Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phong Tỏa

LỜI NÓI ĐẦU Vào năm 2005, khi phát hiện rằng tôi không thể nào tìm được một nhà xuất bản cho The Blackhouse (tạm dịch Ngôi Nhà Đen), hoặc cho quyển truyện đầu tiên trong loạt truyện Enzo của mình, Extraordinary People (tạm dịch Người Phi Thường), tôi đã bắt đầu nghiên cứu về một quyển tiểu thuyết trinh thám lấy bối cảnh là trận đại dịch cúm gia cầm. Vào lúc bấy giờ, các nhà khoa học đã dự đoán rằng cúm gia cầm, hay H5N1, có nhiều khả năng trở thành trận đại dịch kế tiếp. Trận dịch Tây Ban Nha năm 1918 đã giết chết ở nhiều nơi trên khắp thế giới khoảng từ hai mươi đến năm mươi triệu người, và cúm gia cầm - với tỉ lệ tử vong khoảng sáu mươi phần trăm hay cao hơn - đã được dự báo vào lúc ấy là sẽ vượt qua con số trên với một khoảng cách đáng kể. Đã tìm hiểu kỹ về cúm Tây Ban Nha trong lúc viết Snakehead(tạm dịch Cá lóc), một đầu sách trong loạt truyện trinh thám lấy bối cảnh Trung Quốc của tôi, cúm là một chủ đề tôi đã thành thạo. Nhưng sự thành thạo đó chẳng chuẩn bị cho tôi điều gì từ những tìm hiểu của tôi liên quan đến H5N1, cũng như những nỗi kinh hoàng mà một trận đại dịch cúm gia cầm có thể bộc phát trên thế giới. Tôi bắt đầu nghiên cứu cẩn thận về những hỗn loạn mà nó sẽ có thể gây ra, và xã hội như ta đang thấy có thể bị tan rã nhanh chóng đến mức nào. Tôi chọn London làm bối cảnh cho truyện của mình, nơi bắt đầu bùng phát cơn đại dịch, một thành phố bị phong tỏa hoàn toàn. Trên nền của bối cảnh đó, những mẩu xương của một đứa trẻ bị sát hại đã được phát hiện tại một công trường nơi các công nhân đang hối hả xây dựng một bệnh viện dã chiến. Viên thám tử (quen thuộc) của tôi, Jack MacNeil, được yêu cầu điều tra, ngay cả khi chính gia đình anh ta đã bị nhiễm virus. Suốt sáu tuần lễ ngắn ngủi miệt mài làm việc cả đêm, tôi đã viết xong quyển Phong tỏa. Quyển sách không hề được xuất bản. Các biên tập viên Anh Quốc trong thời điểm đó nghĩ rằng những điều mô tả của tôi về thành phố London bị vây hãm bởi kẻ thù vô hình H5N1 là không thực tế và chẳng bao giờ có thể xảy ra - bất kể thực tế là tất cả những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng điều đó hoàn toàn có thể. Thế rồi một nhà xuất bản Hoa Kỳ mua loạt truyện Enzo, và những truyện trinh thám về Trung Quốc của tôi lần đầu tiên được xuất bản ở Hợp chủng quốc. Sự tập trung của tôi chuyển sang bờ bên kia Đại Tây Dương, Phong tỏa đã được ký thác vào một thư mục trong tài khoản dịch vụ lưu trữ trực tuyến Dropbox của tôi, nơi tác phẩm vẫn còn đấy, đến tận bấy giờ. Khi viết những dòng chữ này, tôi đang ngồi bó gối tại nhà ở Pháp, bị cấm ra khỏi nhà trừ những trường hợp đặc biệt. Một con coronavirus mới, Covid-19, đang tàn phá thế giới này, và xã hội như ta biết đang nhanh chóng thay đổi. Ngay cả với một tỷ lệ tử vong chỉ là một phần của cúm gia cầm, các chính trị gia đang phải chiến đấu để kiểm soát sự hỗn loạn và sự hoảng hốt mà Covid-19 đang truyền đi trên toàn thế giới. Sự tương đồng với Phong tỏa thật đáng sợ. Vì vậy dường như đây là dịp mở lại thư mục Dropbox đầy bụi bặm và khai thác bản thảo cũ kỹ kia để chia sẻ với bạn đọc của tôi - dù chỉ để khiến tất cả chúng ta nhận ra thực sự mọi chuyện có thể tồi tệ đến mức nào. Peter May Pháp, 2020 *** Phong tỏa (tựa tiếng Anh: Lockdown) - tiểu thuyết vừa ra mắt bạn đọc VN của nhà văn trinh thám nổi tiếng Peter May. Cuốn sách không chỉ hấp dẫn bởi sự hồi hộp, phức tạp, nghẹt thở, mà còn 'nóng' bởi sự tương đồng đáng ngạc nhiên với câu chuyện dịch bệnh của thế kỷ. Hai chữ Phong tỏa có lẽ là từ khóa được quan tâm nhiều nhất trong hơn 1 năm qua, kể từ khi đại dịch Covid-19 xuất hiện từ Vũ Hán (Trung Quốc) và sau đó liên tiếp là những thành phố, những đất nước, những châu lục, cả thế giới xáo trộn, chia cắt, giãn cách, phong tỏa bởi Coronavirus. Thế nhưng, điều đáng ngạc nhiên là cuốn sách này được tác giả - nhà báo, biên kịch truyền hình, tiểu thuyết gia Peter May (sinh năm 1951 tại Glasgow, Scotland) viết nên từ năm 2005. Khởi nguồn từ hiện thực lúc bấy giờ là dịch cúm gia cầm, H5N1, có khả năng trở thành đại dịch, Peter May đã viết cuốn tiểu thuyết Phong tỏa (Lockdown) trong 6 tuần lễ, lấy London làm bối cảnh câu chuyện, nơi dịch bùng phát và thành phố bị phong tỏa hoàn toàn. Một bệnh viện dã chiến được hối hả xây dựng, và các công nhân phát hiện ra chiếc ba lô đựng xương người trước khi họ đổ bê tông lấp