Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đừng Bao Giờ Buông Dao

Hỗn Mang #1 - Đừng Bao Giờ Buông Dao - Patrick Ness Chẳng có thị trấn nào giống như thị trấn Prentiss. Nơi không còn bóng dáng phụ nữ. Nơi mọi suy nghĩ trở thành Tiếng Ồn mà bất kỳ sinh vật nào cũng có thể nghe thấy.Dòng chảy Tiếng Ồn ầm ĩ không bao giờ dứt.Không tâm tư thầm kín nào còn là bí mật.Ngay cả trong giấc ngủ.Vậy mà khi sự im lặng không tưởng xuất hiện, vẫn có một bí mật tồi tệ đến mức khiến Todd, thằng nhóc chỉ còn một tháng nữa là trở thành đàn ông, thằng nhóc cuối cùng chưa trở thành đàn ông, phải bỏ chạy hòng giữ lấy mạng sống. Cùng con chó biết nói. Sự im lặng. Và con dao.Nhưng làm sao để chạy thoát khi những kẻ săn đuổi có thể nghe được mọi suy nghĩ trong đầu ta? *** Ý nghĩa tên sách Chaos Walking - Hỗn mang: tên toàn bộ series đến từ câu thoại the Noise is a man unfiltered, and without a filter, a man is just chaos walking. Tiếng Ồn là tổng hòa suy nghĩ, các bí mật thầm kín, ký ức phức tạp của đàn ông, vậy nên tác giả mới có sự so sánh rằng Tiếng Ồn là một người đàn ông không được sàng lọc, mà khi không được sàng lọc, đàn ông chỉ là một mớ hỗn độn biết đi. Bộ Sách Hỗn Mang gồm có: Đừng Bao Giờ Buông Dao Câu Hỏi Được Trả Lời Những Con Quỷ Người The Knife of Never Letting Go - Đừng bao giờ buông dao: đến từ câu thoại I'll never let go of the knife được lặp lại nhiều lần trong tập 1 của nhân vật chính, con dao cũng là một chi tiết then chốt, nắm vai trò đưa ra và thực hiện các lựa chọn (giết/không giết) nhằm định hình tính cách và nhân sinh quan của nhân vật chính trong tập này. Thậm chí có lần nhân vật còn tưởng tượng ra con dao đang nói never let go of me - đừng bao giờ buông tôi. Nhận xét “Hãy đọc nó một mình, hãy đọc nó thâu đêm.” - Chicago Tribune “Điên cuồng, kinh hãi, đầy phấn khích và làm tan vỡ con tim.” - Sunday Paragraph *** Patrick Ness - sinh năm 1971, là tác giả người Mỹ, hiện đang sống ở Los Angeles. Ngoài 12 cuốn sách đã xuất bản, anh còn là nhà báo và nhà biên kịch, đã tham gia chuyển thể tác phẩm Quái vật ghé thăm (A Monster Calls) của mình thành phim điện ảnh. Đừng bao giờ buông dao là tập đầu tiên trong bộ sách Hỗn mang (Chaos Walking), ra mắt từ năm 2008 đến 2010. Tập cuối trong bộ ba tác phẩm đã đem về cho anh Huân chương Carnegie năm 2011. Các tác phẩm khác của Patrick Ness được Nhã Nam xuất bản: - Quái vật ghé thăm (Huân chương Carnegie 2012) - Câu hỏi được trả lời (Hỗn mang #2) - Những con quỷ người (Hỗn mang #3 - Huân chương Carnegie năm 2011)   *** "ĐỪNG BAO GIỜ BUÔNG DAO" - PHẢI LÀM GÌ TRONG THẾ GIỚI KHÔNG-BAO-GIỜ IM LẶNG?  “Đừng Bao Giờ Buông Dao" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết mang tên “Hỗn Mang" của nhà văn Mỹ Patrick Ness. Bản... Sâu Sách - 2 tháng 6 2021      “Đừng Bao Giờ Buông Dao" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết mang tên “Hỗn Mang" của nhà văn Mỹ Patrick Ness. Bản tiếng Anh của cuốn sách - “The Knife Of Never Letting Go” được ra mắt độc giả từ tháng 5 năm 2008 và mới được Nhã Nam phát hành phiên bản Việt vào đầu năm 2021. Cuốn sách được viết theo thể loại "kỳ ảo, giả tưởng" nên sẽ khá phù hợp cho bạn nào thích cốt truyện phiêu lưu theo hành trình nhân vật.     “Đừng Bao Giờ Buông Dao" - ngay từ nhan đề, tác giả đã nhắc nhở người đọc về không khí căng thẳng, khẩn trương, cảnh giác cao độ của một hành trình đầy rẫy hiểm nguy. Quả vậy, gần 500 trang của cuốn sách, người đọc như hoà mình vào trong những bước chạy không ngừng của nhân vật tôi, Todd, một cậu nhóc "sắp trở thành đàn ông". Đồng hành cùng Todd là chú chó Manchee. Cứ như vậy, một người, một chó, một dao đã khám phá ra những bí mật cực kì đen tối trong thế giới mà họ đang tồn tại.     Điểm đặc biệt nhất của cuốn sách chính là thế giới mà tác giả đã xây dựng. Một thế giới gần như không có bóng dáng phụ nữ. Kỳ dị hơn, đó là thế giới mà mọi suy nghĩ đều trở thành Tiếng Ồn khiến bất kỳ sinh vật nào cũng có thể nghe thấy và nhìn thấy, kể cả trong giấc ngủ. Bạn có thể tưởng tượng được không khi mọi ý niệm của bản thân sẽ hiện lên ngay phía trên quầng đầu của mình, ai cũng thấy, ai cũng đoán biết được. Không tâm tư thầm kín nào còn là bí mật. Chúng ta phải lựa chọn xem ai đáng tin, ai dối trá. Chúng ta phải học cách giấu sự thật trong những suy nghĩ nguỵ tạo để tồn tại. Và giữa thế giới ấy, làm thế nào để chạy thoát khi những kẻ săn đuổi có thể nghe được mọi suy nghĩ và sẵn sàng đoạt mạng ta bất cứ lúc nào?     Được xây dựng theo trường phái "Dystopia", tạm dịch là “Phản Địa Đàng", có thể nói “Đừng Bao Giờ Buông Dao" đã tái hiện một cách chân thực nhất tất cả những hiện thực mà một thế giới “Phản Địa Đàng" có thể tồn tại: chính phủ bạo tàn, tư tưởng suy đồi, những giá trị về nhân tính bị đảo ngược... Chúng ta dễ dàng bắt gặp những hiện thực ấy trong những trang miêu tả của cuốn sách. Thị trấn khởi đầu của câu chuyện, Prentiss, lấy tên theo kẻ lãnh đạo, là một thị trấn bạo tàn đúng nghĩa. Prentiss sẵn sàng chà đạp lên tất cả để thực hiện lí tưởng vô nhân đạo của mình. Lí tưởng ấy được truyền lại cho cả thế hệ của “Prentiss-con". Và thậm chí khiến những kẻ truyền giáo như Aaron cũng sẵn sàng dùng nắm đấm để phán quyết những người yếu thế.      Thế nhưng, giữa ngục tù đen tối ấy của hiện thực, vẫn thực sự có những ánh sáng le lói của niềm tin, của tình yêu thương. Đó là sự chở che, sự hi sinh vô bờ bến của hai người chú của Todd: Ben và Cillian. Là lá thư để lại của mẹ Todd. Là những ân cần của sự “im lặng” đồng hành cùng Todd... Có thể nói, đó chính là những "kim chỉ nam" giúp Todd luôn đi đúng hướng, là "cán cân đạo đức" giúp Todd luôn chiến thắng tư tưởng bạo tàn trong thế giới của mình. Và đó cũng chính là "kim chỉ nam" mà tác giả Patrick Ness muốn nhắc nhở và cảnh tỉnh người đọc, rằng không có sự khủng hoảng nào thực sự đáng sợ bằng sự khủng hoảng của lương tri. Chúng ta phải thực sự sống bằng niềm tin để vượt qua bất cứ nghịch cảnh nào.     Để đánh giá chung về cuốn sách này, mình nghĩ mình sẽ dùng từ “gọn gàng". Tất cả những phần trần thuật về bối cảnh rất ngắn gọn. Cốt truyện chuyển biến logic và rất hợp tâm lí nhân vật, không rơi vào kể lể. Những “phản ứng hoá học" trong tình cảm của các nhân vật cũng xây dựng vừa đủ để người đọc nhận ra những nét tình ý nhưng không đi quá sâu để tạo cảm giác sến súa, sa đà. Truyện có những plot-twist đủ để người đọc cảm thấy hiểu hơn về bối cảnh đã mở ra lúc đầu. Những lời giải đáp sẽ được trải dài từ từ ở những trang phía cuối truyện. Tuy nhiên, đây cũng không phải là cuốn sách có plot-twist đến độ bất ngờ và ám ảnh như nhiều cuốn sách khác. Thậm chí, nếu ai tinh ý, hoàn toàn có thể đoán ra khi truyện đi được nửa chặng đường. Có lẽ, vì đây cũng là cuốn sách đầu tiên trong bộ sách gồm ba tập nên những tình tiết vừa đủ ấy sẽ là tiền đề hợp lí để mở ra thế giới của hai tập sau này.     