Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tử Tước và Em - Julia Quinn

Chàng - một tử tước cao ngạo ăn chơi trác táng hạng nhất London đang có ý muốn kết hôn trong năm nay. Và người chàng để mắt tới không ai khác ngoài Edwina xinh đẹp, em gái nàng.   Nàng - một cô gái thông minh, bướng bỉnh, đang muốn chọn chồng cho em gái. Và lẽ dĩ nhiên người nàng muốn chọn cho Edwina không thể nào và không bao giờ là chàng. Thế rồi định mệnh đưa đẩy, người nàng muốn em gái mình tránh xa nhất lại là người đưa nàng vào vòng say mê… *** Nhận định   “Tử tước và em có mọi thứ bạn muốn trong một tiểu thuyết lãng mạn lịch sử. Quinn là nhà văn bậc thầy của thể loại này.” - D. Salvagin, Romance Reader    “Julia Quinn thực sự là Jane Austen đương đại.” - Jill Barnett *** Việc ấy xảy đến khi Anthony mười tám tuổi, về nhà trong kỳ nghỉ hè và chuẩn bị cho năm đầu tại đại học Oxford. Anh sẽ gia nhập vào AllSoulsCollege, như cha anh cũng đã tham gia trước anh, và cuộc đời của anh tươi sáng và chói lọi như bất kỳ một người mười tám tuổi nào có quyền được hưởng. Anh đã khám phá ra phụ nữ, và có thể là huy hoàng hơn, họ khám phá ra anh. Cha mẹ anh vẫn còn tái tạo một cách hạnh phúc, đã thêm Eloise, Francesca, và Gregory vào gia đình, và Anthony đã cố gắng hết sức để không đảo tròn mắt khi anh đi ngang qua mẹ trên đại sảnh - mang thai với đứa thứ tám! Nó hơi không thích hợp, trong suy nghĩ của Anthony, có con vào độ tuổi của họ, nhưng anh giữ ý kiến đó cho riêng mình. Anh là ai mà dám nghi ngờ sự thông thái của Edmund chứ? Có thể anh cũng sẽ muốn nhiều con cái hơn ở độ tuổi ba mươi tám. Khi Anthony phát hiện ra, thì đã là chiều muộn. Anh vừa trở về từ một cuộc cưỡi ngựa dài và bầm tím với Benedict và mới chỉ vượt qua cánh cửa trước của Aubrey Hall, căn nhà tổ tiên của dòng họ Bridgerton, khi anh thấy cô em gái mười tuổi đang ngồi trên sàn nhà. Benedict vẫn còn đang ở trong chuồng ngựa, đã thua vài cuộc cá độ ngu ngốc với Anthony, lụât quy định cậu phải ở lại và tắm rửa cho mấy con ngựa. Anthony ngừng lại khi anh thấy Daphne. Nó đã đủ kỳ lạ khi em gái anh lại ngồi giữa sàn của gian đại sảnh. Nó còn kỳ lạ hơn khi cô bé đang khóc. Daphne không bao giờ khóc. “Daff,” anh nói ngập ngừng, quá trẻ để hiểu phải làm thế nào với một người phụ nữ đang khóc lóc, và tự hỏi liệu anh có bao giờ học được không, “chuyện gì -” Nhưng trước khi anh có thể kết thúc câu hỏi của mình, Daphne đã ngước đầu lên, và ánh nhìn tan vỡ trong đôi mắt nâu to tròn cắt vào anh như một lưỡi dao. Anh sượt chân lùi một bước, biết rằng có điều gì đó không ổn, không ổn kinh khủng. “Ông chết rồi.” Daphne thì thầm. “Papa đã chết.” Trong một lúc Anthony chắc chắn rằng anh đã nghe nhầm. Cha anh không thể chết được. Những người khác chết trẻ, như Chú Hugo, nhưng Chú Hugo còn rất trẻ và mỏng manh. Chà, ít nhất thì trẻ hơn và mong manh hơn Edmund. “Em nhầm rồi.” Anh nói với Daphne. “Em nhất định là đã nhầm.” Cô bé lắc đầu. “Eloise nói với em. Ông đã... Nó là...” Anthony biết anh không nên lắc em gái anh khi cô bé đang khóc, nhưng anh không thể ngăn mình được. “Nó là cái gì, Daphne?” “Một con ong.” Cô thì thầm. “Cha bị chích bởi một con ong.” Trong một lúc Anthony chẳng thể làm gì khác ngoài nhìn chằm chằm vào cô. Cuối cùng, trong một giọng khàn khàn và khó có thể nhận ra, anh nói. “Một người đàn ông không chết vì ong đốt, Daphne.” Cô bé không nói gì, chỉ ngồi trên sàn nhà, cổ họng co giật khi cố kiềm chế nước mắt. “Cha đã từng bị đốt trước đây rồi.” Anthony nói thêm, âm lượng trong iọng anh tăng lên. “Anh đã ở cùng với cha. Cả hai cùng bị đốt. Bọn anh đã đi ngang qua một cái tổ ong. Anh bị chích trên vai.” Tự ý, tay anh đưa lên chạm vào vết mà anh đã bị chích từ nhiều năm trước. Trong một lời thì thầm anh nói thêm. “Cha bị đốt trên cánh tay.” Daphne chỉ nhìn chằm chằm vào anh với một vẻ mặt trống rỗng. “Cha ổn thôi.” Anthony ra lệnh. Anh có thể nghe được sự sợ hãi trong giọng của mình và biết anh đang làm cho em gái anh hoảng sợ, nhưng anh lại không có sức mạnh nào để kiềm chế điều đó. “Một người đàn ông không thể chết vì một vết ong đốt!” Daphne lắc đầu, đôi mắt cô bé bỗng trông như đã hàng trăm năm tuổi. “Đó là một con ong.” Cô nói trong một giọng trống rỗng. “Eloise đã thấy mà. Một phút trước cha chỉ là đang đứng đó, và sau đó cha đã... cha đã...” Anthony cảm thấy điều gì đó rất kỳ lạ đang dâng lên trong anh, như thể là các cơ bắp của anh đang chuẩn bị nhảy ra khỏi da anh vậy. “Sau đó cha đã thế nào, Daphne?” “Ra đi.” Cô bé trông ngạc nhiên bởi từ đó, ngạc nhiên nhiều như anh cảm thấy. Anthony để Daphne ngồi lại trên đại sảnh và đi lên cầu thang ba bậc một tới phòng ngủ của cha mẹ anh. Chắc chắn cha anh không chết. Một người đàn ông không thể chết vì một vết ong đốt. Điều đó là không thể. Hoàn toàn điên rồ. Edmund Bridgerton còn trẻ, ông khoẻ mạnh. Ông cao lớn, đôi vai ông rộng, cơ bắp đầy sức mạnh, và vì Chúa, không có một con ong mật ngớ ngẩn nào có thể đánh bại ông. Nhưng khi Anthony đến sảnh trên lầu, anh có thể nói bởi sự im lặng hoàn toàn và trọn vẹn của hàng tá hoặc hơn nữa số người hầu lảng vảng quanh đó rằng, tình thế nghiêm trọng. Và những khuôn mặt thương hại của họ... cho đến tận cuối đời anh sẽ còn bị ám ảnh bởi những gương mặt thương hại đó. Anh đã nghĩ anh phải chen lấn để vào phòng cha mẹ anh, nhưng những người hầu đã tránh ra như thể họ bị ném vào Biển Đỏ, và khi Anthony đẩy cánh cửa mở, anh đã biết. Mẹ anh đang ngồi trên mép giường, không khóc than, không cả gây ra một tiếng động, chỉ nắm lấy tay cha anh khi bà chầm chậm đung đưa người trước ra sau. Cha đang nằm yên. Yên như... Anthony còn không muốn nghĩ đến cái từ đó nữa. “Mama?” Anh ho. Anh đã không còn gọi mẹ như thế từ nhiều năm rồi, bà đã là “Mẹ” từ khi anh rời Eton. Bà quay lại, chậm chạp, như thể nghe tiếng anh từ xuyên qua một con hầm dài, rất dài. “Chuyện gì đã xảy ra?” anh thì thầm. Bà lắc đầu, đôi mắt bà tuyệt vọng, xa xăm. “Mẹ không biết.” Bà nói. Đôi môi bà vẫn hé mở một khoảng, như thể bà muốn nói gì đó nữa nhưng đã quên mất. Anthony bước tới trước một bước, cử động của anh ngượng nghịu và giật giật. “Ông ấy đã đi rồi.” Violet cuối cùng cũng thì thầm. “Ông ấy đã ra đi và mẹ... ôi, Chúa ơi, mẹ...” Bà đặt một bàn tay lên bụng căng tròn với em bé. “Mẹ đã nói với cha - ôi, Anthony, mẹ đã nói với cha - ” Bà trông như thể có thể nứt vỡ từ bên trong. Anthony kiềm lại nước mắt đang làm cay mắt anh, chích vào họng anh và đi đến bên cạnh bà. “Sẽ ổn thôi, mama.” Anh nói. Nhưng anh biết nó không hề ổn. “Mẹ đã nói với cha đây phải là đứa cuối của chúng ta.” Bà thở gấp, khóc trên vai anh. “Mẹ đã nói với cha mẹ không thể mang thai đứa nào nữa, và cha mẹ phải cẩn thận, và... ôi, Chúa ơi, Anthony, mẹ sẽ làm bất cứ việc gì để có cha ở đây và trao cho cha một đứa con nữa. Mẹ không hiểu. Mẹ không thể hiểu được...” Anthony ôm mẹ khi bà khóc. Anh chẳng nói gì; nó có vẻ như là vô dụng khi cố gắng thốt ra từ nào thích hợp với sự hủy hoại trong tim anh. Anh cũng không thể hiểu được. o O o Những người bác sĩ tới sau đó vào buổi tối và tuyên bố họ bị bối rối. Họ đã từng nghe về điều này trước đây, nhưng chưa bao giờ ở một người trẻ và khoẻ mạnh như thế. Ông thật đầy sức sống, thật mạnh mẽ; chẳng ai có thể biết được. Sự thật rằng em trai Hugo của vị tử tước đã chết hoàn toàn đột ngột vào năm ngoái, nhưng những việc như thế không hẳn là di truyền trong gia đình, và bên cạnh đó, ngay cả khi Hugo đã chết bên ngoài ngôi nhà, không ai đã từng nhận thấy một nốt ong đốt trên da anh ta. Nhưng một lần nữa, chẳng có ai đã tìm cả. Chẳng ai có thể biết được, những người bác sĩ nói vậy, lặp đi và lặp lại cho đến khi Anthony muốn bóp cổ hết tất cả bọn họ. Cuối cùng, anh đuổi họ ra khỏi ngôi nhà, và anh đưa mẹ vào giường. Họ đã phải chuyển bà đến một phòng ngủ còn trống; bà trở nên khích động với ý nghĩ ngủ trên cái giường mà bà đã chia sẻ với Edmund từ rất nhiều năm. Anthony cũng đã sắp xếp đưa các em vào giường, nói với chúng rằng họ sẽ nói chuyện vào buổi sáng mai, rằng tất cả mọi chuyện sẽ tốt thôi, và anh sẽ chăm sóc cho chúng như cha đã mong muốn. Rồi anh đi vào căn phòng nơi cha anh vẫn còn nằm đó và nhìn ông. Anh nhìn ông và nhìn ông, nhìn chằm chằm trong nhiều tiếng đồng hồ, chỉ hơi chớp mắt. Và khi anh đã rời phòng, anh rời khỏi đó với một phiên bản khác của cuộc đời anh, và một sự hiểu biết mới về ngày tận số của