Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Danh Sách Của Schindler

Trong bóng đen khủng khiếp của các trại diệt chủng thời Đệ nhị Thế chiến, có một nhà công nghiệp Đức đã trở thành cứu tinh của người Do Thái. Oskar Schindler, con người ham lạc thú, kẻ còn lâu mới được coi là mẫu mực, cũng đồng thời là kẻ đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để bảo vệ những đồng loại khác chủng tộc mà nếu không có ông thì hẳn đã kết thúc cuộc đời trong lò thiêu. Danh sách của Schindler đã kể một câu chuyện có thật khác thường như vậy, một câu chuyện tự nó đã có thể làm người đọc choáng váng mà không cần đến một phương tiện văn chương cầu kỳ nào. Nó có thể làm ta khóc, như bộ phim kinh điển dựng từ chính nó của Steven Spielberg đã làm cho hàng triệu người khóc, nhưng trên hết nó làm ta hiểu hơn về những gì đã xảy ra, những sự kiện, những con số, những chân dung chi tiết hơn của cả nạn nhân, thủ phạm và người cứu nạn. Holocaust là một chương lịch sử kinh hoàng gần như nằm ngoài tưởng tượng của loài người tỉnh táo. Nhưng những câu chuyện như Bản danh sách của Schindler chính là tia hy vọng trấn an, rằng ngay cả trong hố sâu tuyệt vọng nhất của lịch sử vẫn luôn có một cá nhân nào đó nhận ra và dám làm điều đúng đắn, rằng nhân tính sẽ thắng dù cho có bị thử thách khốc liệt ra sao. *** Review Trần Thông:   Trong “Danh sách của Schindler”, Thomas Keneally đã kể chi tiết về cuộc đời của một nhà tài phiệt người Đức tên là Sudeten, người thành lập một nhà máy sản xuất men ở thành phố Krakow của Ba Lan nhưng dường như nó đã bị Đức Quốc xã chiếm đóng. Oskar Schindler là một người đàn ông có uy tín và có khả năng kinh doanh đáng nể trong thời kỳ chiến tranh. Nhưng có một cuộc chiến khác nổ ra ở một nơi toàn cảnh đẹp như tranh vẽ ở Đông Âu -một cuộc chiến sẽ in hằn vết sẹo vào sâu trong lịch sử loài người: cuộc đàn áp người Do Thái. Schindler theo dõi những người Do Thái ở Krakow, mỗi người có câu chuyện của riêng mình, kể về những điều kiện chật chội của khu ổ chuột trong thành phố, bị cắt đứt khỏi cuộc sống và sau đó bị đuổi ra khỏi trại lao động đầy áp bức bóc lột dưới sự cai trị của chỉ huy tàn bạo, Amon Goeth. Nhưng trong cái bóng của sự tham lam kiếm tiền của Schindler, anh ta thể hiện một sự từ bi và lòng nhân hậu đối với các nhân viên Do Thái của mình. Với sự giúp đỡ của một kế toán viên, đồng thời cũng là người bạn lâu năm tên là Itzhak Stern, Schindler đã lập ra một danh sách không bình thường. Bằng cách thêm tên các công nhân vào danh sách, Schindler khiến họ không còn bị hỗn loạn và tàn sát ở Plaszow, mà thay vào đó là thiên đường – nơi nhà máy của anh ta đang hoạt động. Bằng cách mua chuộc các quan chức bằng những đồng tiền đen bạc, Schindler “di chuyển ngầm” bên dưới vòng quay của chế độ chuyên chế gây ra khủng hoảng cho thành phố này và cuối cùng cứu được 1.200 đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái khỏi các buồng khí của Auschwitz và Gross-Rosen. Schindler Juden sống ở mọi nơi trên thế giới và đến năm 1993, Schindler đã cứu được 6.000 trẻ em và cháu của mình một cách hiệu quả. Oskar Schindler qua đời năm 1974 và, như Keneally viết, ông được thương tiếc trên toàn thế giới. Việc câu chuyện này là có thật đã cho tôi rất nhiều niềm tin vào nhân loại. Tôi phải thừa nhận rằng cuốn sách này là tuyệt vời về mọi phương diện. Chủ đề được tiếp cận với sự nhạy cảm của tác giả khiến cho mọi câu văn trở nên cực kỳ dễ đọc. Câu chuyện không chỉ lướt qua sự tàn bạo của các sự kiện, như nhiều cuốn sách khác đã làm mà “Danh sách của Schindler” chính xác là một tiểu sử được tạo ra với cùng một kiểu tinh tế của một tác phẩm văn học. Oskar Schindler là một con người lang thang, một người nghiện rượu. Và mặc dù anh ta không bao giờ là một người chồng tốt với người vợ thẳng thắn của mình nhưng anh ta đã cứu sống 1.200 người. Thật đáng khâm phục. *** Oskar Schindler sinh ra ở Sudetenland nói tiếng Đức. Khi còn trẻ, ông là một thành viên của Đảng Quốc xã và khi chiến tranh bắt đầu, ông đã thành lập một nhà máy ở Cracow để sản xuất hàng hóa cho Quân đội Đức. Ông nhanh chóng trở nên rất giàu có với tư cách là một trong những tầng lớp tinh hoa của Đức Quốc xã. Tuy nhiên, ông và vợ Emilie trở nên kinh hoàng trước cách đối xử với người Do Thái và nhanh chóng bắt đầu thu xếp để bảo vệ những người lao động Do Thái của họ, chủ yếu bằng tiền của họ. Vào cuối cuộc chiến, họ đã cứu khoảng 1200 người Do Thái. Trong bóng đen khủng khiếp của các trại diệt chủng thời Đệ nhị Thế chiến, có một nhà công nghiệp Đức đã trở thành cứu tinh của người Do Thái. Oskar Schindler, con người ham lạc thú, kẻ còn lâu mới được coi là mẫu mực, cũng đồng thời là kẻ đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để bảo vệ những đồng loại khác chủng tộc mà nếu không có ông thì hẳn đã kết thúc cuộc đời trong lò thiêu. Danh sách của Schindler đã kể một câu chuyện có thật khác thường như vậy, một câu chuyện tự nó đã có thể làm người đọc choáng váng mà không cần đến một phương tiện văn chương cầu kỳ nào. Nó có thể làm ta khóc, như bộ phim kinh điển dựng từ chính nó của Steven Spielberg đã làm cho hàng triệu người khóc, nhưng trên hết nó làm ta hiểu hơn về những gì đã xảy ra, những sự kiện, những con số, những chân dung chi tiết hơn của cả nạn nhân, thủ phạm và người cứu nạn. Holocaust là một chương lịch sử kinh hoàng gần như nằm ngoài tưởng tượng của loài người tỉnh táo. Nhưng những câu chuyện như Danh sách của Schindler chính là tia hy vọng trấn an, rằng ngay cả trong hố sâu tuyệt vọng nhất của lịch sử vẫn luôn có một cá nhân nào đó nhận ra và dám làm điều đúng đắn, rằng nhân tính sẽ thắng dù cho có bị thử thách khốc liệt ra sao. ​*** Năm 1980 tôi vào một tiệm bán vali ở Beverly Hills, California