đầy nó như chôn vùi “giúp” một bí mật khủng khiếp. Cuộc điều tra được mở ra với viên thám tử MacNeil. Câu chuyện diễn tiến đầy hồi hộp, khi MacNeil cùng những cộng sự của anh, trong đó có Amy - nhà nhân chủng học tài giỏi bị khuyết tật sau một tai nạn giao thông, cũng là người tình của MacNeil; và sau này là bà Tiến sĩ Castelli, cùng đi sâu tìm hiểu vụ án. MacNeil cũng chính là nạn nhân khi con trai anh bị dịch cúm cướp mất sinh mạng. Amy đã dựng lên từ bộ xương chân dung bé gái Choy người Trung Quốc bị sát hại; trong khi cuộc điều tra liên tục bị theo dõi bởi Pinker, một tay thiện xạ, một kẻ bệnh hoạn, tay sai của những thế lực trong bóng tối... “Cơn bệnh diễn tiến thật nhanh thành ra một tình trạng suy giảm chức năng hô hấp với sự tiến triển không thể thay đổi được, được gọi là Adult, hay Hội chứng Suy giảm Hô hấp cấp tính”, “Bên kia căn phòng có tiếng hắt hơi khiến tất cả những cái đầu đều hướng về phía Zoe. Trong những ngày này, mọi người đều quá nhạy cảm ngay cả với tiếng sụt sịt nhẹ nhất”, “Chắc chắn một trăm phần trăm rằng đứa bé đã bị nhiễm một thứ vi-rút được biến đổi gien mạnh mẽ nhất”… Những câu văn trong Phong tỏa không khỏi khiến người đọc liên tưởng, rùng mình vì quá tương đồng với hiện thực chúng ta đang sống, khi cả thế giới đang phải gồng mình chống chọi với dịch Covid-19. Những nút thắt của câu chuyện dịch bệnh, trong đó có đan cài câu chuyện tình yêu của viên thanh tra với nữ nhân chủng học Amy được nhà văn đưa ra và giải quyết bằng sự tháo gỡ tài tình là điểm cuốn hút của tác phẩm. Peter May nổi danh là tiểu thuyết gia trinh thám với các tác phẩm đoạt nhiều giải thưởng ở nhiều quốc gia (Giải Barry Arwards của Mỹ cho tiểu thuyết trinh thám hay trong năm; Giải văn học quốc gia của Pháp CEZAM Prix Litteraire; giải ITV Crime Thriller Book Club Best Read of the Year của Anh…). Nhưng điều hấp dẫn của Phong tỏa không chỉ là ở tính trinh thám hồi hộp với từng chi tiết như một cuốn phim nghẹt thở diễn ra trước mắt chúng ta, mà chính là tính dự báo, linh cảm về đại dịch của thế giới. Những vấn đề nóng từ cuộc cạnh tranh lợi nhuận, khi những tiến sĩ hóa - sinh siêu việt, khi sự phát triển của y học - dược phẩm lại dẫn đến tội ác tàn phá, hủy diệt chính con người khiến bạn đọc suy tư. Cái chết của Tiến sĩ Roger Blume - người đứng đầu Lực lượng Đặc nhiệm Đại dịch FluKill của Stein-Frankcks, cũng là kẻ chủ mưu tội ác, là chiến thắng của cái thiện với cái ác, của chính nghĩa với phi nghĩa, của con người tiến bộ với những kẻ mang danh khoa học mà chống lại loài người. Những điều này khiến cuốn tiểu thuyết có độ sâu sắc, chinh phục bạn đọc. Được biết, tiểu thuyết Phong tỏa không được xuất bản vào năm nó ra đời - 2005, vì bị cho là bối cảnh “phi hiện thực”. Mãi đến năm 2020, khi nhà văn Peter May “ngồi bó gối tại nhà ở Pháp, bị cấm ra khỏi nhà trừ những trường hợp đặc biệt. Một con coronavirus mới, Covid-19, đang tàn phá thế giới này”, cuốn sách mới được chấp nhận, ra mắt độc giả. Trong Lời nói đầu, tác giả tự nhận xét “Sự tương đồng (bối cảnh tiểu thuyết - NV) với Phong tỏa thật đáng sợ”. Và từ nỗi sợ ấy, thông điệp mà tác phẩm đưa ra là sự cảnh báo con người hiện đại trong bước phát triển quá nhanh của thế kỷ 21 này, lại càng thấm thía hơn bao giờ. Chúng ta luôn cần những cuộc đấu tranh phân định trắng - đen, những việc làm đề cao giá trị đạo đức, nhân văn; và cả thái độ không khoan nhượng với cái ác, với những gì dẫn con người đến sự diệt vong. *** Dẫn truyện Tiếng thét của cô vang vọng khắp vùng bóng tối sau khi khó khăn lắm nó mới bật ra được khỏi cái cuống họng đã bị co thắt lại vì sợ hãi. Tiếng thét ấy, run rẩy theo nỗi kinh hoàng mà chính cô cảm nhận được, đủ làm cho lông tóc dựng ngược trên cánh tay hay vai gáy của bất kỳ người nào biết nghĩ đến người khác. Thế nhưng những bức tường dày của ngôi nhà cổ này bao bọc lấy nhau quanh nỗi sợ hãi của màn đêm để bảo đảm rằng chỉ những cái tai đã điếc trước cảnh ngộ của cô mới nghe được tiếng thét ấy. Y nguyền rủa, rít lên và khạc nhổ trong bóng tối, giận dữ và thất vọng. Cô có thể nghe tiếng y trên những bậc thang và biết rằng y muốn làm hại cô. Người đàn ông mà cô đã biết rõ và đã tin tưởng, kể cả đã thương yêu. Cô chìm vào trong sự mơ hồ của chính mình. Làm sao mà điều đó có thể xảy ra được? Cô nhớ lại sự đụng chạm nhạt nhẽo khi bàn tay y đặt lên vầng trán nóng bỏng của cô suốt những ngày dài bị hành hạ bởi cơn bệnh. Trong