Điểm đáng khen cũng là điểm hạn chế lớn nhất của cuốn sách đến từ ngôi trần thuật. Truyện được tái hiện dưới ngôi kể “tôi" của Todd, thế nên những tình tiết, những chuyển biến của câu chuyện hiện lên đầy chân thật và cảm xúc. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều cuốn truyện khác, vì ngôi kể là “tôi" nên có nhiều tình tiết, câu chuyện sẽ diễn ra hơi thiếu khách quan. Đồng thời, người đọc sẽ khá khó để theo dõi diễn biến tâm lí của nhiều nhân vật khác, những người mà mình tin sẽ có khá nhiều đất diễn để khắc hoạ sâu hơn hình tượng của mình nếu được xây dựng rõ hơn như Viola, chú Ben, thị trấn trưởng Prentiss… Bên cạnh đó, sự cố chấp và cứng đầu của Todd trong một vài tình huống sẽ khiến người đọc có đôi lần hơi tức giận. Điều này đặc biệt được thể hiện trong một chi tiết mà mình tin khi đọc xong, thậm chí đến lúc gấp cuốn sách lại, bạn sẽ thấy nhức nhối và buồn lòng về Todd mãi.     Nhưng tựu chung lại, “Đừng Bao Giờ Buông Dao" là một cuốn sách rất đáng đọc để giải toả căng thẳng. Mình biết đến cuốn sách này vì rạp chiếu phim thời điểm đó ra mắt bộ phim chuyển thể từ cuốn sách mang tên “Hành Tinh Hỗn Loạn". Tình cờ, Nhã Nam cũng phát hành đồng thời cuốn sách nên mình đã ra mua ngay. Và chỉ mất đúng ba ngày để mình hoàn thành xong cuốn sách này. Được biết, Nhã Nam đã mua bản quyền hai phần tiếp theo của cuốn sách mang tên: “Câu Hỏi Được Trả Lời" và “Những Con Quỷ Người", sẽ ra mắt trong năm nay nên chúng mình sẽ không sợ mạch truyện bị ngắt quãng đâu.      Ngay bây giờ, chúng mình hãy ra ngay hiệu sách gần nhất, tìm mua “Đừng Bao Giờ Buông Dao" và sẵn sàng cùng chuyến hành trình với cậu bé Todd nhé. Đảm bảo sẽ không phí hoài thời gian của các bạn đâu. *** LỖ HỔNG TRONG TIẾNG ỒN ĐIỀU ĐẦU TIÊN BẠN NHẬN RA khi chó của bạn biết nói là chó không có gì nhiều để nói. Về bất cứ điều gì. “Mót ị, Todd.” “Im đi, Manchee.” “Ị. Ị, Todd.” “Tao bảo im đi mà.” Chúng tôi đang đi qua những cánh đồng hoang ở phía Đông Nam thị trấn, những cánh đồng dốc chạy xuôi xuống sông và về phía đầm lầy. Ben sai tôi đi hái cho chú vài quả táo ở đầm lầy và bắt tôi phải dẫn Manchee theo, dù tất cả đều biết tỏng Cillian chỉ mua con chó này để lấy lòng thị trưởng Prentiss, nên bỗng nhiên nó trở thành món quà sinh nhật của tôi năm ngoái, dù tôi chưa bao giờ nói mình muốn có một con chó, trong khi tôi có nói tôi muốn Cillian sửa xe đạp cho để tôi không phải cuốc bộ tới mọi chốn đổ nát của cái thị trấn ngu ngốc này, nhưng ồ, không, chúc mừng sinh nhật, Todd, đây là con chó vừa dứt sữa, Todd, và dù mày không muốn nó, dù mày không đòi nó, thì cũng cứ đoán xem ai sẽ cho nó ăn, dạy dỗ nó, tắm cho nó, đưa nó đi dạo, và nghe nó lải nhải khi giờ đây nó đã đủ lớn để liến thoắng không ngừng? Đoán xem ai? “Ị,” Manchee lặng lẽ sủa với chính mình. “Ị, ị, ị.” “Thì cứ ị đi và thôi lải nhải ngay cho tao nhờ.” Tôi ngắt một nhánh cỏ ven đường và quất Manchee. Tôi không đánh trúng nó, tôi không định đánh trúng nó, nhưng nó chỉ phá lên cười ăng ẳng và chạy tiếp trên con đường mòn. Tôi đi theo, quạt nhánh cỏ của mình lên đám cỏ hai bên đường, nheo mắt vì nắng, cố để đầu óc trống rỗng. Thú thực, chúng tôi không cần táo ở đầm lầy. Ben có thể mua táo ở cửa hàng của ông Phelps nếu chú ấy thực sự muốn ăn. Cũng thú thực: đến đầm lầy hái vài quả táo không phải là việc của một người đàn ông, vì đàn ông không được phép an nhàn đến vậy. Tôi sẽ chính thức trở thành đàn ông sau ba mươi ngày nữa. Tôi đã sống mười hai năm, mỗi năm mười ba tháng, và thêm mười hai tháng nữa, cộng lại thì vẫn còn một tháng mới đến ngày sinh nhật trọng đại. Kế hoạch đang được lên, công cuộc chuẩn bị đang được tiến hành, tôi đoán sẽ có một bữa tiệc, dù tôi bắt đầu thấy được vài hình ảnh kỳ quái về nó, vừa u ám vừa quá đỗi xán lạn, nhưng dẫu sao tôi cũng sẽ trở thành đàn ông, và đi hái táo ở đầm lầy không phải là việc của đàn ông, hay của một thằng sắp-trở-thành-đàn-ông. Nhưng Ben biết chú ấy có thể sai tôi đi, và rằng tôi sẽ đồng ý, vì đầm lầy là nơi duy nhất gần thị trấn Prentiss ta có thể tạm thoát khỏi tất cả những Tiếng Ồn mà con người xả ra, tất cả những xôn xao và ầm ĩ không bao giờ dứt, ngay cả khi họ ngủ, con người và những suy nghĩ họ thậm chí không biết mình đang nghĩ, dù ai cũng có thể nghe thấy chúng. Con người và Tiếng Ồn của họ. Tôi không biết họ làm thế nào để chịu đựng được nhau. Con người là những sinh vật Ồn Ào. “Sóc!” Manchee sủa rồi chạy bắn đi, nhảy khỏi đường mòn, dù tôi đã hét lên gọi nó lại, rồi đến lượt tôi phải chạy theo, băng qua cánh đồng (tôi nhìn quanh để đảm bảo không có ai ở gần) chết tiệt, vì Cillian sẽ nổi khùng nếu Manchee ngã xuống một lỗ rắn chết tiệt nào đó và dĩ nhiên đây sẽ là lỗi chết tiệt của tôi dù ngay từ đầu tôi đã không muốn có con chó chết tiệt này. “Manchee! Quay lại ngay!” “Sóc!” Tôi phải lội qua đám cỏ, những con sâu bám vào giày tôi. Một con bẹp gí khi tôi đá nó ra, để lại vệt màu xanh dọc đôi giày thể thao, mà theo kinh nghiệm của tôi thì sẽ không thể giặt sạch. “Manchee!” tôi điên tiết gầm lên. “Sóc! Sóc! Sóc!” Nó sủa quanh một gốc cây và con sóc nhảy lóc chóc trên thân cây, chế giễu Manchee. Đến đây, chó ngu, Tiếng Ồn của nó vang lên. Đến đây, đến đây, đến đây mà bắt Ngu Ngu Ngu. “Sóc kìa, Todd! Sóc!” Chết tiệt; động vật thật ngu ngốc. Tôi chộp lấy vòng đeo cổ và tét mạnh vào chân sau của Manchee. “Ối, Todd? Ối?” Tôi lại đánh nó. Rồi lại đánh nó. “Ối? Todd?” “Đi nào,” tôi nạt, Tiếng Ồn của tôi rền vang đến nỗi tôi chẳng thể luận ra được mình đang nghĩ gì, một việc khiến tôi sắp phải hối hận, bạn cứ chờ xem sẽ biết. Thằng nhóc ngu, thằng nhóc ngu, con sóc nghĩ về tôi. Đến đây mà bắt, thằng nhóc ngu. “Mày cũng biến mịa đi,” tôi trả đũa, chỉ có điều tôi không nói “mịa” mà nói thẳng cái chữ tục tĩu hơn nhiều kia ra. Đáng lẽ tôi nên nhìn quanh trước khi nói. Vì Aaron đây rồi, ngay tại đây, bất thình lình nhào ra khỏi bãi cỏ, nhào ra và tát vào mặt tôi, chiếc nhẫn lớn của anh ta làm rách môi tôi, rồi anh ta vung tay thêm phát nữa, tay nắm lại thành đấm, trúng gò má tôi, nhưng ít nhất cũng không trúng mũi vì tôi đang ngã xuống cỏ, cố tránh cú đấm của anh ta, và vì thế phải buông dây buộc cổ Manchee ra, nó lại chạy đi tìm con sóc, sủa ầm ĩ, đồ phản bội, tôi ngã bò lăn bò càng xuống cỏ, trét vệt sâu xanh lên khắp người. Và tôi nằm đó, trên mặt đất, thở hổn hển. Aaron đứng trước mặt tôi, từng mảnh rời rạc của Tiếng Ồn và những lời giảng đạo từ anh ta lao tới, Cẩn thận lời ăn tiếng nói đó, nhóc Todd và phải biết hy sinh và vị thánh tự chọn con đường của mình và Chúa nghe thấy đấy và hàng loạt những hình ảnh có trong Tiếng Ồn của tất cả mọi người, những điều quen thuộc và những ký ức thoáng qua của… Cái gì? Cái quỷ quái gì…? Nhưng những đoạn ồn ào hơn trong bài giảng đạo của Aaron đã lao tới và che cái quỷ đó lại, tôi ngẩng