Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

24 Giờ Lên Đỉnh - Nguyễn Thị Anh Thư

Nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư, tác giả của cuốn tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, Cháy đến giọt cuối cùng, các tập truyện ngắn: Vạn liên thanh cho Hải Quỳ, Không nhan sắc, Thiếu học phí làm người, Năm thằng cao kều, Hải tặc một mắt… Khi mới gặp chị, tôi hỏi: Có gì mới không, đang viết gì? Này em làm thơ nhé (rúc rích), em làm thơ, sợ không? Thư cười trả lời tôi, rồi bấm điện thoại đọc thơ. Tôi bảo, chao ôi Tết nhất tưng bừng ngoài kia, mà hai “mụ” ngồi đọc, ngồi nghe thơ. Thơ của một nhà văn từng đoạt giải truyện ngắn hay của Tạp chí Văn nghệ Quân đội lúc 27 tuổi năm 1986, làm thơ ý tứ tỉnh như “sáo sậu”, tôi nén nghe câu thơ: Đường trần mỗi ngày mỗi tối/ loáng thôi sắp hết kiếp người. Một năm ở Nhà xuất bản Hội Nhà văn, công việc Nguyễn Thị Anh Thư biên tập hàng trăm đầu sách, thơ, văn xuôi của các nhà văn và các tác giả chuyên nghiệp, không chuyên nghiệp. Chị là bà đỡ cho rất nhiều tên sách như người mẹ đỡ đầu đứa con tinh thần vậy. Ví dụ như tên một bài thơ của cố nhà thơ Đồng Đức Bốn mới đầu lấy tên là Tân Cương, chị góp ý nên đổi là Tìm em ở bến sông Mê, tập thơ của tác giả Trần Văn Lan có tên Nghiêng 23 độ đổi thành tên Sông Ba mùa nhan sắc, hay tác giả Nguyễn Hoàng Kim Oanh có tập thơ mới đầu định đặt tên là Hồn quê chị góp ý đổi tên Khi hồng nhan hát thánh ca. Hoặc cũng tác giả này khi lần đầu tiên đến nhà xuất bản, chưa biết nên đặt tên tập thơ của mình là gì, chị đã sửa câu thơ Ngũ hành năm ngón tay hoa thành Ngũ hành năm ngón tài hoa rồi đặt tên cho tập thơ thành Nhũ ngọc tài hoa. Tác giả Thế Dũng trong tác phẩm Bên dòng sông tình sử có kể lại việc chị đã tận tình biên tập tiểu thuyết Một nửa lá số của anh như thế nào. Anh đã viết rằng: “…Nhưng rốt cuộc chương 43 đã được biên tập viên của NXB đặt tên là Vĩ thanh. Tôi đã hơn 2 lần cảm ơn nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư vì điều này…”. Anh Thư đã từng thẳng thắn góp ý cho tác giả này bớt đi vài ba chương hoặc cắt đi vài trăm trang sách, để tác phẩm hay hơn, chặt chẽ hơn. Nhưng cũng có khi chị lại đề nghị tác giả khác viết thêm để tạo đất cho nhân vật sinh động, có hồn hơn (như Quyên của Nguyễn Văn Thọ). Không chỉ có những tác giả đã kể trên mà còn rất nhiều nhà thơ, nhà văn khác, đã một lòng tin tưởng gửi tác phẩm đến cho nhà văn Anh Thư đều được chị chăm sóc nâng giấc đứa con tinh thần của họ rất kỹ càng. Và thành quả là nhiều tác phẩm đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhà văn, như Nguyễn Quang Thân với Con ngựa Mãn Châu, Nguyễn Văn Thọ với Quyên, Nguyễn Hữu với Cõi thực… Tôi biết có những đêm dài mùa đông giá rét, chị ngồi lọ mọ cạo từng con chữ, cắt cắt, dán dán những tờ giấy can, để dùng đúng chữ như linh hồn của tác giả và tác phẩm. Ngày ngày chăm sóc đứa con tinh thần cho mọi người cầm bút, đó là công việc của cơ quan, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, thời gian còn lại cho riêng mình để sáng tác, Anh Thư chỉ còn mỗi cách cắt bớt giấc ngủ của chính mình. Tôi cũng biết thời gian để hoàn thành tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, chuông đồng hồ của chị luôn để hai giờ sáng. Chị ngồi viết đến 6 giờ, ngủ đến 7 giờ, rồi dậy đi chợ, làm cơm trưa cho chồng con, chuẩn bị bữa tối sẵn, rồi mới đi làm… Vòng tròn cuộc đời tối mắt tối mũi, ngày tiếp cộng tác viên, giải quyết hàng loạt bản thảo đến 5, 6 giờ chiều. Về nhà làm tròn nghĩa vụ làm mẹ, làm vợ, rồi vừa xem phim, vừa ngủ lơ mơ đến 9, 10 giờ đêm lại lôi các tập bản thảo dày, đòi hỏi phải yên tĩnh ra biên tập. Đêm lại đêm, bật dậy ngồi viết là niềm vui của chị. Tôi nhớ năm 1993, hồi đó Nhà xuất bản Hội Nhà văn đang gặp khó khăn về kinh tế, nhà văn Nguyễn Kiên lúc ấy làm Giám đốc, chị Nguyễn Thị Anh Thư mới đi học thêm một bằng đại học thứ 2 (đại học xuất bản) về, chị tình nguyện ra ngồi bán sách ở cửa hàng giới thiệu sách. Ngày đó, tôi làm ở Báo Lao động Thủ đô gần đó hay chạy sang ngồi bán sách với chị. Có hôm hai chị em ngồi bán sách chỉ để xem một khách hàng mua sách mở hàng có may mắn không, có bán chạy sách văn học không. Có người tôi dự đoán sai, có người Thư dự đoán đúng qua cách nhìn chân tướng. Không ngờ cách quan sát trực tiếp tinh tế đã giúp chị Anh Thư viết văn ngày càng đằm thắm và tinh tế hơn. Để viết cuốn tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, để viết được về số phận của đàn bà, để viết về một vấn đề kinh tế đang nóng bỏng trong cuộc sống này, Anh Thư phải học, phải nghiên cứu rất kỹ mới dám đi vào nhân vật có nghề nghiệp không hề dán mác hay sắp đặt sẵn cho họ. Cái nhìn thấu tâm can đàn bà từ những câu chuyện như Không nhan sắc, đến Món giả cầy, cái khát vọng nhất mà Anh Thư đau đáu là nhân vật người đàn ông vừa tài hoa, lịch lãm, vừa biết trân trọng phụ nữ. Nhân vật như ước mơ ấy thì chỉ có văn chương xây dựng nên. Thật khó tìm trong đời thực. Hãy để bạn đọc khát khao, hãy để bạn đọc cùng hy vọng dưới trang văn của mình, chỉ ra những cái tàn ác không nhìn thấy, không dễ thấy cũng là nhiệm vụ của nhà văn. Để bạn đọc đọc sách, ngấm, và rút ra kinh nghiệm ở đời. Gần đây những bài thơ của Anh Thư làm gửi tôi đọc, tôi thấy chị còn run rẩy trước tình người, còn phẫn nộ trước cái ác như cây đàn một dây níu giữ trầm buồn. Thơ chị viết “tỉnh” như văn xuôi, nhưng tứ thơ lại biết dồn nén, nhà văn như Nguyễn Thị Anh Thư đã cày, đã vỡ vạc đất đai, để trồng cây như bao nhà văn Việt Nam gieo mùa vàng cho tác phẩm của mình *** 03 giờ 30 phút - 20 - 06 - 2008 Sáng sập cửa, nén giận - bật khoá - giập ga. Chiếc Mercedes Benz gầm cao đen bóng rú lên, quét một luồng ánh sáng đèn pha sáng loá, cắt toang mù sương trong cái sân lát gạch bát rộng thênh thang loáng đẫm sương đêm. Anh đánh mạnh vô lăng. Chiếc ô tô liệng một nửa vòng cuồng nộ lao ra cổng. Sáng biết chắc: ông Thưởng - cha của anh - một lão nông đã bảy mươi bảy tuổi gầy gò, nhưng cao lớn và rất săn chắc, ánh mắt vẫn sáng quắc như mắt chim ưng; cứ ngồi tỉnh khô trong cái ghế đại sẽ không thèm đưa mắt nhìn theo thằng con mình. Cái ghế đại chạm trổ lộng lẫy mà cha anh trong bộ đồ lụa Thái Tuấn màu nâu tây đang ngồi oai vệ trên đó là nằm trong bộ bàn ghế và trường kỷ làm bằng gỗ nu hay còn gọi