ánh mắt của y cũng có chút thương hại. Nhưng ánh mắt ấy giờ đây cháy bỏng sự giận dữ và hiểm độc. Cô nín thở. Y đã leo lên một cầu thang khác. Y nghĩ cô vẫn còn trên tầng thượng và cô lén rời khỏi phòng đọc sách để thấy được cái bóng của y trên các bậc thang khi y tiến lên đến tầng áp mái. Thế rồi cô quay lại và vội vàng đi xuống, đôi chân nhỏ nhắn rón rén bước trên tấm thảm dày tới chỗ ánh sáng lọt qua cửa sổ lắp kính màu chiếu xuống sàn của gian phòng chính. Những ngón tay tuyệt vọng nắm lấy và xoay tay nắm cửa. Nhưng cửa ra vào đã bị khóa. Không có lối thoát. Cô lạnh cóng cả người khi nghe tiếng y gầm rống từ trên tầng thượng của tòa nhà. Y biết rằng y đã mất cô. Trong một khoảnh khắc, cô ngần ngừ. Những bậc đá đi xuống tầng hầm bắt đầu từ phòng tắm bên dưới cầu thang. Nhưng cô biết nếu đi xuống đấy thì cô sẽ bị mắc kẹt. Ở đó chỉ có một cái máng trượt cũ kỹ dùng để chuyển than dẫn đến một khoảng hành lang giữa những căn nhà; và mặc dù có thân hình nhỏ nhắn, cô cũng không đủ nhỏ bé để lách người qua khoảng trống ấy. Cả tòa nhà rung chuyển với những bước chân của y trên các bậc thang và cô quay lại trong hoảng loạn chỉ để thấy rằng mình phải đương đầu với một bé gái. Một con ma trong một bộ váy ngủ màu trắng mái tóc đen cắt ngắn, cặp mắt hình trái hạnh đào mở to và đen nhánh, gương mặt bệt phấn. Hình ảnh của đứa trẻ gây nên nỗi sợ hãi xuyên qua người cô như những lưỡi nhọn của con dao vẫn chờ đợi cô, trước khi cô nhận ra rằng chẳng qua đó là cô đang phản ứng với sự suy nghĩ của chính mình mà thôi. Sự sợ hãi đã làm cho cô không thể nhận biết đúng sự vật. “Choy!”, cô nghe y gầm lên trong khu vực cầu thang, và chợt nhớ đến người phụ nữ đầu tiên đã hướng dẫn y và cô đi thăm toàn bộ ngôi nhà này vài tháng trước. Bảng điều khiển đặt âm tường của phòng ăn rộng lớn ở ngay trước mặt. Một căn phòng mà họ chưa hề sử dụng. Một căn phòng luôn sôi sục trong một bóng tối ngột ngạt, ánh mặt trời lúc ban ngày và những ngọn đèn lần lượt chiếu qua những vết tưa ra quanh mép những bức rèm. Nhân viên hãng bất động sản đã dời chỗ một chiếc bàn nhỏ để dỡ bỏ bảng điều khiển và để lộ một cửa ra vào nằm phía sau. Một cánh cửa cũ kỹ sơn trắng với cái tay nắm tròn mà cô đã mở vào vùng bóng tối phía bên kia. Vùng bóng tối ẩm ướt, lạnh lẽo, bụi bặm của một căn phòng gạch nhỏ, nơi từng có một gia đình gồm sáu người đã thu mình trong màn đen để trốn tránh những cuộc thả bom. Choy không hình dung được bà chủ nhà có ý nói về điều gì khi bà dùng từ “blitz” nhưng cô đã được nghe nói rằng khi những chiếc máy bay thả bom của Đức hoàn tất cuộc tấn công London, chúng chuyển hướng bay về phía Nam và trút tất cả lượng bom dư trong khoang tàu xuống khu vực bất hạnh này. Rồi khi còi báo động vang lên, dân chúng nhốn nháo như bầy chuột chạy vội vào “những chiếc bẫy chuột bằng gạch” của họ để nghe ngóng, để thấp thỏm chờ đợi và để cầu nguyện trong tăm tối. Choy lại nghe y gào thét gọi tên cô lần nữa, hệt như tiếng còi báo động của hơn nửa thế kỷ trước, tiếng thét khiến cô nháo nhác chạy vội vào căn phòng phía trước. Vội vàng, cô đẩy trượt chiếc bàn nhỏ qua một bên và dò dẫm để tháo bớt những vật ẩn giấu trên tấm bảng điều khiển màu xanh sẫm. Tấm bảng quá nặng, đôi bàn tay nhỏ bé của cô phải vật lộn để nậy cho nó rời ra. Cô có thể nghe thấy tiếng y trên đầu cầu thang tầng trên, thế rồi có tiếng bước chân của y trong phòng ngủ chính ở ngay phía trên. Cô kéo lệch tấm bảng điều khiển qua một bên rồi đẩy mạnh cánh cửa. Nó mở vào một vùng tối om om, một luồng không khí lạnh lẽo và ẩm thấp bao bọc khắp người cô. Cô bước hẳn vào bên trong rồi kéo tấm bảng điều khiển trở về chỗ cũ. Từ phía trong, cô không thể nào gắn chặt nó lại mà chỉ cầu nguyện để y đừng phát giác. Cô đóng cửa lại, mọi ánh sáng đều tắt ngấm. Cô ngồi xổm trên mặt đất rồi vòng cả hai tay ôm lấy đầu gối cho có chút hơi ấm. Chung quanh cô thật lạnh, thật tối tăm và thật cùng quẫn. Không hề có lối thoát. Cô không thể tưởng tượng làm thế nào mà sáu con người có thể ép chặt vào nhau trong khoảng không gian này. Thật là vượt ngoài sức tưởng tượng điên rồ nhất của cô để biết người ta có cảm giác như thế nào khi nghe tiếng bom rơi khắp chung quanh rồi tự hỏi liệu mình có phải là người kế tiếp hay không. Thế nhưng cô không cần tưởng tượng để hình dung về người đàn ông mà giờ đây cô đang nghe tiếng bước chân trên những bậc thang hay ánh sáng lấp lánh trên lưỡi dao mà cô