mình. Edmund Bridgerton đã chết ở lứa tuổi ba mươi tám. Và Anthony đơn giản là không thể hình dung được có bao giờ vượt qua cha anh trong bất cứ điều gì, ngay cả về tuổi tác. Chủ đề về những kẻ ăn chơi trác táng, tất nhiên, đã được thảo luận trước đây trên mục báo này, và Tác giả đã đi đến một kết luận là có tồn tại những kẻ ăn chơi trác táng, và có tồn tại những Kẻ Ăn Chơi Trác Táng. Anthony Bridgerton là một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng. Một kẻ ăn chơi trác táng (viết thường) còn trẻ và chưa chín chắn. Anh ta khoe khoang những chiến công của mình, cư xử với cực điểm của chứng ngu ngốc, và nghĩ rằng anh ta nguy hiểm đối với phụ nữ. Một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng (viết hoa) biết rằng chàng nguy hiểm đối với phụ nữ. Chàng không phô trương những chiến công của chàng, bởi vì chàng không cần phải làm thế. Chàng biết chàng sẽ được thì thầm khắp nơi bởi những đàn ông cũng như phụ nữ, và trên thực tế, chàng thà rằng họ đứng có thì thầm gì về chàng hết. Chàng biết chàng là ai và chàng đã làm gì; những trò tường thuật chi tiết, đối với chàng, thật là rườm rà. Chàng không cư xử như một kẻ ngu ngốc chỉ bởi vì lý do đơn giản rằng chàng không phải là thằng ngốc (không nhiều hơn những gì được trông chờ ở tất cả thành viên thuộc giới tính nam). Chàng có rất ít kiên nhẫn cho những nhược điểm của xã hội, và thành thật mà nói, hầu hết các lần Tác giả chẳng thể nói rằng nàng đổ lỗi cho chàng được. Và nếu đó không miêu tả Tử Tước Bridgerton - rõ ràng là người độc thân thích hợp nhất của mùa vũ hội này - đến hoàn hảo, Tác giả nên ngừng nghề viết ngay lập tức. Câu hỏi duy nhất là: liệu năm 1814 sẽ là năm chàng cuối cùng cũng đầu hàng niềm hạnh phúc tuyệt vời của hôn nhân? Tác giả nghĩ... không. Tạp chí của Lady Whistledown, ngày 20 tháng 4 năm 1814 “Làm ơn đừng nói với chị,” Kate Sheffield nói với căn phòng rộng lớn, “rằng cô ta lại viết về Tử Tước Bridgerton lần nữa chứ.” Cô em kế của cô, Edwina, nhỏ hơn đến gần bốn tuổi, nhìn lên từ sau tờ báo một trang. “Làm sao mà chị biết?” “Em đang cười khúc khích như một người điên.” Edwina cười khúc khích, làm rung chiếc ghế sofa thêu hoa mà họ đang ngồi. “Thấy chưa?” Kate nói, tặng cho em gái một cú thúc vào cánh tay. “Em lúc nào cũng cười khúc khích khi cô ta viết về mấy gã ma cà bông đáng quở trách.” Nhưng Kate lại cười toét miệng. Có rất ít thứ mà cô thích hơn là chọc em gái. Với ý tốt, tất nhiên. Mary Sheffield, mẹ của Edwina, và mẹ kế của Kate đã gần tám năm nay, liếc lên từ đồ thêu của bà và đẩy cặp kính lên cao hơn trên sống mũi. “Hai đứa cười cái gì đấy?” “Chị Kate đang nổi điên lên vì Lady Whistledown lại viết về ngài tử tước phóng đãng đó nữa.” Edwina giải thích. “Chị không nổi điên. nói, ngay cả khi không có ai lắng nghe. “Bridgerton?” Mary hỏi lơ đãng. Edwina gật đầu. “Vâng.” “Cô ấy lúc nào cũng viết về anh ta.” “Con nghĩ cô ấy chỉ thích viết về những kẻ ăn chơi trác táng.” Edwina bình luận. “Tất nhiên là cô ấy thích viết về mấy kẻ trác táng.” Kate vặn lại. “Nếu cô ấy mà viết về những người chán ngắt, thì chả ai sẽ mua tạp chí của cô ấy.” “Điều đó không đúng.” Edwina trả lời. “Chỉ mới tuần trước cô ấy đã viết về chúng ta đó thôi, và ông trời mới biết chúng ta không phải là những người đáng quan tâm nhất ở Luân Đôn.” Kate mỉm cười với sự ngây thơ của em gái. Kate và Mary có thể không phải là người đáng quan tâm nhất Luân Đôn, nhưng Edwina, với mái tóc màu vàng ngọt ngào như bơ và đôi mắt xanh trong đến sững sờ, đã được vinh danh là Người Không Thể So Sánh của năm 1814. Kate, mặt khác, với mái tóc và đôi mắt một màu nâu giản dị, thường được nhắc đến như là “Chị gái lớn của Người Không Thể So Sánh”. Kate vờ như còn có cách nói tệ hơn. Ít nhất thì chưa có ai bắt đầu gọi cô là “Chị gái già của Người Không Thể So Sánh.” Điều đó rất nhiều phần gần với sự thật hơn là bất cứ người nhà Sheffield nào chịu thừa nhận. Ở tuổi hai mươi (gần như là hai mươi mốt, nếu người ta thành thật về điều đó), Kate hơi dài răng để có thể tận hưởng mùa vũ hội đầu tiên ở Luân Đôn. Nhưng đã chẳng có lựa chọn nào khác. Nhà Sheffield đã không từng giàu có ngay cả khi cha Kate vẫn còn sống, và từ khi ông qua đời vào năm năm trước, họ đã buộc phải tiết kiệm nhiều hơn nữa. Họ chắc chắn là chưa đến mức vào nhà tế bần, nhưng phải lo lắng cho từng đồng và xem xét từng bảng. Với tài chính bị thu hẹp, nhà Sheffield chỉ có thể sắp xếp một khoản tiền cho một chuyến đi đến Luân Đôn. Thuê mướn một ngôi nhà - và một cỗ xe - và thuê một ít người hầu vừa đủ cho mùa vũ hội tốn một khoản tiền. Nhiều tiền hơn là họ có thể xoay sở để có thể trang trải qua cả hai lần. Như thế, họ phải chuẩn bị trong năm năm khó khăn để có thể chu cấp cho chuyến đi này đến Luân Đôn. Và nếu các cô gái không thành công ở Hội Chợ Hôn Nhân... À thì, chả có ai sẽ đẩy họ vào nhà tù nợ nần, nhưng họ sẽ phải trông đến một cuộc sống yên bình của nghèo khó thanh đạm ở một mái nhà tranh đáng yêu nhỏ nhắn nơi vùng Somerset. Và vì vậy hai cô gái đành phải khởi đầu mùa vũ hội đầu tiên trong cùng một năm. Đó là một quyết định rằng thời gian logic nhất là khi Edwina mười bảy và Kate sắp hai mươi mốt. Mary sẽ muốn chờ cho đến khi Edwins đã mười tám, và chín chắn hơn một chút, nhưng điều đó sẽ làm cho Kate gần hai mươi hai, và trời ơi, nhưng ai sẽ cưới cô lúc đó chứ? Kate cười nhăn nhó. Cô còn không muốn một mùa vũ hội. Cô đã biết rằng cô không thuộc dạng sẽ thu hút sự chú ý của mọi người. Cô không đủ xinh xắn để che lấp sự thiếu hụt của hồi môn, và cô chưa bao giờ học cách cười điệu và nói chuyện dịu dàng và đi đứng duyên dáng, và làm tất cả những việc mà các cô gái khác dường như biết cách làm từ trong nôi. Ngay cả Edwina, người chẳng có một cái xương ranh mãnh nào trong người, bằng cách nào đó cũng biết cách đi và đứng và thở dài sao cho đàn ông chạy vù tới, chỉ để có cái vinh dự được đưa nàng sang đường. Kate, mặt khác, luôn luôn đứng với đôi vai thẳng và cao, không thể ngồi yên nếu cuộc sống của cô phụ thuộc vào điều đó, và đi như cô đang ở trong một cuộc đua - và tại sao lại không? Cô luôn tự hỏi. Nếu một người đang đi đến đâu đó, có lý gì khi không đến đó nhanh chóng? Còn đối với mùa dạ hội của cô ở Luân Đôn, cô còn không thích thành phố nhiều nữa. Ôi, cô có một khoảng thời gian vui vẻ, và cô đã gặp nhiều người tử tế, nhưng một mùa vũ hội Luân Đôn dường như là một sự phung phí tiền bạc khủng khiếp đối với một cô gái sẽ hoàn toàn hài lòng được ở lại nông thôn và tìm một anh chàng hiểu biết lý lẽ để mà cưới. Nhưng Mary không chấp nhận điều gì như thế. “Khi ta cưới cha con,” bà nói, “ta đã thề sẽ yêu thương con và đem đến cho con mọi sự chăm sóc và tình thương ta sẽ dành cho con ruột của ta.” Kate đã thu xếp để vừa thốt ra được một từ “nhưng - ” trước khi Mary tiếp tục với, “ta có trách nhiệm đối với người mẹ tội nghiệp của con, cầu Chúa cho bà yên nghỉ, và một phần của trách nhiệm đó là thấy con được cưới xin hạnh phúc và định.” “Con có thể hạnh phúc và được bảo đảm ở thôn quê mà.” Kate đã trả lời. Mary đã đối lại, “Có nhiều người đàn ông để lựa chọn hơn ở Luân Đôn.” Sau đó Edwina cũng đã tham gia, khăng khăng nói rằng cô sẽ hoàn toàn khốn khổ nếu không có Kate, và bởi vì Kate không bao giờ có thể chịu được khi nhìn thấy em gái không hạnh phúc, số phận cô được quyết. Và thế là cô ở đây - ngồi trong một căn phòng khách hơi sờn cũ, trong một căn nhà thuê ở phần rìa Luân Đôn mà gần như hợp thời, và... Cô nhìn quanh một cách tinh nghịch... và cô sắp sửa giật tờ tạp chí từ tay em gái. “Chị Kate!” Edwina kêu ré lên, mắt cô trợn vào mảnh báo nhỏ hình tam giác còn lại giữa ngón tay cái và ngón trỏ. “Em chưa xong mà!” “Em cữ đọc nó mãi.” Kate trả lời với nụ cười ngoác miệng táo tợn. “Bên cạnh đó, chị muốn coi cô ta viết gì về tử tước Bridgerton hôm nay.” Đôi mắt của Edwina, thường xuyên được ví như mặt hồ Scot tĩnh lặng, ánh lên quỷ quái. “Chị quan tâm khủng khiếp đến ngài tử tước đấy, Kate. Có điều gì chị không nói với mẹ và em đúng không?” “Đừng có ngu ngốc thế. Chị còn không biết anh ta. Mà nếu chị có biết, có thể là chị sẽ chạy về hướng ngược lại. Anh ta cụ thể là loại đàn ông mà hai chúng ta nên tránh xa bằng mọi giá. Anh ta rất có thể quyến rũ một tảng bẳng ấy chứ.” “Kate!” Mary bật ra. Kate nhăn nhó. Cô đã quên mất rằng mẹ cô đang lắng nghe. “Chà, đó là sự thật.” Cô thêm. “Con đã nghe rằng anh ta có nhiều người tình hơn là sinh nhật của con nữa.” Mary nhìn cô trong vài giây, như thể cố quyết định bà có muốn trả lời hay không, và cuối cùng bà nói, “Không phải đó là một chủ đề thích hợp cho tai con đâu, nhưng nhiều người đàn ông “Ôi.” Kate đỏ mặt. Có rất ít thứ kém hấp dẫn hơn là bị phản đối khi một người đang cố gắng đưa ra một lập luận quan trọng. “Chà, thế thì, anh ta có gấp đôi con số nhiều. Cho dù trường hợp nào đi nữa, anh ta quá bữa bãi hơn hầu hết những người đàn ông khác, và không phải loại Edwina nên cho phép tán tỉnh nó.” “Con cũng đang tận hưởng một mùa vũ hội đấy.” Mary nhắc nhở cô. Kate chiếu vào Mary một cái nhìn khó chịu nhất. Họ đều biết là nếu ngài tử tước chọn tán tỉnh một người nhà Sheffield, đó sẽ không là Kate. ... Mời các bạn đón đọc Tử Tước và Em của tác giả Julia Quinn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đợi Mặt Trời
