Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phía Đông Vườn Địa Đàng

Phía đông vườn địa đàng là câu truyện của những người Mỹ, khoảng những năm từ nửa cuối thế kỷ trước đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác giả cho nó diễn ra ở chính quê hương mình.  Tiểu thuyết được xuất bản năm 1952. Có thể là nhà văn đã thai nghén nó trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phải chăng cuộc “người tàn sát người” khủng khiếp ấy đã làm cho Steinbeck băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất của con người và cố tìm ra lời đáp.  Phía đông vườn Địa đàng, đây là cuốn truyện về con người. Nhận vật trung tâm mang cái tên Adam, con người đầu tiên của nhân loại. Với nó nhà văn muốn đặt cơ sở cho một chủ nghĩa nhân đạo hữu hiệu. Steinbeck khẳng định niềm tin vào con người, vào cuộc sống, nhưng không phải một niềm tin lý tưởng hóa. Niềm tin ấy phải là cái cây đứng chắc, bắt rễ sâu vào miếng đất thực tế có cả đất màu mỡ lẫn sỏi đá, biết tránh sỏi đá, hút màu mỡ mà sinh trái ngọt. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Cách đây mấy năm, tôi có dịp nói chuyện với một giáo sư người Mỹ. Ông được giới thiệu là một nhà Việt Nam học. Trong lúc trò chuyện, tôi đặt một câu hỏi: “Tôi không hiểu tại sao nhà văn John Steinbeck lại ngồi trên phi cơ bay trên trời Việt Nam và ca ngợi những phi công ném bom nhân dân nước tôi?” Ông trả lời: “Đừng nói đến John Steinbeck nữa. Bây giờ thanh niên Mỹ không ai đọc ông ta nữa. Ông ta lẩm cẩm rồi.” Nói thế, không biết vì muốn làm vui lòng tôi, hay vì là nhà Việt Nam học, tự nhiên ông đứng về phía Việt Nam. Tôi chắc lý do thứ hai đúng hơn, ông tỏ ra là một người thẳng thắn. Nhưng câu trả lời không khiến tôi vui, mà làm tôi suy nghĩ. Tôi hiểu rằng thanh niên Mỹ bây giờ không đọc John Steinbeck nữa không phải vì họ bất bình về việc nhà văn ủng hộ ném bom Việt Nam. Chính ông giáo sư Việt Nam học ấy đã nói thanh niên Mỹ thuộc thế hệ sau chiến tranh Việt Nam hầu như không ai biết Việt Nam là gì. Vậy thì, không đọc John Steinbeck nữa, ấy là vì họ cho rằng nhà văn đã cổ lỗ rồi, không hợp thời nữa. Thanh niên Mỹ ưa chạy theo “mốt”. Nếu đúng như thế, thật đáng buồn. Vì tác giả củaChùm nho uất hận,Chuột và ngườivàPhía đông vườn Địa đàngmà chúng ta đang đọc đây là một nhà văn nhân văn chủ nghĩa. Các tác phẩm vừa kể mang giá trị nhân đạo cao cả. Đó là những tác phẩm làm vinh dự cho dân tộc Mỹ. Nếu thanh niên Mỹ bây giờ thấy những tư tưởng ấy là “lẩm cẩm” thì thật đó là một điều không hay. Nhưng tôi không tin là có điều ấy. Tôi vẫn thấy tác giảChùm nho uất hậnlà đáng kính mến. Bây giờ nói vềPhía đông vườn Địa đàng. Nghĩ về người Mỹ, người ta nghĩ ngay đếnchủ nghĩa thực dụng. Phương Tây cho là như thế. Đích thân người Mỹ cũng tự cho mình như thế. Tất nhiên là có nhiều cách hiểuchủ nghĩa thực dụngkhác nhau. Ta thì nói:chủ nghĩa thực dụng Mỹ, với ý phê phán. Đại khái như thế này: người Mỹ cái gì cũng tính toán bằng tiền. Ngồi với nhau, ai có thuốc lá thì lấy ra hút, không mời người khác. Bàn việc, hỏi ngay phần tôi bao nhiêu, phần anh bao nhiêu. Bố con mượn tiền nhau cũng là vay trả sòng phẳng. Đến những việc lớn hơn, Mỹ sản xuất vũ khí, buôn bán vũ khí, chỉ nhằm thu lợi nhuận, bất cần nhân nghĩa, đạo lý “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi.” Đối với Mỹ chẳng có gì thiêng liêng hết, họ đem tất cả ra làm quảng cáo, để bán hàng v.v... Ta nhìn nhận Mỹ như vậy là có lý do. Ta thù ghét Mỹ. Ta và Mỹ đã gặp gỡ nhau trong những trường hợp không có gì vui vẻ. Những người Việt Nam ở miền bắc, ở các vùng kháng chiến miền nam đã bị bom đạn Mỹ gây cho biết bao nhiêu đau thương tang tóc. Những người trong các vùng đô thị thì căm giận các cuộc bố ráp, những cuộc tra khảo, những tai nạn lính Mỹ gây ra trên đường phố, những phụ nữ bị lính Mỹ xúc phạm đến nhân phẩm, những thanh niên hư hỏng vì “lối sống Mỹ”. Tất cả những cái đó ta quy tội chochủ nghĩa thực dụng Mỹ. Nó đồng nghĩa vớibần tiện, tham lợi, tàn nhẫn, phi nhân. Cũng có thể đó là những biểu hiện sai xấu củachủ nghĩa thực dụngnhưng không nên hiểuchủ nghĩa thực dụng chỉ là như vậy. Nói một cách cô đúc thì nội dung căn bản củachủ nghĩa thực dụnglà ở điểm, chỉ thừa nhận các chân lý của một lý thuyết sau khi đã thể nghiệm nó trong ứng dụng vào thực tế. Nguyên lý này được dùng cho cả khoa, triết lý, đạo đức, tôn giáo. Chỉ được coi là chân lý, một nền triết lý, một nền đạo đức, một tôn giáo có tác dụng cải thiện cuộc sống. Như vậy chủ nghĩa thực dụng là mộttriết học vị nhân sinh. Nước Mỹ là một nước mới, lịch sử chỉ có hơn hai trăm năm. Những người dân ở Âu châu, Á châu, Úc châu đến đây tổ chức một xã hội mới. Ở xứ sở của họ, họ sống trong những khuôn khổ đã định hình từ bao nhiêu đời trước. Họ suy nghĩ phán đoán theo những nếp cũ, theo truyền thống. Đến vùng đất mới này, mọi cái đều mới mẻ. Những người đến đầu tiên tập mình làm trọng tài cho mình. Họ không có cách nào khác là lấy hiệu quả để đánh giá những chủ trương, những việc làm của mình và điều này trở thành một lối tư duy của người Mỹ. Rõ ràng là trong tiểu thuyếtPhía đông vườn Địa đàng John Steinbeck đã chấp nhận lối tư duy ấy và khẳng định nó. Tác phẩm của ông đầy sức thuyết phục. Giả sử ông là triết gia và trình bày chủ nghĩa thực dụng bằng triết học chưa chắc ông thuyết phục được mạnh mẽ. Nhưng ông là nhà văn, và tiểu thuyết chính là bức tranh phản ánh cuộc sống cho nên chính cuộc sống chứng minh và như thế không ai chối cãi được. Tuy nhiên, để điều vừa nói không bị nghi ngờ, tôi cần phải nói về bút pháp của Steinbeck. Tiểu thuyết Mỹ, chí ít là tác phẩm của tiểu thuyết gia tiêu biểu, thể hiện một tính hiện thực rất trội. Có những cuốn có giá trị như một công trình nghiên cứu xã hội học, nhân chủng học (tất nhiên là bằng văn chương cho nên có thể còn rõ ràng hơn là khoa học nữa vì sinh động hơn, cụ thể hơn, tỉ mỉ hơn). Chúng không chỉ khảo sát một quãng đời mà cả