biết chắc y đang mang theo. Nhà nuôi trẻ mồ côi ở Quảng Đông là một ký ức xa vời, đứa trẻ lúc ấy là cô, một con người khác trong một cuộc đời khác. Chỉ trong sáu tháng mà quá nhiều điều đã thay đổi, thế nhưng dường như vẫn có một điều gì đó vĩnh cửu, và cuộc đời khác kia chẳng qua chỉ là cái bóng của một giấc mộng. Cô thở hụt hơi, gấp gáp và ồn ào một cách bất thường. Nhưng hơn cả điều đó, cô có thể nghe thấy y đang có mặt ở sảnh trước. Những bước chân nặng nề trên sàn gỗ. Sự giận dữ trong giọng nói khi y gọi tên cô lần nữa. Rồi lại im lặng. Sự im lặng khiến từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác dường như kéo dài hàng nhiều giờ đồng hồ. Cô vội nín thở, càng lâu càng tốt, vì cô tin chắc rằng y sẽ nghe thấy, vẫn là sự im lặng. Thế rồi cô thở hổn hển khi nghe tiếng vỡ của tấm bảng điều khiển ở mặt ngoài của cánh cửa. Tim cô đập mạnh đến nỗi cô có cảm tưởng ai đang đấm vào ngực mình. Tay nắm cửa xoay. Cô ép sát người vào tường khi cánh cửa từ từ mở ra. Ánh sáng từ gian sảnh hắt bóng y lên khuôn cửa sau lưng y. Cô có thể thấy hơi thở của cô, đọng thành sương trong làn không khí lạnh, được rọi vào bởi cùng luồng ánh sáng ấy. Y từ từ cúi xuống rồi vươn tay về phía cô. Cô không thể nhìn thấy mặt y nhưng có thể nghe được tiếng cười mỉm của y. “Hãy lại đây với ba nào”, y dịu dàng lên tiếng. Mời các bạn mượn đọc sách Phong Tỏa của tác giả Peter May & Nguyễn Văn Nhật (dịch) & Nguyễn Thuần Phác (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mafia - Tên Gọi Đầy Bí Ẩn - V. P. Borovicka
Nghe đến Mafia, người ta thường nghĩ ngay tới những vụ giết người rùng rợn, những trận đấu súng đẫm máu, những vụ cướp nhà băng ly kỳ... Nhưng ai biết Mafia ngày nay còn là một chính phủ vô hình với quyền lực vô hạn, gồm những chủ ngân hàng giàu sụ, những giám đốc công ty kếch xù, những chính khách bệ vệ, chẳng những đã từng ăn cánh với CIA (Cục tình báo trung ương Mỹ) nhúng tay vào nhiều vụ đảo chính khủng bố tày đình, mà còn có thế lực lớn, thừa sức đưa lên hay hạ bệ được cả tổng thống Hoa Kỳ. Vậy tổ chức này xuất phát từ đâu và vì sao nó mang tên Mafia? Hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhất trí quê hương của Mafia là Sicilie, một hòn đảo lớn phía nam nước Ý, nằm ở đường giao nhau giữa các châu Âu, Á, Phi. Trong quá khứ cũng như hiện tại, Sicilie vẫn là một vị trí chiến lược quan trọng, nơi giành giật giữa các thế lực đối lập. Những mỏm đá trên đảo đã từng in dấu vó ngựa của các danh tướng như Caesar, Alexandros Đại đế, Hannibal... Trong chiến tranh thế giới thứ hai, đây là nơi đổ bộ của quân Anh, Mỹ, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng dẫn đến chiến thắng hoàn toàn của phe Đồng minh, ở một vị trí lịch sử như vậy, nhưng Sicilie lại phải chịu một khí hậu vô cùng khắc nghiệt, đất đai lại quá ư cằn cỗi. Đời này qua đời khác, gió và sóng biển bào đi hết những gì màu mỡ, chỉ để lại những mỏm đá hình thù quái dị. Dưới nước thì toàn những bạch tuộc và mực đen, trên bờ thì đầy rẫy những tổ chim xơ xác như muốn điểm thêm vẻ hoang vu trên đảo. Người dân ở đây sống trong những ngôi nhà nhỏ bằng đá dựng và chìm lấp trong đá. Mùa đông lạnh buốt xương mùa hè lại như rang trong chảo. Cuộc đời quá vất vả không cho phép họ có thì giờ nghĩ đến ngày mai. Phải chăng vì thế mà động từ trong tiếng Sicilie không có thì tương lai? Sicilie miền đất vô hy vọng? Cùng cực và đói rách, nhưng người dân Sicilie vẫn yêu tha thiết bầu trời trong xanh của mình. Khi gót giày quân viễn chinh Pháp đặt lên đảo, họ đã vùng lên chống cự quyết liệt. Vì độc lập dân tộc, các chiến sĩ ngã xuống trong tiếng hô cảm tử: Morta Alla Francia Italia Anela (Giết giặc Pháp, tự do cho nước Ý). Phải chăng Mafia là tên gọi tắt gồm những chữ đầu trong khẩu hiệu trên? Có giả thiết cho rằng tổ chức Mafia xuất hiện sớm hơn từ năm 1670. Lúc đó ở Palermo nảy sinh tổ chức Beati Paoli, thường gọi là “Hội những quý tộc văn minh”. Những cuộc họp bí mật của hội thường được triệu tập trong các hang đá. Từ những thế kỷ trước, Mafia là tên gọi các mỏm đá ở gần Trapani thuộc Sicilie. Tên gọi Mafia bắt nguồn từ đây chăng? Các nhà ngôn ngữ học cũng đã đưa ra một số giả thiết. Mafia trong ngôn ngữ Toskana nghĩa là đói khổ. Mauvais trong tiếng Pháp có nghĩa là xấu, tồi. Còn trong tiếng Ả Rập Mahias là thằng lừa đảo, Magtaa là hang động. Cũng trong tiếng Ả Rập, Mufah còn có nghĩa là sức mạnh tự vệ. Buổi đầu, Mafia là