và cơn phẫn nộ đối với bọn phục hậu, dần dần, người lính đã thấy rằng “một sự khác biệt bắt đầu hình thành giữa những con người, một sự khác biệt thật sâu xa, không thể dung hòa được… sự khác biệt giữa những kẻ bóc lột và những người phải làm quần quật, phải hy sinh tất cả… còn những kẻ khác thì giẫm đạp lên họ, tiến lên, mỉm cười và toại nguyện…”. Bước đầu giác ngộ giai cấp đã khiến họ có những suy nghĩ đúng đắn về chiến tranh: “… từng đoàn quân chui vào lò sát sinh là để cho một giai cấp đeo lon vàng có thể ghi tên tuổi quí phái của chúng vào lịch sử, để cho những kẻ cũng đeo đầy vàng, cũng thuộc vào một đẳng cấp như bọn kia có thể ôm đồm kinh doanh nhiều hơn để phục vụ cá nhân chúng…” Họ biết mình sinh ra là để làm những người chồng, người cha, làm những con người đúng với nghĩa của nó, chứ không phải để làm những con thú dữ cắn xé nhau, gieo khổ cho nhau. Cái băn khoăn của Mactơrô về bọn lính Đức không thích xung phong mà sao vẫn cứ phải ra trận, câu chuyện của anh lính phi cơ ở trạm cấp cứu về những lời cầu nguyện giống nhau trong một buổi sáng chủ nhật của lính Đức và lính Pháp, càng khẳng định thêm tội ác gây chiến của bọn thống trị bóc lột. Họ đã tự đặt nhiệm vụ phải tiêu diệt chủ nghĩa quân phiệt ở Đức và ở tất cả các nước một khi nó bành trướng đến và phải trừ khử chiến tranh ngay trong lòng tất cả các nước. Mục tiêu chiến đấu của họ là rồi đây phải chống những điều tội lỗi chứ không phải chống riêng một nước nào. Xã hội cần có một sự đổi thay và họ “hé thấy một cuộc Cách mạng nào đó lớn lao hơn cuộc cách mạng kia[3]”.   Khi nắm được thực chất của chiến tranh đế quốc, họ đã xác định được lòng tin, tin ở sức mạnh của mình, tin ở ngày mai tươi đẹp, tin rằng xã hội xấu xa sẽ mất, chiến tranh sẽ bị tiêu diệt và tương lai sẽ rực rỡ, vì mặt trời vẫn tồn tại.   Vạch trần được nguyên nhân của chiến tranh, nêu được những mâu thuẫn xã hội, Khói lửa còn đề cao được mối tình quốc tế mới nhóm trong lòng những người lính bị đưa ra mặt trận. Trong bao nhiêu đau khổ và mất mát chung, lính Đức và lính Pháp dần dần hiểu nhau hơn, bước đầu thấy sự phân biệt chủng tộc là một điều vô lý và bịp bợm. Những người lính Pháp coi việc giết được nhiều lính Đức là một điều tội lỗi hơn là một vinh quang. Và lính Đức cũng thế, cũng chửi rủa chiến tranh, chửi rủa cấp chỉ huy của họ. Ở phần cuối của tác phẩm, những bọn dân tộc hẹp hòi được coi là quân dòi bọ và viên cai Bectrăng đã lớn tiếng ca ngợi Lepnick, một lãnh tụ của nhân dân Đức là “nhân vật đã vươn cao mình lên trên cuộc chiến tranh và sẽ luôn luôn sáng ngời vì lòng gan dạ đẹp đẽ và lớn lao…”   Khói lửa đã nghiêm khắc lên án chiến tranh đế quốc giữa lúc đa số đảng trong Đệ nhị quốc tế phản bội quyền lợi của giai cấp công nhân, chạy theo ủng hộ chiến tranh, giữa lúc bọn Trôtxky đề ra luận điệu lừa bịp “không thắng, không bại” nhằm lợi dụng chiến tranh chống lại bước tiến của Cách mạng. Khói lửa là tiếng nói của sự thật vọng lên từ những chiến hào bùn lầy, tuyết đọng, đầy thiếu thốn, và chết chóc. Khói lửa động viên và tập hợp những lực lượng trước kia còn phân tán để chống chiến tranh một cách tích cực hơn.   