cuộc đời, có khi từ đời nọ sang đời kia. Nhưng chẳng phải vì vậy mà chúng dày cộm, rậm rạp. Và đấy chính là chủ nghĩa thực dụng áp dụng vào lĩnh vực viết văn. Trong cuốn tiểu thuyết ta đang đọc đây Steinbeck theo dõi những nhân vật từ đời cha đến đời con. Ông chú ý đến từng chi tiết rất nhỏ, nhiều khi người đọc phải ngạc nhiên không biết ông làm thế nào mà quan sát được tinh tế như thế. Nhưng ông lại bỏ qua rất nhiều hành động, lời nói, tình huống mà thường thường nhiều tiểu thuyết gia đưa vào tác phẩm. Nghĩa là ông chọn chi tiết trên hiệu quả thực tiễn mà nó mang lại. Sự chọn lọc này thật khe khắt. Đọc sách, người ta thấy ông trình bày rất khách quan. Người ta không thấy có dụng ý gì muốn lái độc giả theo hướng này hướng khác. Đôi khi ông cũng phát biểu ngoài lề những ý kiến của ông. Nhưng những ý kiến ấy cũng thật khách quan, đúng là cuộc sống như vậy, ông chỉ phiên dịch lại trung gian. Nhưng Steinbeckkhách quanmà khôngkhách quan chủ nghĩa. Tôi muốn nói: người ta không thấy ở ông sự vô tình, thái độ trối kệ. Tôi phải so sánh cho rõ ý: ĐọcCuốn theo chiều giótôi thấy tác giả miêu tả rất trung thực, nhưng tôi vẫn cảm thấy ngòi bút hiện thực ấy hơi tàn nhẫn. Thuyền trưởng Butler có cái đầu óc thực tế rất hay, nhưng đối với Scarlett quả là ông đối xử quá tàn nhẫn. Tác giảNhững kẻ trần truồngvànhững người chếtcũng rất hiện thực, tôi không trách gì ông, nhưng ông cố ý phơi bày những mảng hiện thực kinh tởm quá. Vấn đề lànhìn hiện thực một cách hiện thực, nếu có thể nói như vậy. Cái hiện thực mà John Steinbeck trình bày, không bị tàn phế, uốn nắn chút nào, đầy những trầm luân khổ ải, nhưng nó không dọa nạt khủng bố người đọc mà làm cho người ta chấp nhận được. Chẳng phải là trong thực tế người ta vẫn sốngđượcvới đau khổ đó sao. Ta hãy nhớ lại bài thơ ngụ ngôn của La Phông-TenTử thần và tiều phu. Những người Mỹ đứng đắn thường bày tỏ thành thực cái ý muốn của họlàm cho cuộc sống có thể chịu đựng được. Nói thế nghĩa là: cuộc sống không chỉ có hoa thơm trái ngọt đâu, rất nhiều cay đắng nhưngcó thể chịu đựng được. Và người Mỹ thường có một phương châm, coi như một cách ngôn:Hãy giữ nụ cười. Cuộc sống là cuộc sống. Nó như thế. Vậy thì nhăn nhó cau có cũng chẳng thay đổi được gì. Tốt hơn là hãy giữ lấy nụ cười. Đó là chủ nghĩa thực dụng. Nó không phải dở, hay là khác. John Steinbeck chọn hai nhân vật để thuyết minh cho tư tưởng của ông. Hai con người bình thường. Một là ông Samuel Hamilton nguồn gốc Ái Nhĩ Lan nông dân, có nghề lò rèn và kiêm nghề đào giếng. Một là Lee nguồn gốc Trung Hoa, nấu bếp. Dường như John Steinbeck gửi gắm một ý nghĩ vào trong sự chọn lựa của mình: một người đơn giản hồn nhiên kiểu trẻ thơ, và một người đã được thừa kế, một gia tài khôn ngoan của một nền văn hóa lâu đời vào bậc nhất trên hành tinh này. Hai người gặp nhau thống nhất với nhau trong một quan niệm: chỉ có thực tiễn là chân lý. Thêm vào đó, tác giả lại viện dẫn Sáng thế ký của Kinh Thánh mà ông cho là người Trung Hoa đã tìm ra nghĩa đúng nhất. Đó là đem chúa Trời nói với Cain “Nếu người làm lành há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành thì tội lỗi rình đợi trước cửa thềm người lắm, nhưng ngươi phải quản trị nó.” Phải quản trị nó trong nguyên văn hê-brơ, là Timshel. Theo LeeTimsheldịch làquản trịhaykiềm chếđều không đúng mà, phải dịch làngươi có thể chế ngự nó. Steinbeck dùng chi tiết này không phải do yêu cầu của nghĩa chữ mà chính là để nêu lên một quan niệm xử thế như bàn dưới đây. Hơn một thế kỉ nay, từ lúc các nước phương Tây đi chiếm các thuộc địa ở các nước phương Đông, có những triết gia, chính trị gia, nhà văn đặt câu hỏi: Phương Tây và phương Đông có thể gặp được nhau không? Trên thực tế, họ cũng gặp nhau rồi, đúng hơn là phương Tây đã gặp phương Đông bằng thế mạnh 1 Câu hỏi đặt ra là muốn có sự gặp gỡ tự nguyện kia. Nhiều câu trả lời khác nhau. Về phía phương Tây có người bảo có thể được. Có người bảo Tây là Tây, Đông là Đông không thể gặp nhau. Có người đề xuất công thức: Phương Tây là thầy, phương Đông là trò. Với nhân vật Lee, Steinbeck có câu trả lời độc đáo: Lee làđầy tớ trung thànhvà là thầy dạy khôn cho chủ. Không rõ nhà văn có đọc các truyện xưa của Trung Hoa không mà ông đã xây dựng nhân vật Lee như một quân sư, một mưu sĩ, một môn khách? Steinbeck tỏ ra rất hiểu phương Đông, rất hiểu cái thâm thúy của triết học, văn hóa Trung Hoa mà ông khâm phục. Nhân vật Lee, nhà văn xây dựng thật hay. Tim shel – ngươi có thể chế ngự nó: ấy là tư tưởng chỉ đạo của cuốn tiểu thuyết. Mỹ châu vốn là nơi tao ngộ của tứ hải anh hùng. Nói nôm na hơn và đúng với sự thực: tìm đến lập nghiệp ở nước Mỹ là những người thuộc nhiều quốc gia, nhiều màu da, có chung một cảnh ngộ bị thất cơ lỡ vận, không còn sống ở quê hương xứ sở mình. Cái cảnh ngộ chung ấy dạy họ nên biết chấp nhận những dị biệt của nhau, có khi những sự đối chọi nhau nữa, để chịu đựng, để sống chung với nhau trên miếng đất có thừa điều kiện để nuôi tất cả. Các nhà văn Mỹ thường có cái nhìn thực tế, nói là thực dụng cũng được đối với con người. Con người rất đa dạng, bao nhiêu người là bấy nhiêu mô hình, không ai có quyền áp đặt cái mô hình của mình cho người khác. Con người không phải làthầncũng không phải làquỷ, có cả xấu lẫn tốt, xấu hay tốt đều là tương Steinbeck cố ý đưa vào trong tiểu thuyết câu truyện trong Kinh Thánh về hai anh em sinh đôi Abel và Cain một tốt, một xấu và đặt cho hai nhân vật của ông là Aron và Cal cùng là anh em sinh đôi, hai cái tên gần giống như trong Kinh Thánh. Phải chăng tác giả muốn nói Abel cũng là con người, và Cain cũng là con người. Con người là cả Abel lẫn Cain, cái nghiệp dĩ là như vậy, phải chấp nhận thôi. Hơn thế, nhà văn lại có ý dành tấm lòng ưu ái của mình cho những người bị coi là xấu. Trong tiểu thuyết có hai tuyến nhân vật: Tốt, xấu. Adam, Aron được mô tả như những con người tốt. Họ muốn làm những việc tốt, họ nuôi trong tâm trí một lý