Đợi mặt trời là cuốn truyện kể về ước mơ vươn lên trong cuộc sống của trẻ thơ. Nhân vật trong truyện là những đứa trẻ bất hạnh vì lí do này hay lí do khác đã phải bươn chải tự kiếm sống. Viết về những đứa bé không may mắn nhưng tác giả cũng như muốn nói với chính mình, với những bậc cha mẹ về trách nhiệm của người lớn đối với trẻ nhỏ. Đó chính là một mái ấm, một gia đình. Một gia đình thực sự chính là mái ấm của những đứa trẻ. Nếu không có điều ấy, những em bé sẽ phải chịu nhiều thua thiệt... Và ước mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn, giống như ước vọng thấy Mặt Trời sau những ngày đen tối... Tác phẩm đoạt giải A - cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi năm 1993 - 1995 của NXB Kim Đồng. *** Đợi mặt trời là một cuốn sách tuyệt đẹp cho thiếu nhi, là một cuốn sách tràn đầy hy vọng, bao dung, chờ đợi và tin cậy. Phạm Ngọc Tiến không chỉ là nhà văn, ông còn là một nhà biên kịch phim truyện với nhiều những bộ phim gây được tiếng vang như Ma làng, Chuyện phố phường, Gió làng Kình... bởi thế văn chương của ông trong Đợi mặt trờicó một kết cấu khá chặt chẽ với cốt truyện hấp dẫn, được tạo nên bởi một hệ thống ngôn ngữ mộc mạc, rõ ràng và đầy hình ảnh. Đợi mặt trời, cái ví von của Phạm Ngọc Tiến quả thực khiến độc giả cảm động. Mỗi người đều cần có một mặt trời của riêng mình. Không chỉ những đứa trẻ lang bạt sống bằng nghề bán báo như Nghĩa choắt, Ngọc phệ, Hiền sầu... mà cả những người như chị Lan, cô giáo Kim Anh... đều cần có mặt trời. Hình ảnh mặt trời là hình ảnh tỏa sáng, soi chiếu xuyên suốt tác phẩm của Phạm Ngọc Tiến khiến cho câu chuyện dù được viết rất gay cấn, dưới vỏ bọc của một cuộc nằm vùng và vây bắt tội phạm ma túy, vẫn vô vàn những êm ấm và cảm động. Được sự tin tưởng của thầy Tường, cô Kim Anh, vốn là các đồng chí công an đang tìm cách phá một đường dây ma túy lớn, Nghĩa choắt, Lan và Ngọc phệ đã trở thành những nhân vật “nằm vùng”, theo dõi mọi hoạt động của nhóm buôn bán ma túy Nguyễn Hoát. Có nhiều lý do thôi thúc khiến những đứa trẻ hăng hái với nhiệm vụ được giao, nhưng Phạm Ngọc Tiến bảo rằng, điều quan trọng nhất là được sống hạnh phúc, và đem lại cho chúng niềm tin tưởng ở tương lai. Ngẫm lại, từ xưa đến nay những tác phẩm văn chương hay điện ảnh Việt Nam về đề tài “vụ án” trong thiếu nhi, như Đội đặc nhiệm nhà C21, Kính vạn hoa… cũng chẳng tác giả nào “dám” để những đứa trẻ của mình tiếp xúc với tội phạm nguy hiểm đến mức ấy. Vậy mà Phạm Ngọc Tiến “liều” thật. Ông gan góc để những đứa trẻ vào vùng nguy hiểm, để từ ấy mà làm bật lên tình thế làm người, cũng như gợi mở về khát vọng hạnh phúc. Hình ảnh mặt trời mà Phạm Ngọc Tiến xây dựng chính là một hình ảnh biểu tượng đẹp đẽ về gia đình và lòng yêu thương của gia đình mà bất kì đứa trẻ nào cũng khao khát có được. Cuốn sách vì thế mà càng khiến độc giả cảm động và trăn trở. Câu chuyện được trần thuật bằng một ngôn ngữ sắc sảo, và có phần già dặn hơn rất nhiều so với lứa tuổi thiếu nhi. Nhưng không phải vì vậy mà tác phẩm của Phạm Ngọc Tiến lại thiếu đi chất hóm hỉnh vui tươi và cuốn hút dành cho thiếu nhi, tác phẩm còn đem lại cho những độc giả trẻ một trải nghiệm đặc biệt về những thân phận trẻ em luôn bị cho là bụi đời, lang thang. Những đứa trẻ như Nghĩa choắt, Ngọc phệ, Hiền sầu dưới ngòi bút của Phạm Ngọc Tiến đã được cất lên tiếng nói tâm sự từ đáy lòng mình, để giãi bày cho căn cớ phải trở thành trẻ lang thang. Nếu Nghĩa choắt không cha, không mẹ, là đứa trẻ bị bỏ rơi từ nhỏ, phải tự mình bươn chải để kiếm sống, thì Ngọc phệ vốn là đứa trẻ thành phố hẳn hoi, nhưng chỉ vì mẹ mất, bố chán đời dính vào ma túy, không chịu đựng nổi đòn roi và những đợt lên cơn của bố mà phải bỏ nhà đi tự kiếm sống. Trong khi đó, Hiền sầu lại là đứa con gái có hiếu lắm, vì mẹ ốm, muốn đỡ đần gia đình kiếm thêm tiền mua thuốc cho mẹ mà nó phải lang thang ngoài đường bán báo. Không biết những đứa trẻ lang thang, những nhân vật chính của cuốn sách này có cơ hội được đọc câu chuyện viết về chúng để mà tìm được sự đồng cảm chia sẻ hay không, nhưng chắc chắn rằng những đứa trẻ đọc cuốn sách này sẽ có được những trải nghiệm thật khác lạ với đời sống của mình. Cũng vì vậy, các em sẽ biết trân trọng hơn những gì mình đang có, và biết bao dung hơn với những bạn đồng trang lứa mà đôi khi các em vẫn bắt gặp tiếng rao báo đây, đánh giày đây,... trên đường phố. Một cuốn sách nhiều gai góc, nhiều nỗi buồn, nhiều mất mát và cũng tái hiện lại rất nhiều những mặt trái xấu xí của xã hội, nhưng nhất định Đợi mặt trời là một cuốn sách tuyệt đẹp cho thiếu nhi, là một cuốn sách tràn đầy hy vọng, bao dung, chờ đợi và tin cậy. Thật như lời Nghĩa choắt đã nói, hay cũng chính là lời tác giả khẳng định “người tử tế thật sự bây giờ thiếu gì”. Và những chuyện tử tế, đẹp đẽ như Đợi mặt trời của Phạm Ngọc Tiến có lẽ cũng nhiều vô cùng giữa đời sống này. Nhà văn Việt Hà khi nhận xét về giọng văn của Phạm Ngọc Tiến đã nói “Đúng như Phạm Ngọc Tiến từng tâm sự rằng, anh chọn cách viết mộc, thô, đơn giản đến tối thiểu. Chính sự thô nhám, không cầu kì ấy đã tạo ra sự khác biệt, một thứ ngôn ngữ, giọng điệu rất riêng, sống động và chân thực với đời sống”. Và cũng chính vì sự chân thực gần gũi ấy mà dễ lay động trái tim, tâm tư của người đọc.  *** D uy nhất chỉ có các thành viên của nhóm bán báo “Xa Quê” được phép vào hành nghề trong quán Mặt Trời. Ngoại lệ này bọn trẻ trong cuộc cũng không tài nào hiểu nổi. Thì kệ xác, hơi đâu mà thắc mắc cho mệt, miễn kiếm được tiền là xong. Cũng không phải đứa nào trong nhóm đều được vào. Tiếng là bán báo rong nhưng chúng nó đã được khoanh vùng cả rồi. “Chiến đấu” ở Mặt Trời gồm có Nghĩa choắt, Ngọc phệ, Hùng sứt. Thỉnh thoảng có thêm cái Hiền sầu. Toàn những đứa có “thành tích” nổi bật. Chuyện ấy nói sau. Quán Mặt Trời là cái đinh gì mà ghê gớm đến vậy? Chưa chắc nó đã được sang trọng, bề thế bằng mấy nhà đặc sản khác. Ừ, thì nó có địa thế thuận lợi thật. Mặt tiền rộng rãi ở phố chính, trung tâm thành phố. Thêm nữa là phòng ốc lịch sự trang hoàng đẹp đẽ, ở tầng thượng gác tư có hẳn phòng khiêu vũ nhạc xập xình, xập xoẹ suốt tối. Ai chứ bọn thằng Nghĩa còn lâu mới mắt tròn, mắt dẹt trước Mặt Trời. Cái thành phố này, hang cùng ngõ hẻm, đường ngang lối tắt chúng nó không lạ. Mấy chục cái nhà hàng, khách sạn, nơi nào nó lại chả đã đặt chân đến rồi. Tóm lại Mặt Trời cũng chỉ là một quán ăn bình thường. Vậy đấy nhưng đố bọn “Xa Mẹ”, bọn “Cố Hương” dám bước chân qua cửa. Thử xem, lại chả bị anh Toàn sẹo bẻ giò làm “tăm xỉa răng” ngay tắp lự. Không nói sai, chính thằng Hùng sứt, ngày còn chưa về “Xa Quê” đã bị anh Toàn “làm thịt”. Cái răng cửa to như hạt ngô Trung Quốc bị sứt hẳn một nửa là dấu tích của trận “làm thịt” ngày xưa. Anh Toàn sẹo người nhỏ nhưng võ nghệ cao cường lắm. Bọn ăn chằng, uống quỵt, quậy phá ở đâu không biết, đến Mặt Trời là im thít không dám ho he. Gọi Toàn sẹo vì trên gò má phải của anh đeo một cái sẹo dài thượt, lua nhua nom như con rết cụ đang bò, hãi lắm. Vào được Mặt Trời, việc kiếm ăn cũng không phải dễ. Bán được tờ báo cũng trầy vẩy. Nhưng thỉnh thoảng chúng nó vớ được khoản khác bù vào. Bẫm bằng mấy việc bán báo. Chuyện ấy cũng nói sau. Bởi vậy dù không hiểu tại sao nhưng bọn thằng Nghĩa vẫn vô cùng biết ơn bác Hoát. Chính ông chủ từ thiện của nhóm bán báo “Xa Quê” cắt cử chúng nó được vào Mặt Trời. Gọi Nghĩa choắt vì nó nhỏ người. Đã mười ba nhưng nó còi cọc chỉ nhỉnh hơn đứa bé lên mười chút ít. Duy có khuôn mặt là đúng tuổi. Thậm