là gỗ lut. Cây nu thuộc họ gõ đỏ, và đã được Unescô liệt vào sách đỏ vì sắp tiệt chủng. Gỗ nu trở nên vô giá, vì quá hiếm. Người ta khi đã trộm được, thường hay xẻ chúng ra nâng niu đánh bóng chỉ dùng chúng làm vật liệu quý cho những bức tranh gỗ, dùng để trang trí nhà thờ hoặc làm giả những viên đá hoa cương lát nhà cho các triệu phú, tỉ phú Đô la trên thế giới ở. Loại gỗ đó không có đường vân thành thớ hoặc lượn sóng như các loại gỗ cũng rất đắt đỏ khác. Gỗ nu có vân đặc biệt quý, chúng vặn xoắn những vòng ốc nhỏ xen kẽ thành từng mảng màu rất tách biệt, chỉ nhỉnh hơn đầu ngón tay màu đỏ thắm, màu nâu sậm, mầu vàng, màu ghi... Đôi lúc, màu sắc của chúng trông như những tảng hổ phách. Mùa hè, chạm tay vào, gỗ nu lạnh mát như đá. Nhưng mùa đông, khi ngồi lên chúng, ta vẫn cảm như được ôm ấp, và đâu đó như có hơi gỗ ấm áp đang thở. Vì vậy mà gỗ nu được định giá bằng tiền triệu trên từng kg, hoặc những trăm nghìn Đô trên mét khối tuỳ lúc và tuỳ thích. Tuy nhiên, vì gỗ nu quá rắn. Gỗ nu quá quánh chắc, cân lên nặng như đá thật. Nhất là khi nó được cấu tạo chỉ bằng những chỗ u gồ lên trên thân cây, cho nên thao tác mỹ nghệ trên nó cực khó. Nhưng bù lại, khi chế tác xong, đánh bóng lên, các hoa vân đặc biệt vặn xoắn dày đặc sẽ cho vật thể hoàn toàn là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ. Trông món đồ gỗ lúc ấy sẽ trong suốt như thể được cấu thành từ tổng thể các loại ngọc long lanh màu đỏ sậm, màu nâu, màu vàng hổ phách. Đặc biệt quý là khi các mảng màu ấy được tách bạch bằng những đường viền như được dát kim loại vàng lấp lánh. Và chúng phát sáng bằng chính những đường ốc vân vẩy kỳ lạ đó. Vì thế lúc đó người ta gọi loại gỗ này là hổ bì tức là da hổ. Nhưng giá cả của chúng lúc đó thì... Thôi!... Quên đi!... Cái giá trị của đẳng cấp nghệ thuật mới là vô giá! Sáng vẫn thường có khát vọng được sở hữu những gì là đỉnh nhất, nên ngay lập tức anh mê hổ bì. Anh mê nó đến điên cuồng, mê ngay khi lần đầu tiên nhìn thấy nó. Sáng cầu kỳ lặn lội đến gặp ông Vũ Văn Quý giám đốc công ty Hưng Long nổi tiếng tận làng Đồng Kỵ, Bắc Ninh yêu cầu được chính kỹ sư hoạ sĩ Nguyễn Xuân Đức dựa theo mẫu Lu- y thế kỷ 16 của Pháp thiết kế sao cho bộ trường kỷ hổ bì của anh có thêm vẻ Việt Nam. Nó phải vừa dân tộc mà vẫn hiện đại để các đời sau, con cái cháu chắt anh vẫn có thể nhảy đầm bên nó mà không lố. Sáng đã mò mẫm tìm hiểu trên Internet, trong giới đồ gỗ mỹ nghệ và được biết chỉ riêng công ty đồ gỗ Hưng Long ở làng Đồng Kỵ, Bắc Ninh mới có khả năng thu gom được đủ một số lượng lớn gỗ hổ bì để chế tác nổi một bộ đại trường kỷ. Và cũng chỉ có Công ty này mới có bí quyết nhà nghề để thớ gỗ hổ bì trở nên mềm đi trong thời gian chế tác, còn sau khi hoàn thành rồi thì nó lại trở nên quánh chắc như đá thật. Tựa như bí quyết ngâm trứng vào dấm cho mềm vỏ cứng để trứng lọt dễ dàng qua miệng chai mà vẫn không vỡ lòng đỏ. Cũng phải mất đằng đẵng gần năm trời chờ đợi Sáng mới có được một bộ độc bản đại trường kỷ cực kỳ lộng lẫy, mà chắc hẳn khó có được một bộ thứ hai giống vậy. Anh đã mang nó về cho cha anh - ông Phương Văn Thưởng ở làng Hoàng Ngôn, xã Kỳ Nguyên huyện Tĩnh Hà trưng bày trong nhà. Và lúc này, cha Sáng đã lại ngồi thu chân, chễm chệ trên chiếc ghế vô giá đó. Cha anh cũng mê thích nó. Với anh, đó là niềm vui, lẽ đương nhiên của một người con hiếu thảo. Nhưng quá sớm! Đêm còn chưa qua, ngày còn chưa rạng. Và muôn lần như một, trước mặt ông chẳng khi nào thiếu cái chén sứ đồ Giang Tây chưa bao giờ vơi một thứ nước sóng sánh màu nâu cánh gián của rượu thuốc không ngâm tay gấu thì cũng cao hổ cốt do thằng con trai út - chính là anh - Phương Quang Sáng đích tay ngâm biếu. Giờ đây, ông súc miệng bằng thứ rượu quý ấy, kê mông lên chiếc ghế hiếm ấy, tay cầm chiếc điếu cày - vật bất ly thân tự tay ông gò bằng mảnh duyra thân chiếc máy bay - chiếc máy bay Mỹ đã bị chính ông cùng đội dân quân xã đã từng được phong là Đơn vị anh hùng các lực lượng vũ trang thời xa xưa bắn rơi trên cánh đồng làng Hoàng Ngôn; rúc lên hai hơi liền giòn tan nõ điếu cho ngây ngất tâm thần - để rồi thoả sức chê bai anh - cái thằng đã rước bằng được những cái thứ quý hiếm, độc nhất vô nhị đó về dâng ông ngự thưởng. Sáng biết cha mình sẽ lại xoè mồi lửa vào nõ điếu, rít thêm một hơi thuốc lào Tiên Lãng cháy cổ, phà khói ra một cách khoái trá lần nữa, rồi ông mới liếc xéo cái ánh mắt vẫn quen lia nhanh như chớp theo hướng anh đi, vẻ vừa kinh thường vừa giận dỗi, bất cần: - Đi đi! Mang hết cả đi! Sáng thừa biết cha mình đang nghĩ gì: “...Thôi, thôi, tôi xin ông! Ông muốn hành cái phép tắc, cái luật lệ, cái nghi lễ văn hoá văn hiếc, gì gì… của ông thì ông cứ mang đi đâu đó mà hành… nhé! Còn cái làng này nó chẳng thiết, mà tôi, tôi cũng chẳng cần.… Rõ là nhiễu sự! Rõ là… là… Cứ lớn chuyện ba cái thứ lặt vặt…Đang yên đang lành thì vẽ chuyện…” Và thể nào một viên thuốc lào nữa cũng lóe lửa đóm, nảy tâng tâng trên nõ. Chiếc điếu duya ra lại rú rít lên, gay gắt, bực bội, rồi phun khói lên… thoả mãn. Trời đất! Chuyện gì cha anh cũng cho là chuyện vặt, khỏi cần phải bày vẽ cho mệt người! Cha có biết rằng chính vì ý nghĩ lúc nào cũng ngại mệt, lúc nào cũng ngả theo cái chủ nghĩa tuỳ tiện được đến đâu hay đến đấy, việc gì cũng chỉ được nửa vời, không chịu cố gắng dồn tâm, dồn huyết để đi đến tận cùng ước mơ ấy như cha anh, của bao đời người ở cái làng bãi ngang này mà đã khiến cho cái làng Hoàng Ngôn của cha con anh chìm nghỉm, chẳng làm sao mọc mũi sủi tăm lên được trong thiên hạ không? Chao ôi! Cha hãy nhìn ra những tỉnh ngoài mà xem, có biết bao nhiêu địa danh lừng lẫy tên tuổi vì bề dày lịch sử văn hoá: những đền Hùng, đền Mẫu cội nguồn dân tộc bao đời; những thành cổ Tây Sơn, thành nhà Hồ, Lam kinh; những chùa Bổ, chùa Và, chùa Mía, chùa Tây Phương... thâm nghiêm, cổ kính; những cổng làng cổ Đường Lâm, chùa Cầu Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Tháp Chàm…Kỳ lạ... đến tận cái xứ Đồng Văn xa mù hẻo lánh cũng có riêng cho mình cả một phố cổ… chưa nói tới kinh thành Huế, đến cố đô Thăng Long... Cha có biết Bái Đính, Ninh Bình họ còn muốn vật sản văn hoá của địa phương mình có thứ vươn được lên đến tầm cỡ nhất Đông Nam Á không? Truyền thống văn hoá, di tích lịch sử vốn đã rất được những người dân các xứ ấy đời đời ngưỡng