tưởng. Nhưng họ chỉ thu hoạch được những thất bại mà chính khuynh hướng lý tưởng hóa là nguyên nhân. Còn những nhân vật bị coi là xấu thì lại thành công trong mọi việc làm. Bên cạnh Adam rất tốt là Cathy, vợ chàng, cực xấu. Cô lừa dối tất cả mọi người và ai cũng bị lừa. Bên cạnh Aron luôn luôn hướng về mục đích thánh thiện là người em Cal luôn luôn bị những ý tưởng xấu điều khiển và Cal bao giờ cũng đạt kết quả. Nhưng ta chớ vội tưởng Steinbeck chủ trươngác thắng thiện. Cuốn tiểu thuyết cho ta thấy những thành công của Cathy, Cal đem lại cho họ không phải sự sung sướng mà là sự đau khổ. Nhà văn muốn nói với chúng ta rằng: Cuộc sống là cuộc sống, nó không uốn theo những ý tốt của chúng ta đâu, đừng lý tưởng hóa. Bởi vì ta lý tưởng hóa cho nên ta liệt người này người khác vào loại xấu. Thực ra họ chỉ là sản phẩm khách quan của cuộc sống. Nếu ta biết nhìn họ một cách thực tế, không định kiến thì ta sẽ thấy họ đều có khả năng chế ngự cái phần xấu ở họ. Nhà văn đã nhờ người bếp Trung Hoa làm phát ngôn nhân cho ông. Lee nói với Cal: “Chú đã nhận ra rằng những điều thiêng liêng đễ bị tiêu diệt, trong khi điều ác lại cứ tồn tại và phát triển. Chú nghĩ rằng cơn thịnh nộ của Thượng đế đã trút lửa từ nồi kim loại nấu lỏng xuống hủy diệt hết để làm cho thanh khiết công trình nhỏ bé bằng bụi đất do ngài đã nặn ra... Mỗi người trong mỗi thế hệ đều được tầy uể bằng lửa... Không một người nào trên đời này tránh khỏi nguyên tắc đó nếu muốn trở nên một người hoàn toàn.” Mỗi người trong mỗi thế hệ đều cần được tẩy uế... cho nên cuộc sống yêu cầu mỗi người phải khoan dung, độ lượng với đồng loại của mình. Sự khoan dung độ lượng ấy là cần thiết, là yếu tố quyết định để mỗi người có thề vượt qua thử thách và hoàn thiện mình. Lee cầu xin ông Adam: “Ông Adam, xin ông hãy tha thứ cho Cal. Đừng để nó cô độc vì mặc cảm tội lỗi... Xin ông hãy giúp nó. Hãy cho nó một cơ hội. Hãy giải tỏa mặc cảm cho nó. Nhờ đó nó sẽ vượt được mọi thử thách, hãy giải thoát cho nó. Hãy tha thứ cho nó.” Đó là mấu chốt của vấn đề. Nhà văn bày tỏ một quan niệm sống rất nhân đạo, một chủ nghĩa nhân đạo không phải trên lý thuyết xa vời, đẹp thì có đẹp nhưng vô ích vì không thể vươn tới được, mà một chủnghĩa nhân đạothực tiễn, nói là thực đụng cũng được, phù hợp với kích thước, hoàn cảnh của con người. Phía đông vườn địa đànglà câu truyện của những người Mỹ, khoảng những năm từ nửa cuối thế kỉ trước đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác giả cho nó diễn ra ở chính quê hương mình. Tiểu thuyết được xuất bản năm 1952. Có thể là nhà văn đã thai nghén nó trong thời kì chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phải chăng cuộc “người tàn sát người” khủng khiếp ấy đã làm cho Steinbeck băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất của con người và cố tìm ra lời đáp. Phía đông vườn Địa đàng, đây là cuốn truyện vềcon người. Nhận vật trung tâm mang cái tên Adam, con người đầu tiên của nhân loại. Với nó nhà văn muốn đặt cơ sở cho một chủ nghĩa nhân đạo hữu hiệu. Steinbeck khẳng định niềm tin vào con người, vào cuộc sống, nhưng không phải một niềm tin lý tưởng hóa. Niềm tin ấy phải là cái cây đứng chắc, bắt rễ sâu vào miếng đất thực tế có cả đất màu mỡ lẫn sỏi đá, biết tránh sỏi đá, hút màu mỡ mà sinh trái ngọt. Trong phong trào đổi mới của ta hiện nayPhía đông vườn Địa đànglà cuốn sách nên đọc. 9-1988 Tuy xuất bản rất nhiều tác phẩm từ xã hội đến hoạt kê qua tình cảm, John Steinbeck tuyên bố rằng “Phía đông vườn Địa đàng”, là tác phẩm quan trọng nhất của ông. Quan điểm đó cũng được nhiều nhà phê bình đồng ý. Sau ngày xuất bản “East of Eden” cho đến khi ông được trao tặng giải Nobel về Văn Chương năm 1962, không có tác phẩm nào quan trọng hơn tác phẩm này. “East of Eden” sau khi xuất bản, đã được đạo diễn kiêm văn sĩ Elia Kazan quay thành phim và do James Dean, nam tài tử lừng danh quốc tế đóng vai chính cùng nữ tài tử Pier Angeli, mối thất vọng lớn của James Dean, khiến anh phóng xe đua hết tốc lực đến ngộ nạn tử thương; gây thương tiếc cho giới trẻ mộ điệu một dạo. Ở Mỹ, “East of Eden”, đã được tái bản gần bốn mươi lần và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.   Mời các bạn đón đọc Phía Đông Vườn Địa Đàng của tác giả John Steinbeck.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuyện Ở Nông Trại
Tên ebook: Chuyện ở nông trại (full prc, pdf, epub) Tên gốc: Animal Farm Tác giả: George Orwell Thể loại: 100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Người dịch: An Lý Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn Kích thước: 14 x 20.5 cm Số trang: 161 Ngày xuất bản: 01-03-2013 Chụp pic: Thanh Levy Type: starrats, Linhlinh Tạo ebook: Dâu Lê Nguồn: luv-ebook.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ebook Chuyện ở nông trại - George Orwell Giới thiệu: Câu chuyện bắt đầu ở Điền Trang của ông Jones. Vào một đêm trường sau khi ông chủ Jones đã ngủ mê mệt vì say rượu, các thú vật của Nông Trại Manor tụ họp trong nhà chứa cỏ để nghe con heo già Old Major kể về một giấc mộng kỳ lạ. Khởi đầu, bằng một giọng nói rõ ràng và đầy sức mạnh, Heo già Major kể lại sự hiểu biết của mình về bản chất của cuộc đời. Theo đó, các con vật được sinh ra phải làm việc cực nhọc, chịu đựng gian khổ, không được ăn no, tới khi không còn sức lao động nữa thì bị làm thịt. Chúng bị làm nô lệ cho loài người và đây là giới sinh vật chỉ tiêu thụ mà không sản xuất. Vì vậy chỉ còn một giải pháp: phải lật đổ loài người. Mọi con vật phải đoàn kết lại vì một mục đích chung: nổi dậy. Buổi họp bị gián đoạn một thời gian ngắn vì vài con chó chạy đi đuổi chuột, tiếp theo Heo già Major đề nghị bỏ phiếu quyết định loài chuột là đồng chí (comrades), kế tiếp mọi con vật đều tán thành một quyết định khác của Heo già Major như sau: Con người là Kẻ Thù. Các con vật vì vậy cần phải tránh xa các thói quen của con người: không xài nhà ở, giường nằm, quần áo, tiền