Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đặng Thái Sơn - Người Được Chopin Chọn (Ikuma Yoshiko)

"Đặng Thái Sơn đã làm thay đổi cả một nền âm nhạc!

Anh đã làm điều đó như thế nào?"

Đặng Thái Sơn vẫn thường nói sẽ biểu diễn những dạng mục đa dạng, từ các bản nhạc của Chopin cho đến các tác phẩm âm nhạc Nga, Pháp. Danh mục này càng mở rộng, anh càng chứng minh được sự trưởng thành của một nghệ sĩ dương cầm tài năng. Sau nhiều năm, thường xuyên viết bài về những nghệ sĩ dương cầm, nghe và xem họ biểu diễn, tác giả rút ra một kết luận: "Nghệ sĩ dương cầm thể hệ truyền cảm nhất khi đến tuổi 40".

Không biết có phải vì cây đàn piano quá lớn, không như violon, mà các nghệ sĩ nhí, được gọi là "thần đồng", thường xuất hiện trên sân khấu với loại nhạc cụ có dây, còn chơi piano, nếu không qua một độ tuổi nhất định thì khó mà biểu diễn thành công, chỉ dừng ở chơi cho vui, cho biết. Có lẽ cần nhiều thời gian để một người có thể hiểu cơ cấu và cảm nhận về loại nhạc cụ phức tạp này.

Thông thường, các nghệ sĩ piano muốn thành công trên con đường sự nghiệp biểu diễn quốc tế, có mặt trong các buổi hoà nhạc lớn ở các nhà hát lừng danh, không còn cách nào khác hơn là tham gia các cuộc thi piano quốc tế từ độ tuổi 15 đến 30. Cũng có trường hợp được các ông bầu nổi tiếng hay những công ty sản xuất âm nhạc phát hiện, nhưng đây là những trường hợp rất hiếm. Tuy nhiên, với nhiều người được vinh danh tại các cuộc thi âm nhạc, ngay sau khi nhận giải thưởng, dù họ có tổ chức nhiều hoạt động rình rang, đình đám như thế nào thì vài năm sau đó, tên tuổi của họ cũng dần trở nên im ắng. Cuộc đời của những nghệ sĩ piano luôn nghiệt ngã như thế đấy! Bất chấp tất cả, họ vẫn tồn tại, vẫn luyện tập từng giờ từng ngày, chấp nhận đánh đổi cuộc đời mình cho nghiệp dương cầm. Chính vì vậy, khi biểu diễn, những thăng trầm của cuộc đời nghệ sĩ dương cầm được thể hiện rất rõ nét qua tiếng đàn. Từng nốt nhạc vang lên phản ánh chân thực lối sống của người nghệ sĩ. Âm nhạc luôn luôn gắn bó với họ. Ngay cả khi đi ngủ, những bản nhạc mà họ đang luyện tập vẫn cứ réo rắt vang lên trong đầu. Tìm mua: Đặng Thái Sơn - Người Được Chopin Chọn TiKi Lazada Shopee

Chúng ta, những khán giả thưởng thức âm nhạc, sẽ cảm nhận và hiểu hơn về lẽ sống của người nghệ sĩ piano từ những buổi biểu diễn của họ, đó chính là cái mà chúng ta gọi là sự "đồng điệu".

Đời người thay đổi, âm nhạc cũng đổi thay. Kinh nghiệm sống đem lại sự cảm nhận tác phẩm sâu sắc và sự truyền cảm khi biểu diễn. Từ một cuộc sống đầy trắc trở, điều mà Đặng Thái Sơn học được, đó là gì? Tác giả bắt đầu cuộc hành trình giải mã những điều bí ẩn xung quanh con người Đặng Thái Sơn.***

Đặng Thái Sơn nhận được bức thư chúc mừng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Với giải nhất trong cuộc thi Chopin, Đặng Thái Sơn đã mang vinh dự về cho đất nước Việt Nam. Tài năng của anh đã được cả thế giới công nhận. Sự thành công của Đặng Thái Sơn đã khiến Chính phủ đẩy mạnh giao lưu hợp tác quốc tế, cho các tài năng âm nhạc trẻ ở Việt Nam sang Liên Xô du học, đồng thời cũng mở ra những con đường mới thông thoáng cho giới nghệ sĩ và tầng lớp trí thức.