hỏi giá cặp tài liệu. Chủ tiệm là Leopold Pfefferberg, một cựu tù sống sót của Schindler. Chính tại đây, dưới những giá đồ da nhập khẩu từ Ý của Pfefferberg, lần đầu tiên tôi được nghe về Oskar Schindler, gã lãng tử phong lưu người Đức, nhà đầu cơ, kẻ mê hoặc, biểu tượng của sự đối lập, và về nỗ lực của Oskar nhằm giải cứu một bộ phận của một chủng tộc bị tru di, trong những năm tháng về sau được biết tới qua cái tên chung là Holocaust. Cuốn sách về cuộc đời oanh liệt của Oskar này trước hết dựa trên nội dung phỏng vấn năm mươi cựu tù ở bảy quốc gia - Australia, Israel, Tây Đức, Áo, Mỹ, Argentina và Brazil. Nó được làm phong phú thêm bằng một chuyến đi, được sự đồng hành của Leopold Pfefferberg, đến các địa điểm xuất hiện nổi bật trong sách: Cracow, nơi Oskar chọn làm quê hương; Płaszów, nơi đặt trại lao động khủng khiếp của Amon Goeth; phố Lipowa, Zablocie, nơi ngày nay nhà máy của Oskar còn đứng đó; Auschwitz-Birkenau, từ đây Oskar đã giải cứu đoàn tù nữ. Những câu chuyện còn căn cứ vào hồ sơ tư liệu và những thông tin khác từ một vài cộng sự thời chiến của Oskar mà tác giả còn có thể tiếp cận, cũng như đông đảo bạn bè thời bình của ông. Nhiều lời chứng chi tiết về Oskar, do các cựu tù Do Thái gửi tới Yad Vashem, Cơ quan Tưởng niệm các Anh hùng và bậc Tử vì đạo, giúp câu chuyện thêm phong phú hơn nữa. Bên cạnh đó là lời chứng bằng văn bản từ các nguồn riêng và bộ sưu tập giấy tờ, thư tín của Schindler, một số của Yad Vashem, số khác do bạn bè Oskar cung cấp. Sử dụng chất liệu cùng thủ pháp tiểu thuyết để kể một câu chuyện có thật là lối đi quen thuộc của văn chương hiện đại. Đó cũng là con đường tôi lựa chọn ở đây - vì viết tiểu thuyết là kỹ năng duy nhất tôi nắm chắc, và các kỹ thuật tiểu thuyết có vẻ phù hợp với một nhân vật mơ hồ và có tầm vóc như Oskar. Dù vậy tôi vẫn cố gắng hạn chế hư cấu hoàn toàn, vì hư cấu sẽ xói mòn giá trị của câu chuyện, và cố gắng phân biệt hiện thực và những huyền thoại thường gắn liền với một con người tầm cỡ Oskar. Đôi khi tôi buộc phải tái tạo một cách hợp lý những đối thoại mà Oskar và các bên tham gia chỉ để lại ký lục hết sức vắn tắt. Song phần lớn các trao đổi và đối thoại, cùng mọi sự kiện, đều căn cứ theo hồi ức chi tiết của các Schindlerjuden (người Do Thái của Schindler), của bản thân Schindler, và nhiều người khác có cơ hội chứng kiến nghĩa cử phi thường của Oskar. Trước tiên, tôi xin cảm ơn ba cựu tù sống sót của Schindler - Leopold Pfefferberg, Thẩm phán Moshe Bejski tại Tòa án tối cao Israel, và Mieczyslaw Pemper - những người không chỉ gửi gắm cho tác giả ký ức của mình về Oskar, và cung cấp tài liệu góp phần vào sự chính xác của câu chuyện, mà còn đọc bản thảo đầu tiên và góp ý những điểm cần sửa chữa. Nhiều người khác, từ các cựu tù cho đến đồng sự của Oskar thời hậu chiến, đã trả lời phỏng vấn và nhiệt tình đóng góp thông tin qua thư