Không những về mặt nội dung, mà cả về phương pháp nghệ thuật, Khói lửa là một hiện tượng rất mới, rất đặc biệt, rất có ý nghĩa trong văn học Pháp đương thời. Giữa lúc văn học Pháp và văn học các nước phương Tây nói chung vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đang ngày càng sa vào những khuynh hướng đồi trụy, không lối thoát, giữa lúc chủ nghĩa tự nhiên còn ảnh hưởng khá sâu sắc đến các nhà văn có khuynh hướng tiến bộ, Khói lửa đã mang nhiều yếu tố của chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ngòi bút của Bacbuyxơ vừa phê phán sâu sắc, vừa gợi lên ý niệm về tương lai, bước đầu gây lòng tin tưởng ở cái mới rồi đây sẽ thắng cái cũ.   Điều chủ yếu là trong Khói lửa, Bacbuyxơ đã sử dụng một ngòi bút hiện thực thật sinh động. Chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi phải xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Khói lửa, như tác giả đã gọi, chỉ là một tập nhật ký, một tập ghi chép, không phải là một cuốn tiểu thuyết, không tập trung vào một nhân vật nhất định nào cả. Nhân vật ở đây là cả một tiểu đội binh sĩ, mỗi người một khía cạnh, một sắc thái đúc lại làm thành điển hình người lính Pháp trong đại chiến thế giới lần thứ nhất. Cảnh trong Khói lửa cũng thường thay đổi: khi là những chiến hào lầy bùn, âm u và ghê rợn, khi là chặng đường hành quân dài dằng dặc, khi là chỗ trú quân nơi sơn cước, khi là mặt trận khói đạn mù trời, khi là nơi hậu phương lúc nhúc những bọn phục hậu hèn nhát, khi là một làng đã hoàn toàn bị chiến tranh san phẳng v.v… Những cảnh đó, cộng lại, tiếp nhau, đã khiến người đọc hình dung được phần nào hình ảnh nước Pháp điêu đứng trong chiến tranh và làm thành môi trường hoạt động của nhân vật người lính.   Đối với nhà văn hiện thực, những chi tiết của cuộc sống có tầm quan trọng đặc biệt. Chi tiết đưa vào đúng lúc, đúng chỗ, sẽ phản ánh được cụ thể bản chất của sự vật, nâng cao thêm tác dụng phê phán. Bacbuyxơ đã thành công nhiều ở điểm này. Ông đã mô tả sự thật đúng như sự thật, nhưng đã mô tả có khuynh hướng. Không bỏ sót một tí gì tai nghe mắt thấy, ông đã để cho sự vật tự nói lên kết luận, làm cho người đọc với lương tâm và lý trí của họ, thấy hết những đen tối, xấu xa của chiến tranh đế quốc. A. Ivasenkô, tiến sĩ ngữ văn Liên-xô đã nhận xét: “Bacbuyxơ liên miên bất tận trong những mô tả tàn khốc, vì bản thân thực tại cũng tàn khốc. Ở nhà tự nhiên chủ nghĩa, sự thể hiện tự nó là mục đích; ở nhà hiện thực xã hội chủ nghĩa Bacbuyxơ, mô tả cái gì là đứng trên lập trường của một lý tưởng xã hội nhất định và nhằm phục tùng nhiệm vụ tác động đến thực tại về mặt tư tưởng…”[4]   Quan điểm tôn trọng sự thật vì hiểu được ý nghĩa của sự thật đã được Bacbuyxơ biểu hiện khá rõ rệt trong chương “Những lời văng tục”.   Tính chất hiện thực sâu sắc của Khói lửa thực tế đã tác động mạnh mẽ đến người đọc. Một nữ độc giả bình thường đã viết cho Bacbuyxơ: “Đọc xong tác phẩm của ông, tôi như vừa chui ở chiến hào ra…”[5] Có những lá thư khác, gửi từ mặt trận về đã viết: “Ông đã thét lên tiếng thét của chân lý… Tác phẩm của ông là bức tranh của cuộc đời tối tăm như địa ngục của chúng tôi. Chúng tôi cảm ơn ông đã trả thù cho chúng tôi, đã tố cáo chiến tranh, đã vạch cho chúng tôi một tương lai vô cùng vinh quang…”[6]   Cho đến nay (1962) Khói lửa ra đời đã gần năm mươi năm, nhưng vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong văn học thế giới. Chủ nghĩa đế quốc vẫn còn, nghĩa là vẫn còn âm mưu gây chiến. Các nước đế quốc, cầm đầu là đế quốc Mỹ đang ra sức chạy đua vũ trang, gây tình hình căng thẳng trên thế giới. Các khối quân sự Bắc Đại Tây Dương, trung tâm, Đông nam Á và các khối quân sự khác đang đe dọa nghiêm trọng hòa bình và an ninh chung. Và ngay trên đất nước ta, đế quốc Mỹ đang tiến hành một cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc đối với nhân dân miền Nam Việt Nam.   