lên nhìn vào mắt anh ta, rồi đột nhiên tôi không còn muốn biết nữa. Tôi đã nếm thấy vị máu từ vết nứt trên môi do chiếc nhẫn của Aaron gây ra và tôi không còn muốn biết nữa. Anh ta không bao giờ đến đây, đàn ông không bao giờ đến đây, họ có lý do của họ, đàn ông có lý do của đàn ông, nên ở đây lúc nào cũng chỉ có tôi và con chó của mình, nhưng giờ anh ta lại ở đây và tôi không, không, không muốn biết lý do. Anh ta mỉm cười nhìn xuống tôi, nụ cười ẩn sau bộ râu quai nón, mỉm cười khi tôi vẫn nằm trên cỏ. Nắm đấm mỉm cười. “Nhóc Todd, lời ăn tiếng nói,” anh ta lên tiếng, “trói buộc chúng ta như những tù nhân bị trói bởi cùng một sợi xích. Cậu không học được gì từ nhà thờ sao?” Rồi anh ta thốt lên những lời thuyết giảng quen thuộc nhất của mình. “Một người sa ngã, tất cả cùng sa ngã.” Vâng, Aaron, tôi nghĩ. “Dùng mồm mà nói, Todd.” “Vâng, Aaron,” tôi đáp. “Và những lời chửi thề ấy? Đừng nghĩ ta không nghe thấy chúng. Tiếng Ồn tiết lộ con người cậu. Tiết lộ con người tất cả chúng ta.” Không phải tất cả, tôi nghĩ, nhưng đồng thời vẫn nói, “Xin lỗi, Aaron.” Anh ta cúi xuống tôi, môi kề sát mặt, và tôi có thể ngửi thấy hơi thở đang phả ra từ miệng anh ta, ngửi thấy sức nặng của nó, như những ngón tay đang chộp lấy tôi. “Chúa nghe thấy,” anh ta thì thầm. “Chúa nghe thấy đấy.” Aaron lại giơ một bàn tay lên và tôi co rúm người, anh ta cười rồi biến mất, quay về thị trấn, mang theo Tiếng Ồn của mình. Tôi run rẩy, vì cảm giác rần rật do bị đánh, vì tức giận và ngạc nhiên, quá tức giận, quá chán ghét thị trấn này và những người đàn ông ở đây đến nỗi mất một lúc tôi mới có thể đứng dậy đi tìm con Manchee. Mà anh ta đang làm cái mịa gì ở đây? tôi điên tiết nghĩ, vẫn bừng bừng giận dữ và thù hằn (và sợ, phải, sợ, im đi) đến nỗi không thèm nhìn quanh để xem Aaron có nghe thấy Tiếng Ồn của tôi hay không. Tôi không nhìn. Tôi không nhìn. Rồi tôi cũng nhìn và thấy con Manchee. “Aaron, Todd? Aaron?” “Đừng có nhắc đến cái tên đó nữa, Manchee.” “Chảy máu, Todd. Todd? Todd? Todd? Chảy máu?” “Biết rồi. Im mồm đi.” “Ngu,” nó nói, như thể từ ấy chẳng có ý nghĩa gì, đầu nó cũng rỗng tuếch như bầu trời. Tôi tét mông nó. “Cũng không được nhắc đến từ đó.” “Ối? Todd?” Chúng tôi tiếp tục đi, giữ khoảng cách với con sông bên trái. Sông chảy qua một loạt những khe sâu phía Đông thị trấn, bắt nguồn từ tít phía Bắc nông trại nhà chúng tôi, xuôi về bên hông thị trấn cho đến khi trải rộng ra thành một đầm cỏ rồi cuối cùng trở thành đầm lầy. Bạn phải giữ khoảng cách với con sông, đặc biệt là vùng đầm cỏ trước những rặng cây ở đầm lầy, vì đó là nơi cá sấu trú ngụ, chúng đủ lớn để xơi tái một thằng sắp-trở-thành- đàn-ông và con chó của nó. Những cái vảy trên lưng chúng trông như những cụm lau, và nếu đến quá gần thì, BÙM! - chúng sẽ vọt khỏi mặt nước, phóng thẳng vào bạn với những vuốt sắc nhăm nhe và cái mõm cắn đớp, và khi đó bạn sẽ chẳng có cơ hội sống sót nào đâu. Chúng tôi đi qua vùng đầm cỏ và tôi đón nhận sự yên tĩnh của đầm lầy khi nó hiện ra. Chẳng còn gì để xem ở đây nữa, bởi vậy đàn ông không đến đây. Còn cả cái mùi nữa, tôi không vờ như không ngửi thấy, nhưng mùi không quá tệ như người ta nói. Họ ngửi mùi ký ức, thực vậy, họ không ngửi cái mùi có thực ở đây lúc này, họ ngửi mùi quá khứ. Tất cả những thứ đã chết. Xú và người có quan niệm khác nhau về mai táng. Xú chỉ cần đầm lầy, chỉ việc ném Xú chết xuống nước, để xác chìm, chẳng sao cả vì Xú phù hợp với kiểu mai táng đầm lầy, chắc vậy. Ben kể tôi thế. Nước, bùn dơ và da của Xú Vật hợp nhau, không làm ô uế, chỉ khiến đầm lầy màu mỡ hơn, như con người về với đất. Mời các bạn đón đọc Đừng Bao Giờ Buông Dao của tác giả Patrick Ness & Trần Nguyên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chỉ Một Tình Yêu
Một tác phẩm của Johanna Lindsey Câu chuyện xoay quanh những thân phận giả mạo, bí mật gia đình và một tình yêu vượt qua mối thù truyền kiếp 50 năm tại vùng đất hùng vĩ Montana trong những năm 1880. “Nhiều quý cô trẻ tuổi kết hôn vì tiền và địa vị xã hội, chỉ một vài trong số họ may mắn kết hôn vì tình yêu – nhưng Tiffany Warren sẽ kết hôn để hoá giải một mối cừu thù. Phải thực hiện giao ước của mẹ, Tiffany miễn cưỡng đi về miền Tây để gặp người cha chưa từng gặp mặt và con trai kẻ thù của ông, Hunter Callahan. Khi nhà Warren và Callahan được hợp nhất bằng một cuộc hôn nhân, cả hai gia tộc sẽ dừng cuộc tranh chấp dải đất từ bao lâu nay. Sự hỗn loạn của cuộc cướp tàu đã trao cho Tiffany một cơ hội quý báu. Giả danh người quản gia mà cha nàng thuê, nàng có thể sống với người cha nàng chưa từng biết để hiểu về con người ông và cả gã cao bồi hàng xóm mà nàng đã được đính ước. Nhưng rồi nàng muộn màng nhận ra mối thù giữa hai gia tộc lại càng sâu sắc hơn khi nhà Callahan cướp người quản gia của nhà Warren ngay khi nàng bước xuống tàu! Và nàng, Tiffinay, dưới thân phận của Jennifer Fleming, phải sống trong ngôi nhà của kẻ thù, cùng với hôn phu của mình. Để rồi nàng biết được rằng, chàng là một người đẹp trai, quyến rũ và ngọt ngào, người khiến nàng luôn phải cưỡng lại vì không thể rời mắt – và rời tay – khỏi Jennifer. Khi bị lật tẩy, Tiffany từ chối cưới Hunter để  hàn gắn mối thù. Trong lúc Hunter đi đòi lại cô dâu chính thức của mình, chàng hiểu rằng mặc dù chàng yêu hai người phụ nữ – một Tiffany chuẩn mực, thanh nhã, hay một Jennifer sôi nổi, nồng nàn – chàng chỉ có duy nhất một trái tim để chinh phục.” *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu Nơi Em Thuộc Về Trái Tim Hoang Dã Yêu Lầm Anh? Tình Yêu Tìm Thấy Chỉ Một Tình Yêu The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Rose Warren đã ngừng khóc trước khi con gái bà, Tiffany, mở cửa chính ngôi nhà sơn màu nâu trong thành phố, nhưng vẫn không thể dứt ra khỏi đầu câu nói đã làm bà phải rơi lệ. Đi cùng con bé đi, Rose. Đã mười lăm năm rồi, em hành hạ chúng ta như vậy còn chưa đủ hay sao? Bà thường cho phép cô con gái mới bước sang tuổi mười tám tháng trước đọc những lá thư của Franklin Warren. Frank thường giữ cho nội dung thư không quá riêng tư, để bà có thể đọc cùng với con gái của họ. Nhưng lần này thì không, bà vò lá thư lại rồi nhét vội vào túi áo khi nghe tiếng Tiffany vang lên trong sảnh. Con bé không hề biết lý do thật sự khiến cha mẹ không sống cùng nhau. Đến cả Frank cũng không biết lý do thật sự bà bỏ đi. Sau chừng ấy năm, tốt nhất là cứ để nó như thế thôi. “Tiffany, vào phòng khách với mẹ đi con!” Rose gọi trước khi Tiffiny bước lên phòng bà. Nắng chiều làm ánh lên mái tóc nâu đỏ của Tiffany khi nàng cởi mũ. Nàng rũ chiếc áo khoác mỏng ngắn ra khỏi vai khi bước vào phòng khách. Trời quá ấm áp để phải mặc áo khoác, nhưng một tiểu thư ở thành phố New York thì phải ăn mặc đứng đắn khi đi ra ngoài. Khi Rose nhìn Tiffany, bà từng tự nhắc mình rằng con gái bé bỏng của bà đã không còn bé nữa. Ngay cả khi Tiffany