tín và tài liệu. Trong số đó có Frau(1) Emilie Schindler, bà Ludmila Pfefferberg, tiến sĩ Sophia Stern, bà Helen Horowitz, tiến sĩ Jonas Dresner, ông bà Henry và Mariana Rosner, ông Leopold Rosner, tiến sĩ Alex Rosner, tiến sĩ Idek Schindel, tiến sĩ Danuta Schindel, bà Regina Horowitz, bà Bronislawa Karakulska, ông Richard Horowitz, ông Shmuel Springmann, ông Jakob Sternberg quá cố, ông Jerzy Sternberg, ông bà Lewis Fagen, ông Henry Kinstlinger, bà Rebecca Bau, ông Edward Heuberger, ông bà M. Hirschfeld, ông bà Irving Glovin, và còn nhiều nữa. Tại thành phố quê tôi, ông bà E. Korn không chỉ chia sẻ hồi ức về Oskar mà còn là nguồn động viên thường trực. Tại Yad Vashem, tiến sĩ Josef Kermisz, tiến sĩ Shmuel Krakowski, Vera Prausnitz, Chana Abells, và Hadassah Mödlinger đã tạo điều kiện rộng rãi cho tôi tiếp cận hồ sơ nhân chứng về Schindler và các tư liệu phim, ảnh liên quan. Sau cùng, tôi muốn tôn vinh nỗ lực của ông Martin Gosch nhằm đưa cái tên Oskar Schindler đến với thế giới, và bày tỏ lòng cảm ơn bà quả phụ Lucille Gaynes, về sự hợp tác với dự án này. Nhờ sự hỗ trợ của tất cả mọi người, câu chuyện phi thường của Oskar Schindler đã lần đầu tiên xuất hiện một cách trọn vẹn. TOM KENEALLY (1) Tiếng Đức: cô, bà, dùng cho người phụ nữ đã kết hôn. ​ Mời các bạn đón đọc Danh Sách Của Schindler của tác giả Thomas Keneally.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trường Trung Học Avalon - Meg Cabot
Học sinh mới Elaine ‘Ellie’ Harrison không thể tin được vận may sững sờ của mình! Hội trưởng hội học sinh năm cuối kiêm ngôi sao tiền vệ và cũng là một chàng đẹp trai tuyệt vời, A.Will Wagner lại quan tâm đặc biệt tới cô. Bất ngờ hơn nữa, có vẻ như anh chàng hấp dẫn chết người này lại đang hẹn hò với đội trưởng đội cổ vũ xinh đẹp choáng váng, Jennifer Gold. Ellie chỉ biết rằng, Will nói với cô, “Tôi cảm thấy chúng ta đã từng gặp nhau trong kiếp trước”. Rõ ràng, huyền thoại về Camelot vẫn còn tồn tại! Sự tương đồng kỳ lạ giữa cuộc sống hiện tại của họ và những huyền thoại thời Arthur khiến một Ellie hoài nghi phải chấp nhận sự thực rằng Vua Arthur cổ xưa đã tái sinh thành Will Wagner. Như thế vẫn chưa đủ kỳ lạ, Ellie còn được cho là “Elaine xứ Astolat”, tái sinh!!! Trường Trung học Avalon dường như tập hợp đầy những nhân vật lịch sử và sự trùng hợp ngỡ ngàng. Và khi các thế lực bóng tối trỗi dậy lần nữa để hủy diệt Vua Arthur, Ellie phát hiện ra rằng chính mình đang liều mạng đâm đầu vào những mưu mô lắt léo và tình huống hiểm nguy. Sự pha trộn huyền ảo giữa ma thuật thời trung cổ với tuổi trẻ hiện đại, Trường Trung học Avalon là một tập hợp những bất ngờ thán phục, mở ra một cái nhìn mới đầy hấp dẫn về cuộc đời và thời đại của một trong những vị vua gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử… Arthur Pendragon. Mời các bạn đón đọc Trường Trung Học Avalon của tác giả Meg Cabot.