Sơn cảm thấy hạnh phúc vì vai trò của mình hơn là giải thưởng, anh đã trở thành tấm gương cho thế hệ sau noi theo. Cũng nhờ anh mà sự nghi kị giữa chính phủ và cha anh không còn nữa. Cha anh đã được chính phủ tạo điều kiện tốt nhất để điều trị bệnh.

Khi về đến sân bay quốc tế Nội Bài, Hà Nội, Sơn có cảm giác bất an cho đến khi gặp mọi người ở đại sảnh. Đó là thầy giáo và các học sinh trong nhạc viện Hà Nội, mọi người đều ra đón Sơn. Đối với Sơn những người trong nhạc viện cũng đồng thời là gia đình. Mọi người gọi thật to, đầy những gương mặt tươi cười.

“Đặng Thái Sơn, chúc mừng chiến thắng.”

“Cậu đã làm được. Tuyệt thật.”

“Sơn, Sơn Chopin.”

Mọi người vừa chúc mừng vừa vỗ tay. Sơn đã ở lại Nhạc viện Hà Nội mừng chiến thắng trong một tuần lễ.

Tại sân bay chật ních những người đón Sơn.

Anh cảm động nói: “Tôi không nghĩ là có nhiều người đón chào như thế. Gương mặt mọi người thật sự trông rất hạnh phúc. Tôi xúc động quá!”

Sơn cầm hành lý đứng thẳng lên. Cũng có nhiều người trong chính phủ ra đón.

Một người đại diện chính phủ nói: “Đặng Thái Sơn. Anh đã trở về. Chúng tôi có thể làm gì cho anh không?”

“Tôi chỉ muốn gặp lại cha mình”.

Khi đến bệnh viện, Sơn được biết nhờ sự giúp đỡ của chính phủ mà căn bệnh ung thư phổi của cha anh đã qua cơn nguy kịch. Ông Hưng đã khỏe và có thể sống thêm 10 năm nữa. Điều mà ông mừng nhất là có thể sáng tác một cách tự do hơn.

Gặp lại con trai ông xúc động nói: “Sơn. Cám ơn con. Cha muốn trở thành nghệ sĩ hay nhà văn. Mọi người đều có thể phát huy tài năng của chính mình. Thời đại đã thay đổi, cánh cửa mới đã mở ra. Chiến thắng của con chính là mục tiêu các nghệ sĩ Việt Nam phải tiến đến. Sao mà vui đến thế. Cha không nghĩ cha con ta có được niềm vui này.”

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tự mình chuẩn bị món quà lớn cho Sơn. Đó chính là danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”. Ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên một nghệ sĩ mới qua tuổi 20 nhận được danh hiệu cao quý này.

Vì điều kiện liên lạc khó khăn nên mẹ Sơn đang công tác tại Sài Gòn không nhận được tin tức về con trai.

Một ngày nọ, một người quen đến nói với bà: “Chị Liên, tôi nghe trên radio nói con trai của chị đạt giải nhất trong cuộc thi đó.”

“Nói gì thế? Thật không đó? Đừng có trêu tôi!”

“Thật mà. Nhà tôi nghe đài phát thanh Úc mà. Không nhầm đâu. Chính xác là Đặng Thái Sơn, giải nhất mà.”

Quá vui mừng bà chạy đến những người xung quanh thông báo tin mừng.

“Thầy ơi, con trai của em chiến thắng rồi. Đưa tin trên đài Pháp và Mĩ.”

Vào lúc đó, có nhiều nhà nghe chương trình phát thanh tiếng Việt của đài nước ngoài. Bà Liên đã nhận được tin mừng, nhưng không có điện thoại hay cách nào để xác nhận lại. Đài Việt Nam ba ngày sau chung kết cuộc thi mới đưa tin. Ngay lập tức Thủ tướng đánh điện báo đến Vácxava.

Phương châm của Sơn chính là “chậm mà chắc”. Sơn thích câu nói này từ rất lâu vì anh cảm thấy mình là người không nhanh trí.