mộ, nâng niu, gìn giữ, vậy mà giờ đây họ vẫn chưa thoả, vẫn còn đang ra sức bồi đắp, khuếch trương rộng lớn thêm từng ngày. Nhưng, buồn thay, cha đã bao giờ chịu bước ra khỏi cái làng Hoàng Ngôn vốn chỉ là một dải đất bãi ngang hẹp như cái dải áo, kẹt giữa đôi bên bờ cát chát mặn và đầm lầy nước lợ này, để mở to mắt ra mà nhìn các làng quê rộng lớn, giàu có, khang trang, sang trọng của thiên hạ để mà kính phục họ, thèm được như họ, và buồn cho mình đâu! Sáng trút một hơi thở dài, cố xua ra khỏi người nỗi bực bội. Và anh, anh nữa - một Phương Quang Sáng - nhà doanh nghiệp về bất động sản và cổ phiếu mới phất với tài sản vài ba triệu Đô la Mỹ - một Phương Quang Sáng có bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh - Du lịch, hiện đang tu thêm một bằng Thạc sĩ nữa về Đông phương học - anh sống ở đâu mà chẳng được ở trong cái thế giới trọng Mỹ kim, thèm chất xám này chứ? Vậy mà tại sao, tại sao anh vẫn không sao bỏ được cái làng Hoàng Ngôn nghèo nàn, khốn khổ này. Tại sao, tại sao chứ? Vinh danh cho quê hương! Làm sao để có thể kêu gọi được tất thảy những con người cùng sống ở cái thôn Hoàng Ngôn vốn thâm căn cố đế đã có cái tính ương ương, gàn gàn này cùng có tâm huyết biến ý chí thành hành động tôn tạo vinh danh cho nơi chôn nhau cắt rốn của mình? Vậy mà, tiếc thay - cha anh - cái người thân thiết, ruột thịt gần gũi nhất của anh thì lại dường như cũng giống tất cả những người khác trong làng, cũng như chẳng hiểu gì, chẳng quan tâm gì đến điều tâm huyết của anh. Thậm chí ông lại còn có vẻ là một trong những người cảm thấy mệt mỏi và khó chịu nhất vì những việc anh đã làm. Mời các bạn đón đọc 24 Giờ Lên Đỉnh của tác giả Nguyễn Thị Anh Thư.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tam Quốc Hài Hước: Chu Du Hoán Mộng Ký - Chu Nhuệ
Tam Quốc hài hước là một bộ sách gồm nhiều cuốn sách nhỏ khác nhau của tác giả Chu Nhuệ. Mới nghe qua, “Tam Quốc” và “hài hước” là hai khái niệm dường như chẳng có mối liên hệ gì với nhau. Tuy nhiên, Chu Nhuệ đã dùng ngòi bút hài hước và sinh động của mình để viết lại câu chuyện Tam Quốc nổi tiếng theo một cách mới mẻ, hài hước và vô cùng kỳ thú. Vẫn là những cái tên quen thuộc trong Tam quốc như Gia Cát Lượng, Chu Du, Tào Tháo, Trương Phi, Lỗ Túc, Tào Phi, Tào Hùng, Tào Thực, Tào Chương… nhưng Chu Nhuệ còn “sáng tạo” thêm những nhân vật mới vô cùng đặc sắc như: Vu Cát (pháp sư nước Ngô, vô cùng đẹp trai và có nhiều fan), Vũ Trụ Phong (fan ruột của Vu Cát, tìm mọi cách để truy đuổi tung tích của chàng), Hoa Loa (pháp sư chỉnh hình, em trai của Thần y Hoa Đà, vai vác túi thuốc đi khắp đó đây)…  Không chỉ vậy, Chu Nhuệ còn khéo léo lồng ghép, đan xen bối cảnh của xã hội hiện đại vào các câu chuyện của mình khiến độc giả không khỏi cười ngả nghiêng trước các tình tiết thú vị này. Ngoài ra, sự xuất hiện của các pháp sư (Vu Cát, Hoa Loa, Tả Tước Ban, Đinh Nghị, Tả Từ…) với các phép thuật vừa ảo diệu vừa thực tế (thuật hoán mộng kí, thuật chỉnh hình, thuật điều khiển đồng thời, độc tâm thuật, thuật “Thất Á”, thuật ghép thân…) giúp độc giả đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Đằng sau mỗi câu chuyện trong Tam Quốc hài hước không chỉ là những tiếng cười sảng khoái mà chắc chắn cuốn sách sẽ khiến độc giả còn đọng lại những suy nghĩ sâu sắc về về danh vọng, tiền tài, hạnh phúc gia đình… và cuộc sống muôn màu muôn vẻ này. *** CÁC NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN Quân sư nước Thục. Quá hoàn mỹ, quá tài năng, luôn sẵn sàng đối phó với những thủ đoạn đố kị của Chu Du, kẻ có lòng dạ hẹp hòi. Vốn là một nguyên soái rất thông minh, nhưng tính đố kị quá lớn, nên luôn luôn thất bại dưới tay Gia Cát Lượng. Có bốn người con trai. Ông ta đã truyền cái gen diễn thuyết cho Tào Phi, sở thích võ nghệ cho Tào Chương và khả năng chữ nghĩa cho Tào Thực. Một người tốt và vô cùng dễ thương, hễ nói dối là mặt lại đỏ ửng lên. Thường xuyên ở bên cạnh Gia Cát Lượng. Sự vũ dũng, cộc lốc, thô lỗ của anh ta cùng với sự mưu trí, thâm trầm và nho nhã của Gia Cát Lượng đã tạo nên những câu chuyện bi hài cười ra nước mắt. Pháp sư nước Ngô, một anh chàng bảnh trai. Để thoát khỏi sự phiền nhiễu của fan hâm mộ, anh này đã chế tạo một thiết bị chống tìm kiếm rất tinh vi. Pháp sư nước Ngụy, không theo đuổi sự hưởng thụ vật chất, nhưng rất chú ý đến đời sống tinh thần, anh này ngụ tại một căn hầm dưới lòng đất chất đầy bắp cải. Pháp sư chỉnh hình, em trai của Thần y Hoa Đà. Vai vác túi thuốc, đi khắp đó đây. Fan ruột của Vu Cát. Dường như tất cả mọi phép thuật của cô ta đều nhằm truy tìm tung tích của Vu Cát, mê hoặc Vu Cát. Tiểu Pháp sư. Cha Tả Từ và mẹ Hữu Lão Sư cũng đều là pháp sư. Là một cô bé mà người khác luôn sẵn sàng ra tay giúp đỡ. Chưa cần nhìn mà chỉ cần nghe giọng nói của cô bé thôi là đã muốn giúp rồi. Là một công chúa bạch mã có dung nhan thường thường bậc trung, bạn thân của Tư Mã Kiều Nhu. Dù cô bé rất muốn có cơ hội để ra tay bảo vệ chàng nam sinh dũng mãnh Tào Chương, nhưng Tào Chương không muốn cho cô bé cơ hội. Đô đốc phu nhân, người được tất cả mọi người công nhận là mỹ nữ. Tuy nhiên trong nhà, cô không có nhiều sự khác biệt so với những người vợ khác của Chu Du. Pháp sư kiêm nghệ thuật gia. Ngoài nghệ thuật ra, chẳng biết gì khác, còn ngây thơ hơn một đứa trẻ. Con trai trưởng của Tào Tháo, một nhà diễn thuyết, không từ mọi thủ đoạn để đạt được mục đích trở thành người thừa kế của cha mình. Con trai thứ hai của Tào Tháo, người có sở thích võ nghệ. Đối với cậu ta, dùng võ nghệ để bảo vệ người khác vui và hạnh phúc hơn nhiều so với việc đánh thắng đối phương. Con trai thứ ba của Tào Tháo, một thi nhân thứ thiệt. Tài thơ văn của anh chàng đã làm bao cô gái si mê, và cũng chính vì có nhiều cô gái theo đuổi nên chàng ta mới viết được nhiều bài thơ lãng mạn đến vậy. Con trai thứ tư của Tào Tháo, người bình thường nhất, yếu thế nhất trong bốn anh em, nhưng anh này lại rất tự tin, không hề tỏ ra hèn kém hơn các anh mình. Pháp sư kiêm người phát ngôn Bản tin pháp thuật, phụ trách sưu tầm và truyền bá mọi thông tin lớn nhỏ về pháp thuật, do vậy thường xuyên xảy ra xung đột với người trong cuộc. Vợ của Tả Từ, cũng là người phụ nữ có tiếng tăm trong giới pháp sư. Mời các bạn đón đọc Tam Quốc Hài Hước: Chu Du Hoán Mộng Ký của tác giả Chu Nhuệ.