Đọc Khói lửa, càng ghê tởm những thảm trạng của chiến tranh, càng căm thù bọn đế quốc gây chiến, nhân dân thế giới càng nâng cao thêm ý chí đấu tranh cho hòa bình. Cái quyết định là lòng người. Khói lửa nhen thêm trong lòng mọi người sự căm ghét chiến tranh, nhất định sẽ góp phần xứng đáng vào việc chặn đứng mọi âm mưu gây chiến. Đối với bạn đọc Việt Nam, Khói lửa sẽ góp phần nung nấu thêm chí căm thù bọn Mỹ – Diệm khát máu, nâng cao thêm quyết tâm đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.   NGUYỄN TRỌNG THỤ – LÊ VĂN TỤNG   Mời các bạn đón đọc Khói Lửa của tác giả Henri Barbusse.
Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả
Tác phẩm - Năm 1989, Những cậu bé kẽm lần đầu được xuất bản - Tháng 7 năm 1992, những đơn kiện Những cậu bé kẽm và S. Alexievich đầu tiên được gửi đi - Ngày 20 tháng 1 năm 1993, phiên xử đầu tiên diễn ra - Ngày 10 tháng 8 năm 2015, giải Nobel Văn học thứ 112 trong lịch sử gọi tên Svetlana Alexievich, dư luận một lần nữa lại dậy sóng… Vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Những cậu bé kẽm là thiên thứ ba trong loạt năm quyển của bộ Những giọng nói không tưởng gồm: Những nhân chứng cuối cùng, Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Lời nguyện cầu Chernobyl và Thời second hand. Những cậu bé kẽm, một nhan đề khốc liệt – những xác người trong quan tài kẽm – những cái xác vừa mới mười tám đôi mươi – những cậu bé đẹp đẽ rạng ngời, vừa rời vòng tay cha mẹ, người thương để rồi trở về trong những cỗ quan tài kín bưng – “hàng vận chuyển 200”. Được viết bằng thể loại văn xuôi tư liệu cùng với tâm thế của một con người vị nhân phản chiến, cuốn sách đã khuấy lên một giai đoạn lịch sử đầy những tổn thương đau đớn, đã phác họa một bối cảnh, đã soi chiếu bằng một góc nhìn trước nay chưa từng được công bố. Những cậu bé kẽm là lời bộc bạch của những người sống sót trở về từ chiến tranh Afghanistan và của thân nhân những người đã mất. Đó là những dòng hồi ức khốc liệt, đẫm máu, thống khổ và vĩnh viễn làm thương tổn không chỉ thân thể mà còn tinh thần con người. Nó phơi bày cái phi nghĩa, vô nhân của một cuộc chiến tranh vô vọng. Những “Afghan” – những người Nga tham gia chiến tranh ở Afghanistan 1979 – 1989, những người ra đi trên danh nghĩa làm “nghĩa vụ quốc tế” rồi rút về trong thất bại, không bao giờ được biết niềm tự hào của thế hệ cha ông trong cuộc chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại. Người “may mắn” nằm lại trong những chiếc quan tài kẽm, số khác thân xác lang bạt nơi chiến trận. Kẻ sống sót trở về cũng không bao giờ có thể quay lại cuộc sống của một người bình thường bởi những sang chấn khủng khiếp mang tên hội chứng Afghanistan. Người ngoài cuộc nhìn nhận họ như những kẻ sát nhân, kẻ bại trận, còn chính họ cũng quên mất phải sống bình thường là thế nào! Hơn năm trăm cuộc phỏng vấn đã được Svetlana Alexievich thực hiện để tạo nên bức tranh toàn cảnh về những góc khuất của chiến tranh. Cũng chính những trang tư liệu về nỗi đau của những nỗi đau này, ngày 20 tháng 1 năm 1993, cuốn sách của Svetlana Alexievich bị đưa ra tòa xét xử bởi những người cung cấp tư liệu