chí già hơn. Dân choai trong làng bụi gọi “Choắt mặt già”, hoặc “Già đau già đớn”. Từ ngày về “Xa Quê” Nghĩa choắt mới thoát tên “Mặt già”. Từ “Xa Quê” đến Mặt Trời rất gần. Chỉ vài lượt khua chân là đến. Mới tám giờ sáng, khách nhậu vẫn vắng nên Nghĩa choắt còn cà rà ngoài cửa. Giờ này đi nhậu, đích thị là mấy cha đánh bạc đêm vừa giải tán. Kẻ thắng đến ăn mừng. Kẻ thua thì giải đen để mong vận đỏ vào canh tới. Đám khách này, một tờ báo ngày cũng chẳng hòng họ mua. Một tốp bọn “Cố Hương” đang quây tròn sát phạt nhau bằng bài “tá lả” bên kia đường. Bọn ấy là nhốn nháo nhất trong làng “báo”. Chúng nó mỗi đứa đều có dấu riêng, chuyên đóng giá rởm vào sách, tạp chí để lừa thiên hạ. Định vù sang tán gẫu một lát song Nghĩa choắt sực nhớ đến lời dặn của bác Hoát ban sáng. Phải rồi, bác Hoắt dặn nó đưa bộ “từ điển” dày cộp được bó cẩn thận cho một ông khách nào đấy. Anh Toàn sẹo sẽ chỉ chỗ. Chắc bộ sách quý lắm nên bác Hoát mới tin tưởng giao cho nó. Thằng Nghĩa là đứa lanh lợi nhất bọn và cũng được tín nhiệm nhất trong hai chục đứa “Xa Quê”. Bác Hoát cũng dặn nó phải cẩn thận không được rời tay kẻo bọn trộm thuổng mất thì nguy. Ban sáng nghe lời dặn này, Nghĩa ta đã cười ruồi. Thì chính nó từng có “thâm niên” trong “nghề” nẫng túi mà lỵ. Tuy bây giờ giải nghệ song đố đứa nào dám vờn mặt Nghĩa choắt. Còn lâu mới học được đại ca món nghề thâm hậu. Nghĩa choắt ôm khư khư chồng báo và bộ “từ điển” đã để trong túi vải khoác chéo qua người, ngồi ngay sát cửa ra vào. Nó ngáp liền mấy cái. Giá bây giờ được ngủ một cái thì tuyệt cú mèo. Đêm hôm qua nó trằn trọc không ngủ được. Cũng tại đầu giấc, nó mơ được gặp mẹ. Mẹ nó diện lắm, đánh hẳn ô tô đến đón nó. Nó giương to mắt nhìn thật kỹ. Ngày trước lúc mẹ nó bỏ nhà ra đi kiếm ăn, nó mới chỉ bảy tuổi. Tuổi ấy đầu óc vẫn lào phào. Bởi vậy nó chỉ chập chờn nhớ không được kỹ lắm mặt mẹ. Đâu như một khuôn mặt gầy guộc rặt rãnh ngang nhăn nhúm thì phải. Vậy mà bây giờ người đàn bà sang trọng nhường kia lại gọi nó là con. Đúng rồi. – Cún con của mẹ, lại đây nào! Một bàn tay trắng hồng múp míp đưa lên vẫy vẫy. Còn tay kia luồn vào xách tay lôi ra một nắm tiền. Ôi, nảy đom đóm vì tiền, nhiều lắm toàn giấy bạc lớn. Nó nghẹt thở. Nước bọt ở đâu tứa ra nhiều thế, sùi cả bọt bóng, phùi ra mép. Nó nuốt đánh ực một cái. – Nào cún con của mẹ lại đây! Nó ngần ngừ giây lát rồi lầm lì tiến từng bước một. Cảnh giác vẫn hơn, đi đâu mà vội. Nhỡ người kia lừa nó thì sao. Bỗng nó thấy người đàn bà sang trọng thoắt cái biến đổi khuôn mặt. Đúng rồi, đúng là mẹ nó rồi. Khuôn mặt gầy guộc kẻ rãnh nhăn nhúm. Nó oà lên chạy vội. Nhưng sao thế này, nó tiến sát giơ cả hai tay mà không tài nào chạm được vào mẹ. Cái ô tô trắng trôi chầm chậm lôi theo cả mẹ nó. Chân nó cuồng lên khi cái ô tô xa dần. Trước mặt nó chỉ còn những tờ bạc vương vãi. Nó cúi xuống nhặt một tờ. Chợt có tiếng kêu rất to: “ Ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp!”. Hốt quá, nó vứt vội tờ bạc, bỏ chạy. Càng chạy chân càng ríu lại. Một đám người có cả công an rầm rập đuổi theo. Nó sợ quá, thế là xong phim rồi. Có người ngáng chân. Nó vấp ngã đánh oạch. Nó thét lên hãi hùng: “ Mẹ ơi”. – Kìa, Nghĩa choắt, có gì mà hú hét ghê thế? Thằng Nghĩa mở mắt thấy nửa cái răng gãy của Hùng sứt nhăn nhở ở giường bên. Thì ra nằm mơ. Kinh quá! Mồ hôi tuôn ra ướt đầm áo. Ngực chình chịch như bị chèn đá. Hoá ra cái chân bự của Ngọc phệ chẹn qua cổ nó từ bao giờ. Đúng là thằng mập Trư Bát Giới. Ngủ chung giường với nó quả là một tai hoạ. Nghĩa choắt không tài nào ngủ được nữa. Không phải vì sợ mà vì một lẽ khác. Nó thèm mẹ! Nghĩa choắt lại ngáp dài. Nó táp vào góc hè. Không thể cưỡng lại được nữa, gà gật một chút vậy. Không biết nó ngủ được bao lâu. Một chiếc giầy đen bóng lộn gại gại vào đầu gối nó: – Ê, nhóc! Dậy, dậy! Thằng Nghĩa choàng tỉnh. Nó sực nhớ đến bộ “từ điển”. Hú vía, vẫn còn. Mắt nó đỏ kè vì dở ngủ, nhìn xiên lên. Một gã thanh niên mặt tum húp: – Ê, đưa tờ Hà Nội đây để tao so xổ số! Mới sáng ngày ra chưa kịp mở hàng đã gặp cháo ám. Nghĩa choắt đứng lên định lủi. “Bích” cú đá trúng ngay hông nó. Thằng Nghĩa ngã sấp. Chồng báo toé ra. Tai nó ù như xay lúa vẫn thấy chan chát tràng chửi: – Mẹ thằng nhõi con. Láo thật! Đúng lúc ấy anh Toàn sẹo từ cửa phóng ra. Chỉ thấy “uỵch” một cái gã kia đã đổ kềnh như chuối cây bị chém gốc. – Nhìn kỹ mặt tao nhé! Cút! Gã kia ngậm tăm lủi ngay. Nghĩa choắt lồm cồm bò dậy. Ê ẩm một bên hông. Anh Toàn sẹo giúp nó nhặt báo rơi. – Oắt con, vào mà làm việc đi! Chưa sáng đã ngủ. Mắt anh xoáy vào cái túi vải dày cộm, nói rất khẽ: – Mang vào phòng số 8, nhớ chưa, nhanh lên. Phòng số 8 ở gác 2. Đó là phòng ăn đôi nhỏ xíu. Toen hoẻn có mấy mét vuông kê đủ mỗi bộ bàn ăn. Thằng Nghĩa đã nhẵn mặt. Nó biết đám khách vào các buồng ấy, ăn chỉ là một nhẽ, còn thì họ cợt nhả nhau là chính. Người lớn mà lỵ, có nhiều trò riêng lắm. Nó cẩn thận gõ cửa. – Vào! – Giọng đàn ông rất hách. Nghĩa choắt rụt rè bước vào: – Ông ơi, mua cho cháu tờ báo. – Được! Nghĩa choắt đảo mắt. Người đàn ông ngồi có một mình. Trên bàn ê hề thức ăn. Ngồi ở phòng đôi lại chỉ có một mình, lạ nhỉ? Người đàn ông giật giọng: – Đưa tất cả các loại báo đây. Có từ điển tiếng Bồ không? Đúng rồi. Đúng là người bác Hoát dặn đưa đây rồi. Nó móc bộ “từ điển” ra từ chiếc túi vải bạt, kính cẩn đưa cho người đàn ông lạ. Người kia đút rất nhanh vào chiếc cặp da căng phồng. Thế là xong, thoát được của nợ phải kè kè giữ suốt sáng. Người đàn ông rút mỗi loại báo một tờ thật. Đoạn ông ta móc ví lấy tờ bạc hai chục ngàn búng rất nghệ. Tờ bạc xoẹt thẳng vào tay Nghĩa choắt. Ô, sao tờ giấy mỏng mảnh vậy mà cũng đau ra phết. Nghĩa choắt đang lẩm nhẩm tính tiền để trả lại thì người đàn ông khoát tay: – Thôi, ra!   Mời các bạn đón đọc Đợi Mặt Trời của tác giả Phạm Ngọc Tiến.
Cẩm Chướng Đỏ
Trúc Anh là một phần rất quan trọng trong cuộc đời Thuyên. Vừa là bạn, Trúc Anh vừa là người anh lo lắng cho Thuyên đủ điều. Không bao giờ Trúc Anh để Thuyên buồn hay bị ai ăn hiếp. Có lẽ cũng bởi vậy mà Thuyên càng ngày càng thêm yêu lạ lùng những bông cẩm chướng đỏ. Gần như bữa nào tới Thuyên chơi, Trúc Anh cũng thấy nơi bàn học của Thuyên có sẵn một lọ cẩm chướng đỏ lung linh… *** Con người thường hay trân trọng quá khứ, không phải vì nó đáng quý, mà bởi vì nó không còn tồn tại nữa. Bất kể bạn nỗ lực như thế nào, những giây phút đáng nhớ sẽ chẳng bao giờ cho phép bạn lội ngược dòng và tận hưởng nó một lần nữa, hoặc, có những sự kiện bạn sẽ không thể có cơ hội trải nghiệm vì bạn chưa từng tồn tại ở quãng thời gian đó. Ấy là lúc sách và văn học sẽ giúp ta kết nối giữa không gian, thời gian và những con người. Bạn thấy mình lang thang trong quá khứ không phải để so sánh sự hơn kém giữa các thời đại, mà có thể chỉ để tìm những giá trị đã vô tình bị mất đi theo dòng chảy cuộc sống. Đôi khi, thứ ta thấy trong văn học là sự lãng mạn vô cùng tận, nhưng rõ ràng, sự lãng mạn đó đã từng tồn tại, rất tự nhiên, cho tới khi trái tim con người đóng hẹp lại dần, nhường chỗ cho những điều thực dụng và hợp thời hơn. Phải có lý do mà những bài  hát thời thập niên 80, 90 về học trò toàn là những cô bé trong tà áo dài  trắng thướt tha đạp xe, bên cạnh cậu bạn mặc áo đồng màu như thế, sân trường rợp thắm hoa phượng đỏ, những trang lưu bút quyến luyến, những trò nghịch ngợm láu lỉnh đáng yêu. Phải có lý do mà một con số không nhỏ những người trẻ bây giờ lần tìm về những giá trị cũ, những cuốn truyện học trò trong trẻo thơ ngây như những viên ngọc thô của thời trước. Phải có lý do mà thời cha mẹ ta, mối liên kết giữa người với người qua cấp ba mặn mà đến mức để rồi cuộc họp lớp nào ta cũng thấy đầy đủ những mái đầu thân quen đã điểm bạc. Chắc chắn, chúng ta, những người trẻ đọc đến đây không khỏi giật mình, hoảng sợ vì đã đánh mất cái gì đó. Cẩm chướng đỏ là một lát cắt rất nhỏ trong cuộc đời của mỗi con người thời kỳ ấy. Và trong lát cắt ấy, mỗi nhân vật, mỗi con người mang một màu sắc rất riêng nhưng luôn bên nhau và đồng hành với nhau. Khi giáo viên đi vắng, cả lớp quậy tưng bừng treo giày nhau lên bảng và phạt nhau hát những lời bài hát củ chuối để thách thức, bị giám thị nhắc, mọi người càng quậy dữ hơn. Mỗi khi thấy bạn thân buồn là y rằng sẽ rủ người đó đi ăn kem, ngồi bờ sông ngắm hoàng hôn tâm sự, mua một vài món lưu niệm nho nhỏ. Thảng hoặc sẽ gặp nhau trong thư viện thành phố