“Từ nhỏ tôi cũng học giống như người khác nhưng mãi về sau mới thấm được. Nhưng nếu bắt đầu sớm thì có thể kết thúc cũng sớm. Trong trường hợp của tôi là thật sự rất muộn. Nên tôi nghĩ con đường tôi đi sẽ còn dài về sau nữa.”

Những kinh nghiệm mới mẻ mà Sơn có được khi sống ở Việt Nam, Liên Xô, Nhật Bản, Canada đã mài giũa âm nhạc, tạo nên con người mới trong anh. Con người ấy thể hiện rất rõ khi anh biểu diễn. Khi mới chuyển đến Canada, trong những lần biểu diễn đầu tiên, anh đã nhận được khá nhiều bình phẩm đại loại:

“Tại sao anh ta lại chơi nhanh như vậy?”

“Âm nhạc của anh ta rốt cuộc muốn nói lên cái gì?”

“Tại sao lại thể hiện như thế?”

Đôi khi, những lời bình phẩm trở nên rất gay gắt, nhưng Sơn chỉ lặng lẽ đón nhận. Những lời bình phẩm khi anh diễn ở Mỹ còn khắt khe hơn nhiều.

Sơn nói: “Tôi đã được nuôi dưỡng từ trong chiến tranh nên không thể nào ngọt ngào được.”

Sơn cũng đã điều trị được căn bệnh của cổ tay nhiều năm dài. Sơn nhận ra dưới cổ tay trái có hạch, lúc đó là thời kì quan trọng, Sơn phải thi trong kì thi năm thứ hai ở Moscow. Với thân hình nhỏ bé, Sơn không thể luyện tập những bản nhạc lớn, rồi lại tới căn bệnh đó. Năm 1982, vì quá đau Sơn đã đành phải hủy bỏ biểu diễn trong một năm.

Tiến hành thử nghiệm điều trị đủ loại nhưng không có tiến triển gì. Cũng trong thời gian này, Đặng Thái Sơn bị đau bao tử. Khi chuyển đến Canada, anh bắt đầu chuyển sang phương pháp điều trị bằng yoga, cuối cùng cũng khỏi. Từ lúc phát sinh đến vượt qua được mất hết 12 năm.

Sơn nói: “Khi cơ thể yếu tôi mới hiểu được nỗi khổ của Chopin.”

Sơn nhớ rất rõ về Hội chữ thập đỏ Vácxava, nơi cất giữ trái tim của Chopin. Cứ mỗi lần đến đó Sơn thường đứng hàng giờ trò chuyện với trái tim của Chopin. Khi ở không gian yên tĩnh ấy, tâm hồn Sơn được bình thản và quý trọng từng giây phút vừa đi qua.

Dàn nhạc Giao hưởng Vácxava là chốn thân thương với Sơn.

Sơn tâm sự: “Mỗi lần đến đây cứ như là quay lại với mình của ngày xưa. Giống như là quê hương vậy.”

Tháng 3 năm 1992, Sơn biểu diễn hai bản concerto của Chopin cùng với dàn nhạc do Jerzy Maksymiuk làm nhạc trưởng-dàn nhạc và nhạc trưởng người Ba Lan. Khi đó trái tim Sơn tràn ngập xúc động không thể tả nổi.

“Thế là đã 12 năm. Tất cả giống như một giấc mơ vậy. Tôi yêu nhạc Chopin. Và 12 năm nỗ lực đến gần tâm hồn của Chopin.”

Khi Sơn bắt đầu hoạt động biểu diễn, anh vẫn chưa được phép biểu diễn ở Mỹ. Mỹ không cấp visa cho người Việt Nam. Nhưng vào năm 1989, Sơn đã có thể biểu diễn ở New York. Lúc đó chỉ có visa viếng thăm nên thời hạn không lâu. Tuy nhiên có thể trình diễn ở Mỹ là một bước vượt bậc đối với Sơn.

“Mỹ có lẽ là một đất nước tự do nhưng thực tế thì khá thực dụng. Ảnh hưởng của chính trị cũng mạnh. Sau chiến tranh ở Việt Nam cho đến bây giờ, hiện thực vẫn là vết thương sâu đối với người Mỹ. Bây giờ nếu người Mỹ có đi du lịch ở Việt Nam thì cũng được người Việt Nam hết sức chào đón, nhưng ngược lại thì không thể. Quả thật là rất khó khăn.”