bạc, mậu dịch, rượu. Và trên hết, Tất cả chúng ta đều là Bạn. Không con vật nào được giết một con vật khác. Mọi con vật đều bình đẳng. Heo già Major đã không thể mô tả hết giấc mộng tốt đẹp của nó cho các con vật khác nghe và nó cũng dạy cho các con vật kia hát bài ca Các thú vật của nước Anh mà nó học được trong giấc mộng. Nhờ hát đi hát lại bài ca cách mạng này, các con vật đều trở nên cuồng nhiệt. Không lâu sau đó, Heo già Major qua đời nhưng các con vật còn sống khác đều cần phải hiểu rõ nền Triết học Súc vật chủ nghĩa (Animalism), đều phải nổi dậy chống lại ông chủ Jones. Công tác giảng dạy và tổ chức quần chúng được giao phó cho các con heo bởi vì loài heo được coi là những con vật tinh khôn, khéo léo. Trong số các con vật này, có hai con tài giỏi nhất là Heo Snowball và Heo Napoleon. Ngoài ra còn có Heo Squealer, một kẻ ăn nói xuất sắc. Ngày tháng trôi dần qua, ông chủ trại Jones càng uống nhiều rượu mạnh và càng trễ nải việc chăm sóc nông trại. Rồi vào một buổi chiều kia, khi ông Jones quên cho súc vật ăn uống sau một ngày dài, các con vật phá cửa, xông vào máng ăn và giành ăn uống. Ông Jones và các người làm công bèn dùng roi, gậy, đánh đập các con vật. Các con vật đói ăn này không thể chịu đựng hơn được nữa. Chúng bèn tấn công các kẻ đàn áp. Vừa ngạc nhiên, vừa hoảng sợ, cả chủ lẫn tớ đều bị đuổi khỏi nông trại. Thật là bất ngờ. Cuộc nổi dậy đã thành công. Ông chủ Jones không còn nữa, Nông trại Manor từ nay thuộc về các súc vật. Niềm vui của tất cả súc vật thật là vô kể, chúng là chủ nhân và sẽ làm việc hòa thuận với nhau suốt đời... *** Review Trại Súc Vật: Câu chuyện không dành cho thiếu nhi Không dễ thương như tên gọi, đây là cuốn sách chắc chắn sẽ khiến bạn nổi da gà trong suốt quá trình đọc nó. Cảm nhận chung: Trước khi đọc Trại Súc Vật, tôi không biết gì về chế độ Xô Viết và Thế chiến thứ 2, càng không biết Stalin và Trotsky là ai. Dĩ nhiên, bạn cũng hoàn toàn có thể không cần biết gì về những cái tên kể trên để có thể “thấm” được tác phẩm, bởi Trại Súc Vật (Tên gốc Animal Farm) thật sự là một câu chuyện rất ngắn, rất dễ đọc, đúng như Orwell mong muốn là kể lại câu chuyện Liên Xô dưới thời Stalin một cách đơn giản nhất để bất cứ ai cũng có thể hiểu. Không cần biết bối cảnh ra đời của tác phẩm, bạn vẫn có thể hình dung ra một chế độ xã hội khởi đầu bằng những mộng tưởng tốt đẹp nhưng dần dần lại dẫm chân vào chính vũng lầy của chế độ cũ khi kẻ cầm quyền bắt đầu biến chất, kéo theo bạo lực, sự dối trá đáng ghê tởm, và sự đổi trắng thay đen hoàn hảo đến mức bóp méo hoàn toàn lịch sử (Tôi chợt nghĩ đến một chế độ XHCN với hàng trăm thứ thuế chồng chéo nhau thì có khác gì thời Pháp thuộc “sưu cao thuế nặng” nhỉ? Tinh vi hơn, chắc vậy.) Tuy nhiên, nó không phải là một cuốn sách lịch sử nặng nề, dày cộp và chán ngắt như thường thấy, mọi thứ dễ chịu nhưng mỉa mai hơn rất nhiều dưới hình bóng lợn, gà, dê, và ngựa. Animal Farm là một tác phẩm trào phúng chính trị kinh điển trong suốt thể kỷ 20, và cùng với tượng đài 1984, đã đưa tên tuổi nhà văn Geogre Orwell lên một tầm cao mới và trở thành một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng nhất lúc bấy giờ. Tóm tắt nội dung Câu chuyện kể về cuộc nổi dậy của bầy gia súc ở Điền Trang của lão Jones sau lời tiên tri của Thủ Lĩnh về một giấc mơ kỳ lạ. Đó là giấc mơ về một thế giới tự do nơi lũ súc vật được tận hưởng những thành quả lao động của mình, không phải chịu sự khổ sai áp bức của loài người. Điều này đã dẫn tới một “cuộc Khởi Nghĩa” tại Điền Trang và lũ súc vật đã giành thắng lợi. Điền Trang được đổi tên thành Trại Súc Vật. Chúng bắt đầu tự tổ chức ra một xã hội của riêng mình với hai giai cấp cơ bản nhất là người lao động- lũ gia súc và kẻ cầm quyền- những con lợn thịt, trong đó nổi bật nhất là Napoleon và Tuyết Tròn. Bảy Điều Răn đúc kết từ Súc Sinh Kinh (Animalism) được sơn hẳn lên tường như những quy tắc chung của xã hội mới mà tất cả các loài phải tuân theo để đảm bảo một cuộc sống bình đẳng, phồn thịnh và đặc biệt là để tránh lặp lại những tật xấu của con người. Tuy nhiên, câu chuyện chỉ thật sự bắt đầu khi Napoleon đứng lên trục xuất Tuyết Tròn với sự trợ giúp của lũ chó con mà nó đã bí mật thuần dưỡng thành chó săn và thay thế Tuyết Tròn làm thủ lĩnh. Một trật tự xã hội mới được thiết lập dưới cự cai trị của Lãnh tụ Napoleon, sự phân hóa giai cấp bắt đầu nhen nhóm giữa bầy lợn và những loài động vật khác. Napoleon đã từng bước vi phạm cả 7 điều răn dạy một cách tinh vi và khéo léo cùng với các cuộc thanh trừng đẫm máu để bảo vệ và củng cố quyền lực tuyệt đối của mình. Mọi thứ càng ngày càng đi xa quỹ đạo ban đầu mà cuộc Khởi Nghĩa hướng tới, lũ gia súc càng ngày càng nhận ra có điều gì đó không ổn, tuy nhiên không một sự chống trả nào được thực hiện. Trại Súc Vật trở lại là Điền Trang, và lũ lợn đã học cách đi bằng hai chân. Mọi thứ dường như quay trở về với điểm xuất phát như thời lão Jones, cuộc Khởi Nghĩa trở thành dĩ vãng xa vời. Câu chuyện kết thúc bằng bữa tiệc giữa loài người và loài lợn trong chính ngôi nhà của lão Jones, và lũ súc vật đáng thương đang nhòm vào từ bên ngoài khung cửa sổ không thể nào phân biệt nổi đâu là người và đâu là lợn. Cảm nhận về tác phẩm: Trước hết phải thừa nhận rằng đây là một tác phẩm chính trị gây tranh cãi ẩn chứa sau hình ảnh về lũ súc vật quen thuộc. Orwell đã biến một đoạn lịch sử kéo dài trong mệt mỏi của cả một đất nước thành một tác phẩm trào phúng đơn giản, cô đọng nhưng phản ánh chân thực nhất những gì đã diễn ra tại Liên Xô cũ dưới thời Stalin với đầy đủ các nhân vật và sự kiện lịch sử. Có khá nhiều ý kiến trái chiều xung quanh việc bối cảnh thật sự của Animal Farm là gì. Trong phần Lời tựa, Orwell đã nói rằng ông viết tác phẩm này như một lời cảnh báo châu Âu nói chung và nước Anh nói riêng về bản chất thật sự của Chế độ Chủ nghĩa Xã hội đang diễn ra tại Liên Xô, rằng ông “đã nghĩ đến việc vạch trần huyền thoại Xô Viết viết dưới dạng một câu chuyện dễ hiểu và dễ dịch sang các ngôn ngữ khác”. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng chính Orwell khẳng định tác phẩm của ông không ám chỉ bất cứ quốc gia hoặc hệ thống chính trị nào, những gì tác phẩm mô tả có thể xảy ra ở mọi nơi tại mọi quốc gia, trong mọi giai đoạn lịch sử. Và nó đang thật sự xảy ra, ngay tại Việt Nam, Trung Quốc, đặc biệt là Bắc Triều Tiên. Mặc dù chỉ còn sót lại ở một vài quốc gia trên thế giới, chế độ cộng sản ngày nay vẫn đang được vận hành theo một mô típ cũ kỹ, với cách thức xây dựng xã hội và cai trị con người không hề khác biệt gì so với một thế kỷ trước. Đó là lý do vì sao tôi đã rợn gai người khi đọc tác phẩm bởi nó phản ánh chính xác đến đáng sợ những gì đang diễn ra ngay tại Việt Nam, hơn 70 năm sau khi tác phẩm ra đời. Quay lại với câu chuyện, từng nhân vật sống trong Trại Súc Vật là những tượng trưng điển hình cho mỗi một lớp người hiện nay. Vai trò cầm quyền được giao cho lũ lợn- những động vật được xem là thông minh nhất trong nông trại. Đây là một hình mẫu vừa châm biếm vừa chính xác đến kinh ngạc. Không phải Chiến Sĩ- kẻ tượng trưng cho sức mạnh, hay con lừa già- tượng trưng cho sự uyên bác, mà chính sự thông minh, tham lam và tính dục của loài lợn mới là biểu tượng của quyền lực trong tác phẩm (cũng như ngoài đời thực). Không chỉ vậy, khi miêu tả những “kẻ cầm quyền” có thân hình béo ú, mặt mũi hồng hào, tôi e rằng không hình mẫu nào thích hợp hơn lũ lợn, sẽ thật miễn cưỡng để chấp nhận đếu đổi lại là chó, lừa hay bất kỳ con vật nào khác. Trong bầy lợn đó, có 4 con vật đáng để chú ý nhất là Thủ Lĩnh, Tuyết Tròn, Napoleon và Chỉ Điểm. Thủ Lĩnh là một con lợn già được cả nông trang trọng vọng vì tuổi đời và sự hiểu biết của mình. Chính nó đã đưa ra lời tiên tri về một cuộc cách mạng và đời sống sung túc, ấm no cho lũ súc vật. Đó là biểu tượng của những bậc học giả uyên bác ngày xưa, và nếu như áp dụng trong bối cảnh Liên Xô lúc bấy giờ, ta có thể hiểu rằng Thủ Lĩnh là hiện thân của Karl Marx và cũng có thể là lãnh tụ Lenin. Sau khi Lenin qua đời, người kế nhiệm tiếp theo đáng lẽ ra là Trotsky chứ không phải Stalin, nhưng Trotsky đã bị Stalin trục xuất khỏi Liên Xô và cuối cùng bị ám sát vào năm 1940, y hệt cách Napoleon đứng lên giành giật quyền lực từ Tuyết Tròn sau khi Thủ Lĩnh qua đời. Nếu như Tuyết Tròn ( Trotsky) là một nhà lãnh đạo có tài luôn lo nghĩ cho tập thể nhưng lại thiếu cảnh giác thì Napoleon (Stalin) chính là kẻ bất chấp tất cả để có được quyền lực và sẵn sàng dùng máu tươi để củng cố quyền lực đó. Điều này càng trở nên đúng đắn khi so sánh với thực trạng chính trị ngày nay, khi những kẻ lãnh đạo không chỉ cần có tài năng thực lực mà còn cần phải có quyền lực để củng cố vị trí của mình. Càng tìm hiểu kỹ về chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Trotsky, tôi càng nhận ra hai con lợn Tuyết Tròn và Napoleon đã đại diện xuất sắc đến kinh ngạc từ quan điểm chính trị đến số phận cho hai chính trị gia tên tuổi này, tuy nhiên sẽ là quá dài để nói về tất cả những điều đó trong một bài review sách, có lẽ tôi sẽ viết một bài riêng về những con lợn đặc biệt này vào một ngày khác, nếu các bạn mong muốn. Về các tuyến nhân vật khác trong chuyện, tôi không thể nào không thán phục sự tài tình của Orwell khi xây dựng Chỉ Điểm- cũng lại là một con lợn- thành một kẻ mồm loa, có khả năng lấp liếm và che dấu tất cả tội lỗi của Napoleon bằng thứ ngôn từ xảo trá và huyễn hoặc của mình. Đó là biểu tượng cho những nhân vật thêu dệt chính trị (Spin doctor) trong lịch sử, là những tờ báo lá cải đang hàng ngày che dấu sự thật chính trị sau những ngôn từ xa hoa và bóng bẩy. Những kẻ trung thành mù quáng như con ngựa Chiến Sĩ sẽ bị bóc lột, lợi dụng đến tận cùng và bị thải bỏ không thương tiếc ngay khi vừa hết giá trị lợi dụng. Hình ảnh lũ súc vật vừa gào thét vừa đuổi theo chiếc “xe cứu thương” đang đưa Chiến Sĩ đến bệnh viện nhưng thực chất lại là chiếc xe dẫn đến lò mổ là một trong những hình ảnh đắt giá của tác phẩm. Nó thể hiện sự độc tàn của “chế độ Napoleon” và sự ngờ nghệch đến đáng thương của lũ súc vật-những con vật yếu đuối, không biết quá vần A trong bảng chữ cái, luôn dễ dàng bị những lời dụ dỗ về một tương lai sung túc, tươi đẹp của Chỉ Điểm che mắt và cam chịu áp bức, khổ sai. Trong đám đông đó, con lừa già Benjamin hiện lên như tầng lớp trí thức từng trải và am hiểu sự đời. Trong lúc đám súc vật vẫn đang hân hoan trong niềm vui chiến thắng thì chỉ mình nó là dường như đã nhìn thấy một kết cục hoàn toàn khác, nó nhìn thấu từng lời dối trá của đám lợn, hiểu quá rõ bản chất xã hội nó đang sống, nhưng lại chọn cách im lặng và phó mặc mọi thứ diễn ra. Có lẽ nó đã sống đủ lâu và cam chịu đủ nhiều để hiểu rằng về bản chất, dù là người hay là lợn thì chế độ thống trị vẫn không khác là bao, và kẻ yếu thế vẫn muôn đời chịu áp bức và bóc lột, bằng cách này hay cách khác. Trại Súc Vật kết thúc lơ lửng trong hoang mang, không ai biết số phận của những con vật đó sẽ như thế nào sau cái ngày chúng kinh hoàng nhìn thấy đàn lợn đi bằng hai chân và tụ tập với bọn chủ điền trang trong căn nhà chính. Sự mỉa mai được đẩy lên tận cùng đến ám ảnh là hình ảnh lũ súc vật không thể phân biệt được đâu là lợn và đâu là người. Người, hay là lợn, về bản chất không có gì khác nhau một khi chúng trở thành những kẻ cai trị: “Nếu các bạn phải xử lý những loài vật hạ đẳng, thì chúng tôi phải xử lý những giai cấp hạ đẳng” (Lời Pilkington nói với Napoleon). Kết luận: Đây là tác phẩm chính trị suất sắc dành cho tất cả mọi người. Không có gì ngạc nhiên khi bản dịch Chuyện ở nông trại của Nhã Nam đã bị thu hồi một cách lặng lẽ sau khi xuất bản. Càng đọc bạn sẽ càng nhận ra những điểm tương đồng đang xảy ra ngay chính tại Việt Nam. Và hãy nhìn quanh đi, bạn có nhìn thấy con lợn nào không? Mời các bạn đón đọc Chuyện ở Nông trại của tác giả  George Orwell.  