Tiếng Sóng - Yukio Mishima
Yukio Mishima (1925-1970) được đánh giá là một trong những tác giả quan trọng nhất trong nền văn học Nhật Bản thế kỷ 20. Trước tác của ông bao gồm 40 cuốn tiểu thuyết, 20 tuyển tập truyện ngắn và khoảng vài chục vở kịch cùng với một số bài thơ. Ông là nhà văn 3 lần được coi là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Văn học. Những tác phẩm xuất sắc của Mishima có The Temple of the Golden Pavilion (Ngôi đình tạ bằng vàng -1956), bộ bốn tác phẩm The Sea of Fertility (Biển cả muôn màu - 1965-70)... Mishima sinh năm 1925, con trai của một quan chức chính phủ. Tên thật của ông là Kimitaka Hiraoka. Bố ông vốn không muốn con trai mình đi theo nghiệp văn chương chữ nghĩa nên ông phải đổi tên để viết trộm. Hiraoka được nuôi nấng và trưởng thành dưới sự giám sát chặt chẽ của bà nội. Trong thế chiến II, nhà văn được miễn nghĩa vụ quân sự, ông làm việc trong một nhà máy. Đây là điều khiến Mishima day dứt suốt cuộc đời. Nhà văn cho rằng mình đã sống sót một cách đáng xấu hổ trong khi rất nhiều người khác phải đổ máu ngoài chiến trường. Sau chiến tranh thế giới II, Mishima học luật tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Trước khi dấn thân vào sự nghiệp văn chương, ông làm việc một năm trong Bộ Tài chính. Năm 1946, ông gặp gỡ Kawabata Yasunari, người sau đó đã giới thiệu những truyện ngắn đầu tay của ông với một vài tạp chí văn học uy tín. Confessions of a Mask (Lời thú nhận của người đeo mặt nạ - 1949) là tác phẩm đầu tiên ghi lại dấu ấn tên tuổi của Mishima trên văn đàn. Cuốn sách chính là một lối thoát giúp nhà văn giải tỏa những cảm xúc của chính mình khi phát hiện bản thân là người đồng tính. Trong truyện, nhân vật người kể chuyện thú nhận, ông đã phải tự trang bị cho mình một chiếc mặt nạ "bình thường" để tránh sự xoi mói của xã hội. Mishima chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa yêu nước trung quân truyền thống và tinh thần võ sĩ đạo samurai của Nhật Bản, tuy ông vẫn diện đồ tây và ở nhà tây. Năm 1968, ông thành lập Hiệp hội Shield (Tate no Kai - Hội lá chắn) - một tổ chức bán quân sự tập hợp khoảng 100 thanh niên trai tráng với mục đích chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo Bushido, tán dương chủ nghĩa quốc gia và bảo vệ Hoàng đế Nhật. Không biết do đâu, Hội lá chắn cũng được quyền tham gia huấn luyện cùng quân đội Nhật. Ngày 25/11/1970, ông cùng những người bạn bao vây Cục Phòng vệ Nhật Bản ở Tokyo, bắt giam Tướng Kanetoshi Mashita và xúi giục quân sĩ tiến hành chính biến. Lời thỉnh cầu này của ông gặp sự phản ứng dữ dội của quân đội. Thất bại, tuân thủ tinh thần võ sĩ đạo, ngày 25/11/1970, ông đã tự sát bằng cách tự mổ bụng moi gan theo nghi thức seppuku. Trước khi chết nhà văn còn hô to: "Hoàng đế muôn năm". Cũng trong ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ông giao nốt cho nhà xuất bản những trang viết còn lại của bộ cuốn tiểu thuyết The Sea of Fertility. Cái chết của Mishima được tác giả Christopher Ross miêu tả trong cuốn sách Mishima's Sword (Lưỡi kiếm của Mishima) như sau: "Lưỡi kiếm đã ngập sâu vào khoang bụng cỡ 10 cm, ông ấn lưỡi kiếm chầm chậm từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, mở toác từng lớp da. Máu tràn ra lênh láng trên sàn nhà. Một cuộn nội tạng màu hồng hồng xam xám nhờ nhờ thòi ra từ vết thương. Mùi tanh nồng xông lên khắp căn phòng". Không thanh lịch, không tao nhã, nghi thức chết của Mishima cũng không hề khoa trương. Nhà văn từng gợi ý cho một nhà báo là nên quay lại cảnh ông tự sát. Nhưng họ cũng không chuẩn bị gì trước để đón nhận sự kiện này. Khoảng 2 giờ trước khi tiến hành nghi thức tự sát, ông gọi điện cho hai phóng viên và úp mở với họ rằng: "Có chuyện sắp sửa xảy ra". Cái chết của nhà văn lúc bấy giờ đã gây nên một chấn động dữ dội không chỉ với Nhật Bản mà đặc biệt là đối với người phương Tây. Nhiều học giả phương Tây đã đến Nhật Bản để tìm hiểu ý nghĩa cái chết của ông: Liệu đó là một bức thông điệp chính trị của nhà văn hay là một tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của ông theo tinh thần võ sĩ đạo. Cho đến nay, hầu như họ không có được câu trả lời như mong đợi. Người dân Nhật hiện đại ngày nay coi cái chết phi thường của nhà văn là vô nghĩa, là "ngớ ngẩn" và "không đáng". Tác giả của cuốn sách Mishima's Sword - Christopher Ross - kể: Trong một lần Ross đang ngồi đọc các tác phẩm của Mishima trong một hàng cà phê sách, một nhân viên cửa hàng bảo ông: "Mishima là quá khứ, không phải là hiện tại và càng không phải là tương lai". Dẫu vậy, Yukio Mishima vẫn là một tên tuổi quan trọng trên văn đàn Nhật thế kỷ 20. *** Bây giờ thì Shinji đã có thể công nhiên đến chơi gia đình Miyata. Một tối, sau khi đi đánh cá trở về, anh đứng trước cổng réo tên Hatsue mà gọi. Anh chàng mặc cái quần mới giặt, chiếc áo thể thao trắng bong, mỗi tay xách lủng lẳng một con cá điêu to tướng. Hatsue đã sửa soạn sẵn sàng và đang chờ đợi anh chàng. Hai người đã hẹn cùng nhau tới thần xã Yashiro dâng lễ tạ rồi đến ngọn hải đăng báo tin đính hôn. Bóng chiều tăm tối trong căn phòng nền đất chợt rực sáng hẳn lên khi Hatsue bước ra. Nàng mặc tấm áo mỏng mùa hè - may bằng thứ vải mua của ông lão bán hàng rong ngày nọ - in hình lá triêu nhan trên nền trắng - màu vải trắng tinh đến nỗi ban đêm cũng nhìn thấy nổi bật. Dựa lưng vào cổng, Shinji đứng chờ, thế nhưng lúc Hatsue từ trong nhà đi ra, anh chàng lại vội vã cúi mặt nhìn xuống, đưa đẩy một bàn chân đang đi guốc làm như thể đang xua đuổi côn trùng và lẩm bẩm: “Muỗi ghê quá!” “Thế hả?” Hai cô cậu cùng sóng vai đi lên những bậc thềm đá dẫn tới thần xã Yashiro. Họ có thể chạy thẳng một mạch lên tới nơi thực nhẹ nhàng nhưng lòng tràn trề hạnh phúc, họ chậm rãi bước lên từng bậc như để thích thú, say sưa tận hưởng niềm sung sướng của từng bước chân đi. Lên tới bậc thềm thứ một trăm, chàng và nàng dừng lại như tiếc rẻ không muốn lên ngay tới đỉnh. Chàng muốn cầm tay nàng nhưng hai tay vướng hai con cá điêu nên lại đành thôi. Cả thiên nhiên cũng ban ân sủng cho chàng và nàng. Khi lên tới đỉnh rồi, chàng và nàng quay nhìn chung quanh rồi đưa mắt về phía vịnh Ise. Bầu trời ban đêm đầy những sao nhưng chỉ có một vài áng mây thấp vắt ngang chân trời phía bán đảo Chita; những ánh chớp im lìm thỉnh thoảng lại lóe lên, ngoằn ngoèo phía đó. Ngay cả tiếng sóng cũng không ồn ào mà chỉ lùa tới đều đều, êm ả như thể mặt biển đang thở nhẹ trong giấc ngủ ngon lành. Đi qua khu rừng thông nhỏ, chàng và nàng tới ngôi thần xã, ghé vào lễ tạ. Chàng