tổ chức tự vệ của những người nghèo chống lại áp bức, bất công. Vậy tên gọi Mafia có liên quan gì đến các từ trên hay không? Dẫu từng ra đời như một tổ chức chính nghĩa nhằm bảo vệ quyền lợi của dân nghèo đi nữa, thì ngày nay Mafia đã hoàn toàn biến chất và trở thành một hội kín khổng lồ, chuyên gây tội ác, có quyền lực vô bờ, có nguồn thu nhập lớn có thể sánh với các tổ hợp tư bản kếch xù như General Motors, Standard Oil, IBM, Texaco, General Electric, Chrysler và Ford. Nó có mặt trong hầu hết các lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, du lịch, nghệ thuật... Nó nhúng tay vào chính trị, hợp tác với CIA, tổ chức ám sát Tổng Thống, mua chuộc quốc hội... Vậy mảnh đất và không khí nào đã nuôi dưỡng ”cây Mafia xanh tươi” như vậy? Cuốn sách bạn đang cầm trong tay sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi đó. Là một nhà nghiên cứu nghiêm túc, tác giả đã từng đến tận các mỏm đá Sicilie tìm hiểu cội nguồn Mafia, từng vượt qua sa mạc nóng bỏng tìm đến thủ đô Mafia Las Vegas để tận mắt chứng kiến bao thủ đoạn kinh doanh của các “bố già”. Bằng ngòi bút sinh động, hấp dẫn, ông đã vẽ nên một bức tranh chân thật về “thế giới ngầm Hoa Kỳ”; từ những thủ đoạn giết người tàn bạo đến các mánh khoé kinh doanh tinh vi, từ sự cấu kết bí mật với CIA trong các hành động lật đổ, ám sát, bắt cóc đến sự liên minh ma quỷ với giới chính khách Hoa Kỳ, từ những cuộc tình kim tiền với các nghệ sĩ danh tiếng đến các phi vụ béo bở với những cha cố trong tòa thánh Vatican, từ vụ ám sát anh em Kennedy đến kế hoạch mưu sát Fidel Castro... Phải chăng chính phủ vô hình Mafia là anh em sinh đôi với chính phủ phản động, hiếu chiến Hoa Kỳ, và xã hội “thế giới ngầm” là hình ảnh thu nhỏ cửa thế giới tư bản, nơi thịnh hành quy luật: Catch as catch can (cướp giật đến mức tối đa), bất chấp mọi đạo lý, tình người? Sinh ngày 8-9-1920 ở Praha, V.P Borovicka trải qua thời thơ ấu ở Praha và Trencin, nơi ông học tiểu học và trung học phổ thông. Tốt nghiệp trung học năm 1938, ông học đại học thương nghiệp ở Praha cho tới khi trường bị bọn phát xít đóng cửa. Từ năm 1939 đến năm 1941, ông làm việc trong một hiệu thuốc, nhưng sau đó ông bị bắt sang Đức lao động khổ sai cho tới hết chiến tranh trở về Tổ quốc, chàng trai Borovicka hăm hở cùng mọi người góp sức hàn gắn vết thương chiến tranh và góp phần xây dựng xã hội mới trên đất nước Tiệp Khắc (cộng hòa Czech) tươi đẹp. Từ năm 1962 đến năm 1964, ông làm biên tập viên cho nhật báo “Dân chủ nhân dân”. Từ năm 1964 trở đi, ông hoàn toàn chuyên tâm viết văn. Ông du lịch khắp năm châu và đặc biệt lưu tâm đến việc thu nhập tư liệu cho các cuốn sách của mình. Tác phẩm đầu tay của ông là “Kết thúc đảo Oscar”, thuộc thể loại khoa học viễn tưởng, xuất bản năm 1959, đã cho thấy lĩnh vực quan tâm của tác giả. Các đề tài chính trị, thời sự được thể hiện dưới dạng tiểu thuyết viễn tưởng, tiểu thuyết trinh thám, trung thành với lịch sử nhưng không kém phần hấp dẫn. Ông quan tâm trước hết đến các hoạt động tình báo và loại chiến tranh vô hình này (Các bậc thầy tình báo những vụ ám sát xoay chuyển thế giới Watergate). Ông còn viết các tiểu thuyết tâm lý như “Tôi, anh hay Juan”, “Người yêu từ đỉnh núi Cáo”. Trí tưởng tượng phong phú đã được ông sử dụng trong các sách viết cho trẻ em. Trước hết phải kể đến tiểu thuyết viễn tưởng nổi tiếng “Cô bé từ trên trời rơi xuống”, kể về cuộc du lịch của một em bé từ hành tinh xa đến và thành phố kỳ diệu, nói về một xã hội lý tưởng. Theo hai cuốn sách này, tác giả đã viết kịch bản cho một bộ phim cùng tên mà truyền hình Việt Nam đã cho phát nhiều lần. Hai truyện thiếu nhi khác là “Cái bớt” và “Safari” cũng được quay thành phim vô tuyến truyền hình, gồm 7 và 13 tập. Borovicka còn là tác giả kịch bản “Anh tôi có người em tuyệt vời”, đạt huy chương bạc trong đại hội liên hoan phim lần thứ 5 ở Moskva. Phim này cũng đã ra mắt khán giả Việt Nam (Tác phẩm của V.P.Borovicka gồm có: Kết thúc đảo Oscar (1959), Cô bé từ trên trời rơi xuống (1968), Thành phố kỳ diệu (1964), Tôi, anh hay Juan (1964), Vụ giết nhà tiên tri Hanissen (1968), Các bậc thầy tình báo (1969-1974-1984), Các nữ tình báo thế kỷ (1970-1973), Bí mật tình báo (1969), Những phát súng phục kích (1976), Watergate (1976), Người yêu từ đỉnh núi Cáo (1973), Thám tử từ Tel Aviv (1979), Mật mã tuyệt mật (1980), Mafia (1985), Thế kỷ chó sói (1985). ***   Họ xả hơi đến hai giờ khuya. Sau