Thuyết Phục - Jane Austen
Tên ebook: Thuyết Phục (full prc, pdf, epub) Tựa gốc: Persuasion Tác giả: Jane Austen Thể loại: 100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới, Tiểu thuyết, Tình cảm, Văn học phương Tây Dịch giả: Diệp Minh Tâm Số trang: 314 Kích thước: 13,5x20,5 cm Trọng lượng: 400 g Giá bìa: 53.000đ Năm xuất bản: Quý I/ năm 2010 Nhà xuất bản: Hội nhà văn Chụp ảnh: Minh Trang Đánh máy: Oanh khuat, Thùy Trang, Chút, Iris, giangcoi163, Phượng Xồ, Palour Hong An, Nguyen Van Ha, Đậu Linh, Huyền Trang, Linh Nguyen, Sophia, Kim Anh, Mai Ly, May&Nui. Soát lỗi văn bản: apple-socola QLDA & Chế bản ebook: giangcoi163 Nguồn: vhproject.hnsv.com Ebook: daotieuvu.blogspot.com Ebook Thuyết Phục - Jane Austen Giới thiệu: Thuyết Phục là một câu chuyện tình đầy lãng mạn giữa cơ Anne và anh Wentworth, họ yêu nhau từ khi anh còn nghèo, không có gia sản, chưa có sự nghiệp. Vì nghe theo lời Thuyết Phục của Phu nhân Russell, người đóng vai trò mẹ đỡ đầu của Cô, cho rằng Wentworth không xứng đáng, Anne cắt đứt quan hệ tình cảm với Wentworth.   Tám năm sau, Wentworth trở về trong tư cách một đại tá với chiến công hiển hách và một gia sản to lớn nhờ tiền thưởng trong cuộc chiến. Trong khi ấy, người thừa kế tài sản và vị tước vị của Ngài Nam tòng tước Walter là anh Elliot người đang có ý định cưới Anne. Liệu Anne có bị thuyết phục bởi viễn cảnh làm Phu nhân một tòng nam tước và cũng là bà chủ một gia sản to lớn hay Cô sẽ Thuyết phục anh Wentworth kiềm chế nỗi ghen tỵ và mặc cảm đối với anh Eliot và nối lại cuộc tình? Trong khi viết quyển Persuasion (tên tiếng Việt Thuyết Phục), JaneAusten đang ngã bệnh. Đây là tiểu thuyết cuối cùng hoàn chỉnh của JaneAusten, được phát hành năm 1818. Trong khi Pride and Prejudice (Kiêu hãnh và định kiến) thường được được xem là truyện nổi tiếng nhất của Jane Austen, một số người đọc cho biết họ thích nhất Persuasion trong số các tác phẩm của tác giả. Điều này cho thấy Persuasion có một chỗ đứng nhất định trong văn học.   Đôi nét về tác giả Jane Austen:   Jane Austen  (16/12/1775 - 18/7/1817) là một nhà văn nữ người Anh, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như Sense and Sensibility, Pride and Prejudice, Mansfield Park, Emma, Northanger Abbey, và Persuasion. Những bình phẩm về các vấn đề xã hội cùng văn phong tuyệt kỹ trong nghệ thuật dẫn chuyện và xây dựng những tình huống oái ăm đã đem tên tuổi của Austen vào trong số những nhà văn có nhiều ảnh hưởng nhất và được trọng vọng nhất trên văn đàn nước Anh. Những tác phẩm của bà lấy bối cảnh trong Thời kỳ Nhiếp chính (Regnecy Era) – từ năm1795 đến 1830, nổi bật với những đặc thù trong chính trị, văn hóa, và trang phục. Trong suốt cuộc đời mình, Janes Auten không bao giờ kết hôn. Nhưng những câu chuyện tình yêu lãng mạn phần nào được nhà văn khai thác từ chính cuộc tình của mình với Tom Lefroy. Mời các bạn đón đọc Thuyết Phục của tác giả  Jane Austen.  