thanh niên cảm thấy kiêu hãnh ngập lòng khi nghe tiếng đôi bàn tay người yêu chắp lại, đập vào nhau vang vang ròn rã, ngân xa. Thế rồi chàng cũng chắp tay vái lạy. Hatsue đã cúi đầu lễ bái và đang khấn khứa thì thầm. Nổi bật trên cổ áo trắng bong, phần thịt da sau gáy nàng trông tuy xạm nắng không được trắng trẻo nhưng lại làm Shinji say sưa ngây ngất hơn là bất cứ cái cần cổ nào trắng nhất trên đời. Một lần nữa, chàng thanh niên lại nhắc nhở lại cho lòng mình niềm hạnh phúc tràn trề mà thần linh đã thực sự ban cho theo đúng những lời mình cầu nguyện. Chàng và nàng nguyện cầu, khấn vái một lúc lâu nữa. Vì chưa bao giờ nghi ngờ sự gia hộ của thần linh nên hai người có thể cảm thấy cả sự gia hộ ấy bao trùm quanh khắp thân mình. Phòng việc của thần xã thắp đèn sáng choang. Shinji cất tiếng gọi và ông thủ từ liền thò mặt ra bên khung cửa sổ. Shinji trình bày qua loa mấy nét chính của câu chuyện nhưng vì anh chàng nói năng có vẻ mơ hồ nên trong một lúc, ông thủ từ chẳng hiểu rõ đầu đuôi hai cô cậu định kéo nhau lên đây làm gì. Nhưng cuối cùng nghe mãi cũng hiểu nhất là khi Shinji đưa ông con cá điêu bảo để làm lễ vật dâng lên thần linh. Nhận món quà biếu từ biển cả đưa lên, ông thủ từ còn được nhắc nhở là ông sẽ được mời dự lễ cưới của chàng và nàng; ông tỏ lời chúc tụng nồng nhiệt cho cả hai cô cậu. Vượt con đường mòn qua khu rừng thông nhỏ phía sau ngôi thần xã, chàng và nàng lại đắm mình trong hương đêm mát dịu êm đềm. Tuy mặt trời đã lặn từ lâu nhưng những con ve sầu hãy còn kêu ra rả. Con đường đất nhỏ dẫn lên ngọn hải đăng dốc tuột thực là nguy hiểm, lúc này một tay rảnh rang không còn vướng mắc gì nữa, Shinji mới nắm tay Hatsue trong tay mình và nói: “Anh đang tính sẽ học thi lấy bằng đệ nhất hàng hải phó quan. Mình có thể học để lấy bằng khi trên hai mươi tuổi, Em ạ!” “Ồ! Như vậy thì hay tuyệt!” “Đến lúc lấy được bằng, anh nghĩ chúng mình cưới nhau là vừa đẹp”. Hatsue không đáp, chỉ e thẹn mỉm cười. Họ đi vòng theo Dốc Bà tới nhà ông trưởng đài hải đăng. Chàng thanh niên lên tiếng chào hỏi như thường lệ ngay khi vừa tới khung cửa kính - nơi họ có thể nhìn thấy bóng bà chủ nhà đi qua đi lại trong lúc làm cơm. Bà chủ nhà mở cửa. Đứng trong tối nhìn ra bà thấy chàng thanh niên và vị hôn thê của anh chàng đang đứng dùng dằng nửa vào, nửa không. “Ồ! hai cô cậu đây rồi, vào nhà đi!” Bà vợ lớn tiếng gọi ra rồi đưa cả hai tay đón nhận con cá to mà Shinji chìa về phía mình. Rồi bà gọi vói vào trong nhà: “Bố nó ơi! Chú Shinji lại đem cho mình con cá điêu đẹp quá là đẹp!” Đang ngồi nghỉ thoải mái trong phòng, ông trưởng đài hải đăng nói vọng ra nhưng vẫn chưa đứng dậy: “Cảm ơn vô cùng. Và lần này, có lời chúc mừng nữa đấy. Hãy vào nhà chơi, vào nhà chơi một lúc đã nào”. Bà trưởng đài nói thêm: “Vào một chút đã nào! Ngày mai em Chiyoko nó cũng về thăm nhà nữa đấy!” Chàng thanh niên chẳng hề hay biết chút gì về những cảm động mình đã khơi dậy trong lòng Chiyoko cùng những khắc khoải nội tâm mà nàng đã chịu đựng vì mình, nên anh đã nghe câu nói đột ngột của bà mẹ mà cũng chẳng thấy một ý nghĩa gì đặc biệt. Vì bị giữ lại ăn cơm tối, chàng và nàng đã nấn ná thêm tới hơn một tiếng đồng hồ. Sau đó ông trưởng đài hải đăng lại quyết định dẫn cả hai cô cậu đi một vòng xem ngôi hải đăng trước khi ra về. Vì mới trở về đảo nên Hatsue chưa được thấy bên trong ngôi hải đăng một lần nào cả. Thoạt tiên, ông trưởng đài dẫn họ lên xem căn phòng trực nho nhỏ. Muốn đi từ khu nhà ở tới đây, họ phải đi men theo mảnh vườn rau nhỏ bé, nơi vừa mới gieo hạt thìa là hôm trước, rồi trèo lên những bậc thềm xi-măng. Trên cao là ngọn hải đăng dựa lưng vào vách núi và cái phòng trực ngay mép vách đá dốc tuột, dựng đứng, đâm thẳng xuống mặt biển. Ánh ngọn đèn pha trên ngôi hải đăng trông giống như một cột sương mù óng ánh, quét từ bên phải sang bên trái qua gồi phòng trực, phía trông ra ngoài biển. Người gác mở cửa phòng trực, bật đèn lên. Ba người trông thấy những cây thước tam giác định quy treo lủng lẳng trên khung cửa sổ, cái bàn giấy thu xếp hết sức ngăn nắp với tấm bảng ghi tàu bè qua lại và cái kính viễn vọng đặt trên một cái giá ba chân quay mặt về phía các cửa sổ. Ông trưởng đài hải đăng mở một cửa sổ, điều chỉnh viễn vọng kính rồi hạ xuống cho vừa tầm mắt Hatsue. Nàng nhìn qua kính viễn vọng, dừng lại một lúc, lấy tay áo lau ống kính rồi nhìn lại lần nữa, buột một tiếng kêu vui thích: “Ôi, đẹp quá chừng!” Thế rồi trong khi Hatsue xoay ống kính về các đốm sáng ở nhiều phương giác khác nhau, Shinji dùng ngay đôi mắt thị lực mạnh mẽ, sắc bén của mình mà nhìn theo và giải thích cho nàng nghe. Dán chặt mắt vào kính viễn vọng, Hatsue trước tiên chỉ về hàng chục điểm sáng lốm đốm trên mặt biển về phía Đông nam: Những điểm sáng ấy ư? Đó là ánh đèn trên ngọn đèn trên mặt biển đều tìm thấy một hình ảnh chiếu ứng trong vô số các vì sao ở một nơi nào đó trên bầu trời. Ngay trước mặt là ánh đèn từ ngọn hải đăng trên mỏm Irako. Phía sau ngọn hải đăng ấy là ánh đèn rải rác khắp thành phố trên mỏm Irako và ở phía trái những ánh đèn trên đảo Shino lấp lánh tỏ mờ. Thật xa về phía trái, họ có thể nhìn thấy ngọn hải đăng trên mũi Noma tại bán đảo Chita. Bên phải ngọn hải đăng này là những chùm ánh sáng trên hải cảng Toyohama - ở ngay giữa là ngọn đèn trên cái đê ngăn sóng của hải cảng. Và xa hơn, chếch sang bên phải là ngọn đăng đài hàng không lung linh nhấp nháy trên đỉnh núi Oyama. Hatsue một lần nữa lại buột ra một tiếng kêu thích thú. Một chiếc tầu chở hàng vượt đại dương to lớn vừa đi vào tầm kính viễn vọng. Đối với mắt thường thực khó mà nhìn ra, tuy nhiên trong lúc con tầu hiên ngang tiến vào tầm viễn vọng kính, thì nó ghi vào ống kính một ảnh tượng uyển chuyển, đẹp đẽ, nổi bật đến nỗi chàng thanh niên và nàng thiếu nữ phải thay phiên nhau ghé mắt vào ống kính mà ngắm nhìn. Hình như đó là một chiếc tầu chở cả hàng hóa lẫn hành khách trọng tải đến hai ba ngàn tấn. Trong một căn phòng bên ngoài boong đi dạo mát họ có thể nhìn thấy rõ ràng nhiều chiếc bàn trải khăn trắng và một số ghế ngồi. Không thấy một bóng người ở đó. Căn phòng có vẻ là phòng ăn và trong lúc họ đang ngắm nghía bức vách lát gạch hoa men trắng thì bất thình lình, một người bồi bàn mặc quần áo trắng từ bên phải bước vào rồi đi về phía những khung cửa sổ. Trong khoảnh khắc, con tầu thắp đèn xanh ở đằng mũi cũng như đằng đuôi, vượt ra ngoài tầm viễn vọng kính rồi lướt vào thủy đạo Irako đi ra Thái Bình Dương. ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Sóng của tác giả Yukio Mishima.