rợp bóng cây mát, trao đổi sách để khám phá những thứ bạn mình đọc hay ho đến mức nào… Những mối liên hệ vô hình cứ được mọi người đan kết theo thời gian để nó bện chặt lại trong tim, tồn tại mãi, không thể quên. Lần lại những dòng của nhà văn, ta ngỡ ngàng vì nó bỗng dưng đẹp quá. Một câu chuyện hết sức bình thường của những người bạn thân ở trung học thời trước, cách họ học cùng nhau, giúp đỡ nhau, yêu thương nhau. Bình dị và mộc mạc. Sẽ có người cho rằng cuốn sách này không có thật. Vì cái cách con người đối xử với nhau thật khác. Những người trẻ ngày xưa được lớn lên trong một bầu không khí chân thực và hết sức đơn giản. Họ trân trọng cái tình ở trong từng mối quan hệ. Họ nỗ lực đến cùng để theo đuổi ước mơ. Họ rất vụng về trong việc che giấu những nỗi buồn và nhận diện những biến chuyển vô cùng tinh vi trong mỗi cung bậc cảm xúc. Thế nhưng, tất cả đều có thật, sống động và mạnh mẽ. Thứ mà thế hệ của chúng ta, sau này, chẳng thể nào có được. Và cuối cùng, rời chiếc ghế nhà trường, ai cũng có những bước đường riêng. Những ước mơ đã trở thành sự thật. Những tình cảm mới đã nảy sinh. Những đổ vỡ sâu xa trong tâm hồn nay đã được lành lại. Vài trang truyện cuối không còn đẹp, mơ mộng, trong trẻo nữa. Tất cả những nhân vật Thuyên, Trúc Anh, Thiện, Trang – họ đều lớn lên với định hướng của riêng họ. Câu chuyện có những thăng trầm nhưng trong sáng, tươi vui, mộc mạc được kết thúc với những cánh cửa mở hờ. Cũng như bộ phim “Phía trước là bầu trời” được đóng lại với phân cảnh mỗi người bạn chia tay nhau, quay về phương trời của riêng họ sau những kỷ niệm tươi vui và những vấp váp trong đời. Không gì có thể tồn tại vĩnh viễn, cuộc sống sẽ luôn thay đổi theo cách nó vận hành. “Con người chỉ sống có một lần, hãy sống một cuộc đời đáng nhớ” – một cố nhạc sỹ từng viết như vậy.  Và cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà thơ La mã cổ đại Horace từng ngân nga chữ “carpe diem” trong những vần thơ của mình, nhắc nhở loài người, rằng hãy biết nắm bắt từng khoảnh khắc, sống trong nó và biến nó thành vĩnh cửu. Tình cảm tuổi học trò thường mong manh như những lát nắng thanh thanh cuối hạ, vẫn còn vương vấn đâu đây trong không gian mà họ từng học tập, từng đi qua, trong chiếc hộc bàn của thư viện thành phố. Giây phút nhận ra những bí mật, những điều đã mất, tiếc nuối liệu có còn kịp nữa không?                                                                    Tác giả:H.Phuong – Nguồn: Văn Học 365 *** - M ẹ ơi, con gái yêu của mẹ đi học về rồi nè! Thuyên vừa nói vừa đặt chiếc cặp to đùng xuống chiếc bàn chung của cả nhà, mỉm cười với cô nữ sinh lớp 12 tóc dài óng có đôi mắt ướt trong gương. Ý nghĩ: "Mình cũng… xinh đó chứ!", khiến Thuyên thoáng đỏ mặt… - Đói bụng chưa con? Thuyên giật mình quay lại, nũng nịu: - Mẹ làm con giật cả mình. Ba chưa về hả mẹ? - Ừa, bữa nay chắc ba con ăn trưa ở chỗ làm. Mà sao con lại giật mình? - Mẹ vuốt tóc Thuyên - Chà, con gái mẹ biết soi gương làm điệu rồi phải không? - Mẹ này… - Thuyên lại đỏ bừng mặt. Mẹ mỉm cười dợm bước vào bếp dọn cơm, chợt dừng lại như nhớ ra điều gì, nhìn Thuyên, nói: - À, con có thư gởi từ Nha Trang đó. Coi của ai. Thuyên nghĩ ngay đến người anh họ tên Sang, trong mười ngày Thuyên nghỉ hè ở Nha Trang đã rất thân thiết với Thuyên. Thuyên mừng rỡ xé bì thư. Không phải là anh Sang rồi, chữ của anh Sang, Thuyên biết mà. Vậy thì ai? Thuyên vội vã lật hết lá thư để xem chỗ ký tên. Cái tên đập vào mắt khiến Thuyên không kềm được, ồ lên ngạc nhiên: Huỳnh Thanh Dũng! Trong đầu Thuyên hiện lên gương mặt hơi rám nắng, cương nghị, còn mái tóc thì lại đầy chất lãng tử của người bạn thường đi chung với anh Sang. Một con người hơi có vẻ pha trộn! "Sao anh ta lại gởi thư cho mình?". Thuyên chưa hết thắc mắc thì mẹ đã gọi vào ăn cơm. Cô nhét lá thư vào trong cặp và đặt vào ngăn tủ. Trong bữa cơm, mẹ hỏi Thuyên về lá thư, Thuyên không biết trả lời sao, đành nói dối là của anh Sang. Thật ra, Thuyên đang rất hồi hộp. Một người chưa trò chuyện lần nào thì có gì để viết trong thư nhỉ? Thuyên ăn nhanh bữa cơm, giúp mẹ rửa chén rồi chạy vào phòng riêng giở lá thư ra đọc. Càng đọc, Thuyên càng thấy bồi hồi bởi những lời lẽ của Dũng viết, giọng điệu nghe sao ngọt ngào và êm dịu quá! Những "nhớ nhung", "lưu luyến" Dũng viết trong thư và hai chữ "love" ở cuối thư đã làm Quỳnh Thuyên muốn vỡ cả lồng ngực. "Chao ôi, anh ta ngỏ ý… thích mình!". Trái tim bé nhỏ của Thuyên đập vội vã. Cô run rẩy nhét lá thư sâu vào trong cặp như sợ nó sẽ lao ra mà cắp cô bay đi thật xa. Mười ngày, không là ít, cũng chẳng là nhiều, nhưng chưa đủ để cho hai người xa lạ hiểu nhau. Vậy thì tại sao "hắn ta" lại dám…? "Hắn ta" là người thế nào, Thuyên không rõ. Mỗi lần đi chơi với anh Sang và bác Tường đều có "hắn" đi theo, chẳng biết xưng hô thế nào, Thuyên gọi đại là "cậu Dũng". Anh Sang và bác Tường chỉ cười mà không nói gì. Ra biển ngắm sao, vào quán karaoke với những dãy bàn ngập người hay ngồi trò chuyện trong nhà, Thuyên nhớ trước sau "hắn" chỉ im lặng nhìn Thuyên cười cười. Thuyên cứ vô tư nói chuyện, vô tư đối đáp với anh Sang. Một hôm, nghe mọi người nói tiếp viên nữ bán các quán nước ở đây nếu là người miền Nam sẽ được trả lương rất cao, người ta bảo con gái miền Nam nói tiếng dễ thương! Thuyên nghe mà cứ thấy mắc cười hoài. Bất ngờ, "hắn" nói: - Đúng rồi, đến giờ Dũng mới biết con gái miền Nam nói chuyện dễ thương nhất đó. Anh Sang và bác Tường lại nháy nhau cười, Quỳnh Thuyên chẳng để ý là "hắn" có ý nói đến mình. Bây giờ nghĩ lại thật tức cành hông, nhưng có điều cũng… vui vui. Tệ nhất là lần anh Sang chọc, hỏi: "Người yêu của Thuyên sau này phải thế nào?". Thuyên không đắn đo: - Người yêu của em hả, đương nhiên là phải hơn em một cái đầu. Nhưng nói trước, nếu yêu thiệt thì phải chờ em tới… 30 tuổi, tới lúc đó em mới lấy chồng à nghen! Nói rồi lại le lưỡi ra mà cười. Chao ơi, 18 tuổi mà bảo người ta chờ… mười hai năm, chẳng ra làm sao cả! Lúc đó, Thuyên chỉ nghĩ là "người trong nhà" cả nên đùa một chút cho vui. Còn bây giờ, Thuyên tự trách mình thật khờ. Dũng! Dũng! Dũng! "Hắn" đã khiến Thuyên mất nhiều thời gian suy nghĩ bâng quơ quá rồi. Bực mình, Thuyên mở cửa phòng bước ra ngoài, gặp ngay lúc Trúc Anh vừa đến… - Dì ơi, có Quỳnh Thuyên ở nhà không dì? - Trúc Anh hỏi mẹ Thuyên. - Nó ở trong phòng đó con. Không biết sao mà từ trưa đến giờ cứ nằm mãi ở trỏng[1] - Thấy Thuyên vừa bước ra, mẹ quay trở vào bếp - Trúc Anh ở chơi nghe con! Trúc Anh dạ ran như con nít rồi phồng má lên với Thuyên. Thuyên cười: - Trúc Anh ngoan quá ta! - Còn phải nói. Trúc Anh mà! Vừa nói, tên bạn trai thân thiết từ hồi chập chững biết đi của Thuyên vừa ngồi xuống ghế với lấy trái mận ăn ngon lành. Trúc Anh bây giờ đã lớn phổng, rắn chắc hơn và không còn giống… con gái nữa. Hất mái tóc mỏng ra sau một cách nhẹ nhàng, Trúc Anh hỏi: - Thuyên làm bài tập toán hết chưa? Có cần học chiều nay không? - Thuyên chưa làm, nhưng thấy cũng dễ mà. Có gì sao mà Trúc Anh hỏi vậy? - Chiều nay Trúc Anh đi coi ca nhạc - Trúc Anh rút trong túi ra hai tấm vé - Cho "công nương" một vé, đi hén! Quỳnh Thuyên vỗ hai tay vào nhau, reo lên: - Thì ra hồi trưa Trúc Anh về trễ là vì đi mua vé đó hả? Thích há! Chiều nay Thuyên sẽ khao Trúc Anh ăn bắp rang bơ, chịu không? - Ừa. Nhưng nhớ học bài cho xong đó nghe! - Biết rồi,"nhũ mẫu" à! Nghe giọng điệu trêu chọc của cô bạn, Trúc Anh xoay nắm tay ra vẻ như muốn cho Quỳnh Thuyên một trận. Thuyên ngoéo hai ngón tay vào tay áo của Trúc Anh. Hai đứa cùng cười rộ lên. Đó là giao ước hòa bình mà chúng đã cùng "thiết lập" với nhau từ hồi học lớp một. Thời thơ ấu của mỗi người đều là khoảng thời gian không thể nào quên. Hạnh phúc biết bao khi ta có một người bạn luôn ở bên cạnh ta, cùng chia sẻ buồn vui, cùng nhìn nhau trưởng thành. Trúc Anh là một phần rất quan trọng trong cuộc đời Thuyên. Không phải ruột thịt nhưng tình cảm Trúc Anh dành cho Thuyên còn hơn cả anh em. Vừa là bạn, Trúc Anh vừa là người anh lo lắng cho Thuyên đủ điều. Không bao giờ Trúc Anh để Thuyên buồn hay bị ai ăn hiếp. Thuyên biết mình chịu ơn trời phật vì điều đó. Có lẽ cũng bởi vậy mà Thuyên càng ngày càng thêm yêu lạ lùng những bông cẩm chướng đỏ. Gần như bữa nào tới Thuyên chơi, Trúc Anh cũng thấy nơi bàn học của Thuyên có sẵn một lọ cẩm chướng đỏ lung linh… Mời các bạn đón đọc Cẩm Chướng Đỏ của tác giả Bùi Đặng Quốc Thiều.
Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát
Sáu triệu bản bán ra trên toàn thế giới 58 tuần trong danh sách bán chạy của New York Times Dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019 Trong nhiều năm, những tin đồn về "Cô gái đầm lầy" đã ám ảnh Barkley Cove, một thị trấn yên tĩnh trên bờ biển Bắc Carolina. Vì vậy, khi nơi này rúng động với cái chết đầy bí ẩn của Chase Andrew, người dân địa phương ngay lập tức đổ dồn nghi ngờ vào cô. Nhưng Kya Clark – cô gái hoang dã ấy có phải là thủ phạm? Thông minh và nhạy cảm, cô đã sống sót sau nhiều năm cô đơn trong đầm lầy, trú ẩn trong lòng mẹ thiên nhiên, kết bạn với mòng biển và học những bài học đắt giá trên bờ cát. Khi trái tim tuổi mới lớn mở ra, cô cũng chạm vào yêu thương với hai chàng trai, bắt đầu một cuộc sống mới cho đến khi điều bất ngờ xảy đến… “Một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên với một cú ngoặt chết người.” — REFINERY29 “Đầy chất thơ… Sức hấp dẫn của cuốn sách đến từ sự liên kết sâu sắc giữa Kya với vùng đất đã là nhà cô, và với mọi sinh vật của vùng đất đó.” — BOOKLIST *** Cuốn sách "Xa ngoài kia nơi loài tôm hát" của Delia Owens là một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên đẹp đẽ và đau đớn. Cuốn sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát (Tên gốc: Where the Crawdads Sing) lấy bối cảnh những năm 1950 về cô gái trẻ Kya Clark ở Bắc Caroline, nước Mỹ. Kya được biết với cái tên "Cô gái đầm lầy" bởi cô sống một mình giữa thiên nhiên, chỉ kết nối với một vài người. Nhưng khi một vụ án mạng xảy ra, tất cả đổ dồn vào cô bé hoang dã và đơn độc ấy. Lấy vụ án làm trung tâm cuốn sách, tác giả Delia Owens dẫn dắt người đọc khám phá vùng ngập nước hoang sơ và vắng vẻ của bờ Bắc Carolina qua đôi mắt của một đứa trẻ bị bỏ rơi. Đây là tiểu thuyết đầu tay của Delia Owens, được xuất bản lần đầu năm 2018, nhưng đã nhanh chóng chiếm được sự yêu mến của đông đảo độc giả. Cuốn sách đạt được 6 triệu bản bán ra trên thế giới, liên tục đứng trong danh sách bán chạy của New York Times suốt 58 tuần và dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019. Trên Goodreads, cuốn sách nhận được gần một triệu đánh giá khi 88% độc giả nói rằng mình yêu thích cuốn sách. Trên Amazon, tác phẩm của Delia Owens cũng nhận được hơn 111.000 đánh giá, trong đó có hơn 86.000 đánh giá 5 sao. Delia Owens sinh năm 1949, là tác giả, nhà động vật học người Mỹ. Bên cạnh cuốn tiểu thuyết Xa ngoài kia nơi loài tôm hát, bà còn cùng chồng cũ viết ba cuốn sách về thế giới hoang dã tại châu Phi. Tại Việt Nam, Xa ngoài kia nơi loài tôm hát được dịch giả Trương Hoàng Uyên Phương chuyển ngữ. Theo cô, việc chuyển ngữ tựa đề của cuốn sách là một thách thức lớn, khó nhất là làm sao để người đọc hình dung được một không gian hoang vu và xa vắng, văng vẳng âm thanh rất nguyên sơ của các loài hoang dã. Cuốn sách được viết bằng thứ văn phong đặc biệt, đầy sức sống và hoang dại như tự nhiên, nhưng cũng đầy chất thơ và có sức gợi mãnh liệt. Từ chính nội dung tuyệt đẹp đó, tên sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát đã được ra đời. Dịch giả Uyên Phương cũng đánh giá cuốn sách nổi bật nhất với hai điểm: Cuộc sống khắc nghiệt mà cũng đầy chất thơ của Kya ở đầm lầy và bí ẩn vụ án mạng. Vì Kya gần như phải đơn độc sinh tồn nơi hoang dã, tự nhiên đã trở thành người bạn, người mẹ, người thầy của cô bé. Đó là một thiên nhiên rất đẹp, tráng lệ và huyền bí, trù phú mà khắc nghiệt, tàn nhẫn nhưng lại dịu dàng. Người đọc sẽ dễ dàng bị cuốn hút, ngỡ ngàng, rung động và có lúc rùng mình với những bài học từ thiên nhiên đó. Còn về vụ án mạng trong cuốn sách, dịch giả bật mí rằng, có lẽ độc giả sẽ phải suy nghĩ rất lâu về định kiến cũng như sự phán xét của con người. *** MỞ ĐẦU 1969 Đồng lầy chẳng phải đầm lầy. Đồng lầy là một không gian tràn ánh sáng, nơi cỏ vươn lên trong nước, và nước trôi vào trong bầu trời. Dòng chảy chầm chậm quanh co, mang theo quả cầu mặt trời ra đến biển, và lũ chim chân dài lêu nghêu cất mình vụt lên với sự uyển chuyển không ai ngờ đến – thân hình chúng dường như không được tạo ra để bay lượn – trên nền âm thanh cả ngàn con ngỗng tuyết kêu ran. Rồi trong chính đồng lầy, ở đó đây, đầm lầy đích thực len lỏi vào những vùng trũng thấp, ẩn khuất giữa ẩm ướt đại ngàn. Nước đầm lầy tĩnh lặng và tối tăm, nuốt chửng ánh sáng trong cổ họng bùn nhớp nháp. Trong cái hang đó, cả những loài chuyên lẩn lút về đêm cũng hoạt động ban ngày. Nơi đây cũng có tiếng động, tất nhiên, nhưng so với đồng lầy thì đầm lầy tĩnh mịch hơn hẳn vì sự phân hủy là hoạt động chế ngự tất cả. Sự sống mục nát, bốc mùi và trở về thứ mùn thối rữa; một chốn trầm mình sầu bi của cái chết cho sự sống vươn lên. Vào buổi sáng ngày 30 tháng Mười năm 1969, xác của Chase Andrews nằm trong đầm lầy, cái đầm hẳn sẽ nuốt chửng nó dần dần, lặng lẽ. Vĩnh viễn che giấu nó. Đầm lầy tường tận mọi điều về cái chết, và không nhất thiết coi đó là thảm kịch, chắc chắn chẳng phải là tội ác. Thế nhưng buổi sáng này, hai cậu bé từ ngôi làng đạp xe đến chỗ tháp phòng cháy cũ, và từ chỗ ngoặt thứ ba trên cầu thang đã trông thấy chiếc áo khoác denim của cái xác kia. *** 1952 Sáng ngày hầm hập cái nóng trời tháng Tám, hơi thở ẩm ướt của đồng lầy giăng màn sương mờ lên những nhánh sồi với cành thông. Trảng cây cọ đứng im đến lạ lùng, chỉ có tiếng vỗ cánh trầm trầm, chậm chạp của lũ diệc cất mình lên từ phá nước. Và rồi Kya, bấy giờ chỉ mới sáu tuổi, nghe tiếng cửa lưới sập lại. Đứng trên chiếc ghế cao, con bé ngừng cọ bợn cháo ngô bám trên nồi và để nồi xuống bồn đầy bọt xà phòng đã xẹp. Chẳng còn tiếng động nào nữa ngoài tiếng thở của con bé. Ai vừa ra khỏi lán vậy nhỉ? Không phải má. Má có bao giờ để cửa sập lại đâu. Ấy vậy mà khi chạy ra hiên, Kya lại thấy má trong bộ váy dài nâu, những nếp xếp li nhịp nhịp víu vào mắt cá khi bà bước xuôi dải đường cát trong đôi giày cao gót. Đôi giày mũi bầu giả da cá sấu. Đôi duy nhất để bà mang ra ngoài. Kya muốn gọi to nhưng biết khôn hồn thì chớ có đánh thức ba dậy, vậy là nó mở cửa ra đứng trên bậc thềm gạch ván. Từ chỗ đó, con bé thấy chiếc vali nhỏ màu xanh lam má xách theo. Mọi ngày thì với sự tin tưởng của một chú chó con, Kya biết má sẽ quay về với chút thịt gói trong giấy nâu dính mỡ hoặc một con gà, đầu lủng lẳng chúc xuống. Thế nhưng bà chưa bao giờ mang đôi giày da cá sấu, chưa bao giờ xách theo hành lý cả. Má luôn luôn nhìn lại từ chỗ lối đi nhỏ gặp đường mòn, một tay giơ lên cao, lòng bàn tay trắng nõn nà vẫy vẫy trước khi bà quay lưng bước tiếp, len lỏi qua những khu rừng đầm lầy cùng phá nước khin khít cỏ đuôi mèo, rồi có lẽ nếu con nước gia ơn, cuối cùng bà sẽ ra đến phố. Thế nhưng hôm nay bà không ngoảnh lại mà cứ dấn bước, loạng choạng giữa những vết lún trên đường. Dáng vóc cao của bà thỉnh thoảng hiện ra qua những lỗ hổng giữa rừng, cho đến khi chỉ còn thấy thấp thoáng màu trắng chiếc khăn choàng qua kẽ lá. Kya vụt chạy đến chỗ nó biết con đường sẽ lộ ra; chắc chắn má sẽ dừng lại vẫy tay từ đó, nhưng tới nơi, con bé chỉ kịp thoáng thấy màu lam của chiếc vali trước khi nó mất hút – cái màu sao mà chỏi giữa cánh rừng mướt rượt màu xanh lục. Một cảm giác nặng nề dày đặc như bùn gòn đen chèn lên ngực con bé khi nó quay lại đợi ở bậc thềm. Kya là đứa nhỏ nhất trong đám anh em nhà này, mấy anh chị lớn hơn nó nhiều, mặc dù sau này con bé không nhớ tuổi của họ nữa. Bọn trẻ sống với ba và má, chen chúc nhau như bầy thỏ nhốt chuồng, trong cái lán thô sơ tạm bợ, hàng hiên có lưới che lỏ mắt dòm ra dưới những tán sồi. Jodie, thằng anh gần Kya nhất nhưng vẫn lớn hơn nó bảy tuổi, bước từ trong nhà ra và đứng sau con bé. Jodie có cùng cặp mắt và mái tóc đen của em gái; thằng nhỏ đã dạy con bé bài hát của lũ chim, tên gọi những vì sao và cách lái thuyền qua đám cỏ răng cưa. “Má sẽ về thôi,” thằng anh nói. “Em hông biết. Má mang đôi dày cá sấu đó.” “Một bà má hông bỏ mấy đứa con nhỏ đâu. Điều đó hông nằm trong bản tính của họ.” “Anh kể với em là cáo cái bỏ con của nó mà.” “Ừ, nhưng con cáo đó bị toạc hết chân rồi. Nó xẻ chết đói nếu cố nuôi cả mình dới bầy con nhỏ. Tốt hơn là nó bỏ đám này, dưỡng thương cho lành lại, rồi đẻ thêm khi có thể nuôi tụi nhóc ra hồn. Má thì đâu có đói, má sẽ quay lại.” Jodie không chắc chắn như nó ra vẻ thế, nhưng vẫn nói vậy vì Kya. Cổ họng nghèn nghẹn, con bé thì thầm, “Nhưng má xách theo cái vali xanh như xắp đi xa lắm.” Cái lán nằm tựa vào trảng cọ lùn, vô số cụm cọ mọc rải rác, tỏa khắp bãi cát tới chỗ chuỗi những phá nước xanh, và ở xa xa là toàn bộ vùng đồng lầy sau đó. Hàng dặm lưỡi cỏ cứng cáp đến độ chúng mọc lên cả trong nước mặn, chỉ bị ngắt quãng bởi những thân cây uốn cong đến nỗi chúng mang hình hài cơn gió. Rừng sồi dồn lại quanh những phía khác của cái lán nhỏ, bao bọc lấy phá nước gần đó nhất, nơi mặt nước giàu sự sống đến sục sôi. Bầu không khí trĩu muối và bài ca mòng biển tràn qua hàng cây dạt tới từ biển cả. Từ thế kỷ 16, việc khẳng định quyền sở hữu một vùng lãnh thổ chẳng thay đổi gì mấy. Những khu đồng lầy có chủ rải rác đó đây không được mô tả trên giấy tờ pháp lý, chỉ được vạch ranh giới tự nhiên – một cây sồi chết ở kia, một con lạch đằng này – bởi những kẻ trốn chạy. Người ta đâu có tự dưng dùng cọ dựng chốn nương thân ở đầm lầy, trừ phi đang trốn kẻ nào đó hay đã cùng đường tận lối. Đồng lầy được bao bởi một đường bờ biển bị xé nham nhở, mà những nhà thám hiểm ngày trước gán cho cái tên “Nghĩa địa của Đại Tây Dương” vì dòng chảy rút xa bờ, những luồng gió dữ và bãi cạn sẽ đánh cho tàu thuyền vỡ nát như mấy chiếc nón giấy dọc vùng bờ sẽ trở thành bờ Bắc Carolina. Nhật ký một thủy thủ viết, “vòng quanh bờ biển… nhưng không thấy lối vào… một cơn bão dữ dội ập