Cuộc Đời của Pi - Yann Martel
Tên ebook: Cuộc đời của Pi (full prc, pdf, epub) Tên gốc: Life of Pi Tác giả: Yann Martel Thể loại:  100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới,  Lãng mạn, Tiểu thuyết, Tình cảm, Văn học phương Tây Dịch giả: Trịnh Lữ Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển: 500 grams Kích thước: 14.5 x 20.5 cm Số trang: 446 Ngày xuất bản: 10/2012 Nguồn: vnthuquan.net Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Cuộc Đời của Pi - Yann Martel Giới thiệu:  Cuộc Đời của Pi được nhà văn Yann Martel viết vào năm 1996 và được tặng giải thưởng Man Booker 2002. Ông sinh ra ở Tây Ba Nha nhưng hiện đang sống tại Motreal, Canada. "Cuốn sách là một câu chuyện hiện thực sống động về sự sống sót giữa biển khơi. Một mặt là chuyện thám hiểm, một minh chứng về việc hoàn cảnh cùng quẫn làm thay đổi con người như thế nào. Mặt khác là sự suy ngẫm sâu xa về vai trò của tôn giáo trong đời sống, về bản chất của động vật, thiên nhiên và con người. Ngôn ngữ của ông sống động và ấn tượng. Trí tưởng tượng rộng lớn, khả năng thuyết phục gần như không giới hạn. Yann Martel sẽ trở thành một trong những nhà văn Canada vĩ đại nhất" (The Hamilton Spectator).   -Yann Martel- “Điều kì diệu đầu tiên khắc vào lòng ta sâu sắc nhất; những điều kì diệu đến sau chỉ vừa khít vào cái ấn tượng của buổi ban đầu.” “Tại sao người ta di cư? Cái gì khiến họ nhổ rễ và rời bỏ tất cả những gì quen thuộc để đến một nơi xa tận bên kia chân trời? Tại sao phải trèo qua dãy thái sơn của các thủ tục giấy tờ khiến ta cảm thấy mình như một kẻ ăn mày? Tại sao phải dấn bước vào khu rừng ngoại lai nơi tất cả mọi thứ đều lạ lẫm, khó khăn và chưa từng thấy?” ◾Po giới thiệu Nếu không may bị tai nạn đắm tàu và bạn là người duy nhất sống sót trên thuyền cứu nạn cùng với một con hổ, bạn sẽ làm gì để tồn tại qua hàng trăm ngày lênh đênh trên biển? Yann Martel đã bắt đầu câu chuyện của mình như thế… Câu chuyện kể về cậu bé Pi – Piscine Molitor Patel – bị đắm tàu với con hổ Begal tên là Richard Parker trưởng thành. Đói lả, mệt mỏi, sợ hãi và cả tuyệt vọng, Pi đã tìm mọi cách để thoát ra khỏi bờ vực tăm tối đó - “Mọi việc ở đời có bao giờ diễn ra như ta vẫn tưởng, nhưng biết làm sao. Cuộc đời đem cho ta cái gì thì ta phải nhận cái đó và chỉ còn cách làm cho chúng tốt đẹp nhất mà thôi” Hãy nghe cậu bé nói: “Trong những giờ phút đó tôi đã cố tự nâng đỡ lấy mình. Tôi sẽ chạm vào vành khăn Hồi giáo tự quấn lấy bằng những mảnh quần áo còn sót lại và nói to “Này là chiếc mũ của Thượng đế!” Tôi sẽ vỗ tay vào chiếc quần của mình và nói to “Này là quần áo của Thượng đế!” Tôi sẽ chỉ sang Richard Parker và nói to “Này là con mèo của Thượng đế!” Tôi sẽ chỉ vào chiếc xuồng và nói to “Này là chiếc bè cứu nạn của Thượng đế!” Tôi sẽ xòe hai bàn tay thật rộng ra biển và nói to “Này là những dải đất mênh mông của Thượng đế!” Tôi sẽ chỉ lên trời và nói to “Này là lỗ nhĩ của Thượng đế!”  … Nhưng cái mũ của Thượng đế lúc nào cũng chực tuột ra. Áo quần của Thượng đế cứ rách nát dần. Con mèo của Thượng đế luôn là mối hiểm họa. Chiếc bè cứu nạn của Thượng đế là nhà tù. Dải đất mênh mông của Thượng đế đang giết dần giết mòn chính tôi. Và lỗ nhỉ của Thượng đế dường như không hề lắng nghe tôi. Và vì thế, Pi vẫn tiếp tục sống bằng cách bắt cá, bẫy rùa, hứng nước mưa, ngắm nhìn đại dương, cầu nguyện, tập tành huấn luyện con hổ Richard Parker bằng chiếc còi… và tự chế ngự nỗi sợ hãi của chính mình… Photobucket  “Có nhiều người trong số chúng ta chịu bỏ cuộc chỉ với một tiếng thở dài. Những người khác chiến đấu chút đỉnh, rồi mất hy vọng. Nhưng một số khác nữa, trong đó có tôi, thì không bao giờ bỏ cuộc. Chúng tôi chiến đấu và chiến đấu và chiến đấu. Chính tôi chiến đấu bất kể giá nào, bất kể những thất bại phải chịu, bất kể sự bất khả chiến thắng. Chúng tôi chiến đấu đến tận cùng. Đó không phải là vấn đề can đảm. Nó là một cái gì đó thuộc về bản chất, một tình trạng không có khả năng đầu hàng. Có thể cũng chỉ là sự ngu ngốc của lòng ham sống mà thôi”. Thế nhưng, sau khi dạt vào bờ biển Mexico sau 227 ngày cùng nhau trôi dạt trên ngọn sống, con hổ Richard Parker đã dửng dưng bỏ Pi kiệt sức ở mép nước để chạy vào rừng. Pi không trách móc chú hổ, chú đã lựa chọn cho mình con đường riêng để tồn tại. Chú hổ vừa là kẻ đã đe dọa mạng sống của Pi nhưng cũng đã làm cho Pi có động lực phải sống, phải tồn tại. Nếu không có chú, Pi đã chết vì cô đơn, vì tuyệt vọng. “Richard Parker, xong rồi. Chúng ta sống rồi. Mày có tin không? Tao không thể nói hết lòng tao biết ơn mày. Không có mày thì tao đã hỏng rồi. Tao muốn nói một cách chính thức rằng tao cảm ơn mày, Richard Parker ạ. Cảm ơn mày vì đã cứu mạng tao. Và bây giờ thì mày hãy đi đến nơi mày phải đến. Mày đã biết cái tự do trong khuôn khổ của một vườn thú gần hết cả cuộc đời; giờ đây, mày sẽ biết cái khuôn khổ tự do của một khu rừng. Tao chúc mày may mắn. Hãy đề phòng Con Người. Nó không phải là bạn mày. Nhưng tao hy vọng mày sẽ nhớ đến tao như một người bạn. Tao sẽ không bao giờ quên mày, đó là điều chắc chắn. Mày sẽ luôn ở bên tao, trong trái tim tao.” Cuộc đời của Pi khiến cho những viên ngọc vô hình tôi cóp nhặt được ở văn chương và cuộc đời va chạm nhau, khẳng định và chối bỏ nhau, tối đi và sáng lên bên cạnh nhau, xốn xang và trầm lắng  Dịch giả Trịnh Lữ Mời các bạn đón đọc Cuộc đời của Pi của tác giả Yann Martel.
Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời - Haruki Murakami
Tên ebook: Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời (full prc, pdf, epub) Tác giả: Haruki Murakami Thể loại: Tiểu thuyết, Tình cảm, Văn học Nhật bản Dịch giả: Cao Việt Dũng Nhà xuất bản: Hội nhà văn và công ty Nhã Nam Đánh máy: Wanderer, akhin, Becon53 Thực hiện ebook: Becon53 Nguồn: e-thuvien.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời Giới Thiệu:   Đó là câu chuyện đau đớn, khuấy động một cách ám ảnh. Một cuốn sách đẹp, gần như là mịn màng về những tầng sâu không thể dò đến của chúng ta. Ngay từ nhỏ, cậu bé Hajime đã nhận thức sự bối rối và mặc cảm thân phận "con một", chẳng giống những đứa bạn cùng trang lứa. Và sau này, người bạn gái thân nhất của Hajime, Shimamoto-san cũng thuộc diện "con một" hiếm hoi. Đến người con gái mà Hajime lao vào với niềm đam mê khoái lạc không thể kiểm soát được, cũng là "con một"... Khuấy động ngay từ đầu câu chuyện là một chàng trai quá nhạy cảm với xung quanh như thế. Năm 37 tuổi, Hajime đã có một cơ ngơi đáng để anh mỉm cười hài lòng, một công việc vừa kiếm ra tiền, vừa thỏa mãn sở thích cá nhân, một người vợ xinh đẹp mà anh hết lòng yêu mến, hai đứa con thơ lúc nào cũng quấn quít chân bố. Cũng như nhiều đàn ông khác ở lứa tuổi này, Hajime cũng có tình nhân, nhưng chỉ là thoáng qua mà không đọng lại chút dư vị nào. Và Hajime đã yêu, yêu một người chỉ duy nhất có cái tên và tình bạn thời quá khứ hơn 20 năm. Khó mà lý giải điều gì đã khiến một người đàn ông đầy chuẩn mực với gia đình và công việc như Hajime đã lần lượt cởi trói những gì đang bó buộc mình. Phải chăng đó là sự mong manh giữa một người phụ nữ quá mơ hồ đến cùng những lời hẹn "có lẽ", "có thể", "một khoảng thời gian nữa"? Phải chăng anh yêu cô như muốn tìm lại quá khứ của chính mình? Phải chăng anh đang muốn kiếm tìm lời lý giải về ranh giới giữa thực và hư? Rốt cuộc thì bao sốt ruột chờ trông mong mỏi của Hajime cũng được đền bù thoả đáng khi họ cùng trốn gia đình để đến với nhau, bất chấp chuyện gì xảy ra. Rốt cuộc thì cả hai lần đầu tiên được yêu nhau như người đàn ông yêu một người đàn bà. Rốt cuộc thì cả hai đã tìm ra sự hòa hợp hoàn hảo của cơ thể... Nhưng ngay cả ở chốn tưởng như đã là tận cùng đó, họ vẫn không thể đến được với nhau.   Không phải Hajime mà tất cả những người phụ nữ trong cuốn sách này đều bọc mình trong lớp màn bí ẩn. Đằng sau tình yêu trong veo của cô gái Izumi là một mối hận khiến cô trở thành vô cảm. Đằng sau cô vợ Yukiko ngọt ngào và xinh đẹp là một lần tự tử hụt cùng những nỗi đau dẳng dai bên mình. Còn đằng sau Shimamoto-san là một thứ gì mà không ai có thể chạm tới được... Có những gì?” có lẽ là câu hỏi mà cuốn sách nhỏ của Haruki Murakami đặt ra. Có những gì ở phía Nam biên giới, khi đó không chỉ là nước Mêxicô; có những gì ở phía Tây mặt trời, khi đó không chỉ là một chứng bệnh của những người nông dân Xibêri sống trong cảnh ngày đêm không phân cách; và có những gì trong những diễn tiến cuộc đời mỗi con người? Không chỉ cuộc đời ít chi tiết của Shimamoto-san mới gây băn khoăn, mà ngay cả ba giai đoạn được miêu tả hết sức rõ ràng của cuộc đời Hajime cũng không hoàn toàn làm thỏa mãn những người quen với những văn chương được tác giả chú tâm giải thích kỹ càng. Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời không yêu cầu người đọc diễn giải. Rất nhiều chi tiết trong đó thuộc về “tiểu sử ngoài đời” của Murakami, nhưng câu chuyện đơn giản được kể trên nền nhạc của Nat King Cole và Duke Ellington, với hương vị lạ lùng của những ly cocktail Daiquiri và Robin’s Nest có một khả năng đặc biệt: nó không cho phép mọi cách giải thích dễ dãi. Những câu hỏi liên tiếp hiện ra trong tâm trí Hajime, về ý nghĩa cuộc đời cũng như của từng trải nghiệm dù nhỏ đến đâu, sẽ dần truyền sang người đọc, và đến khi kết thúc, rất có thể sự hoang mang về ranh giới giữa thực và hư, chân thành và giả tạo, quy tắc và ngoại lệ sẽ là điều duy nhất mà người đọc “gặt hái” được. Điều này cũng không thật sự lạ, vì, đã trở thành quy luật, những câu trả lời thì qua đi, còn câu hỏi thì ở lại. Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời là cuốn tiểu thuyết chứa đựng nhiều nhất con người thật của Haruki Murakami, và là câu chuyện đơn giản nhất mà Murakami từng kể. Tuy vậy, đơn giản không có nghĩa là dễ hiểu, và một lối kể chuyện giản dị không loại bỏ những nỗ lực kín đáo trong việc thoát ra khỏi những lối đi văn chương đã cũ mòn.   "Sự kết nối" dễ thấy giữa Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời và những tác phẩm khác của Murakami có lẽ là năng lực đặc biệt của nhà văn Nhật Bản đối với cách tạo ra và xử lý cái bí ẩn. Không có mật độ dày đặc như trong  Biên niên ký chim vặn dây cót hay Kafka bên bờ biển, cái bí ẩn ở đây giống như những đoạn nhạc jazz biến tấu ngẫu hứng trên nền của những bản nhạc cũ, và chính là cái để lại dư vị lâu nhất cho người đọc.   Nhận xét:   "Cuốn tiểu thuyết cảm động và sâu sắc nhất của ông" – The Boston Globe "Mê hoặc... Đó là một câu chuyện đau đớn, khuấy động, xuất sắc một cách ám ảnh"  – The Baltimore Sun "Một cuốn sách đẹp, gần như là mịn màng về những tầng sâu không thể dò đến được của chúng ta"  – The Philadelphia Inquirer "Được viết bằng một ngôn ngữ thật trôi chảy, chuyển từ một thứ biệt ngữ tỉnh lẻ hoang vắng... thành một ngôn ngữ đầy chất thơ ca, một cách đáng kinh ngạc" – San Francisco Examiner & Chronicle "Ám ảnh và tự nhiên... Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời êm ái đưa người đọc từ những mối bận tâm thường nhật đến chứng tâm thần tiềm ẩn, như thể thách thức n iềm tin của mỗi chúng ta vào thế giới vật chất... chứa đựng những đoạn văn thuộc loại hay nhất của Murakami" – The New York Observer “Haruki Murakami áp dụng chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Nhật Bản đầy tài hoa của mình – tối giản, mềm mại, và lạ lùng một cách trong suốt – vào một câu chuyện đẹp về tình yêu tuổi thơ đã mất.” – New York Haruki Murakami sinh năm 1949 tại Kyoto. Ông lấy vợ là bạn học ở đại học, và hai người mở một câu lạc bộ nhạc jazz tại Tokyo mang tên Peter Cat. Thành công lớn của tiểu thuyết Rừng Na-uy (1987) đã khiến ông trở thành nhà văn danh tiếng của Nhật Bản. Ông ra nước ngoài sống và trở về vào năm 1995. Một số sách đã xuất bản của ông: Sau động đất, Nhảy nhảy nhảy, Xứ sở kỳ diệu vô tình và Nơi tận cùng của thế giới, Cuộc săn cừu hoang, Biên niên ký chim văn dây cót, Ngầm dưới đất Cuốn sách phi giả tưởng đầu tiên của ông), Người tình Sputnik, và Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời. Sách của ông đã được dịch ra mười sáu thứ tiếng và xuất bản khắp thế giới. Ông cũng là người đã dịch ra tiếng Nhật nhiều tác phẩm của F. Scott Fitzgerald, Truman Capote, John Irving và Raymond Carver.   Về tác giả: Nhà văn Haruki Murakami Haruki Murakami, nhà văn Nhật Bản lừng danh, là tác giả nhiều tiểu thuyết thuộc hàng bán chạy nhất thế giới đồng thời nhận được sự đánh giá cao của giới phê bình nghiêm túc, “hàn lâm”. Nhiều tác phẩm của ông đã dịch ra tiếng Việt và được người đọc Việt Nam ưa thích, như: - Rừng Na Uy, - 1Q84 -  Biên niên ký Chim vặn dây cót, - Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời, - Kafka bên bờ biển, - Người tình Sputnik, - Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, - Cuộc săn cừu hoang, - Nhảy nhảy nhảy… Mời các bạn đón đọc Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời của tác giả Haruki Murakami.