Phương Pháp Của A.C.Kinsey - Bùi Anh Tấn
Lặng lẽ đoạt giải Nhất cuộc thi tiểu thuyết và ký do Bộ Công an và Hội nhà văn Việt Nam tổ chức năm 1999 - 2002 với tác phẩm "Một thế giới không có đàn bà", Bùi Anh Tấn đã bình thản đặt những bước đi của mình vào ngôi đền văn học, giành lấy cho mình một chút dư vang. Ở người đàn ông này có một cái gì đó cứ âm trầm, da diết chảy, một cái gì đó - dù rất nhỏ nhoi trong sâu khuất các ý niệm - đang cọ cựa. Tác giả như muốn chống lại sự lãng quên, như muốn thổi tung lớp bụi cũ kỹ của thời gian và bạc bẽo của nhân thế đang bao phủ lên từng mảng lớp của cuộc đời. (Nhà báo Nguyễn Vịnh) Dùng hình thức tiểu thuyết hình sự để viết về một đề tài gai góc, tế nhị, nhà văn Bùi Anh Tuấn đã thành công trong việc lôi cuốn người đọc và tạo được sự cảm thông với những dân Gay. (Nhà văn Đoàn Thạch Biền) *** Nhà văn Bùi Anh Tấn: "Gay" hay "Les" tôi đều thích cả! Bùi Anh Tấn là nhà văn đầu tiên viết về đề tài đồng tính nên anh đã vấp phải nhiều luồng dư luận đối kháng. Kẻ này hoan nghiênh đề tài lạ nhưng chưa phải là mới, kẻ khác lại cho rằng viết như thế vẽ đường cho hươu chạy! Bất chấp mọi ý kiến, tuần qua Bùi Anh Tấn bắn tiếp một phát đạn thứ hai bằng tiểu thuyết "Les - Vòng tay không đàn ông". Với "Một thế giới không có đàn bà" anh gặp quá nhiều dư luận khen chê, thậm chí đặt dấu hỏi to đùng về giới tính của anh. Bây giờ anh tiếp tục "tái xuất" với một tiểu thuyết cùng đề tài nhưng "trái dấu" đó là "les" (đồng tính nữ). Anh không ngại búa rìu dư luận sao? Bùi Anh Tấn: Đối với một người cầm bút viết văn, điều sợ hãi nhất là lặp lại chính mình, thà không viết nữa còn hơn viết lại những gì mình đã viết. Chính vì vậy, với "Les - Vòng tay không đàn ông" tôi tự coi là trách nhiệm viết một tác phẩm cho những người đồng tính, vì họ cũng cần được quan tâm. Tôi viết nhiều về đề tài đồng tính vì tôi hiểu họ, tôi tôn trọng họ. Gay hay les gì tôi đều yêu cả. Bạn bè tôi cứ nói thế này "Bùi Anh Tấn đã viết một thế giới không có đàn bà, rồi đến một thế giới không có đàn ông. Thôi mai mốt viết nốt luôn "Thế giới không có người" cho đủ bộ". Trước đây khi viết "Một thế giới không có đàn bà" tôi gặp rất nhiều khó khăn vì mình chỉ là người vô danh, chưa đủ độ tin cậy cho một gay nào đến cung cấp tư liệu. "Les - Vòng tay không đàn ông" tôi được những bạn đọc là người đồng tính tìm đến tâm sự, cung cấp những tình tiết mà nhiều khi tôi không tưởng tượng nổi trên đời này có việc ấy xảy ra. Nói thuận lợi cũng không phải là hoàn toàn. Vì sao à? Để hiểu một người đàn bà bình thường là vô cùng khó, để hiểu một người đàn bà "les" thì còn khó hơn gấp nhiều lần. Anh có vẻ bi quan khi cho số phận các nhân vật đồng tính của mình có một kết cuộc buồn, thảm khốc. Đỉnh điểm là nhân vật Cô Út trong "Les - Vòng tay không đàn ông", một người đàn bà sống nghiêm túc đến độ khô khan lại phải chết vì hoảng loạn khi chỉ mới thoáng nghĩ mình có vấn đề về giới tính dù ít hay nhiều. Cái chết này chỉ là một tai nạn chứ không phải cô này tự đi tìm cái chết, cô không cố ý tìm đến cái chết. Vì cô Út sống trong một gia đình vô cùng nghiêm khắc do vậy khi mà phát hiện ra những sự thật chính tàn nhẫn nơi chính bản thân mình, cô ta không chịu nổi nên hoảng loạn chạy ra đường... Đây quả là điều đáng tiếc, nhưng tôi muốn nói: còn nhiều người vẫn chưa trả lời được câu hỏi "Tôi là ai?" ngay cả chính bản thân mình. Đôi lúc trai cũng thích mà gái cũng thích, ngủ với vợ mà mơ đàn ông, nhưng "đi" với với đàn ông lại cảm thấy sợ hãi, hoảng loạn. Quả là bi kịch của con người, không biết mình là ai đấy mới là đau khổ. Anh có nghĩ mình sẽ làm phật lòng những người đồng tính nam khi anh cho rằng "Là một người đồng tính nam thì trước sau gì cũng nhanh chóng bộc lộ bản thân mình... *** Còn đó một chút hư vô, còn đó một chút phiêu du, cánh sen hồng phai bay theo làn mây bay… bay…” Thật lạ cho một nhạc sĩ tuổi đời còn khá trẻ mà lại có thể viết nên những ca từ mang đầy hơi thở phiêu du lãng đãng đến như vậy. Và được vang lên từ chiếc cassette du lịch nhỏ, trong một buổi chiều đông Đà Lạt giá lạnh 12 độ. Gió len vào từng chân tơ kẽ tóc dưới bầu trời xám xịt với những hạt mưa phùn bay bám lên những cành lá rũ xuống làm tăng thêm vẻ mênh mông buồn của bản nhạc. Nếu chưa từng biết nhạc sĩ trẻ này thì Cường không thể nào nghĩ rằng anh ta chính là tác giả của bài hát, bởi hiểu theo lẽ thông thường, để viết được lời ca này phải là người từng trải, cuộc đời qua nhiều sóng gió truân chuyên ngọt bùi đắng cay và một ngày kia, tóc bạc, dựa cửa ngắm mây bay, chiêm nghiệm đời để mà viết. Cường lý luận như vậy mà phì cười tự giễu mình sao dạo này đa cảm quá. Cũng không hiểu sao, chỉ một lần thôi khi anh vô tình được nghe bài hát này qua giọng ca một nam ca sĩ thuộc hàng ngôi sao của một thành phố trong một quán cà phê nhạc mà anh bất chợt ghé qua trú mưa, thì từ đó, Cường luôn thấy mình bị ám ảnh bởi những lời ca phiêu lãng ấy đến tận bây giờ. Luôn luôn là một nỗi buồn dịu dàng không tên, len lén, nhoi nhói trong tim anh với những cảm giác của mơ hồ dịu ngọt mà bồng bềnh chơi vơi mong được bay xa, bay mãi. Rặng thông già vươn cao, trầm ngâm suy tư, xòe tay đan vào nhau dắt hàng chạy dài dọc theo con đường đá nhỏ uốn khúc từng bậc thang cheo leo bên vách núi đá đi lên một tu viện nhỏ thuộc Đan viện Cát Minh nằm ở tận gần trên đỉnh núi. Gọi núi hay đồi cũng được bởi không cao lắm, một bên là vách đá dựng đứng, di tích những cuộc khai thác lấy đá đến vô độ của những thập niên trước, bên này thì thoai thoải