tới… chúng tôi buộc phải quay ra để giữ cho mình và con tàu được an toàn, và bị xô đẩy dồn dập bởi một cơn sóng dữ… Đất liền… toàn đồng lầy nối đầm lầy, chúng tôi quay về tàu… Làm nản lòng tất cả những ai sau này tìm tới đây cư ngụ.” Những người tìm đất an cư bỏ qua chốn này, và vùng đồng lầy nổi tiếng đây trở thành một tấm lưới, vớt lên một mớ lộn xộn những tay thủy thủ nổi loạn, nạn nhân đắm tàu, con nợ và bọn người trốn chạy khỏi chiến tranh, thuế má hay luật lệ mà họ không ưa. Những kẻ mà bệnh sốt rét không giết chết hay đầm lầy không nuốt chửng sinh ra một bộ lạc người rừng thuộc nhiều chủng tộc và nền văn hóa, mỗi người có thể đốn trụi một khu rừng nhỏ với một cái rìu và vác một con hươu đi hàng dặm. Như lũ chuột sông, mỗi người có riêng một lãnh thổ, nhưng họ phải hòa nhập với cảnh sống ngoài rìa hoặc đơn giản là một ngày biến mất trong đầm tối. Hai trăm năm sau, nhóm này kết nạp thêm những nô lệ bỏ trốn vào đồng lầy và các nô lệ được trả tự do, không xu dính túi và cùng quẫn, tản mát vào vùng đất ngập nước vì chẳng còn bao nhiêu lựa chọn khác. Có lẽ đó là vùng hiểm ác, nhưng không một tấc đất nào nghèo. Tầng tầng lớp lớp sự sống – cua rù rì ngoe nguẩy, tôm hùm đất sủi bùn, hằng hà chim nước, cá, tôm, sò, hươu béo xị, ngỗng mập núc – chất chồng trên đất hay trong nước. Kẻ không ngại lùng sục tìm bữa ăn sẽ không đời nào chết đói được. Bấy giờ là năm 1952, nên đã bốn thế kỷ liền vùng đất bị giành quyền sở hữu bởi một chuỗi rời rạc những người không có sổ sách nào ghi lại. Hầu hết là trước cuộc Nội chiến. Một vài kẻ khác đến chiếm dụng đất gần đây, đặc biệt là sau hai cuộc chiến tranh thế giới, khi những người đàn ông trở về trong tan nát và túng quẫn. Đồng lầy không giam giữ mà định nghĩa con người họ, và như tất cả những vùng đất linh thiêng, chúng giữ cho bí mật của họ được vùi sâu. Họ chiếm đất mà chẳng ai quan tâm vì không ai thèm muốn nó. Dù sao, nó cũng chỉ là thứ bãi lầy hoang. Cũng như cách họ làm lậu rượu whiskey, cư dân đồng lầy đặt ra luật lệ của riêng mình – không giống kiểu luật khắc vào đá hay ghi lên giấy, mà là thứ luật sâu xa hơn, in hằn trong gen họ. Tự nhiên và cổ xưa, như nở ra từ trứng diều hâu với bồ câu. Khi bị dồn vào đường cùng, bí bách, tuyệt vọng hay bị cô lập, con người trở lại với thứ bản năng nhằm thẳng tới sinh tồn. Nhanh gọn và đích đáng. Chúng luôn là những lá chủ bài vì được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thường xuyên hơn loại gen hiền. Đó chẳng phải đạo lý gì, chỉ là phép toán đơn giản. Giữa đồng loại, bồ câu cũng đánh nhau thường xuyên chẳng kém diều hâu. Hôm đó má không về. Chẳng ai đả động gì tới chuyện đó. Ba lại càng không. Bốc mùi cá và nước dùng, ông khua nắp nồi loảng xoảng. “Bữa tối có gì hả?” Mắt cụp xuống, mấy anh chị em chúng nó nhún vai. Ba chửi thề rồi khập khiễng đi ra, trở vào rừng rậm. Đã có nhiều vụ cãi cọ trước đó; má thậm chí đã bỏ đi một hai lần, nhưng lần nào bà cũng quay về, vơ lấy bất kỳ đứa nhỏ nào để ôm ấp. Hai cô chị lớn nấu bữa tối gồm bánh ngô với đậu đỏ, nhưng không đứa nào ngồi vào bàn ăn như chúng sẽ ngồi với má. Mỗi đứa xúc vội đậu từ nồi, trút đại bánh ngô lên trên, rồi lảng đi ăn ở góc của chúng trên thảm trải sàn hay cái sô-pha sờn cũ. Kya không ăn được. Nó ngồi trên bậc thềm trước hiên nhìn xuống con đường. Người cao so với tuổi, gầy trơ xương, con bé có nước da rám thẫm và mớ tóc đen, thẳng, dày như cánh quạ. Màn đêm buộc nó ngừng trông ngóng. Tiếng ếch ồm ộp sẽ vùi đi tiếng bước chân; dẫu vậy, con bé vẫn nằm trên cái giường ngoài hiên, dỏng tai nghe ngóng. Mới sáng hôm đó, nó hãy còn thức dậy trong tiếng mỡ lợn xèo xèo trên chảo sắt và mùi bánh mì sạm nâu trong lò. Kéo cái quần yếm lên người, con bé xộc vào bếp để bày dĩa và nĩa. Nhặt mấy con mọt trong cháo bỏ ra. Hầu như sáng nào cũng vậy, tươi cười, má sẽ ôm lấy nó – “Chào buổi sáng, con gái đặc biệt của má” – và hai má con sẽ làm hết việc này tới việc nọ, thoăn thoắt như múa. Thỉnh thoảng má còn cất giọng hát dân ca hay đọc vài đoạn thơ cho con trẻ: “Chú heo nhỏ đi chợ lon ton.” Hoặc má sẽ đẩy đưa Kya theo điệu jitterbug nhịp dồn, chân họ giẫm bùm bụp lên sàn gỗ dán cho đến khi tiếng nhạc từ cái radio chạy pin dần tắt ngỏm, nghe như nó đang tự hát cho mình nghe dưới đáy một cái thùng tròn. Vào những buổi sáng khác, má lại nói mấy chuyện người lớn mà Kya không hiểu, nhưng con bé đoán rằng lời nói của má cần có chỗ để thoát ra, nên nó thấm lấy từng lời qua da, trong khi tay nhét thêm củi vào lò. Gật gù làm như hiểu rõ. Sau đó là cái nhốn nháo ngược xuôi khi mọi người thức dậy và ăn sáng. Ba không ở đó. Ông chỉ có hai chế độ: im lặng và gào thét. Nên cũng tốt khi ông cứ ngủ, hoặc không về nhà. Thế nhưng sáng nay, má im lặng; nụ cười đánh mất, mắt đỏ hoe. Bà cột thấp ngang trán một cái khăn màu trắng theo kiểu hải tặc, nhưng cái viền thâm tím vàng của một vết bầm vẫn lộ ra. Ngay sau bữa sáng, trước khi chén dĩa được rửa sạch, má đã cho vài món tư trang vào vali và theo lối nhỏ mà đi mất. Sáng hôm sau, Kya lại tới chỗ cũ của nó trên bậc cửa, cặp mắt đen hun hút xoáy xuống con đường như một đường hầm đợi tàu qua. Đồng lầy phía xa bị màn sương bao phủ, sương sà thấp đến nỗi cái gót mềm của nó chạm hẳn xuống bùn. Chân trần, Kya nhịp nhịp ngón chân, xoay xoay ngọn cỏ chọc vào đám ấu trùng kiến sư tử, nhưng một đứa nhỏ sáu tuổi nào có ngồi yên được, chẳng mấy chốc con bé đã la cà tới bãi triều, tiếng nước vỗ liếm láp ngón chân nó. Ngồi xổm bên rìa nước, con bé dõi theo lũ cá tuế vọt qua vọt lại giữa chỗ nắng với chỗ có bóng râm. Jodie cất tiếng gọi Kya từ đám cọ lùn. Con bé nhìn chăm chăm; có lẽ anh nó tới đưa tin mới. Nhưng trong lúc thằng anh len lỏi qua mấy tán lá đầy gai, con bé nhìn dáng đi lững thững của anh và biết má không có ở nhà. “Em muốn chơi thám hiểm hông hả?” Jodie hỏi. “Anh nói anh quá tuổi chơi hám hiểm rồi mà.” “Đâu, anh nói vậy thôi. Hông bao giờ quá tuổi cả. Đua đi!” Hai đứa ùa chạy qua bãi triều, băng rừng cây lao ra bờ biển. Kya ré lên khi thằng anh vọt qua mặt nó và cười nắc nẻ cho tới khi chúng chạy đến chỗ cây sồi lớn chìa ra trên cát những cánh tay khổng lồ. Jodie và anh cả Murph đã đóng vài miếng ván lên cành cây làm đài quan sát và phòng thủ. Giờ thì hầu hết ván gỗ đã sụp xuống, đong đưa một cách nguy hiểm, chỉ dính vào thân cây nhờ mấy cây đinh sét. Thường ngày, nếu Kya có được cho chơi đoàn thám hiểm thì nó cũng phải đóng vai nô lệ, đưa tới cho các anh bánh mì còn nóng lén lấy từ chảo của má. Thế nhưng hôm nay Jodie nói, “Em có thể làm thuyền trưởng.” Kya giơ cao tay phải trong tư thế xông lên. “Đuổi bọn Tây Ban Nha đi!” Hai đứa nhỏ bẻ cây làm kiếm, xộc qua những bụi mâm xôi um tùm, hét váng lên và đâm kẻ thù lia lịa. Rồi – màn tưởng tượng chợt đến chợt tan – Kya bước lại chỗ một khúc cây phủ đầy rêu và ngồi xuống. Im lặng, Jodie đến ngồi cạnh em. Thằng bé muốn nói gì đó để đứa em gái thôi nghĩ về má, nhưng từ ngữ tắt nghẹn, thế là hai đứa lặng ngắm cái bóng loang loáng bơi bơi của lũ gọng vó. Sau khi quay về, Kya trở lại chỗ bậc thềm và đợi thật lâu, nhưng trong lúc nhìn đăm đắm về phía cuối đường, nó không hề khóc. Gương mặt nó bất động, môi mím lại thành một đường mỏng dưới đôi mắt khắc khoải kiếm tìm. Nhưng ngày hôm đó má cũng không trở lại. Mời các bạn đón đọc Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát của tác giả Delia Owens & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch).
Bay Bằng Đôi Cánh Gãy
Willem 12  tuổi sống với bà ngoại ở tầng 18, Chung cư Beckham, London. Do mắc một dạng rối loạn tự kỷ, Willem hơi ngô nghê trong giao tiếp, ai nói sao cậu hiểu đúng y nghĩa đen vậy, không hiểu người ta nói đùa, với bất cứ việc gì cậu cũng hết sức nghiêm túc, từ làm bài tập về nhà cho đến thức ăn phải để riêng từng đĩa, đến quần áo mặc đúng ngày, và rất nhiều chuyện đặc biệt kỳ lạ (và kỳ cục) khác... Tất nhiên Willem không chỉ rất khó có bạn, mà còn là đối tượng để đám lêu lổng trong trường lẫn trong chung cư bắt nạt. Thế mà, cô Hubert, giáo viên Toán đồng thời là chủ nhiệm lớp, lại không giao cho Willem bài tập về nhà giải 10 phương trình như những đứa khác trong lớp; cô bảo Willem phải kết được hai người bạn cùng tuổi. Vậy nên Willem không được tính bà ngoại, chú bán burger vào được rồi! Lớp học nào cũng có mấy đứa "xóm nhà lá" chuyên nghề quậy phá. Nhưng lũ học trò nhất quỷ nhì ma của lớp Willem còn hơn vậy nhiều, có tới hai băng đảng xưng hùng xưng bá. Một phe là băng Giang hồ Phố Beckham - nghe là biết lũ trẻ trâu trong chung cư của Willem rồi. Phe kia là Băng Tarkey, mà tụi nó khoái xưng là Băng T hơn, đích thị lũ trẻ choai bên Chung cư Tarkey gần đó.  Cầm đầu mấy đứa Giang hồ Phố Beckham trong lớp Willem là thằng Finn. Hai đứa "tà lọt" cho thằng Finn là thằng Laurence và TJ. Ba thằng ôn con này gặp Willem đâu là bắt nạt đó, cái trò thằng Finn khoái nhất là bắt Willem leo lên bàn, leo lên kệ... leo lên bất cứ gì và nhảy xuống theo tiếng hô của nó! Nhưng bữa đó thật bá đạo quá quắt, ba thằng dí Willem trèo lên bờ tường bao khuôn viên trường và bắt thằng nhỏ phải nhảy xuống. Cái tường cao thế kia, lại còn găm đầy miểng chai trên bề mặt...  Giữa lúc ba thằng Finn, Laurence và TJ thi nhau hú hét, chế nhạo, khủng bố tinh thần Willem, chợt có tiếng kêu khóc can ngăn của Sasha Barton. Sasha và Finn là bạn từ hồi chơi hố cát nhà trẻ. Gần đây, thằng Finn nắm tay Sasha làm con bé thấy bủn rủn kỳ cục! "Cảm nắng" thằng Finn ư? Lẽ nào! Nhưng khi Willem liều mạng nhảy từ trên tường xuống, vẫy hai tay như cánh chim và té "rắc" một phát, gãy chân, thằng Finn nắm tay Sasha lôi tuột đi thì con nhỏ răm rắp làm theo, bỏ mặc Willem nằm rên la trên đất.  