đâm đơn kiện với lý do phỉ báng danh dự và ngụy tạo lời kể. Phiên tòa kéo theo sự chú ý của chính quyền và công chúng tạo thành làn sóng dư luận ở cả hai phía, ủng hộ và chống đối Svetlana Alexievich. Ở những lần tái xuất bản sau, Svetlana Alexievich đã đồng ý thêm vào toàn bộ biên bản vụ kiện cùng những sự kiện có liên quan. Vậy, vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Có lẽ câu trả lời sẽ nằm trong suy nghĩ mỗi người khi bước vào thế giới của Những cậu bé kẽm. “Tôi tự hỏi Svetlana Alexievich có cần phải viết một cuốn sách về những điều kinh khủng của chiến tranh không? Có! Những bà mẹ có cần phải bảo vệ con trai mình không? Có! Và những “người Afghan” có cần phải bảo vệ đồng đội mình không? Lại một lần nữa - có! …Các đạo diễn và nhạc trưởng, các chính khách và nguyên soái, những kẻ tổ chức cuộc chiến tranh này, không có mặt trong phòng xử án. Ở đây chỉ toàn những phía bị hại: là tình yêu, không chấp nhận sự thật cay đắng về chiến tranh; là sự thật, cần phải được nói ra mặc cho tình yêu thế nào chăng nữa; là danh dự, không thể chấp nhận tình yêu lẫn sự thật...” Pavel Shetko Một “cựu Afghan” Tác giả Nhà văn Svetlana Alexievich tại Ukraine trong một gia đình công chức. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học. Theo Viện Hàn lâm Thụy Điển, giải thưởng này được trao cho bà để “tôn vinh những dòng văn phức điệu của bà. Văn của bà là tượng đài tri ân sự đau khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta.” Sau khi tốt nghiệp khoa Báo chí Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus, bà làm việc cho tờ Báo nông nghiệp và tạp chí Neman ở Minsk. Trong suốt vài thập niên bà đã viết biên niên tư liệu – nghệ thuật Những giọng không tưởng – gồm năm quyển sách (Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ - 1983, Những nhân chứng cuối cùng - 1985, Những cậu bé kẽm - 1989, Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997, Thời second-hand - 2013) và để những “con người nhỏ bé” đích thân kể về số phận của mình. Thực chất, đây là một thể loại đặc biệt, một loại tiểu thuyết chính trị đa giọng, trong đó những câu chuyện nhỏ bé hợp thành một lịch sử lớn. Các tác phẩm của Svetlana Alevievich đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng, là nền tảng cho hằng trăm bộ phim điện ảnh, kịch sân khấu và truyền thanh trên khắp thế giới, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. *** LỜI GIỚI THIỆU “Văn chương đang ngạt thở trong những biên giới của mình”. Với tâm tình đó, nữ nhà văn Svetlana Alexievich đã quyết định chọn hình thức “truyện vừa tư liệu” cho cuốn sách Những cậu bé kẽm, được in lần đầu tiên năm 1989. Hai mươi sáu năm sau, cuốn sách đã góp phần đưa bà đến giải Nobel văn học năm 2015, cùng với bốn quyển sách khác trong loạt sách Những giọng nói không tưởng: Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ (1983), Những nhân chứng cuối cùng (1985), Lời nguyện cầu từ Chernobyl (1997) và Thời second hand (2013). Nhưng cũng chính thể loại truyện vừa tư liệu của Những cậu bé kẽm đã khiến bà phải ra tòa (phần cuối quyển sách đã giới thiệu tiến trình tố tụng này). Phiên tòa mà, từ một phía bà bị cáo buộc là “xúc phạm danh dự và phẩm giá” của những người lính đã chết trong cuộc chiến tranh Afghanistan, của những người mẹ vẫn còn đang ngồi bên mộ chí con mình. Còn từ phía những người ủng hộ nữ nhà văn, đó là phiên