bước sang tuổi mười tám, Rose cũng đã từng hơn một lần ước con gái bà đừng lớn lên. Con bé đã cao hơn một mét bảy và thường xuyên phàn nàn vì chuyện đó. Tiffany thừa hưởng chiều cao của cha, Franklin, và cả đôi mắt màu xanh lục bảo nữa. Chỉ là, con bé vẫn không biết điều đó. Con bé có dáng người thanh nhã của Rose, nên lại càng xinh đẹp, nhưng màu tóc đỏ thì chỉ giống phần nào thôi. Màu tóc Tiffany nghiêng về ánh đồng hơn. “Mẹ mới nhận được thư của cha con.” Lặng thinh. Trước đây Tiffany rất thích đọc thư của Frank, nhưng đã từ lâu lắm rồi, kể từ khi con bé không hỏi khi nào cha đến thăm con nữa. Trái tim Rose tan vỡ khi thấy sự thờ ơ trong tình cảm của con gái bà với cha nó. Bà biết Tiffany không có kỷ niệm nào với cha. Con bé còn quá nhỏ khi cùng Rose rời khỏi Nashart, Montana. Rose biết lẽ ra bà phải để cha con họ gặp nhau trong những năm qua. Frank đã rất cao thượng khi cho phép các con trai về thăm bà, mặc dù bà thừa biết ông làm vậy là để làm bà cảm thấy day dứt vì đã không tạo điều kiện hay cho phép con gái họ gặp cha. Bà đã luôn lo sợ Frank không cho con gái quay về với bà nữa. Đó không chỉ là nỗi sợ mơ hồ, mà là cơn ác mộng khủng khiếp nhất của bà. Ông đã từng giận dữ đe dọa sẽ giữ lại con gái của họ. Ông đã mang vô số thứ ra để uy hiếp bà, hòng giữ cho gia đình của ông được đoàn tụ. Và bà không thể oán trách ông! Nhưng cũng không thể ngăn được điều đó, không thể được. Giờ đây bà phải đối mặt với nỗi sợ lớn nhất trong đời: một khi Tiffany đến Montana, Rose sẽ không bao giờ được gặp lại con nữa. Đáng lẽ ra bà phải kiên quyết bắt hôn phu của Tiffany đến New York đón con bé. Nhưng đó sẽ là giọt nước tràn ly đối với Frank. Ông đã tôn trọng ý muốn của Rose và tránh mặt trong suốt mười lăm năm trời, nhưng đây là thời điểm bà đã hứa để Tiffany quay về với vòng tay của ông. Lương tâm của bà không cho phép hai cha con chia cắt lâu hơn nữa. Tiffany dừng lại trước bà và chìa tay ra để đòi thư. Rose chỉ về phía ghế sofa. “Ngồi xuống đây con.” Tiffany nhướng mày khi mẹ không đưa bức thư cho nàng, nhưng cũng ngồi xuống cạnh Rose. Căn phòng rất lớn. Thành phố cũng rất lớn. Cha mẹ Rose là một gia đình giàu có đến từ cựu thế giới, toàn bộ tài sản của họ hiện giờ là của bà. Khi Rose từ Montana quay trở về cùng với cô con gái ba tuổi, bà mới biết rằng trong năm năm vắng nhà, mẹ bà đã trải qua nhiều trận ốm liên tiếp và bị liệt. Mẹ Rose chỉ sống được thêm bốn năm nữa, nhưng ít ra Tiffany cũng được biết bà ngoại của mình. Đó là một quãng thời gian đau khổ trong cuộc đời Rose. Bà đã phải từ bỏ chồng và ba con trai, và rồi sau đó lại mất luôn người mẹ của mình. Nhưng ít nhất bà còn có Tiffany. Bà hẳn đã phát điên vì thống khổ nếu bà cũng từ bỏ Tiffany. Nhưng ngày đó rồi cũng đã đến... “Lại đến lúc Nói Phải Quấy rồi hả mẹ?” Tiffany chán chường hỏi. “Con bắt đầu xấc xược từ lúc sang tuổi mới rồi đấy,” Rose cảnh cáo. “Nếu đó là cách mẹ muốn nói về sự oán giận vẫn đang gặm nhấm con thì cũng được thôi. Đó là xấc xược đấy.” “Tiffany-“ “Con không đến Montana đâu, mẹ. Con không quan tâm điều đó dẫn đến một cuộc đổ máu đâu. Con không quan tâm chuyện con cũng sẽ không bao giờ được gặp lại anh em con nữa. Con từ chối kết hôn với một người con chưa từng gặp.” Tiffany khoanh tay trước ngực và hất cằm thách thức. “Đó, con đã nói lời cuối cùng rồi và con sẽ không đổi ý đâu.” “Mẹ đồng ý với con.” Tiffany mở to mắt trước khi reo lên nhẹ nhõm. “Cảm ơn mẹ! Mẹ không biết được con đã đau khổ thế nào trước viễn cảnh –“ “Để mẹ nói hết đã. Mẹ đồng ý con sẽ không cưới một người không quen biết. Con sẽ đến Montana để gặp cậu ta. Con sẽ có vài tháng để hiểu về cậu ta. Nếu lúc đó con vẫn không thấy thích cậu ta, thì, mẹ đồng ý, con có thể hủy hôn và trở về New York trước khi thời tiết xấu đi. Mẹ hứa với con điều đó, Tiffany.” “Tại sao mẹ không hề cho con biết rằng con có quyền quyết định trong hôn ước mà cha mẹ sắp đặt cho con từ khi con còn là một đứa bé chứ?” “Vì mẹ đã hy vọng con sẽ thực hiện hôn ước đó một cách tự nguyện. Mẹ muốn con lớn lên và quen với ý nghĩ đó, mẹ hy vọng con có thể mong chờ điều đó.” “Nhưng Montana* thậm chí còn chưa phải là một nơi văn minh nữa kìa!” “Mình có thể nói chuyện mà không hét vào nhau không con?” Rose nói và khẽ cười, “Hạt Montana không hoang sơ như con nghĩ đâu. Mẹ cho là các anh con đã làm rõ điều đó cho con rồi chứ. Đó là một trong những nơi đẹp nhất mẹ đã từng thấy. Con chắc sẽ thích được ở đó mà.” “Con thích ở đây, nơi con lớn lên, nơi có bạn bè con, nơi con sống,” Tiffany lầm bầm, rồi cao giọng hơn, “nơi đàn ông không đeo súng ở hông bởi vì chẳng có gì, chẳng có người nào cần bắn cả. Sao mà mẹ có thể chấp nhận một thỏa thuận như thế chứ, mẹ?” “Mẹ là người đưa ra thỏa thuận đó.” Bà chưa bao giờ nói cho con gái biết điều đó, và thấy Tiffany mở to đôi mắt ngọc lục bảo, bà ước mình có thể giải thích bằng cách khác. Nhưng chẳng có cách nào cả. “Hóa ra mẹ là người ném con cho bầy sói à?” “Ôi trời ạ, Tiff, đừng thống thiết như thế chứ. Đó là điều duy nhất mẹ có thể nghĩ ra để chấm dứt mối thù giữa nhà Callahan và nhà Warren. Dải đất gần nguồn nước nằm giữa hai điền trang thậm chí cũng không phải nguyên nhân sâu xa, nhưng cả hai bên đều dùng nó để tiếp tục gây hấn với nhau, cả hai đều tranh giành nó về mình. Mẹ chưa bao giờ thấy cái gì ngu ngốc như thế, cả hai bên. Bất kỳ khi nào họ đến gần nguồn nước cùng lúc là có súng nổ. Nếu có con bò lạc nào đi đến gần, họ sẽ đuổi nó quay trở lại, chỉ để gây thêm nhiều vụ nổ súng hơn nữa. Hôn ước của con và Hunter Callahan sẽ chấm dứt sự tranh chấp đó.” “Vậy là mẹ gánh lấy trách nhiệm hóa giải mối thù mà mẹ không gây nên bằng cách hy sinh đứa con gái duy nhất của mình sao?” Rose cáu kỉnh. “Cho con biết, nhóc, Zachary Callahan là một trong những người đẹp trai nhất mẹ từng gặp. Và nhìn vào người vợ xinh xắn của ông ta, mẹ không nghi ngờ gì là những cậu con trai lớn lên cũng sẽ đẹp như thế. Mẹ không nghĩ con là vật hy sinh, mẹ chắc rằng con có thể e ngại vì lấy một người nhà Callahan làm chồng. Nhưng là người ngoài cuộc, mẹ nhìn nhận mọi việc theo cách khác. Những người cao bồi thường hiếu thắng, thậm chí độc đoán, đúng vậy, nhưng mẹ không nghĩ điều đó là lạ ở vùng đất ấy. Frank và Zachary chỉ là hai người đàn ông cứng đầu, mà không ai trong hai người muốn nhân nhượng nhau một inch nào. Mọi chuyện bắt nguồn từ một quá khứ đau buồn, và nguồn nước ở ranh giới hai miếng đất không giúp nó được kết thúc. Mẹ nhận định rằng gia đình Callahan không phải là những người xấu. Zachary có thể là một chủ trang trại hiếu thắng và bẳn tính, nhưng ông ta cũng nổi tiếng là một người chồng tận tụy và là một người cha tốt. Vậy đã là quá đủ cho một gia đình rồi.” “Mẹ không phải là người có thể kết thúc mối thù đó, mẹ. Tại sao mẹ còn thử chứ?” Mời các bạn đón đọc Chỉ Một Tình Yêu của tác giả Johanna Lindsey.