Cô Gái Đồng Trinh và Chàng Du Tử - D. H. Lawrence
Cô gái đồng trinh và chàng du tử là một tiểu thuyết ngắn rực rỡ, mãnh liệt. Nó thức tỉnh niềm đam mê, tình yêu và tự do. Ðó là cuộc thức tỉnh của nàng Yvette. Nàng sống trong nhà đạo của người cha mục sư. Nhưng đời sống thì ở bên ngoài. Mà đời sống thì khác, “tựa như một mặt trời quay nhanh và nguy hiểm” Một khát vọng thoát ly. Một cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa nàng và chàng du mục. Rồi cơn lũ ập đến. Ðến từ dòng sông. Ðến từ đời sống. Ðến từ tâm hồn nàng. Cơn lũ có sức mạnh hủy diệt. Cuốn phăng tòa nhà đạo. Nàng đối mặt với Nước, với Ðời, với Du Tử. Yvette ơi, nàng hãy sống! ***   David Herbert Lawrence (1885-1930) là một trong vài biểu tượng có ý nghĩa nhất trong văn học thế kỷ hai mươi. Ông đem đến cho văn học Anh và thế giới một cái nhìn mới về bản năng, thân xác và tình yêu, kể cả một cái nhìn mới về tiểu thuyết. Con trai và Người tình, Công Chúa, Cầu vồng, Người đàn bà đang yêu, Con rắn có lông, Người tình của phu nhân Chatterley Ông cũng viết nhiều truyện ngắn độc đáo, làm thơ và vẽ tranh. Lawrence nhìn tiểu thuyết như thế này“Tiểu thuyết là một khám phá vĩ đại… Tiểu thuyết là hình thức biểu hiện cao nhất mà con người có thể đạt tới. Tại sao? Bởi vì nó không thể tuyệt đối. Trong tiểu thuyết, mọi điều thì tương đối đối với mọi điều khác, nếu như tiểu thuyết đó ít ra là nghệ thuật. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Đồng Trinh và Chàng Du Tử của tác giả D. H. Lawrence.
Dịch Hạch - Albert Camus
Anbe Camuy (bút danh: Albert Camus - 1913 - 1960) là một trong những tên tuổi nổi bật trên văn đàn Pháp trong những thập kỷ giữa và sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tác phẩm của Camuy - tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn, tùy bút và tiểu luận - gây nên những cuộc tranh luận sôi nổi ở Pháp và nhiều nước trên thế giới. Camuy được giải thưởng Noben về văn học năm 1957 vì sáng tác văn học của ông đã “đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại chúng ta”. Trong số những tác phẩm của ông, cuốn tiểu thuyết “Dịch Hạch” (La Peste) được đánh giá cao hơn cả. Nội dung tác phẩm là nạn dịch hạch và cuộc chiến đấu thầm lặng, cực kỳ gian khổ để dập tắt nạn dịch, cứu sống thành phố Orăng trên bờ biển Angiêri. Thành phố đang sống thanh bình thì bỗng những con chuột lăn ra chết ở khắp nơi. Rồi đến một người, hai người, hàng chục, hàng trăm người bị chết. Orăng biến thành một địa ngục khủng khiếp, quằn quại trong nguy cơ bị diệt vong như bao thành phố trước kia ở châu Âu, châu Á, châu Phi. Giữa cái không khí chết chóc bi thảm ấy và bất chấp hiểm họa bị lây nhiễm, bác sĩ Riơ - nhân vật chính diện và trung tâm quán xuyến toàn bộ tác phẩm - cùng đồng nghiệp và bạn bè lao vào cuộc chiến đấu để cứu vớt nhân dân thành phố. Theo ông, chỉ có cách là dấn mình vào cuộc, cầm lấy vũ khí để đấu tranh, ngăn chặn, vì… “nếu không điên thì cũng mù, không mù thì cũng hèn nhát mới cam chịu buông tay trước dịch hạch”. Thái độ ông thật rõ ràng. Ông khẳng định khi có người bệnh thì cấp bách hơn hết là chữa bệnh cho