rừng thông chạy tràn dài xuống tận phía dưới. Thông xanh muớt, vi vu vui đùa với mây gió qua bao năm tháng thăng trầm của đời người lẫn thời cuộc. Con người từ tóc xanh thành tóc bạc rồi về với cát bụi hư vô mà rừng thông thì bao nhiêu năm rồi vẫn thế. Tạo hóa mới thật vô thường làm sao, những tiếc nuối trăng trở ưu tư rồi cũng như gió mây phù du lãng đãng của trời đất. Từ một đồi thông hoang vắng thì nay nó đã trở thành một nơi thiêng liêng của Thiên Chúa. Người dân quanh đây sùng kính gọi nơi này là đồi Thánh nữ bởi sự vinh danh vị Thánh Teresa thành Avila. Cuộc đời bà là sự thánh thiện hy sinh vô biên của những đau khổ bị giày xéo và những ân sủng thần bí mà nữ thánh này chấp nhận trong quá trình cải tổ những dòng kín, với châm ngôn “Muốn không để bất cứ ai mất linh hồn, tôi sẵn sàng thí mạng tôi cả ngàn lần” mà bất kỳ con dân nào của Chúa cũng biết đến. Dọc hai bên đường từng bậc than đá đi lên, Cường để ý thấy có rất nhiều những bông hoa nhỏ bé li ti manh mảnh như những đầu ngón tay xinh xinh, không rõ tên, nhiều màu tím, vàng, đỏ, chen lẫn nhau mọc đầy dọc ven con đường đất xen kẽ, lốm đốm như thảm hoa trải dài, nhìn thật đẹp. Và đứng phía dưới, nhìn lên trên đỉnh ngọn đồi có thể thấy được “Mẹ Thiên Chúa” tức đấng “Đồng Công Cứu Chuộc” đang chắp tay hướng lên trời cao, nét mặt bình thản an nhiên một mình trong chiều tà gió lạnh với ánh mắt tràn đầy tình yêu thương đang dõi về một phương xa vô tận nào đấy. Khi lên đến nơi có thể thấy rõ Đức Mẹ Maria mặc áo dài trắng, đầu quấn khăn tấm ba vành nhìn rất Việt Nam, cho thấy dường như tượng Đức Mẹ được dựng sau Công đồng II với quan điểm, hướng về bản sắc văn hóa của từng dân tộc có sự kết nối hài hòa giữa niềm tin Thiên Chúa và tính bản địa trong bối cảnh thời đại đang có những phát triển vượt bậc. Nhìn kỹ sẽ thấy đây là một gương mặt phụ nữ Á Đông đẹp trầm tĩnh và khó có thể biết được Mẹ của Thiên Chúa đang nghĩ gì nếu không có một niềm tin kính sâu sắc để nguyện ngẫm. Tượng nét tạc tinh xảo thể hiện rõ qua ánh mắt, làn môi lẫn nét áo dài nhìn hài hòa, sống động cho thấy những người làm tượng đã làm ra được cái thần cho tượng khiến đây xứng đáng một tác phẩm nghệ thuật đẹp có giá trị. ... Mời các bạn đón đọc Phương Pháp Của A.C.Kinsey của tác giả Bùi Anh Tấn.
Les - Vòng Tay Không Đàn Ông - Bùi Anh Tấn
Tác giả tâm sự: " Thật ra lúc đầu tôi quan tâm đến những người đồng tính chỉ vì không thể tưởng tượng được trong cuộc đời này lại có những người đàn ông-đàn ông, đàn bà-đàn bà "yêu" nhau, vậy họ yêu nhau như thế nào và tại sao lạ thế? Lúc đó tôi không có ý định là sẽ viết hẳn một cuốn tiểu thuyết về đề tài những người đồng tính. Nhưng sau một thời gian tìm hiểu, từ những điều mình biết, đã nảy sinh trong tôi những hứng thú muốn tìm hiểu sâu hơn về những con người này với tư cách người cầm bút. Đấy là cả một thế giới nội tâm rất phong phú, có nhiều màu sắc cả bi lẫn hài... Hãy nhân ái hơn, tạo hóa đã quá nghiệt ngã với họ, thì chúng ta, những con người với con người, lẽ nào lại không hiểu nổi nhau..." Những nhân vật chính của truyện là những người phụ nữ thành đạt, cả về danh vọng lẫn vật chất, họ có thể là nghệ sĩ, có thể là doanh nhân, có thể là giảng viên đại học, hay cô sinh viên đang theo học ở một trường nào đó. Họ đã phải đối mặt với những rắc rối của chính bản thân cũng như sức ép của dư luận. Họ đã tìm đến nhau... "Phụ nữ - bất kể họ là ai thì vẫn luôn luôn giữ được sự mềm mại, dịu dàng, nữ tính. Và dĩ nhiên những trang viết về họ cũng sẽ như vậy. Không có vụ án, không có máu đổ nhưng nhiều nước mắt. Xin đừng so sánh cuốn này với Một thế giới không có đàn bà, e rằng bạn đọc sẽ thất vọng, bởi tuy chung một đề tài đồng tính nhưng mỗi một cuốn tiểu thuyết đều có đối tượng riêng của nó." (Bùi Anh Tấn) Nhà văn Bùi Anh Tấn: "Gay" hay "Les" tôi đều thích cả! Bùi Anh Tấn là nhà văn đầu tiên viết về đề tài đồng tính nên anh đã vấp phải nhiều luồng dư luận đối kháng. Kẻ này hoan nghiênh đề tài lạ nhưng chưa phải là mới, kẻ khác lại cho rằng viết như thế vẽ đường cho hươu chạy! Bất chấp mọi ý kiến, tuần qua Bùi Anh Tấn bắn tiếp một phát đạn thứ hai bằng tiểu thuyết "Les - Vòng tay không đàn ông". Với "Một thế giới không có đàn bà" anh gặp quá nhiều dư luận khen chê, thậm chí đặt dấu hỏi to đùng về giới tính của anh. Bây giờ anh tiếp tục "tái xuất" với một tiểu thuyết cùng đề tài nhưng "trái dấu" đó là "les" (đồng tính nữ). Anh không ngại búa rìu dư luận sao? Bùi Anh Tấn: Đối với một người cầm bút viết văn, điều sợ hãi nhất là lặp lại chính mình, thà không viết nữa còn hơn viết lại những gì mình đã viết. Chính vì vậy, với "Les - Vòng tay không đàn ông" tôi tự coi là trách nhiệm viết một tác phẩm cho những người đồng tính, vì họ cũng cần được quan tâm. Tôi viết nhiều về đề tài đồng tính vì tôi hiểu họ, tôi tôn trọng họ. Gay hay les gì tôi đều yêu cả. Bạn bè tôi cứ nói thế này "Bùi Anh Tấn đã viết một thế giới không có đàn bà, rồi đến một thế giới không có đàn ông. Thôi mai mốt viết nốt luôn "Thế giới không có người" cho đủ bộ". Trước đây khi viết "Một thế giới không có đàn bà" tôi gặp rất nhiều khó khăn vì mình chỉ là người vô danh, chưa đủ độ tin cậy cho một gay nào đến cung cấp tư liệu. "Les - Vòng tay không đàn ông" tôi được những bạn đọc là người đồng tính tìm đến tâm sự, cung cấp những tình tiết mà nhiều khi tôi không tưởng tượng nổi trên đời này có việc ấy xảy ra. Nói thuận lợi cũng không phải là hoàn toàn. Vì sao à? Để hiểu một người đàn bà bình thường là vô cùng khó, để hiểu một người đàn