Quy Luật Hấp Dẫn
Tên truyện: Quy Luật Hấp Dẫn Tựa gốc: Rules of Attraction Tác giả: Simone Elkeles Dịch: An, Dzungnguyen 1102, Lana Biên tập: Sa Bìa: Lynn Ebook: K “Quy luật hấp dẫn” là cuốn tiểu thuyết thứ 2 trong loạt truyện Perfect Chemistry gồm 3 quyển kể về 3 anh em Fuentes của nhà văn Simone Elkeles. Xúc tác hoàn hảo – Perfect Chemistry #1 Phản ứng dây chuyền – Perfect Chemistry #3 Giới thiệu:  Carlos Fuentes không muốn dựa dẫm vào người anh trai Alex của mình, và cậu đã nói điều đó với Alex khi ở Boulder, Colorado. Cậu ấy muốn sống một cuộc sống không tầm thường và tạo ra con đường riêng cho mình – giống như Alex đã từng làm. Thật không may, mối liên hệ của cậu với một băng đảng ở Mexico không dễ mất đi, và Carlos nhanh chóng nhận ra mình đang trong tầm ngắm của một ông trùm ma túy. Khi Alex thu xếp cho Carlos đến sống cùng với cựu giáo sư đại học và gia đình của ông để cậu không phải vào tù, Carlos cảm thấy lạc lõng tại nơi đây. Cậu thậm chí còn bị đè nén bởi những cảm xúc mạnh mẽ của mình đối với con gái của giáo sư – Kiara, người không giống những cô gái mà cậu thường bị thu hút. Nhưng Alex và Kiara sớm nhận ra những vấn đề của trái tim, những quy luật hấp dẫn vượt ra khỏi những khác biệt xã hội ngăn cách họ. Khi mà những mối đe dọa với Carlos ngày càng lớn hơn, cậu đã vô cùng kinh ngạc khi phát hiện rằng gia đình người Mỹ này dường như có thể cứu cậu. Nhưng liệu Carlos có dám mạo hiểm sự an toàn của họ để có được cơ hội sống một cuộc sống mà cậu thậm chí chưa từng dám mơ? 23 chương đầu là bản dịch của bạn Dzungnguyen 1102 đã đăng ở Kites và mình đã nhận được sự đồng ý của bạn ấy cũng như của Kites để đăng lên nhà (có chỉnh sửa so với bản bên Kites). Rainy sẽ dịch tiếp từ chương 24 trở đi. *** Bộ truyện Perfect Chemistry gồm 3 quyển kể về 3 anh em Fuentes của nhà văn Simone Elkeles. Quyển 1: Xúc Tác Hoàn Hảo – Perfect Chemistry #1 Quyển 2: Quy luật hấp dẫn – Perfect Chemistry #2 Quyển 3: Phản ứng dây chuyền – Perfect Chemistry #3  *** Tác giả    Simone Elkeles sinh ra và lớn lên tại Chicago, Hoa Kỳ. Bà là tác giả của những đầu sách cho teen bán chạy nhất theo xếp hạng của New York Times và USA Today.   Siome Elkeles cùng các tác phẩm hay nhất của bà, Xúc tác hoàn hảo, đã được vinh danh ở rất nhiều giải thưởng sách văn học khác nhau và đáng kể nhất là giải RITA 2010, giải thưởng hàng năm danh giá dành cho tác phẩm văn học lãng mạn xuất sắc nhất nước Mỹ. *** Tôi muốn sống theo cách của riêng mình. Tuy nhiên tôi là người Mexico, nên gia đình tôi luôn chỉ dẫn tôi làm mọi việc, dù tôi có muốn hay không đi chăng nữa. Thôi được rồi, chỉ dẫn thì chưa đúng, ra lệnh thì đúng hơn. Mẹ tôi đã không hỏi tôi xem là liệu tôi có muốn rời khỏi Mexico và chuyển đến Colorado để sống cùng với anh trai Alex trong năm cuối trung học phổ thông hay không. Bà đã quyết định gửi tôi về Mỹ, “vì muốn tốt con thôi” – theo ý của bà, chứ không phải tôi. Khi phần lớn các thành viên trong gia đình ủng hộ bà, quyết định được đưa ra. Họ thực sự nghĩ rằng gửi tôi về Mỹ sẽ làm cho cuộc đời tôi không kết thúc dưới những nấm mồ hoặc trong nhà tù sao? Kể từ khi tôi bị sa thải khỏi nhà máy đường hai tháng trước, tôi đã sống một cuộc sống điên rồ. Không có gì có thể thay đổi được điều này. Tôi nhìn ra ô cửa sổ bé bé khi chiếc máy bay bay qua ngọn Rockies phủ tuyết. Tôi chắc chắn rằng mình không ở Atencingo bao lâu nữa, và tôi cũng không ở ngoại ô Chicago, nơi mà tôi đã sống nhiều năm trước khi mẹ bắt chúng tôi thu dọn và chuyển đến Mexico trong năm hai trung học. Khi máy bay hạ cánh, nhìn những hành khách khác chen lấn để xuống máy bay, tôi ở lại và đợi cho tình cảnh này kết thúc. Tôi sắp gặp lại anh trai của mình lần đầu tiên trong vòng gần hai năm. Chết tiệt, tôi thậm chí còn không biết là liệu tôi có muốn gặp lại anh ấy hay không nữa. Hầu hết mọi người đã xuống máy bay nên tôi không thể trì hoãn thêm nữa. Tôi lấy ba lô của mình và làm theo các biển chỉ dẫn ở khu vực nhận hành lý. Khi vừa ra khỏi cửa an ninh, tôi trông thấy ông anh Alex đang đợi bên ngoài các thanh rào chắn. Tôi nghĩ tôi có thể không nhận ra anh ấy, hoặc cảm thấy như chúng tôi là những người xa lạ chứ không phải một gia đình. Tuy nhiên, không có bất kỳ sự nhầm lẫn nào xảy ra cả bởi khuôn mặt chúng tôi giống y như nhau. Tôi hơi hài lòng rằng bây giờ tôi đã cao hơn anh ấy, và tôi không còn là đứa trẻ gầy gò bị anh ấy bỏ lại phía sau nữa. “Chào mừng đến với Colorado.” Anh ấy vừa nói vừa ôm lấy tôi. Khi anh ấy thả tôi ra, tôi nhìn thấy những vết sẹo mờ trên lông mày và bên tai. Tôi đã không nhìn thấy nó vào lần cuối chúng tôi gặp nhau. Anh ấy trông có vẻ chững chạc hơn, nhưng anh không còn giữ ánh mắt đề phòng mà anh luôn mang bên mình như chiếc khiên che chắn nữa. Tôi nghĩ là sự đề phòng của tôi được thừa hưởng từ anh. “Cảm ơn.” Tôi nói dứt khoát. Anh ấy biết rằng tôi không muốn đến đây. Chú Julio đứng cạnh tôi cho đến lúc chú ấy tống khứ tôi lên máy bay. Và sau đó chú còn đe dọa rằng sẽ ngồi ở sân bay cho đến khi chú ấy biết chắc rằng tôi đã cất cánh. “Còn nói được tiếng Anh chứ?” Anh trai tôi hỏi khi chúng tôi đi lấy hành lý. Tôi trợn tròn mắt: “Chúng ta chỉ sống ở Mexico có hai năm thôi, Alex. Nói đúng hơn là chỉ có mẹ, em và Luis chuyển