Sau này, Sơn còn nhận được nhiều lời mời sang Mỹ biểu diễn.

Năm 1994, Sơn biểu diễn tại Thành phố Hồ Chí Minh. Khán giả đều là người miền Nam nên Sơn lo lắng không biết có thể giao lưu với họ được không? Nhưng rồi âm nhạc đã kết nối Sơn với mọi người. Và anh còn có nhiều dịp trò chuyện với những người trước đó anh còn e ngại. Bây giờ Sơn đang định tiến tới bước tiếp theo.

“Ước mơ của tôi là xây dựng trường học về âm nhạc. Tôi muốn tìm ra các em có tài năng và, nếu có thể, sẽ đào tạo các em thành nghệ sĩ âm nhạc thực thụ. Những ý niệm để cảm tạ quê hương đã ấp ủ nhiều năm qua.

Khi sắp bước tới tuổi 40, Sơn nói:

“Tôi là người đàn ông trưởng thành. Là một con người tự lập. Tôi bằng lòng với tuổi tác của mình. Tuổi trẻ thì đương nhiên tốt hơn rồi nhưng tôi phải chịu trách nhiệm tất cả những hành động, suy nghĩ của mình. Cách thể hiện chắc chắn phải ứng với tuổi tác. Bây giờ, tôi đàn theo ý mình, cách đàn này là do chính tôi muốn nghe, thích nghe như vậy. Mình chính là nghệ sĩ của chính mình.”

Bây giờ Sơn đang dạy tại Trường âm nhạc Tokyo. Sơn còn được trường đại học Montréal mời về dạy và tổ chức biểu diễn ở những nơi khác nhau trên thế giới.

Người mà Sơn yêu nhất là mẹ Liên. Khi mọi người hỏi vui: “Dạo này chị Liên không đàn nhạc của Chopin nữa nhỉ.”

Thì bà trả lời: “Con trai của tôi rất giỏi nên tôi không bì được.”