tòa “xử án văn chương”, “xử án một quyển sách”, “xử án sự thật”. Cuộc tranh cãi đó, cuối cùng được cố gắng ngã ngũ ở việc thế nào là thể loại truyện vừa tư liệu; vẫn chưa giải đáp được câu hỏi “sự thật là sự thật nào”, khi chính nữ nhà văn cũng hoài nghi như Pilatus đặt câu hỏi về sự thật trong phiên tòa xử Chúa. Phiên tòa đã khép lại đầu những năm 1990. Nhưng cuộc tranh cãi về sự nghiệp của nữ nhà văn Belarus viết bằng tiếng Nga một lần nữa được nhắc lại nhân Nobel 2015. Nếu bà được ngợi khen trên báo chí phương Tây như một “bậc thầy xuất sắc trong lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật tư liệu”(Frankfurter Allgemeine), thì nhà phê bình Nga Olga Tukhanitsa, lại nhận xét vào tháng 12-2015: “Một mặt, Alexievich khăng khăng biện hộ mình không phải là nhà văn nhưng lại chứng minh những gì bà đang làm trong thế giới hiện đại là văn học chân chính; mặt khác, bà - như một nữ sinh, đoàn viên Komsomol, cố nhồi vào thông điệp của mình tất cả những khuôn mẫu định kiến về nước Nga…” Dẫu sao, chúng ta sẽ không thể tranh luận với cả hai ý kiến trên nếu chưa đọc hết Những cậu bé kẽm. Bản dịch tiếng Việt dựa trên nguyên bản tiếng Nga đã được tác giả hiệu đính và NXB Vremya (Moskva) phát hành năm 2017. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả, và thành thật cảm ơn bà Marina Vladimirovna Sharoiko (Giảng viên Bộ môn Lý luận Văn học Nga, Đại học Tổng hợp Kuban) và bà Irina Letiagina (cựu biên tập viên NXB Cầu vồng, và NXB Tiến bộ - Liên Xô cũ) đã giúp chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan 10-2017 *** LỜI MỞ ĐẦU Tôi đi một mình. Giờ đây tôi sẽ phải đi một mình. Nó giết người. Con trai tôi. Bằng cái rìu nhà bếp tôi dùng xẻ thịt. Nó quay về từ trận chiến và giờ thì giết người. Buổi sáng nó mang cái rìu đặt về chỗ cũ, trong tủ bếp, nơi tôi cất chén dĩa. Hình như ngày hôm đó tôi còn làm cho nó món sườn hầm. Một lúc sau ti vi và báo buổi chiều đưa tin các ngư dân vớt được một thi thể từ dưới hồ. Từng mảnh. Bạn tôi gọi điện: - Chị đọc báo chưa? Một vụ giết người chuyên nghiệp. Kiểu Afghanistan. Con trai tôi đang ở nhà, nằm đọc sách trên xô pha. Tôi không biết và cũng chẳng đoán ra gì, nhưng chẳng hiểu sao sau những lời ấy tôi lại nhìn nó. Trái tim người mẹ. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Không à? Còn tôi thì nghe đấy, vừa bắt đầu kể chuyện này là tôi đã nghe tiếng chó sủa. Lũ chó đang chạy. Ở đó, nơi con trai tôi đang ngồi tù có những con bẹc giê lớn. Và mọi người mặc toàn đen, rặt một màu đen. Tôi trở về Minsk, đi ngang qua cửa hàng bánh mì, qua vườn trẻ, tay cầm ổ bánh mì với sữa và nghe thấy tiếng sủa. Tiếng sủa chói tai. Nó làm tôi như đui mù. Có lần tôi suýt lọt vào gầm xe. Tôi sẵn sàng ở rịt bên mộ con mình, sẵn sàng nằm cạnh nó. Nhưng tôi không biết… không biết sẽ sống thế nào với chuyện này. Đôi khi tôi sợ xuống bếp, sợ nhìn thấy cái tủ bếp đó, nơi cất cái rìu. Cô không nghe thấy gì hết à? Không à? Giờ đây tôi không biết nó sẽ ra sao, con trai tôi. Tôi sẽ đón nó về thế nào sau mười lăm năm nữa. Nó bị tuyên mười lăm năm khổ sai. Tôi đã nuôi dạy nó thế nào? Nó mê khiêu vũ. Tôi và nó đã đến bảo tàng Hermitage ở Leningrad. Chúng tôi đã đọc sách cùng nhau. (Khóc.) Chính Afghanistan đã cướp mất con trai tôi. …Tôi nhận được điện tín từ Tashkent: “Hãy đón chuyến bay số…” Tôi lao ra ban công, gào to hết sức: - Còn sống! Con tôi còn sống! Cuộc chiến khủng khiếp này kết thúc với tôi rồi. Rồi tôi ngất đi. Dĩ nhiên chúng tôi đã ra sân bay trễ, chuyến bay đã hạ cánh từ lâu, tôi tìm thấy con trai mình trong vườn hoa. Nó nằm trên đất và níu lấy cọng cỏ, ngạc nhiên sao cỏ xanh đến thế. Nó không tin mình có thể trở về. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi tối những người láng giềng kéo sang nhà chúng tôi, họ có một cô con gái nhỏ, bé thắt một cái nơ xanh trên tóc. Nó đặt con bé ngồi lên gối, ôm vào lòng và khóc, nước mắt cứ thế lã chã tuôn rơi. Bởi ở đó chúng đã giết người, cả nó. Mãi sau này tôi mới hiểu ra. Ở biên giới, hải quan đã “tỉa” quần lót của nó. Hàng Mỹ. Không được phép. Vì thế nó về nhà mà không có đồ lót. Nó mang về cho tôi cái áo choàng, cái áo cũng bị tịch thu. Nó mang cho bà ngoại cái khăn trùm đầu, họ cũng lấy mất. Nó đành về với những bông hoa lay ơn. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi sáng thức dậy nó còn bình thường: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”. Đến chiều mặt nó tối dần, khóe mắt nặng trĩu. Tôi không thể tả nổi điều đó. Lúc đầu nó chẳng uống giọt nào. Nó ngồi quay vào tường rồi bật dậy khỏi xô pha, với lấy cái áo khoác. Tôi đứng ngay cửa: - Con đi đâu, Valyushka? Nó nhìn tôi như nhìn vào thinh không. Rồi bỏ đi. Tối muộn tôi đi làm về, nhà máy ở xa, lại làm ca hai, tôi gọi cửa nhưng nó không mở. Nó không nhận ra giọng tôi. Chuyện đó thật kỳ quặc, ừ thì giọng bạn bè có thể không nhận ra, nhưng đây là giọng mẹ nó! Hơn nữa, lại là “Valyushka” - chỉ có tôi mới gọi nó như thế. Dường như lúc nào nó cũng đang đợi ai đó, sợ sệt. Tôi mua cho nó cái sơ mi mới, ướm thử và thấy trên tay nó có những vết cắt. - Cái gì đây? - Chuyện nhỏ mà mẹ. Sau đó tôi mới biết. Sau phiên tòa. Trong thời gian huấn luyện nó đã cắt cổ tay. Trong một giờ diễn tập, nó là nhân viên điện đài, nhưng không kịp ném điện đài xách tay lên cây đúng lúc, không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định nên thượng sĩ phạt nó múc 50 thùng chất thải từ nhà vệ sinh diễu qua đội hình. Nó đã xách và ngất xỉu. Bệnh viện chẩn đoán: chấn động tâm thần nhẹ. Đêm đó nó đã cắt ven tay. Lần thứ hai là ở Afghanistan. Trước cuộc bố ráp, họ kiểm tra và điện đài không hoạt động. Thiếu một số phụ kiện khan hiếm khi đó. “Kẻ nào đã lấy trộm chúng. Ai?” Chỉ huy cáo buộc nó hèn nhát giấu các chi tiết đó đi để không phải hành quân cùng mọi người. Mà ở đó trộm cắp như rươi, thậm chí các bộ phận ô tô cũng bị tháo rời đem bán cho các dukan*. Để mua ma túy, thuốc lá, thức ăn. Họ lúc nào cũng đói. Trên truyền hình đang có chương trình về Edith Piaf*, chúng tôi luôn xem cùng nhau. - Mẹ, - nó hỏi, - mẹ có biết ma túy là gì không? - Không. - Tôi nói dối, còn chính mình bắt đầu dõi theo nó: nhỡ nó hút thì sao? Tôi không phát hiện ra dấu vết nào. Nhưng ở đó họ sử dụng ma túy - tôi biết điều này. - Ở Afghanistan thế nào hở con? - Có lần tôi hỏi. - Thôi mà mẹ! Khi nó đi khỏi nhà, tôi đọc lại hết những bức thư từ Afghanistan của nó, tôi muốn đào xới, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với nó. Tôi không tìm thấy gì đặc biệt, nó viết buồn nhớ cỏ xanh, bảo bà ngoại chụp hình trên nền tuyết rồi gởi cho nó. Nhưng tôi đã nhận ra, cảm thấy đã có gì đó xảy ra với nó. Họ đã trả về cho tôi một con người khác. Đó không phải là con tôi. Mà chính tôi đã đưa con vào quân ngũ, nó vốn được hoãn nghĩa