đến Mexico. Anh đã bỏ rơi mọi người.” “Anh không bỏ rơi mọi người. Anh chỉ sắp học đại học và bởi vậy anh có thể làm điều gì đó thiết thực với cuộc sống của mình. Em cũng nên thỉnh thoảng thử làm điều gì đó thiết thực đi.” “Thôi khỏi, cảm ơn anh. Em cảm thấy ổn với cuộc sống không mấy thiết thực của mình.” Tôi lấy chiếc túi vải len của mình ra khỏi băng chuyền và theo Alex rời khỏi sân bay. “Em đang đeo cái gì ở cổ đấy?” Anh ấy hỏi tôi. “Nó là cái chuỗi hạt.” Tôi trả lời, chỉ tay vào dấu chữ thập đính cườm trắng đen “Em đã chuyển sang tôn giáo khác từ lần cuối chúng ta gặp nhau.” “Tôn giáo gì chứ, anh không tin. Anh biết nó là biểu tượng của một băng đảng,” anh nói khi chúng tôi tiến đến chiếc xe Beemer mui trần màu bạc. Anh trai tôi không thể nào mua nổi chiếc xe đó, chắc hẳn là anh ấy mượn từ cô bạn gái Brittany. “Vậy thì sao chứ ?” Alex đang ở trong một băng đảng ở Chicago. Trước đây bố tôi cũng là thành viên của một băng đảng. Cho dù Alex có muốn thừa nhận điều đó hay không thì tôi cũng kế thừa sự xấu xa đó. Tôi đã cố gắng sống theo luật pháp. Tôi chưa bao giờ than phiền khi tôi làm ra ít hơn 50 peso mỗi ngày và làm việc liên tục sau giờ học ở trường. Sau khi bị sa thải và bắt đầu làm việc với băng Guerreros del barrio, tôi kiếm được hơn 1000 peso mỗi ngày. Nó có thể bị xem là thứ tiền dơ bẩn, nhưng nó giúp tôi đủ ăn. “Em có học được gì từ sai lầm của anh không đấy?” Anh ấy hỏi. Khỉ thật, khi Alex ở trong băng Latino Blood ở Chicago, tôi đã từng tôn thờ anh ấy. “Anh hẳn không muốn nghe câu trả lời đâu.” Lắc đầu thất vọng, Alex lấy chiếc tủi vải ra khỏi tay tôi và quăng nó vào sau xe. Vậy nếu anh ấy rời khỏi Latino Blood thì chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ? Anh ấy sẽ phải mang những hình xăm ấy trong suốt quãng đời còn lại. Dù sao đi nữa thì anh ấy sẽ luôn dính líu đến Latino Blood cho dù có hoạt động hay không hoạt động trong băng đảng ấy. Tôi nhìn anh trai của mình hồi lâu. Anh ấy chắc chắn đã thay đổi. Tôi đã cảm nhận được điều này ngay từ phút đầu tiên tôi trông thấy anh. Anh ấy có lẽ trông giống như Alex Fuentes, nhưng tôi có thể nói rằng anh ấy đã mất đi tinh thần chiến đấu mà Alex Fuentes từng có. Giờ anh ấy học đại học và suy nghĩ rằng anh ấy có thể tuân  theo luật pháp và biến thế giới trở thành một nơi tươi đẹp hơn để sống. Thật ngạc nhiên khi anh ấy nhanh chóng quên đi rằng chúng tôi đã từng sống trong khu ổ chuột ở vùng Ngoại ô Chicago một thời gian cách đây không lâu lắm. Có một số thứ trong thế giới này không thể tươi sáng, dù bạn có cố đánh bóng nó thế nào đi chăng nữa. “Mẹ thế nào rồi?” Anh ấy hỏi. “Mẹ ổn.” “Thế còn Luis?” “Cũng vậy. Cậu em trai nhỏ của chúng ta thông minh gần bằng anh rồi, Alex. Nó nghĩ rằng nó sẽ trở thành một phi hành gia như Hernández.” Alex gật đầu như một người cha đầy tự hào, và tôi nghĩ anh ấy thực sự tin rằng Luis có thể đạt được ước mơ của mình. Cả hai người họ đều hoang tưởng… Cả hai người anh em của tôi đều là những kẻ mộng mơ. Alex nghĩ rằng anh ấy có thể cứu thế giới bằng cách tạo ra các loại thuốc chữa bệnh, còn Luis thì lại nghĩ rằng nó có thể rời khỏi thế giới này và thám hiểm một thế giới khác. Khi chúng tôi đi lên đường cao tốc, tôi trông thấy những dãy núi ở xa xa. Nó làm tôi nhớ về địa hình hiểm trở ở Mexico. “Nó được gọi là Front Range.” Alex nói với tôi. “Trường đại học nằm ở chân núi.” Anh ấy chỉ sang trái. “Chúng được gọi là Flatirons bởi những tảng đá ở đây phẳng như những tấm bảng bằng sắt vậy. Thỉnh thoảng anh sẽ đưa em tới đó. Brit và anh thường đi dạo ở đó khi rời khỏi ký túc xá.” Anh ấy liếc nhìn tôi và bắt gặp tôi đang nhìn anh ấy với vẻ không thể tin nổi. “Sao nào?” Anh ấy đang nói chơi đúng không? “Anh đang đùa em à?”? Tôi chỉ đang tự hỏi anh là ai và anh đã làm chuyện quái quỷ gì với anh trai của tôi. Anh trai Alex của tôi đã từng là một kẻ nổi loạn, và giờ thì anh ấy lại đang nói về những ngọn núi, bảng sắt và đi dạo với bạn gái. “Thế em thích anh nói về chuyện say xỉn và gây rắc rối chắc?” “Đúng vậy!” Tôi nói và hành động như thể là tôi đang cực kì hứng thú. “Rồi sau đó anh có thể nói cho em biết nơi mà em có thể say xỉn và gây rắc rối, bởi em sẽ không thể sống nếu không dùng một vài loại chất cấm.” Tôi nói dối. Có thể mẹ tôi đã nói với anh ấy rằng bà nghi ngờ tôi sử dụng thuốc nên tôi cứ làm như thể là tôi dùng chúng vậy. “Được thôi. Thế cứ nói với mẹ về những thứ điên rồ đó đi, Carlos. Anh không còn làm những thứ mà em làm đâu.” Tôi gác chân mình lên bộ phận điều khiển xe. “Anh còn không có bằng chứng.” Alex đẩy chân tôi xuống. “Không phiền chứ? Xe của Brittany đấy.” “Anh thực sự bị mê hoặc rồi. Đến lúc nào thì anh mới bỏ quách cái loại con gái rẻ tiền đó đi và bắt đầu trở thành một anh chàng sinh viên đại học bình thường – ngủ với hàng tá cô gái?” Tôi hỏi anh ấy. “Britany và anh không hẹn hò với người khác.” “Tại sao lại không?” “Người ta gọi đó là bạn trai và bạn gái.” “Có mà hèn nhát ấy. Một chàng trai chỉ ở cùng với một cô gái thì không bình thường chút nào cả, Alex. Em là một người tự do và em sẽ sống độc thân mãi mãi”. “Vậy là đã rõ, Quý ngài tự do, ngài sẽ không ngủ với bất kỳ ai trong căn nhà của tôi.”   Mời các bạn đón đọc Quy Luật Hấp Dẫn của tác giả Simone Elkeles.