bà "les" thì còn khó hơn gấp nhiều lần. Anh có vẻ bi quan khi cho số phận các nhân vật đồng tính của mình có một kết cuộc buồn, thảm khốc. Đỉnh điểm là nhân vật Cô Út trong "Les - Vòng tay không đàn ông", một người đàn bà sống nghiêm túc đến độ khô khan lại phải chết vì hoảng loạn khi chỉ mới thoáng nghĩ mình có vấn đề về giới tính dù ít hay nhiều. Cái chết này chỉ là một tai nạn chứ không phải cô này tự đi tìm cái chết, cô không cố ý tìm đến cái chết. Vì cô Út sống trong một gia đình vô cùng nghiêm khắc do vậy khi mà phát hiện ra những sự thật chính tàn nhẫn nơi chính bản thân mình, cô ta không chịu nổi nên hoảng loạn chạy ra đường... Đây quả là điều đáng tiếc, nhưng tôi muốn nói: còn nhiều người vẫn chưa trả lời được câu hỏi "Tôi là ai?" ngay cả chính bản thân mình. Đôi lúc trai cũng thích mà gái cũng thích, ngủ với vợ mà mơ đàn ông, nhưng "đi" với với đàn ông lại cảm thấy sợ hãi, hoảng loạn. Quả là bi kịch của con người, không biết mình là ai đấy mới là đau khổ. Anh có nghĩ mình sẽ làm phật lòng những người đồng tính nam khi anh cho rằng "Là một người đồng tính nam thì trước sau gì cũng nhanh chóng bộc lộ bản thân mình... Đây là những điều tôi đúc kết được từ kinh nghiệm của những bạn đọc đồng tính tâm sự với tôi. Tôi cũng đã suy nghĩ mãi khi viết về điều ấy, nhưng sự thật nó là thế. Có một điều không biết có phải là qui luật hay không, thường những người đồng tính nam lúc trẻ hay thích se sua, khoe khoang quần áo, thân xác, xe máy, những cuộc tình chớp nhoáng, thỏa mãn... nhưng đến một ngày tàn tạ trong mắt người tình của mình sau cái tuổi 25 thì mới nhận ra giá trị cần một tình yêu thật sự, nhưng nó đã trễ mất rồi. Đó cũng là bi kịch của người đồng tính. Với "Les - Vòng tay không đàn ông" gần như trọn tiểu thuyết chẳng có một nụ hôn nào giữa các "nàng", trong khi "Một thế giới không có đàn bà" anh khá táo bạo về sex. Phải chăng với les Bùi Anh Tấn không có kinh nghiệm về "chuyện ấy"? Không phải là tôi không biết chị em les "sinh hoạt" như thế nào, thậm chí còn biết nhiều, biết một cách chóng mặt vì nó ngoài sức tưởng tượng của tôi. Nhưng mà tôi không muốn nhắc đến vì dù gì thì họ vẫn là phụ nữ, mà phụ nữ rất ngại nói huỵch toẹt những vấn đề tế nhị đó. Với tư tưởng trong tác phẩm của mình, anh không sợ bị gán cho tội cổ vũ chuyện đồng tính? Trong tác phẩm của tôi có nhiều đoạn có thể gây sốc cho một số người nào đó, nhất là những người tỏ vẻ cao đạo, nghiêm cẩn. Có thể họ sẽ hiểu lầm đây là những tuyên ngôn gì đấy cho giới đồng tính hay cổ súy cho hiện tượng này. Nhưng tôi muốn nói rằng mọi người nên chấp nhận vì đây là một thực tế, thục tế đồng tính đã, đang và sẽ tồn tại trong xã hội này. Nhưng nó tồn tại ở một chừng mực nhất định nào thôi, không thể từ chối hay phủ nhận nó được. *** Sân bay Tân Sơn Nhất, khu vực dành cho các chuyến bay đi nước ngoài, tấp nập người qua lại. Ai cũng hối hả, vội vã làm thủ tục chen lấn nhau ở các quầy. Thật bất ngờ, không hẹn mà cả ba người Hương Trang, Kiều Thu, Yên Thảo lại đi cùng một chuyến bay của hãng hàng không Asiana Airlines bay theo chặng Thành phố Hồ Chí Minh – Hồng Kông – Chicago. Đến Hồng Kông thì tất cả cùng đổi chuyến bay, Hương Trang bay tiếp về Mỹ, Kiều Thu qua Anh còn Yên Thảo về Pháp. Lơ ngơ bên những chiếc vali chất đầy trên chiếc xe đẩy,theo tiếng loa hướng dẫn của phát thanh viên hàng không, lần lượt mọi người nối đuôi nhau vào phòng chờ. Bọn họ nhìn nhau cứ như chưa hề quen biết, ánh mắt người nào ngưới nấy đều ráo hoảnh như những người xa lạ. “Quý khách chú ý…” Yên Thảo lấy mắt kính ra, quay lại nhìn thành phố một lần nữa. Nắng mới vàng làm sao và phố rất đông người qua lại. Phía bên trong, Kiều Thu lẫn Hương Trang đã mất hút trong ciếc thanh cuốn đưa lên máy bay, riêng nàng vẫn còn chùng chình làm thủ tục và tiếc nuối nhìn lại phía sau. Hơn hai năm sống và làm việc ở thành phố này với biết bao kỷ niệm buồn vui và điều quan trọng hơn là nàng đã tìm thấy được chính nàng, tình yêu của nàng. Biết nói gì đây trước giờ chia tay với thành phố và những người yêu thương của nàng bây giờ nhỉ. Thật bất ngờ trong khi đang làm thủ tục thì Yên Thảo nghe cô nhân viên hàng không hát nho nhỏ. Ta mang cho em một chút buồn, Vì ta như sóng lênh đênh…. Mội em cho ta một cánh hồng, Lụa là phút ấy chưa quên. Thôi chào em, về giữa phố xá thênh thang… Không gì vui thì hãy gắng nhớ đôi lần…. Nhớ chứ làm sao quên được hả em, ta sẽ nhớ mãi, nhớ đến suốt đời nỗi đau này. Cả cuộc đời ta mênh mông như sa mạc trắng trong nỗi cô đơn triền miên đi tìm ta và tìm em. Có em, ôm em thật chặt và ao ước giá như được từ giã cõi đời này mà vẫn có em trong vòng tay thì hạnh phúc biết mấy. Đã có rất nhiều lời định nghĩa này kia về hạnh phúc và ta, cũng nhiều lần tự định nghĩa về tình yêu của mình để rồi suốt đời mải mê đi tìm nó. Chỉ đến khi có được em trong vòng tay thì ta mới chợt hiểu ra, hạnh phúc đích thực là thế nào. Để nay phải xa cách, ta biết nói gì với em bây giờ ngoài nỗi nhớ triền miên nhiều đêm mất ngủ bởi mơ về em, bởi vì ta yêu em mãi mãi. … Thảo, hãy hứa với em đi, nhất định Thảo sẽ trở về. Em sẽ chờ Thảo cho đến suốt đời mình, em yêu Thảo. Yên Thảo lau nhanh những giọt nước mắt trước ánh nhìn cảm thông của nữ tiếp viên soát vé, chắc cô ta tưởng nàng xúc động trước khi rời Tổ quốc. Bóng người đàn bà lẻ loi cô đơn, ngập ngừng từng bước chân nặng trì, cuối cùng cũng biết mất sau cửa cầu thang lên máy bay. Tạm biệt. 1-12-2004 Bùi Anh Tấn Mời các bạn đón đọc Les - Vòng Tay Không Đàn Ông của tác giả Bùi Anh Tấn.