đó họ quay về apartment đợi ở khách sạn Palace. Họ đang vui vẻ nên tài xế taxi được một khoản puốc boa quá mức tưởng tượng và bác thường trực được họ mời một chiếc bánh kem loại một, không dưới năm dollar. Họ cởi áo vét, tháo cravat, cởi giày. Người cao lớn trẻ và gầy hơn đổ rượu Whisky Chivas Regal ra tay. − Có phải bia đâu? - người nhiều tuổi hơn mỉm cười ngạc nhiên hỏi. − Whisky là thứ nước đa năng. Đặc biệt loại Chivas Regal cất cách đây 5 năm. Thứ này bác sĩ cho phép xài cả vào những ngày ăn chay. Một cú áp phe, mà có lẽ ngay cả đại bố già Mafia cũng chỉ gặp một lần trong đời đang chờ họ, Lucky Luciano không dám mơ tới một cơ hội như vậy, còn Vito Genovese thì không thể tưởng tượng ra một mánh siêu đến thế. Người kế vị chúng là Matteo di Lorenzo, biệt hiệu “bác Matty”, đang có cơ hội trong tầm tay. Y uống cạn cốc, nhấm nháp miệng và bằng một cử chỉ điệu bộ đặt cốc xuống bàn. − Những một tỉ dollar. Winnie! - y sung sướng như thể đang cầm các xấp bạc trong tay. − Không đúng, bác Matty. Bác đừng có phóng đại. Chính xác là 950 triệu. − Thôi mà. Winnie! - bố già di Lorenzo cười. - Cũng du di 50 triệu chứ. Y cúi xuống rót rượu và châm thuốc, sau đó nhìn lên trần nhà và như thể đọc những tên gọi trong ánh lấp lánh của chiếc đèn chùm phalê, y chậm rãi nói: − Occidental Petroleum Corporation, Pan American World Airways, American Telephone and Telegraph Company... − Bác đừng quên General Electric Corporation, National Aviation, Unishops, California Computer Corporation, Coca Cola Bottling, tóm lại là tất cả những gì tên tuổi, những gì đó có giá. Nhưng, thưa bác Matty ai đã đưa quả này cho bác? Winnie! Gã trẻ hơn đứng dậy, nhảy lên xiêu vẹo sau mười cốc rượu trắng bavor và hai ly Whisky, gã vỗ ngực kêu to như kẻ truyền đạo. − Nếu bác không biết, bác Matty, thì hãy nghe đây. Winnie là cả kho báu. Winnie kiếm cho bác bạch phiến, súng lục, bazoka và thuốc nổ đủ loại, xe tăng ca nông và con ma, tên lửa điều khiển, tất cả đều do một tay Winnie lo liệu, và dollar giả, cổ phần giả, giấy quý giả, bác muốn bao nhiêu cũng có. Đây, chỉ để bác biết, bác đã chọn một người đồng sự như thế nào thưa sếp. Winnie trẻ hơn, khoảng 48 tuổi, có tên Ý là Wincent Rizzo và gã cũng có điệu bộ như dân Ý. Rizzo mặc đồ mốt mới nhất, may ở nhà may mốt nhất, gã chỉ đeo có một chiếc nhẫn duy nhất, cố gắng nhũn nhặn như một viên chức bình thường. Mới thấy gã không ai nghĩ đây là một gangster ranh ma quỷ quyệt, từ nhỏ đã là thành viên Mafia New York, thuộc hạ của bố già di Lorenzo. Gã lớn lên trên đường phố Lower East Side ở New York và thành thục nghề gangster vào loại số một. Bây giờ gã ngồi trên xa lông đệm trong apartment sang nhất của khách sạn Palace ở Muenchen [101], vươn vai dạng cẳng trước sếp và nghĩ rằng trên đời không ai hơn gã. Rizzo không mảy may biết rằng ở phòng bên cạnh, vài cảnh sát Muenchen và hai thám tử từ New York đang nghe và ghi âm từng lời ba hoa của gã, bởi vì các phương tiện nghe lén đã được cài đặt giữa các lá pha lê lấp lánh của chiếc đèn chùm Czech từ hôm trước. Cảnh sát Muenchen được thanh tra cảnh sát Joe Coffey từ New York thông báo về hai tên Mafia ranh ma đang chuẩn bị một cú hattrik [102] trong đời. Khác với các đồng nghiệp Đức, Coffey đã theo dõi hai thầy tớ Mafia từ lâu và biết rõ địch thủ của mình. Giờ đây Coffey đang chăm chú nghe trong tư thế nửa ngồi nửa nằm, còn hai tên Mafia thì chắc chắn rằng không ai biết chúng đang mưu đồ gì. Mafia thay đổi và các bố già cũng thay đổi. Trong những năm 70 và 80, nó không còn là “Hội những kẻ giết người chuyên nghiệp” mà là một trust quốc tế tổ chức cao với doanh thu hàng năm 120 tỉ dollar và có lĩnh vực kinh doanh rộng lớn. Các trò chơi sát phạt trong các casino trên toàn thế giới, buôn bán ma túy ngày một phát triển, mua bán các cổ phiếu giả và ăn trộm, đó là các lĩnh vực kinh doanh chính của tổ chức tội ác, có trụ sở ở khắp nơi trên thế giới. Các siêu Monopole thế giới, các ngân hàng quốc tế, các con xóc tư bản, các hiệp hội công nghiệp chiến tranh, cả thẩy đều thay đổi chiến thuật và cả phương tiện. Để thu được lợi nhuận cao nhất, các chủ tịch những hiệp hội thế giới này không từ bất kỳ thủ đoạn nào. Mafia có thể thích ứng dễ dàng với luật chơi mới. Các con bạc ở đây ăn thua những món tiền khổng lồ và nhiều khi cả tính mạng đối phương hay kẻ cạnh tranh. ... Mời các bạn đón đọc Mafia - Tên Gọi Đầy Bí Ẩn của tác giả V. P. Borovicka.