Những Người Sống Và Những Người Chết
Những người sống và những người chết (tiếng Nga: Живые и мёртвые) là tác phẩm đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết (Những người sống và những người chết, Người ta sinh ra không phải đã là lính, Mùa hè cuối cùng) về đề tài Chiến tranh Vệ quốc (1941 - 1945) của nhà văn Konstantin Simonov. Hai phần đầu tiên của cuốn tiểu thuyết được xuất bản vào các năm 1959 và 1962, phần thứ ba vào năm 1971. Tác phẩm được sáng tác theo hơi hướng sử thi, toàn bộ cốt truyện trải dài theo trình tự từ tháng 6 năm 1941 cho đến tháng 7 năm 1944. Theo các nhà phê bình văn học Soviet, đây là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất về đề tài Chiến tranh Vệ quốc. *** 'Tôi có cảm giác chung với tiểu thuyết Liên xô thời kỳ chống phát xít, đó là mỗi khi đọc xong một cuốn sách, bỗng chợt thấy tất cả nhân vật trong đó, những anh dép, lép, nhép, nốp, lốp, xốp… như trở thành đồng đội của mình, hoặc đúng hơn, thấy mình trở thành một người trong số họ. Tôi đã theo anh phóng viên quân đội Xintxốp suốt những trận chiến đấu, phá vây, chia tay và gặp lại, tôi đã gặp Xerpilin, Tanhia, Dôlôtarép… Tôi cũng gặp những kẻ còn sống mà như đã chết, hèn nhát mạt hạng như gã Thượng úy Kruchikốp, sống bấu víu bằng cách tự lừa mình rằng còn có kẻ còn hèn nhát hơn mình, hoặc dối trá hơn mình, và mình sẽ vạch mặt kẻ đó. Lúc ấy mình sẽ là người hùng. Lúc ấy mình sẽ yên tâm tin rằng mình không hèn nhát. Cỗ máy chiến tranh xay nghiền những thanh niên, trung niên, phụ nữ và trẻ em trong ánh chớp số phận. Thật trớ trêu, những ánh chớp số phận ở đây, hóa ra lại là ánh lửa lóe lên khi mỗi viên đạn bay ra khỏi nòng súng. Sau đó là những người sống và những người chết. Dù kẻ bị nhắm bắn có trúng đạn hay không, anh ta cũng đã bị chiến tranh quẳng ngoéo đi xa khỏi con đường anh vẫn đi trước đó. Nếu anh trúng đạn, chết ngay, hoặc tử thương, đã đành đi một nhẽ, thế là chấm hết một đời. Nhưng nếu viên đạn chỉ làm anh bị thương đâu đó, cho anh một vết sẹo, hoặc biến anh trở thành tàn phế, anh có thể tiếp tục chiến đấu, hoặc dưỡng thương một thời gian rồi tiếp tục chiến đấu, hoặc thậm chí không bao giờ chiến đấu được nữa. Anh phải sống và đối mặt với một cuộc đời khác hẳn. Thậm chí ngay cả khi viên đạn đó tránh khỏi anh, biết đâu đấy, anh lại trở thành một Valentin Hauder, anh chàng trong Ba người bạn của Erich Maria Remarque, ngày ngày say khướt uống mừng mình thoát chết. Không chỉ là chiến tranh, vấn đề đặt ra còn là giữa một con người và một tờ giấy, người ta coi trọng cái nào hơn cái nào. Đến bao giờ người ta mới biết cách tin vào con người ? Tôi không muốn dành nhiều lời xưng tụng cho một tác phẩm để dụ dỗ người khác đến với nó. Chỉ biết rằng Simonov đã viết một cách đầy tiết chế, sự tiết chế của một người đã thực sự trải qua chiến tranh với tất cả sự khốc liệt của nó. Mỗi nhân vật thoáng qua dù chỉ một lần cũng khiến người đọc thấy được dù anh ta sẽ sống hoặc sẽ chết thế nào, anh ta cục cằn, thô lỗ, nóng nảy hay mơ mộng thế nào, và anh ta cũng là một mắt xích không thể thiếu trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Chừng nào một đất nước còn những con người như Malinin, Xintxốp, Xerpilin, Masa…, đất nước đó sẽ không bao giờ chấp nhận quỳ gối trước quân xâm lược' . *** Cạnh đường có hai chiếc xe tăng Đức đang đứng như hai cái đài kỷ niệm khiến Malinin không thể nào nhầm được: nòng đại bác của chiếc này chĩa vào chòi súng của chiếc kia. Đây chính là những chiếc xe tăng mà hôm qua, khi đi ngang qua đó, ông có kể lại rằng bọn lính xe tăng Đức đã phải dốc hết xăng ra cho bọn bộ binh. Nghĩa là họ đã đi trở lại được khoảng hai chục cây số. Dù sao chăng nữa, kể từ sáng hôm qua đến giờ, tiểu đoàn đã tiến được khá xa về phía trước... Nghĩ đoạn ông bèn hỏi Karaulốp xem Riáptrenkô đã chỉ định ai làm trung đội trưởng thay anh ta, và khi nghe anh ta trả lời đúng cái tên mà ông dự đoán: «Xintxốp», thì ông lại bực mình sực nhớ ra rằng thế là mình vẫn chưa kịp nói với Xintxốp về lá thư mình gửi lên phòng chính trị. Bây giờ, khi lại một lần nữa nghĩ tới lá thư này, ông vẫn không biết rằng tình trạng chậm trễ ấy không phải là do lỗi của đảng ủy sư đoàn như ông đã kết luận : đảng ủy sư đoàn chẳng liên quan gì đến việc này cả. Số là một đồng chí trợ lý của phòng chính trị tập đoàn quân sau khi đọc đến họ tên của Xintxốp thì chợt nhớ tới một tài liệu trước đây đã đi qua tay mình. Tài liệu đã qua tay anh đó chỉ vẻn vẹn là một tờ giấy xé từ quyển vở học sinh viết đầy một thứ chữ to tướng của con nhà lính : chiến sĩ hồng quân Dôlôtarép vượt khỏi vòng vây ở khu vực mặt trận của tập đoàn quân đã viết giấy lên phòng chính trị trình bày hoàn cảnh mà chính trị viên I. P. Xintxốp đã hy sinh và đề nghị rằng nếu có thể thì báo cho gia đình đồng chí Xintxốp biết. Đồng chí cán bộ phòng chinh trị ấy chưa có thời gian để làm một việc gì theo yêu cầu của lá thư này, nhưng anh cũng không nỡ đang tay xé nó đi, bới thế bây giờ nó đang nằm cùng trong một tập hồ sơ bên cạnh lá đơn của hạ sĩ Xintxốp xin được phục hồi đảng tịch. Mặc dầu trên tập hồ sơ ấy có ghi mấy chữ «để báo cáo», nhưng lúc đó chẳng có ai để mà báo cáo cả; trận tấn công đã bắt đầu và chính ủy trung đoàn Mácximốp, chủ nhiệm chính trị tập đoàn quân, đã ra hỏa tuyến hơn hai ngày nay rồi. — Thế nghĩa là đã có Xintxốp thay cậu rồi đấy hả? Được ! — sau giây lát lặng thinh, Malinin nói với Karaulốp như vậy. Ông nói tựa hồ như mình vẫn còn đang trong tiểu đoàn và tựa hồ như việc đó vẫn phải có sự đồng ý của ông thì mới được. — Vậy tiểu đoàn trưởng vẫn từ chối không chịu chuyển về hậu phương hả? — Đời nào ông ấy chịu! — Karaulốp nói với vẻ tán thành. — Máy bay nào thế nhỉ?—nghe có tiếng máy bay bắt đầu ầm ì trên bầu trời và cảm thấy chú bé ngồi đằng sau mình giật thót người, Malinin liền hỏi vậy. — Máy bay ta, — Karaulốp nói. Bốn phi dội máy bay ném bom của ta, mỗi phi đội chín chiếc nối đuôi nhau bay qua đầu đoàn thương binh, từ phía đông sang phía tây, thong thả rạch ngang bầu trời đông trắng đục. Chiếc xe trượt tuyết liền dừng lại và các chiếc đi sau cùng dừng lại, suýt nữa húc phải nhau. Cả chú bé đánh xe lẫn Karaulốp và Malinin đều nhìn lên trời với cùng một niềm sung sướng và biết ơn. — Sao, bay khuất rồi hả, không thấy nữa rồi hả?—Malinin hỏi, khi không còn nghe thấy ầm ì nữa và không đủ sức để chống tay nhỏm dậy dõi theo bóng máy bay. — Không, vẫn còn thấy, nhưng bây giờ thì gần như không thấy nữa, bay khuất rồi, — Karaulốp trông theo hút những chấm đen nhỏ bẻ đến tận chân trời và đáp lại như vậy. Tiểu đoàn Riáptrenkô đã tiến được mười cây số kể từ chiếc lán mà đêm qua Malinin đã ngất đi và cách xa cái nơi mà bây giờ đoàn xe trượt tuyết chở đầy thương binh loại nặng về hậu cứ là ba chục cây sồ, tiểu đoàn đang tiến về phía tây trong làn tuyết dày, mừng rỡ vì cuối cùng bão tuyết đã tan. Giờ đây sau khi chiếm được ga Vôxkrêxenxkôiê, những trung đoàn khác của Xerpilin ít bị tiêu hao trong trận đánh hôm qua, đang xông được lên phía trước và từ sáng đến giờ tiểu đoàn vẫn cứ tiến mãi mà không phải nổ một phát súng nào, chỉ thỉnh thoảng lại đụng phải những chiếc xe quân Đức bỏ lại trong tuyết và xác những tên lính bị chết cóng hoặc bị giết. Hiện tượng tiến quân mà không phải nổ súng này cố nhiên chỉ là tạm thời, bởi vì cả bên trái lẫn bên phải họ, tiếng gầm của đại bác vẫn liên tiếp theo gió vọng lại, còn ở ngay phía chân trời thì trong nửa giờ vừa qua đã lại thấy bập bùng khói lửa của những làng mạc bị đốt cháy. Xintxốp, Kômarốp và hai chiến sĩ tiểu liên nữa, — tất cả quân số còn lại của trung đội, — đang nối nhau đi theo sau con ngựa do Riáptrenkô cưỡi. Lẽ ra Riáptrenkô phải sang đội điều trị từ lâu để chữa vết thương, nhưng anh vẫn không chịu thua, vẫn cứ cưỡi ngựa bằng cách bỏ cái bàn chân tê cóng ra khỏi bàn đạp và buộc một chiếc gậy đầu cong do tay anh đẽo gọt lấy hôm qua vào phía sau yên để phòng khi phải xuống ngựa. — Hạ sĩ ơi, theo cậu thì liệu đơn vị mình có sắp được bổ sung thêm quân số không? Kômarốp tiền len ngang với Xintxốp rồi đi bên cạnh anh. — Tớ làm sao mà biết được? — Xintxốp nhún vai, nhưng anh nghĩ thầm trong bụng rằng trong lúc mình chưa dừng lại, chưa chạm trán với quân Đức ở một nơi nào đó, thì chưa làm gì có bổ sung được đâu: tuyết dày như thế này không thể chở quân số bổ sung bằng xe ôtô được, còn như đi bộ thì chẳng ai đuổi kịp được mình, nếu mình cứ đi liên miên không nghỉ như hôm nay. Kômarốp buồn bã thấy trung đội mình bị thương vong nhiều đến như vậy, anh bèn đến tìm một lời an ủi ở người tiểu đội trưởng bây giờ đã trở thành trung đội trưởng của mình, nhưng Xintxốp thì lại nghĩ thầm rằng nếu đêm hôm qua Kômarốp không đến cứu mình ở cạnh lán, không quạt lia lịa thẳng vào tên Đức đang nhảy vọt ra trong giây phút cuối cùng ấy thì anh đã đi đời nhà ma, và bây giờ đã không còn gì để suy nghĩ nữa, dù là chỉ suy nghĩ rằng hôm nay có đánh nhau không và liệu mình có được lành lặn trong trận đánh này không. Nhưng giờ đây anh không muốn dùng lời để nói về tất cả những điều đó, anh chỉ nói bằng mắt, bằng cách yên lặng nhìn vào mắt Kômarốp với lòng biết ơn. —Thế nào, theo ý cậu thì hôm nay cánh mình có đuổi kịp được bọn Đức không? — Kômarốp hỏi. Xintxốp bèn nhìn vào mặt anh ta và hiểu rằng bây giờ Kômarốp cũng đang có những cảm nghĩ giống hệt như mình, vừa muốn tiếp tục đuổi kịp quân Đức, lại vừa tiếc rẻ phải từ biệt giờ phút nghỉ ngơi lấy sức mới được hưởng sau trận chiến đấu hôm qua. — Có lẽ đuổi kịp đấy,—anh cố nén cái ý nghĩ ấy trong lòng, dấn bước đi lên, rồi đáp vậy, — bởi vì ta lại trông thấy khói kia rồi! Đằng kia, ở nơi tuyết phủ, nơi mà họ đang rảo bước tiến đến đám khói từ một xóm làng bị cháy vẫn bốc lên mỗi lúc một cao. Tiểu đoàn trưởng Riáptrenkô cưỡi ngựa đi đằng trước Xintxốp, có lúc người anh che khuất đám khói ấy, có lúc nó lại lộ ra, mỗi khi con ngựa bước lệch đường sang bên cạnh. — Kômarốp, Kômarốp ơi! — Gì thế? — Cho xin điếu thuốc! — Đang đi sao lại hút thuốc thế? — À thì tự nhiên thấy thèm... — Xintxốp không giải thích tại sao lại thèm. Nhưng anh thèm thuốc, bởi vì giờ đây khi nhìn vào đám khói ở đằng xa phía trước mặt, anh cố buộc mình phải quen với ý nghĩ gay cấn: mặc dù đã trải qua biết bao nhiêu chặng đường, nhưng phía trước vẫn còn cả một cuộc chiến tranh.. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Sống Và Những Người Chết của tác giả Konstantin Simonov.