vụ. Tôi muốn nó thành người dũng cảm. Tôi thuyết phục con và chính mình rằng quân đội sẽ trui rèn nó tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Tôi tiễn nó đi Afghanistan với tiếng ghi-ta cùng một bữa tiệc ngọt chia tay. Nó mời bạn bè và các cô gái… Tôi nhớ đã mua tới mười cái bánh kem. Chỉ có một lần nó nói về Afghanistan. Vào một buổi tối. Nó ghé vào bếp, lúc tôi đang làm thịt thỏ. Cái bát đầy máu. Nó nhúng các ngón tay vào máu rồi nhìn cái bát. Nhìn chằm chằm. Rồi nói với chính mình: - Họ chở cậu ấy về với cái bụng bị thủng. Cậu ấy đề nghị mình bắn. Và mình đã bắn. Những ngón tay đầy máu thỏ. Với những ngón tay dính máu đó nó vớ lấy điếu thuốc rồi bỏ ra ban công. Tối hôm đó nó không nói thêm với tôi một lời nào. Tôi tìm tới các bác sĩ. “Hãy trả lại con trai cho tôi! Xin cứu giúp!” Tôi kể lại tất cả… Họ kiểm tra nó, thăm khám, nhưng ngoài chứng đau thần kinh tọa, họ chẳng phát hiện gì. Một lần nọ về nhà, tôi thấy bốn cậu trai lạ ngồi sau bàn. - Mẹ, họ từ Afghanistan về. Con gặp họ ở nhà ga. Họ chẳng có chỗ nào để qua đêm cả. - Tôi sẽ nướng một cái bánh ngọt cho các cậu. Nhanh lắm. - Chẳng hiểu sao tôi lại mừng rỡ. Chúng sống ở nhà tôi một tuần lễ. Tôi không đếm, nhưng tôi nghĩ chúng uống cỡ bốn thùng vodka. Mỗi tối tôi lại gặp ở nhà năm người lạ, người thứ năm là con tôi. Tôi không muốn nghe những câu chuyện của chúng, tôi sợ lắm. Nhưng vì ở chung một nhà nên tôi tình cờ nghe thấy. Chúng kể suốt hai tuần mai phục, chúng được phát thuốc kích thích để bạo gan hơn. Nhưng tất cả những chuyện đó được giữ kín. Vũ khí nào giết người hiệu quả hơn. Từ khoảng cách nào… Sau này tôi mới nhớ lại những câu chuyện đó, khi sự việc đã xảy ra. Chỉ sau đó tôi mới nghĩ ra, hoảng hốt nhớ lại. Còn trước đó chỉ có nỗi sợ: “Ôi,” tôi nói thầm, “chúng điên làm sao. Tất cả đều dở người”. Ban đêm. Trước cái ngày nó giết người. Tôi nằm mơ thấy mình đang đợi con nhưng mãi vẫn không thấy nó. Thế rồi người ta đưa nó về. Bốn “người Afghan” đó đưa về. Và họ ném nó xuống sàn xi măng dơ dáy. Cô hiểu không, sàn xi măng trong gian bếp chúng tôi ấy…* Cái sàn như sàn nhà tù. Lúc đó nó đã vào học khoa dự bị trường Đại học Kỹ thuật Phát thanh. Nó viết tốt bài luận. Nó hạnh phúc và mọi việc đều ổn. Tôi đã nghĩ nó đang nguôi ngoai. Sẽ đi học. Rồi cưới vợ. Nhưng cứ tối đến, tôi sợ những buổi tối, nó ngồi và nhìn chằm chằm vào vách rồi thiếp ngủ trên ghế bành. Tôi muốn nhào tới, lấy thân mình che chở và không thả cho nó đi đâu nữa hết. Bây giờ tôi nằm mơ thấy nó còn nhỏ và đòi ăn. Lúc nào nó cũng đói. Nó chìa hai tay. Trong mơ lúc nào tôi cũng thấy nó nhỏ bé và bị hạ nhục. Còn trong đời thật? Mỗi tháng hai cuộc gặp. Bốn tiếng chuyện trò qua lớp kính. Mỗi năm hai lần thăm nuôi, đó là khi tôi được mang gì đó cho nó ăn. Và tiếng chó sủa. Tôi nằm mơ thấy tiếng chó sủa. Chúng đuổi theo tôi khắp chốn. Có một người đàn ông tán tỉnh tôi. Tặng cả hoa. Khi ông ta mang hoa tới, “Ông tránh xa khỏi tôi,” tôi bắt đầu hét, “tôi là mẹ của tên giết người”. Thời gian đầu tôi sợ gặp những người quen, tôi trốn trong nhà tắm và chờ những bức tường đổ sập xuống người. Tôi ngỡ như người ngoài đường đều nhận ra tôi, chỉ trỏ nhau xem rồi xầm xì: “Nhớ vụ ghê rợn đó không? Chính con trai bà ta giết người đấy. Chặt làm tư. Kiểu Afghanistan”. Tôi chỉ ra đường vào buổi tối, tìm hiểu hết những loài chim đêm. Tôi nhận biết chúng qua tiếng hót. Vụ án được điều tra. Vài tháng trôi qua. Nó im lặng. Tôi đến quân y viện Burdenko ở Moskva. Ở đó tôi tìm được vài cậu trai từng phục vụ trong đội đặc nhiệm như nó. Tôi bộc bạch cùng họ. - Các cháu này, vì cái gì mà con trai bác giết người? - Hẳn là có chuyện gì đó. Tôi phải thuyết phục mình rằng con tôi có thể đã làm điều đó. Giết người. Tôi gặng hỏi họ rất lâu để hiểu ra rằng: nó có thể! Tôi hỏi họ về cái chết. Không, không phải về cái chết, mà về việc giết chóc. Nhưng cuộc trò chuyện đó không gợi được ở họ những cảm xúc đặc biệt nào, những cảm xúc mà bất kỳ việc giết chóc nào cũng đều có thể gợi lên ở một con người bình thường chưa từng thấy máu. Họ nói về chiến tranh như nói về một công việc, một công việc cần phải giết người. Sau đó tôi đến gặp những cậu trai cũng từng ở Afghanistan, và khi Armenia động đất họ đã tới đó cùng những đội cứu hộ. Tôi muốn biết, tôi bị ám ảnh vì chuyện đó: họ có sợ không? Họ cảm giác thế nào khi chứng kiến cái chết? Không, họ chẳng thấy sợ gì cả, thậm chí lòng thương hại ở họ cũng đã cùn mằn. Những hộp sọ vỡ tung, bẹp dí, những khúc xương người… Nhiều trường học bị vùi trong lòng đất. Những lớp học. Bọn trẻ ngồi học và cứ thế mà đi vào lòng đất. Còn họ thì nhớ và kể lại những chuyện khác, nào là họ đã đào được những kho rượu vang béo bở ra sao, họ đã uống những loại vang nào, loại cô nhắc nào. Họ đùa cợt: phải chi có thêm động đất ở đâu đó. Nhưng phải ở chỗ nào ấm áp cơ, nơi nho có thể mọc và làm được vang ngon. Họ sao thế? Tâm lý họ có bình thường không vậy? “Con căm thù cái đứa bị giết đó.” Nó viết cho tôi như thế cách đây không lâu. Sau năm năm. Chuyện gì đã xảy ra ở đó? Nó câm nín. Tôi chỉ biết, cậu trai đó tên Yura, khoác lác rằng đã kiếm chác được nhiều chi phiếu ở Afghanistan. Nhưng sau đó hóa ra cậu ta phục vụ ở Ethiopia, là chuẩn úy. Cậu ta đã nói dối về Afghanistan. Tại phiên tòa, chỉ một mình luật sư biện hộ nói rằng chúng ta đang xử án một người bệnh. Trên ghế bị can không phải là tội nhân, mà là bệnh nhân. Anh ta cần được điều trị. Nhưng đó là bảy năm về trước, khi sự thật về Afghanistan chưa được hé lộ. Và chúng ta đã gọi tất cả là anh hùng. Những chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế. Còn con trai tôi là kẻ giết người. Bởi nó làm cái việc mà họ từng làm ở đó. Vì việc đó mà họ được trao mề đay và huân chương. Nhưng tại sao họ lại buộc tội mình con tôi? Tại sao không buộc tội những kẻ đẩy nó vào nơi đó? Dạy nó giết người! Tôi đâu có dạy con mình việc đó. (Bùng nổ và gào thét.) Nó giết người bằng cái rìu bếp của tôi. Rồi buổi sáng nó mang đặt cái rìu lại vào tủ bếp. Như một cái muỗng hay một cái nĩa bình thường. Tôi ganh tị với những bà mẹ có con trở về cụt cả hai chân. Cứ để nó căm thù mẹ mình sau khi đã nốc say. Căm thù cả thế giới. Cứ để nó lao vào bà ta, như lao tới kẻ thù. Bà ta sẽ trả tiền cho gái mại dâm, để nó không phát rồ. Bản thân bà ta từng một lần trở thành tình nhân cho nó, bởi nó đã trườn ra ban công và muốn lao xuống từ tầng mười. Tôi chấp nhận tất cả. Tôi ganh tị với tất cả những bà mẹ, kể cả những ai có con đã nằm trong huyệt mộ. Tôi sẽ ngồi bên mộ chí của con và hạnh phúc. Tôi sẽ mang hoa tới. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Nó đuổi theo tôi. Tôi nghe thấy chúng. Một bà mẹ Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả của tác giả  Svetlana Alexievich & Phan Xuân Loan (dịch).