Khắc Khoải Đợi Chờ - Dorothy Eden
Tính nhẹ dạ của Willa Bedford đôi lúc đã đưa nàng đến những phiền toái trong cuộc sống. Tuy nhiên nàng thoát ra khỏi tình trạng đó dễ dàng cũng như khi nàng chuốc lấy nó vậy. Một ngày kia không ngờ cuộc phiêu lưu lý thú bỗng trở thành một cơn ác mộng. Trong trạng thái thất vọng, nàng đã viết thư cầu cứu đến người chị họ của nàng, Grace Atherton. Nhưng khi Grace đến, Willa đã biến mất. Trong lúc tìm cách phá tan sự bí mật quanh việc mất tích của Willa, Grace đã rơi vào một thế giới hung hãn và lạ lùng, nơi đó sự tai tiếng là một vũ khí nguy hiểm và sự thật là điều không ai dám nói đến. *** Grace kể cho cảnh sát nghe về những gì cô y tá đã cho nàng biết. Nghe xong, một người cảnh sát liền nhấc máy điện thoại gắn trong xe nói gì với ai đó. Grace không hiểu là anh nói chuyện gì, ngoài tiếng Goteborg mà Grace nghĩ là nơi Polsen đang có mặt, nhưng họ trả lời là không phải. Một chuyện quan trọng khác. Giờ này những đám mây đen chùng xuống, khu rừng trông âm u hơn lúc nào hết. Ngôi nhà tranh quen thuộc thoảng một mùi gì khó chịu. Lò sưởi được dọn dẹp sạch sẽ nhưng một đống gì đấy được vun lại cẩn thận, trên phủ một tờ báo. Một chiếc va-li bỏ giữa sàn nhà. Một người cảnh sát mở chiếc va-li và Grace hoảng hốt đưa tay che miệng để khỏi thốt lên tiếng kêu sợ hãi. Cho dù nàng không nhận ra được chiếc áo sọc màu be Willa hay mặc chăng nữa, tin nàng cũng nhận ra ngay ai là chủ nhân những bộ quần áo kia. ... Mời các bạn đón đọc Khắc Khoải Đợi Chờ của tác giả Dorothy Eden.
Nhân Chứng Bảy Tuổi - Linda Barnes
Nhà thể dục YWCA ở đại lộ Hơnlinhtơn ở trong một phường tệ nhất thành phố. Nó có những người láng giềng nổi tiếng như nhà hát giao hưởng, nhà thờ Môdơ, trường đại học âm nhạc New England và trường đại học Nơritxtơn. Vậy đây là một chốn đầy rẫy những người say mê âm nhạc, những môn đệ của chủ nghĩa khoa học và nói chung là sinh viên. Tôi có có một niềm vui nho nhỏ nên để xe ở nhà. Tôi đi xe buýt từ quảng trường Havơt. Chỉ mất vừa đúng năm phút chờ đợi, đây thực sự là một điều kỳ diệu. Tôi trèo lên xe, túi xách thể thao cầm ở tay. Tôi đứng mà không chờ đợi điều gì khác. Kritxti - đội trưởng và cũng là huấn luyện viên của chúng tôi đã ăn mặc chỉnh tề đang khởi động. Những người khác mới đến đang nhốn nháo. Trong phòng gửi quần áo, tôi gặp lại người to béo nhất đội mặc quần cộc thi đấu, áo may ô dài tay, bao che đầu gối, tất ngắn và giầy đánh quần vợt. Phòng gửi quần áo phô bày những bức tường màu xanh nhạt tương xứng với những chiếc tủ xộc xệch và những chiếc gương soi dành cho người lùn, bốc lên mùi mồ hôi, tất ngắn, ẩm mốc. Tôi thay nhanh quần áo rồi đi gặp Kritxti. Sau khi làm nóng người, chúng tôi luyện những quả đập. Nhà thể dục dần đầy người, tôi đoán thế vì tiếng ồn ào. Một hồi còi vang lên. Sau năm phút nữa, trận đấu bắt đầu. Đội của tôi tập hợp ở cuối nhà thể dục và Kritxti nói ngắn gọn với chúng tôi về những sự nguy hại của việc quá tự tin. Hôm nay đối thủ của chúng tôi đến từ ngoại ô phía Tây - một ngoại ô giàu có và từ lâu chúng tôi đinh ninh là sẽ thắng họ dễ dàng. Chúng tôi đã trông thấy họ chạy ra trước. Đồng ý, đó là một ý định trước nhưng nó tương ứng với sự nổi tiếng của những vùng ngoại ô giàu có, ở những người có tấm lòng sắt đá ở quảng trường trung tâm Cămbritdơ. Đội của họ tên là Những con bướm. Một cái tên không gợi được điều gì khiếp sợ cả. Còn chúng tôi là đội Oai Bớt. Cái tên này làm tôi luôn nghĩ tới những con chim trong lồng, nhưng theo tôi biết, trong số chúng tôi không có ai từng bị giam giữ cả. ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Bảy Tuổi của tác giả Linda Barnes.