Willem được đưa đi bệnh viện, cái chân gãy bó bột to đùng. Và cô Hubert quét ánh mắt tia laser nhìn cả hai băng trẻ trâu trong lớp, nghi ngờ không biết ai là thủ phạm vụ kinh thiên động địa này! Trong khi Sasha đang bứt rứt hối hận, cô Hubert lại hỏi ai có thể thay mặt cả lớp đến bệnh viện thăm nom Willem, tỏ tình bằng hữu không. Mặc kệ thằng Finn tức lồi mắt, Sasha đứng bật dậy xung phong.  Đến bệnh viện và chăm một cậu bạn tự kỷ, giao tiếp ngô nghê, nói năng nghiêm trọng như ông cụ non... không phải là phiền phức và chán òm sao? Dĩ nhiên rắc rối chẳng phải dạng vừa! Và Finn đời nào để yên.  Nhưng câu chuyện "tay ba" Finn - Sasha - Willem lọt thỏm giữa câu chuyện lớn hơn nhiều trong cuộc sống ở trường và ở chung cư của chúng. Lũ vô công rỗi nghề đàn anh - đại ca - của hai băng đảng Phố Beckham và Băng T bắt tay nhau chơi lớn: bạo động, cướp phá cửa hàng, thiêu rụi ô tô, đập vỡ kính cửa sổ, choảng nhau đến đổ máu... Những tháng ngày mà nơi này nơi kia ở London bùng lên những cuộc nổi loạn của thanh niên thất nghiệp và bọn trẻ mới lớn a dua, vào hùa... Tuy nhiên, tình bạn bắt đầu từ chiếc xe lăn đẩy Willem chân bó bột, Sasha tả xung hữu đột qua đám bạo loạn đưa bạn về nhà, và thằng Finn thoắt ẩn thoắt hiện, lúc là bạn lúc là kẻ làm loạn - hết sức khó hiểu - dẫn đến nhiều cơ duyên khác cho cuộc đời của ba đứa trẻ. Đầu tiên chúng được gặp Ông già phép màu Archie và Dự án Cộng đồng sửa ô tô ông mở ở tầng hầm chung cư Beckham. Cơ duyên thứ hai, hết sức phi thường, chạm đúng giấc mơ thầm kín - được bay - của Willem và Sasha là gặp gỡ nàng Tiêm kích Spitfire Maisy - một trong những chiến đấu cơ anh hùng của Không quân Anh trong Thế chiến II còn sót lại. Ba là: bài tập thuyết trình nhóm do cô Hubert giao, dẫn đến việc ba đứa Finn - Sasha - Willem và chú chó Buster của Finn lập Hội Spitfire. Và cuối cùng: Đôi cánh bằng gỗ Willem tự chế tạo theo bản vẽ của danh họa đồng thời cũng là nhà sáng chế người Ý Leonardo da Vinci - và lần tung cánh chim trời của cậu ta từ tầng mái chung cư Beckham... hạ cánh nơi chảo ăngten cửa sổ phòng thằng Finn ở tầng 11!  Hồi hộp, cuốn hút theo sự phát triển của từng nhân vật... Bay bằng đôi cánh gãy là câu chuyện cảm động tuyệt vời về tình bạn, tình yêu, những tổn thương tâm lý của trẻ em là nạn nhân bạo hành gia đình; lòng tốt giữa người và người; và dành tặng cho những bóng hồng cánh gió của nước Anh trong Thế chiến II. Cuộc sống đương đại của thành phố London, những vấn đề của giới trẻ ngày nay hiện lên sống động và xúc động trong từng câu chữ! Bay bằng đôi cánh gãy sẽ đưa trí tưởng tượng của các em không chỉ đến những tầng mây đẹp của trời cao mà còn đến những cảm xúc tinh tế nhất trong tâm hồn để làm một con người tự do, dám ước mơ và dám theo đuổi ước mơ... đến vô cùng và xa hơn nữa! *** WILLEM Khi thằng Finn Mason gào ‘nhảy đi’, tức là phải nhảy bật lên cao hết sức bình sinh, bằng không thì chết chắc. Tôi hít một hơi sâu. ‘Nhảy đi, thằng ngu,’ Finn hét lên, một cục nước bọt bắn ra khỏi mép nó. Đứng hai bên thằng Finn là TJ và Laurence. Bọn nó nhìn tôi chằm chằm. Miệng chúng há hốc. Tôi nhích nhích ngón chân ra gờ tường bao khuôn viên trường. Một miếng mảnh chai do thầy Patricks, thầy giám thị, cắm lên trên bậu tường để giữ lũ học trò bất xuất và lũ trộm bất nhập, nghiến lạo xạo dưới chân tôi. Chẳng có tên trộm nào thèm đột nhập vào cái trường này vì đâu còn gì mà chôm chỉa. Thằng Finn Mason đã vét sạch sành sanh rồi. ‘Nhảy đê! Nhảy đê! Nhảy đê!’ Laurence và TJ hô vang. Laurence cười ha hả. Còn TJ trông như thể sắp đổ bệnh đến nơi. Mấy ngón tay tôi bắt đầu run. Tôi thò tay vào túi phải tìm con máy bay mô hình Spitfire Mark 1 của mình. Nó đã biến đâu mất! Xoay xoay cánh quạt ở mũi con máy bay mô hình này thường giúp tay tôi bớt quýnh quáng và đầu óc tôi có thể tập trung giải quyết những bài toán khó nhằn, ví dụ như lần này, khi tôi đang bị ép phải nhảy từ trên bờ tường cao chót vót xuống. Tôi sục tay qua túi trái, dù biết chắc mình luôn cất con mô hình Spitfire Mark 1 ở túi bên phải thôi. Nó cũng không có ở đó. Mất rồi. Mấy ngón tay tôi run bần bật. Lẽ ra tôi không nên đứng trên gờ tường bao khuôn viên trường mới phải. Lẽ ra giờ này tôi đang làm bài tập về nhà. Cô Hubert dạy toán đã giao riêng cho tôi một bài tập khác với cả lớp. Chúng nó phải giải 10 phương trình. Còn tôi phải kết được hai người bạn. Cô Hubert nói bà tôi thì không tính vì là người nhà. Chú Bernie ở Quầy Burger Bernie cũng không được vì chú ấy là người bán hàng. Tôi hỏi cô Hubert có phải là bạn tôi không thì cô trả lời không, cô là cô giáo dạy môn toán của tôi thôi. ‘Em phải kết bạn với hai người cùng tuổi em,’ cô nói. ‘Nhảy đi!’ thằng Finn gào. Nó không phải là bạn tôi. Tôi nhích tới thêm một chút. Một miếng miểng chai đâm xuyên qua vạt đế giày mỏng lét, đôi giày đi học tôi ưa thích thứ nhì, màu đen cột dây, và cứa vào ngón cái chân trái. Thầy Patricks không nên gắn miểng chai lên bậu tường, vì lý do sức khỏe và an toàn mới phải chứ. Thầy Patricks không nên làm giám thị. Thầy ấy nên làm gián điệp ám sát của SAS[1] mới đúng. Thật tức cười, phải không, những chuyện như vậy lại hiện lên trong đầu khi bạn sắp phải nhảy xuống khỏi bậu tường và chết ngắc. Có tiếng máy bay bay ù ù trên trời. Tôi ngước lên. Hình như là một chiếc Boeing 747-400, nhưng cũng khó mà nói trúng được khi bạn đang cố giữ thăng bằng trên gờ tường cao chót vót thế này. Loại máy bay đó có thể bay một mạch không ngừng đến 7.670 hải lý. Mấy thông số máy bay giúp tôi bình tĩnh một chút. ‘Nhảy đi,’ thằng Finn quát. Thằng Finn có quả đầu tóc vàng loăn xoăn. Nó không chải đầu. Mũi nó có bảy nốt tàn nhang. Tôi đã nhẩm đếm tàn nhang trên mũi thằng ấy khi nó bắt tôi nhảy từ bàn học xuống đất giờ ra chơi ngày hôm qua. Từ trên tường cao nhìn xuống, thằng Finn, TJ và Laurence trông bé xíu. ‘Tao đã bảo NHẢY!’ Finn gào. Tôi nhìn xuống. Tôi, Willem Edward Smith, xin tuyên bố ở đây rằng tôi không hề sợ độ cao. Gia đình tôi sống ở tầng 18 Chung cư Beckham. ‘Chúng ta ngủ cao hơn cả lũ chim,’ bà tôi vẫn thường nói. Nếu đúng là tôi sắp chết thật thì tôi sẽ xin vị thánh nào phụ trách trên ấy - Chúa chẳng hạn, hoặc nếu ngài bận thì có thể phụ tá của ngài Thánh Phêrô cũng được - cho tôi đầu thai thành một chú chim vì tôi không thích làm Willem Edward Smith cho lắm. Bà tôi dạy phải luôn vươn tới đỉnh cao. Nên tôi hy vọng Chúa sẽ có mặt ở đó khi tôi đưa lời thỉnh cầu. Có lẽ tôi nên đặt lịch hẹn gặp ngài. Bà còn dạy tôi một điều nữa là phải luôn lên kế hoạch cho mọi chuyện, có như vậy mới đối phó được những bất ngờ quái gở trong đời. Thế nên mỗi khi nhìn thấy Finn đi trên hành lang trong trường là tôi sẽ bắt đầu nhảy lên nhảy xuống tại chỗ trước cả khi nó bảo tôi làm vậy. Tôi vò tóc bù xù và kéo đứt một chiếc cúc áo và tự tát vào mặt mình cho đến khi má tôi hằn một vệt đỏ. Kế hoạch của tôi là lừa thằng Finn tin nó đã đánh tôi rồi. Finn là thằng não cá vàng nên đôi khi kế hoạch này thành công, nhưng những lần còn lại nó toàn bắt tôi nhảy cao hơn nữa và đạp vào bụng tôi. ‘Nhảy đi! Nhảy đi! Nhảy đi!’ Chúng nó đồng thanh gào mỗi lúc một to hơn. Ngón tay tôi run rẩy hơn nữa. Nếu tôi nhảy xuống bờ tường này rồi chết đi thì mỗi sáng ai sẽ pha trà và bưng cho bà tôi đĩa bánh quy ăn nhẹ đây? Mà tiện thể, tôi cho rằng chấm dứt cuộc đời ngắn ngủi mới 12 năm của tôi như này là hết sức ngớ ngẩn, và tôi bắt đầu nhẩm đếm số ngày, phút và giây mình có mặt trên Trái Đất. ‘Nhảy đi, cái thằng rác rưởi thảm hại,’ Finn cắt ngang phép tính nhẩm trong đầu tôi. Tôi hít sâu một hơi và nhích mấy ngón chân ra khỏi gờ tường thêm nữa. Mặt đất bắt đầu xoay mòng mòng. Tôi lảo đảo. TJ đưa tay lên che mắt. Một đứa con gái nào đó hét lên. Sasha Barton chạy bổ đến chỗ chúng tôi. ‘Finn, cậu đang làm gì đấy? Cậu làm hại Willem thì sẽ bị tống cổ ra khỏi trường lần nữa là cái chắc! Và đừng hòng gặp lại nhau. Vĩnh viễn luôn nha. Rồi bố tớ sẽ cấm cậu xuất hiện trong đời tớ luôn, lần thứ sáu trong năm nay rồi đó.’ Sasha ngước nhìn tôi và lén nháy mắt một cái cực khẽ. Một cái chớp nhẹ, nhưng tôi đã kịp thấy. Nếu ai đó nháy mắt với bạn, có phải họ là bạn của bạn không? Thế rồi con nhỏ hất mái tóc đen dài ra sau tai, lắc lắc đôi khuyên vàng và phẩy tay với thằng Finn. ‘Để yên cho Willem đi Finn, làm ơn mà,’ Sasha nói, nhìn thẳng vào mắt Finn. Thằng Finn không thèm nhìn vào mắt Sasha. Nó nhìn chằm chằm ngực con bé. Có điều ngực con nhỏ không lớn lắm - không đủ để ngăn Finn muốn giết tôi. ‘NHẢY XUỐNG!’ nó gầm lên. Thế là tôi NHẢY XUỐNG. Tôi vờ như mình đang ở trong một chiếc máy bay và dù không cố ý nhưng hình như tôi đã đập đập hai cánh tay như cánh chim khi lao xuống và thế là làm lộ bí mật. Và khi chân tôi gãy rắc một cái, tôi thét lên đau đớn. Nhưng tôi đã không chết. Tôi vẫn là Willem Edward Smith sống ở tầng 18, Căn hộ 103 Chung cư Beckham, Phố Beckham, Tây bắc London, NW1 7AD. Thằng Finn cười phá lên. Rồi cả đám bắt đầu cười hùa theo thằng đó. Nó cúi sát xuống, rít vào mặt tôi, ‘Nó nghĩ nó là chim cơ đấy. Bay đi, con, bay đi.’ ‘Này các em kia! Mấy đứa đang làm gì thế?’ Là thầy giám thị Patricks đang lao về phía chúng tôi. ‘Chuồn thôi!’ thằng Finn thét lên. Finn chộp lấy tay Sasha lôi tuột đi và cả đám bỏ chạy theo, để mặc tôi nằm đó với một chân bị gãy. Có cái gì lấp lánh trong đám cỏ. Là một chiếc khuyên tai của Sasha. Tôi với tay chộp lấy, dù về lý thuyết thì người mới bị thương không nên cử động. Đau điếng. Tôi lén giấu chiếc khuyên vào túi. Nó là bằng chứng tố cáo Sasha đã có mặt ở đây khi tôi nhảy từ trên tường xuống đất, mà tôi thì không muốn một người có thể là bạn mình phải gặp rắc rối. ‘Đợi đấy,’ tôi gào với theo chúng nó. ‘Một ngày nào đó nhất định tao sẽ bay được.’ Mời các bạn đón đọc Bay Bằng Đôi Cánh Gãy của tác giả Jane Elson & Nhung Nhung (dịch).