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đặng Thái Sơn - Người Được Chopin Chọn PDF của tác giả Ikuma Yoshiko nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nỗi Buồn Chiến Tranh (Bảo Ninh)
Tác phẩm là dòng hồi ức của người lính về chiến tranh và thời tuổi trẻ đã trải qua trong bom đạn. Đó là lòng tiếc thương vô hạn đối với những người cùng thế hệ với mình đã nằm xuống, là ám ảnh về thân phận con người trong thời buổi loạn ly, và thông qua thân phận là sự tái hiện đầy xót xa về quá khứ, những suy tư nghiền ngẫm về con đường dấn thân của cả một thế hệ sinh ra trong chiến tranh. Bao trùm lên tất cả, là nỗi buồn sâu xa gắn với từng mảnh đời riêng. Tác phẩm đã bước ra khỏi lối mòn về lòng tự hào dân tộc cùng những chiến công và vinh quang tập thể để nêu lên thông điệp về sự ghê tởm, về tính chất hủy diệt của chiến tranh đối với con người. Vào thời điểm ra đời cuối thập niên 1980, “Nỗi buồn chiến tranh” có thể được xem là tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại đầu tiên viết về chiến tranh có cái nhìn khác với quan niệm truyền thống, khẳng định mạnh mẽ vai trò cá nhân trong xã hội, quyền sống, hạnh phúc và đau khổ của con người với tư cách một cá thể độc lập. Tiểu thuyết nhận được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nỗi Buồn Chiến Tranh PDF của tác giả Bảo Ninh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nỗi Buồn Chiến Tranh (Bảo Ninh)
Tác phẩm là dòng hồi ức của người lính về chiến tranh và thời tuổi trẻ đã trải qua trong bom đạn. Đó là lòng tiếc thương vô hạn đối với những người cùng thế hệ với mình đã nằm xuống, là ám ảnh về thân phận con người trong thời buổi loạn ly, và thông qua thân phận là sự tái hiện đầy xót xa về quá khứ, những suy tư nghiền ngẫm về con đường dấn thân của cả một thế hệ sinh ra trong chiến tranh. Bao trùm lên tất cả, là nỗi buồn sâu xa gắn với từng mảnh đời riêng. Tác phẩm đã bước ra khỏi lối mòn về lòng tự hào dân tộc cùng những chiến công và vinh quang tập thể để nêu lên thông điệp về sự ghê tởm, về tính chất hủy diệt của chiến tranh đối với con người. Vào thời điểm ra đời cuối thập niên 1980, “Nỗi buồn chiến tranh” có thể được xem là tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại đầu tiên viết về chiến tranh có cái nhìn khác với quan niệm truyền thống, khẳng định mạnh mẽ vai trò cá nhân trong xã hội, quyền sống, hạnh phúc và đau khổ của con người với tư cách một cá thể độc lập. Tiểu thuyết nhận được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nỗi Buồn Chiến Tranh PDF của tác giả Bảo Ninh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hải Trình Ven Bờ (Jorge Amado)
Nhà văn Brazil nổi tiếng Jorge Amado (1912-2001) không có ý định viết hồi ký. Tác phẩm “Hải trình ven bờ” (Navigation de cabotage, 1992) chỉ là những mảnh vụn hồi ức qua nhiều năm được ông ghi lại và quyết định cho công bố với hy vọng đưa ra câu trả lời cho một số câu hỏi “thế nào” và “vì sao”về những sự kiện và con người thế kỷ XX mà ông có dịp chứng kiến và trải qua. Với ông, đó là những điều vui buồn ông đã trải trên hải trình đi sát bờ của chuyến tàu có tên gọi là Cuộc Sống. Ông viết “Tôi vốn không phải sinh ra để thành người nổi tiếng, đừng đo tôi bằng những thước đo “cỡ lớn - cỡ nhỏ” - lạy Chúa, tôi không bao giờ cảm thấy mình là một nhà văn nổi tiếng, một cá nhân xuất sắc cả. Tôi chỉ đơn giản là một nhà văn, đơn giản là một cá nhân? Như thế còn ít sao?” Thời gian và địa điểm ở đây là lúc và nơi diễn ra sự việc, chứ không phải chỗ khi ông ghi chép lại. Bản dịch được thực hiện theo bản tiếng Nga của A. Bordanovski đăng trên tạp chí “Văn học nước ngoài” của Nga số 7 năm 1998. *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001) Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức. Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763. Tìm mua: Hải Trình Ven Bờ TiKi Lazada Shopee Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17. Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)… Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA. Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil. Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ Hải Trình Ven BờĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hải Trình Ven Bờ PDF của tác giả Jorge Amado nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ký Ức Lạc Loài (W. G. Sebald)