Nếu Như Được Làm Lại - Marc Levy
Với Nếu như được làm lại, Marc Levy khiến người đọc ngây ngất với sức viết dồi dào của ông, và sự chuyển mình quá đỗi hoàn hảo từ chất lãng mạn thường thấy sang phong cách trinh thám ly kỳ, cuốn hút. Andrew Stilman, nhà báo nổi tiếng của tờ The New York Times, vừa kết hôn. Sáng ngày 9 tháng 7 năm 2012, anh đột ngột bị tấn công khi đang chạy bộ dọc sông Hudson. Anh gục ngã trong vũng máu… Andrew tỉnh lại vào ngày 9 tháng 5 năm 2012, hai tháng trước lễ cưới. Kể từ giờ phút đó, anh có 60 ngày để tìm ra kẻ giết mình, 60 ngày giằng co với số phận. Từ New York đến Buenos Aires, Stilman lao vào cuộc chạy đua hối hả với các sự kiện, tình tiết đan cài, một cuộc chạy đua với thời gian, phập phồng lo sợ xen lẫn háo hức thách thức định mệnh, cho đến khi nút thắt cuối cùng được gỡ. Một kết thúc bất ngờ đến nghẹt thở. *** Marc Levy (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1961, tại Boulogne-Billancourt, nước Pháp) là nhà văn người Pháp gốc Do Thái. Marc Levy viết quyển tiểu thuyết đầu tiên của mình với tên Và nếu như chuyện này là có thật... vào năm 1998. Ông viết cuốn sách này cho con trai mình, khi đã là một thương gia thành công. Năm 1999, sau khi bán bản quyền phim Et si c'était vrai... cho hãng Dreamworks, ông kết thúc công việc ở hãng kiến trúc để theo đuổi sự nghiệp viết văn của mình. Xuyên suốt sự nghiệp viết văn kéo dài gần 20 năm của mình, nhà văn người Pháp Marc Levy sáng tác được tổng cộng 14 quyển tiểu thuyết. Trong số đó có 13 tác phẩm đã được dịch ở Việt Nam. Điểm thu hút trong văn chương của Marc Levy nằm ở chỗ lãng mạn, ngọt ngào. Ông bao giờ cũng khai thác những câu chuyện tình yêu ở khía cạnh tròn trịa và hấp dẫn nhất. Các tác phẩm của Marc Levy đã được xuất bản tại Việt Nam: - Và nếu như chuyện này là có thật (Nếu Em Không Phải Một Giấc Mơ) - Nếu em không phải một giấc mơ - Em ở đâu    2001 - Bảy ngày cho mãi mãi    2003 - Kiếp sau    2004 - Gặp lại    2005 - Bạn tôi, tình tôi    2006 - Những đứa con của tự do    2007 - Mọi điều ta chưa nói    2008 - Ngày đầu tiên    2009 - Đêm đầu tiên    2009 - Người trộm bóng    2010 - Cuộc hành trình kỳ lạ của Ngài Daldry    2011 - Nếu như được làm lại    2012 - Mạnh hơn sợ hãi    2013 - Một ý niệm khác về hạnh phúc 2014 - Chuyện Chàng và Nàng - Cô gái cuối cùng của bộ tộc Stanfield -... *** "Nên đọc ngay, đừng chần chừ!" - La Dépêche du Midi "Một cách suy nghĩ thú vị về số mệnh." - Metro "Nhiều nút thắt mở, một cốt truyện được đan cài khéo léo." - Paris Match "Đủ mọi sắc thái cảm xúc... say mê, hồi hộp, hài hước." - Le Figaro Litteraire *** Xe cứu thương chở Andrew Stilman vào phòng cấp cứu lúc 7h42 phút. Buổi sáng hôm đó, mật độ giao thông không dày đặc như thường lệ. Bệnh viện đã được thông báo trước qua điện đàm, các bác sĩ và y tá hối hả chờ bên chiếc băng cáng. - Người đàn ông ba mươi chín tuổi này đã bị đâm ở phần cuối đốt sống lưng cách đây nửa tiếng. Anh ta đã mất rất nhiều máu, tim đã ngừng đập ba lần, chúng tôi đã cố gắng hồi tim cho anh ta những vẫn chưa thế bắt mạch được, thân nhiệt anh ta đã giảm xuống còn 35 độ. Bây giờ đến lượt các anh, nhân viên cứu thương vừa nói vừa chạy vào đưa giấy tờ cho bộ phận nội trú phụ trách phẫu thuật. Andrew mở mắt trở lại, ánh đèn nê ông phía trên đầu anh tạo thành một đường không liên tục khi anh được đưa vào phòng phẫu thuật. Anh cố gắng nói nhưng viên bác sĩ nội trú đã cúi xuống nói với anh nên giữ sức, họ đưa anh vào phòng mổ. - Xin lỗi em... Valérie... Nói với cô ấy giúp tôi..., Andrew thì thào rồi mất dần nhận thức. ... Mời các bạn đón đọc Nếu Như Được Làm Lại của tác giả Marc Levy.