họ. “Sức lực tôi đến đâu thì tôi bảo vệ họ đến đó…”. Và chính trong lúc vợ ông ốm đau đang đi điều dưỡng ở xa - và sau này chết mà ông không được gặp, - ông tổ chức việc cứu chữa những người bị dịch hạch và tự bản thân mình, tự hai bàn tay mình, làm phẫu thuật cho biết bao người bệnh. Để cứu sống họ, ông không tiếc công sức, hạnh phúc và cả tính mệnh. Lời nói và việc làm của Riơ thuyết phục và thu phục nhiều người khác. Trong đó đáng lưu ý hơn cả là nhà báo Rămbe và linh mục Panơlu. Rămbe đến Orăng với nhiệm vụ điều tra về đời sống của người Arập cho một tờ báo lớn ở Pari. Thế là anh bị mắc kẹt từ khi có lệnh đóng cửa thành phố vì dịch hạch. Anh làm mọi cuộc vận động để ra khỏi thành phố, trở về với người yêu đang ngày đêm mong ngóng. Nhưng đến khi có người thu xếp để anh ra về thì anh tình nguyện ở lại và trực tiếp tham gia cứu chữa người bệnh. Trở về với người thân là niềm hạnh phúc chính đáng, nhưng anh khước từ, vì như anh nói với Riơ: “Hưởng hạnh phúc lấy một mình thì thật đáng hổ thẹn”. Đặc biệt hơn nữa là trường hợp Panơlu. Giữa lúc dịch bệnh đang hoành hành, gieo rắc chết chóc và đau thương, thì Panơlu giảng cho con chiên phải yên lòng đón nhận lấy “sự trừng phạt” và “cơn giận” bất thần của Chúa để chóng được trở về với Chúa. Nhưng tấm gương hy sinh, tận tụy của Riơ, của Rămbe và của những người khác đã cảm hóa ông, nhất là sau khi ông chứng kiến cái chết thảm thương của một đứa trẻ bị dịch hạch. Trong một buổi cầu kinh thứ hai, khi nói với các tín đồ, ông dùng đại từ xưng hô “chúng ta” thay thế cho “các con” trước kia và nắm tay lại đấm mạnh vào mặt bàn, thiết tha kêu gọi: “Hỡi những người anh em, chúng ta phải là những người ở lại!”. Bản thân ông cũng tự nguyện xung vào đội cứu chữa, cuối cùng lây bệnh và chết. Cùng với Riơ, nổi bật trong tác phẩm là hình tượng Taru, một trí thức căm ghét xã hội, căm ghét bạo lực tư sản với những bản án tử hình ngàn lần đáng nguyền rủa. Là con trai một phó tổng chưởng lý, - người quyết hướng con đi theo sự nghiệp của mình - Taru đã bỏ nhà và từ giã cuộc sống nhung lụa của một gia đình quyền quý ra đi sau khi nghe những lời buộc tội độc ác của cha anh và chứng kiến tòa án kết tội tử hình bị cáo. Anh lưu lạc ở nhiều nước, tham gia nhiều cuộc chiến đấu. Trước nạn dịch hạch hoành hành, anh sốt sắng tự nguyện tổ chức những đội y tế, cùng với Riơ lao vào cuộc chiến đấu một mất một còn với vi trùng dịch bệnh. Mục đích của anh, tâm niệm của anh là sống vì con người, cho con người. Anh cho xã hội anh đang sống là một xã hội “dựa trên sự kết án tử tình”, và chiến đấu chống lại xã hội ấy, anh “chiến đấu chống lại sự giết người”. *** DỊCH HẠCH là một cuốn tiểu thuyết biểu tượng. Thông qua hình tượng nhân vật, hành vi và nhất là tâm tư cùng ngôn ngữ của họ, người đọc dễ dàng cảm nhận chiều sâu tác phẩm và ý định tác giả là phủ định chiến tranh và bạo lực, khẳng định ý chí chiến đấu chống tai họa đe dọa cuộc sống con người. Tác giả xây dựng một loạt nhân vật tích cực tuy đường đi nước bước có khác nhau nhưng cuối cùng đều tự nguyện xông vào trận tuyến chiến đấu chống dịch hạch, đem lại cuộc sống yên lành cho con người, trả lại hòa bình cho xã hội. Trong lúc một số người cho là làm gì cũng vô ích, chỉ nên quỳ gối cầu xin Thượng đế, thì Riơ, Taru và bè bạn đều khẳng định là phải chiến đấu bằng cách này hay cách khác, chứ không quỳ gối: “Toàn bộ vấn đề là ra sức ngăn cản không để người ta chết và vĩnh viễn xa nhau. Muốn vậy, chỉ có một cách duy nhất là chống lại dịch hạch”. Tinh thần cảnh giác toát ra từ tác phẩm cũng đầy ý nghĩa. Giữa tiếng nói cười hân hoan, rộn ràng của những người thoát dịch bênh, bác sĩ Riơ vẫn nghĩ đám người đang hò reo đó không biết rằng “vi trùng dịch hạch không bao giờ chết và mất hẳn. Nó có thể nằm yên hàng chục năm trong đồ đạc, áo quần, chăn chiếu…; nó kiên nhẫn đợi chờ trong các căn buồng, dưới hầm nhà, trong hòm xiểng… và một ngày nào đó, để gây tai họa và dạy cho họ bài học, dịch hạch có thể đánh thức đàn chuột của nó dậy và bắt chúng chạy đến lăn ra chết ở một đô thành nào đó đang sống trong hạnh phúc và phồn vinh. Tác giả mượn lời kể của bác sĩ Riơ để “tỏ rõ thiện chí” của mình “đối với các nạn nhân dịch hạch, để ghi lại ít nhất là một dấu vết của bất công và bạo lực, và nói lên cái bài học rút ra được giữa lúc gặp tai hoạ là trong loài người có nhiều điều đáng khâm phục hơn là cái đáng khinh ghét”. Rõ ràng nhân vật trung tâm của tác phẩm - bác sĩ Riơ - tượng trưng cho những con người kháng chiến, những con người hành động. Riơ mang hơi hướng của những năm kháng chiến chống phát xít Đức mà chính Anbe Camuy đã tích cực tham gia. Và tác giả đã thành công trong việc xây dưng nhân vật này để thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm: chiến đấu chống tội ác, chống khủng bố, chống chết chóc vì hạnh phúc và cuộc sống hòa bình của con người. Mời các bạn đón đọc Dịch Hạch của tác giả Albert Camus.
Báo Ứng - Philip Roth
Một tiểu thuyết về sự đau thương và mạnh mẽ. Như cách ta phản ứng lại cuộc đời này: một là gục ngã, và một là tạo ra giá trị của chính mình. *** Dựng lên một biểu tượng anh hùng rồi lạnh lùng kéo sập nó ngay trước mắt độc giả chính xác là điều mà Philip Roth đã làm trong cuốn tiểu thuyết "Báo ứng" - cuốn tiểu thuyết cuối cùng trong văn nghiệp của ông, Roth muốn bạn đọc có thể chiêm nghiệm thông điệp sâu sắc: không phải thành công tạo nên giá trị con người mà chính những lựa chọn của anh ta sẽ tạo nên điều đó. Ông đưa chúng ta quay về mùa hè oi ả năm 1944, tại thành phố Newark thuộc tiểu bang Illinois - nước Mỹ chính nơi đây ông đã khắc hoạ nên hình tượng Bucky Cantor - một giáo viên dạy thể dục, được biết đến như một siêu nhân tốt bụng, chính trực luôn sống có trách nhiệm, anh chính là tượng đài trong lòng của những cô cậu học trò bé nhỏ. "Chạy đà cùng cây lao giơ trên cao, cánh tay cầm lao đưa sâu ra đằng sau, rồi vung mạnh ra phía trước và buông cho ngọn lao bay đi tạo nên một đòn tấn công sấm sét - trong mắt chúng tôi thầy dường như bất khả chiến bại." Rồi "cơn ác mộng" mang tên sốt bại liệt ập đến, nó đã cướp đi khả năng vận động và sinh mạng của những đứa học trò anh yêu thương. Thế rồi tác giả đã thổi bùng lên trong anh nỗi đau thương