Ký ức lạc loài (nguyên tác tiếng Đức: Die Ausgewanderten) là tuyển tập bút ký của W.G. Sebald ấn hành năm 1992; từng được trao các giải thưởng văn chương danh giá: Berlin Literature Prize, the Literatur Nord Prize và Huy chương Johannes Bobrowski. Bản tiếng Việt do Đăng Thư dịch lại từ phiên bản tiếng Anh có nhan đề The Emigrants của Michael Hulse, in 1997. Cuốn sách là bốn câu chuyện đầy u uẩn của bốn nhân vật: Henry Selwyn, Paul Bereyter, Ambros Adelwarth và Max Aurach - những người Đức di cư đến Anh, Mỹ sau Thế chiến Thứ hai. Các nhân vật của Sebald đa phần thuộc thành phần trí thức: bác sĩ, giáo viên,… trở thành những người di dân và bị lưu đày trong vùng ký ức ngột ngạt. Trong buổi hoàng hôn của cuộc đời, họ không thể tìm thấy bình yên. Họ tự sát, tự đi vào nhà thương điên hay tìm cách trở về rồi biến mất… Lối viết tỉ mỉ, cùng hình ảnh tư liệu minh họa, các câu chuyện đan bện vào nhau như những thước phim tài liệu có màu sắc ảm đạm, chậm rãi và ẩn giấu nhiều sự thật tàn khốc, chạm vào tầng sâu kín nhất của tâm thức di dân. Tìm mua: Ký Ức Lạc Loài TiKi Lazada Shopee Đọc W. G. Sebald cũng có thể nhận ra tâm trí con người là thứ bị hủy hoại nặng nề và khó tái thiết nhất sau những dư chấn lịch sử.***Giữa những trang sách như một mê cung của ký ức, chiến tranh âm thầm len lỏi, những thất vọng và đổ vỡ được chất chứa trong một hình thức bình thản đến kỳ lạ Có những nhà văn sinh ra để lưu giữ ký ức của một dân tộc, để không gì bị lãng quên. Đối với những người Đức nhập cư, W.G. Sebald là người trao truyền ký ức của họ. "Ký ức lạc loài" (Đăng Thư dịch, Phanbook và NXB Đà Nẵng ấn hành 2019) là tác phẩm ký thác những mảnh vụn đời sống của một thế hệ người nhập cư sau Đệ nhị Thế chiến. Thật khó để định dạng rõ ràng thể loại của tác phẩm này. Là một tiểu thuyết, nó đầy ắp tư liệu hình ảnh, những ngày tháng. Là một hồi ký, nó bàng bạc tính hư cấu và những liên tưởng văn chương. W.G. Sebald đưa người đọc vào thế giới của những thước phim tài liệu, như một biên niên ký ghi nhận 4 cuộc đời song hành cùng nhau, đau thương cùng nhau và hủy diệt cùng nhau. Lần lượt trải qua 4 nhân vật: bác sĩ Henry Selwyn, Paul Bereyter, Ambros Adelwarth và Max Aurach, nhà văn tái hiện bức chân dung của những con người tha hương lưu lạc nơi đất khách, từng người mang theo trong mình gánh nặng quá khứ. Đối với họ, đời sống ở nơi chốn mới không khác chi sự lưu đày, khi mà những thương tổn xa xưa vĩnh viễn in hằn trong trí nhớ. Ký ức đối với họ "là một thứ ngu ngốc. Nó làm đầu óc ta choáng váng, chẳng khác gì ta không nhìn ngược về phối cảnh đang lùi xa dần của thời gian mà là nhìn xuống mặt đất từ một độ cao chót vót, từ trên một tòa tháp nào đó mà đỉnh đã chìm khuất trong mây". Trên cái "độ cao chót vót" ấy, W.G. Sebald nhìn xuống quá khứ như nhìn xuống một vực thẳm, từ vực thẳm, những tiếng nói tưởng chừng bị chôn vùi bỗng vang vọng, sống động và chân xác như thể ở cái chốn thâm u của lịch sử ấy, những số phận lạc loài vẫn ngày ngày cất lên lời ai oán về những nỗi đau chiến tranh. Có thể xếp W.G. Sebald vào những nhà văn Đức hậu chiến, mặc cho ông bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn, dù rằng ông rời bỏ nước Đức khi tuổi đời còn rất trẻ và quyết định sống nốt phần đời còn lại ở nước ngoài. Dường như ông muốn giữ khoảng cách với quê hương, một khoảng cách vừa đủ để ông nhìn lại nó dưới thấu kính của mình. "Ký ức lạc loài" từ đầu đến cuối giữ một điểm nhìn trung lập, người kể chuyện giữ mối quan hệ nhất định với các nhân vật nhưng đồng thời lại có vẻ biết