mất mát, sự sợ hãi đến tuyệt vọng và đặt anh trước sự "đánh đổi" lớn nhất của cuộc đời. Vậy mà, đứng trước cuộc chiến thật sự của cuộc đời mình anh lại trở nên yếu đuối, anh đã không đủ mạnh mẽ để bảo vệ những điều tốt đẹp trong con người mình. Bằng những giá trị tốt đẹp mà anh được dạy để trở thành anh đã đấu tranh tư tưởng rất dữ dội, vậy mà cuối cùng anh lại thua cuộc, thua chính mình, thua thê thảm. Bucky đã từng rất thất vọng về bản thân và ghen tỵ với hai người bạn thân vì họ được ra chiến trường chiến đấu như những người hùng còn anh bị loại chỉ bởi thị lực kém, vậy mà giờ đây anh đã chọn trở thành kẻ "đào ngũ" ngay trên "chiến trường" riêng của cuộc đời mình. Anh bỏ đi vì không muốn đối mặt với những đứa trẻ anh yêu thương đang bị bại liệt tàn phá, anh sợ hãi căn bệnh sẽ huỷ hoại tương lại tươi đẹp của chính anh, nhưng Bucky đâu ngờ chính quyết định này sẽ là mồ chôn số phận con người chính trực và sống đầy trách nhiệm - con người mà anh đã từng là. Cuộc đời luôn cho chúng ta nhiều hơn một cơ hội nhưng hết lần này đến lần khác anh đã từ chối chiến đấu để tạo dựng lại giá trị cho bản thân. Tự hỏi rằng con người ta phải tỉnh táo và mạnh mẽ đến mức nào mới có thể đứng vững trước những bóng ma cám dỗ của số phận..? Tôi thật sự cảm thấy đau lòng và tiếc nuối cho Bucky. Anh sụp đổ, anh bắt đầu đổ lỗi cho Chúa trời, cho chính mình, anh không nhận ra rằng chỉ trong những thử thách nghiệt ngã nhất của số phận, những con người thật sự cao quý và mạnh mẽ mới được sinh ra. Có lẽ ai trong chúng ta cũng phải ít nhất một lần trong đời đứng trước những khúc quanh số phận như thế. Hãy luôn tỉnh táo, mạnh mẽ và hãy sống chính trực có trách nhiệm. Hãy can đảm trước khó khăn của mình và tử tế khi người khác gặp hoạn nạn. Chỉ con đường đó mới hiển lộ chân giá trị đẹp đẽ trong mỗi chúng ta. *** Philip Milton Roth sinh năm 1933 tại thành phố Newark, bang New Jersey, Mỹ trong một gia đình Do Thái nhập cư. ông tốt nghiệp ngành Ngữ văn tại Đại học Bucknell, sau đó học cao học Văn chương Anh tại Đại học Chicago. Roth dạy sáng tác tại Đại học Iowa và Princeton, dạy văn học so sánh tại Đại học Pennsylvania cho tới khi về hưu vào năm 1992. Philip Roth là nhà văn đương đại lớn của Mỹ với hai lần được tặng giải thưởng Sách Toàn Quốc (National Book Award), giải thưởng của giới phê bình sách toàn quốc (National Book Critics Circle Award) và ba lần đạt được giải thưởng PEN/Faulkner. Năm 2005, tiểu thuyết "The Plot Against America" (Âm mưu chống lại nước Mỹ) của ông nhận được giải của Hiệp hội Sử gia Hoa Kỳ (Society of American Historians) vì tác phẩm này "là cuốn tiểu thuyết lịch sử xuất chúng viết về đề tài nước Mỹ trong những năm 2003 - 2004." Ông cũng giành được hai giải thưởng cao quý nhất thuộc hệ thống giải Văn học PEN (PEN Literary Award): PEN/Nabokov và PEN/Bellow. Philip Roth là tiểu thuyết gia người Mỹ duy nhất ngay từ khi còn sống đã được thư viện Hoa Kỳ (Library of America) phát hành toàn tập tác phẩm. Tập cuối cùng - tập thứ chín được lên kế hoạch phát hành trong năm 2013. Mời các bạn đón đọc Báo Ứng của tác giả Philip Roth.