rất ít về những con người đã dần phai nhạt trên cuộc đời, thứ nhắc nhớ chỉ còn là những di vật từng thuộc về một ai đó đã tồn tại cứ khiến ta băn khoăn đến sự hiện hữu của họ. Trong tác phẩm của W.G. Sebald, chiến tranh hiện lên chớp nhoáng. Khác với những nhà văn khác, ông không miêu tả một xã hội Đức rệu rã, hỗn loạn, đánh mất niềm tin không chỉ vì nỗi nhục thua trận trong chiến tranh mà còn bởi những giá trị về con người và nhân phẩm bị rạn vỡ. Ông sinh vào giai đoạn Thế chiến thứ hai đã đến hồi tàn, ông không trực tiếp trải qua cuộc chiến, không đứng hẳn về phía những kẻ chiến bại, không phát điên về nó. Ông trưởng thành trong một thời đại không thấy anh hùng, cho nên không khắc họa sự thiếu vắng lý tưởng ở các nhân vật của thời đại. Ông đối thoại với quá khứ bằng số liệu, ông lạnh lùng nhìn lại thế hệ cha ông với đôi mắt tinh tường và một tinh thần phán xét. W.G. Sebald có người cha đi lính cho Đức quốc xã, trở thành tù binh chiến tranh, chỉ được thả vào năm 1947. Sinh năm 1944, ký ức chiến tranh hiện diện sâu sắc nhất trong đời ông chính là khi ở trường, ông được cho xem những bức ảnh về trại tập trung Holocaust. Từ đó Holocaust và nước Đức thời hậu chiến trở thành chủ đề lớn trong các tác phẩm của ông. W.G. Sebald làm công việc của một sử quan nhưng không mấy chú trọng vào toàn cảnh của lịch sử mà tập trung vào những nhân vật phụ, những tiểu cảnh lẩn khuất phía xa trong tổng thể của một bức tranh lớn. Với cái nhìn nhẹ bẫng, ông bày biện ra trước mắt người đọc những vật chứng, bức ảnh một người đàn ông bắt bướm, một nghĩa trang hoang lạnh, một tờ báo cũ, một sơ đồ... Gabriel García Márquez từng nói: "Trong báo chí, một dữ liệu sai phủ nhận toàn bộ công trình. Ngược lại, trong tiểu thuyết, một chi tiết thật cũng tạo được sự tin cậy cho toàn tác phẩm". Sự tin cậy mà W.G. Sebald tạo được không chỉ đến từ những "vật chứng" được ông bày ra khắp cuốn sách mà còn từ chỗ các nhân vật của ông từ một tiểu sử cá nhân đã phổ quát thành mẫu số chung của những thân phận lưu dân, được tác giả khéo léo đan cài trong những trang sách. Giữa những trang sách như một mê cung của ký ức ấy, chiến tranh âm thầm len lỏi như một bóng ma truy đuổi con người, những thất vọng và đổ vỡ, sự thiếu quê hương được chất chứa trong một hình thức bình thản đến kỳ lạ.***W. G. SEBALD (1944-2001): Là một trong những nhà văn, học giả người Đức quan trọng sau Thế chiến thứ hai. Các tác phẩm của ông xoay quanh chủ đề người Đức với ký ức, sự lãng quên và những thương tổn tinh thần trong thời hậu chiến. Ngoài ra, ông còn viết về sự hủy diệt, mất mát của các nền văn minh, của truyền thống và các biểu trưng lịch sử văn hóa thông qua những vật thể. Văn chương của ông được giới phê bình, học thuật đánh giá cao. Ông được nhiều nhà phê bình văn học xem là một trong những nhà văn lớn nhất ở thời đại. Tủ sách Danh tác của Phanbook sẽ lần lượt giới thiệu đến độc giả Việt Nam các tác phẩm lớn của W. G. Sebald: Ký ức lạc loài, Vành Thổ tinh, Vertigo và Austerlitz. Dù sống chủ yếu ở Anh, W.G. Sebald vẫn là nhà văn viết tiếng Đức, một thứ tiếng Đức mà các nhà phê bình nhận xét là cổ điển và cầu kỳ, nên nhà văn đã rất kỹ lưỡng theo dõi quá trình dịch tác phẩm của ông sang tiếng Anh. "Ký ức lạc loài" nằm trong bộ tứ: "Vertigo" (1990), "Ký ức lạc loài" (1992), "The Rings of Saturn" (1995) và "Austerlitz"(2001). Ông được nhiều nhà phê bình văn học ca ngợi là một trong những tác giả vĩ đại nhất lúc sinh thời, tuy nhiên, một tai nạn giao thông đã cướp đi sinh mạng nhà văn năm 2001. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2007, Horace Engdahl, cựu thư ký của Viện Hàn lâm Thụy Điển, đã nhắc đến W.G. Sebald, Ryszard Kapuściński và Jacques Derrida là 3 nhà văn vừa qua đời gần đây, những người đáng được nhận giải Nobel Văn chương.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ký Ức Lạc Loài PDF của tác giả W. G. Sebald nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.