Mười Lẻ Một Đêm
"Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm". Đó là hai người nửa bạn nửa tình nhân mới gặp lại nhau sau hơn mười năm xa cách, và họ muốn trao thân cho nhau, lần đầu tiên. Họ mượn căn hộ của một người bạn - Họa sĩ Chuối Hột - để gặp gỡ, và đã bị nhốt ở đó bởi sự đãng trí ma lanh của ông bạn trời đánh. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia tấn trò đời: Họa sĩ Chuối Hột, Người đàn ông và Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Tất cả các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít; và luôn luôn giọng phát ngôn này bị đan cài, bị đánh lẫn vào giọng của chính các nhân vật đang được nói tới, nó tạo nên một kiểu giọng tưng tửng, giỡn cợt, giễu nhại rất đặc trưng cho văn xuôi Hồ Anh Thái. *** Chất hài hước, nghịch dị trong 'Mười lẻ một đêm' Bằng tiếng cười, tác giả của “Mười lẻ một đêm” đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống. Mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực! 1. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm 1 của nhà văn Hồ Anh Thái có thể khiến người ta phải bật cười, bởi tính chất hài hước của nó. (Tôi không nói đây là cuốn tiểu thuyết hài, vì như thế sẽ sa vào một sự phân loại cực kỳ phức tạp). Cái đó có thể có gì đặc biệt hay không? Tôi cho rằng có. Nếu tôi không nhầm thì kể từ khi Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng ra đời đến nay, văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng đã đánh mất (một cách rất đáng tiếc) tiếng cười hài hước. Suốt một thời gian dài các nhà văn Việt Nam ít cười và cũng ít muốn khiến cho độc giả phải bật cười thông qua tác phẩm của mình. Chúng ta quá trang nghiêm, trang nghiêm đến mức coi sự cười cợt thoải mái là một trò lố, một sự vô bổ và thậm chí là có hại. Khi bắt tay vào việc viết một cuốn tiểu thuyết, nếu tôi không võ đoán, hẳn là các nhà văn của chúng ta đều "hằm hằm" nghĩ đến chuyện tác phẩm của mình sẽ phản ánh cái gì và phản ánh đến đâu, nó có vươn tới phục vụ những nhiệm vụ chính trị xã hội hay không và phục vụ đến đâu, nó có nêu một tấm gương đạo đức hay không và nêu đến đâu, nó có đưa ra một sự cảnh báo hay không và cảnh báo đến đâu... Nói chung, việc sáng tác tiểu thuyết bị đè xuống bởi một cứu cánh quá ư đạo mạo, nghiêm túc; và trong tình thế ấy thì không (hoặc khó) có thể bật ra tiếng cười giòn giã, vang rền, "xả láng". Nếu có chăng, nó chỉ là cái cười gằn, cười mỉa, hoặc cười mà ầng ậc nước mắt mà thôi! 2 2. Trở lại với tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái. Ta hãy đọc đoạn mở đầu tác phẩm: "Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm và mười lẻ một ngày. Chính xác thì không đúng mười lẻ một đêm ngày, nhưng thực sự là bao nhiêu thì độc giả phải theo dõi hết cả cuốn sách mới biết được. Chẳng phải tác giả giữ mánh hay giấu bí quyết gia truyền, mà cái gì cũng phải tuần tự. Đôi khi đọc sách cũng là dịp thử thách lòng kiên nhẫn. Sách dở thì thử thách lòng khoan dung". Có thể thấy, giọng văn ở đây là kiểu giọng phát ngôn tưng tửng, nó được xuyên thấm bởi tính bỡn cợt, giễu nhại. Dường như có một khế ước mà tác giả đã thảo ra trước bạn đọc: "Các anh nên đọc hết cuốn sách này. Đọc xong các anh có thể tin hoặc không, vì những chuyện tôi kể có thể rất nghiêm túc hoặc có thể hết sức tầm phào”. Không đặt mục tiêu thuyết phục độc giả, nhà văn bày ra một cuộc chơi, bước vào cuộc chơi ấy, độc giả có thể vừa thưởng thức, vừa chứng nghiệm, vậy thôi! Và, cuộc chơi này được bắt đầu từ tình huống như vừa kể trên, "Một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm. Và mười lẻ một ngày". Còn số mười lẻ một đêm buộc người ta phải nghĩ đến truyện Nghìn lẻ một đêm lừng danh mà người Ba Tư đã cống hiến cho nhân loại, nghĩ đến những chuyện kể được tạo nên bằng sự tưởng tượng cực kỳ phóng túng, bất chấp logic đời sống thực tế. Chất phóng túng ấy có ở Mười lẻ một đêm. Trước hết, nó được thể hiện qua các nhân vật đậm tính nghịch dị (grotesque, mà hầu như tất cả các nhân vật của cuốn sách đều là nhân vật nghịch dị). Họa sĩ Chuối Hột chẳng hạn: "Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám mùa cởi mở. Thời trang yêu thích nhất là bộ cánh lúc lọt lòng mẹ". Sở thích - nếu có thể gọi đó là sở thích - khoả thân của Họa sĩ Chuối Hột được tác giả phóng đến cực đại. Ấn tượng nhất có lẽ là hình ảnh này: "Trong một góc nhà gã chống đầu xuống đất hai chân dốc thẳng lên trời, thân người bóng nhẫy, trắng lôm lốp như thân chuối. Tất nhiên là chuối hột trổ hoa ở quãng lưng chừng trời". Đó là cảnh hoạ sĩ Chuối Hột khoả thân tập yoga khi cửa nhà mở ra thông thống! Cảnh này, không hiểu sao cứ khiến tôi phải liên tưởng tới chàng hiệp sĩ xứ Mantra của Cervantes - nhân vật nghịch dị vĩ đại trong văn học thế giới: khi điên cuồng nhớ tới nàng Dulcinea, Don Quijote đã trồng cây chuối, áo sơ mi dốc xuống trùm mặt và chàng ta không hề mặc quần! Nhân vật Bà mẹ cũng đậm chất nghịch dị. Cái dâm của người đàn bà này được mở rộng tới mức quá khổ trên văn bản. Qua năm lần đò và vô vàn những cuộc phiêu lưu tình ái - tất cả đều diễn ra trước cặp mắt của đứa con gái, "con bé phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ" - Bà mẹ quả là mẫu người ham hố nhục dục đến mức vô độ và vô sỉ. "Về làm gì, ở lại đây ngủ cho vui" - đó là câu nói được bà mẹ lặp đi lặp lại với từng đối tác mới trong thú vui xác thịt triền miên vô tận. Cũng có thể coi đó như một dấu hiệu cá biệt hoá nhân vật, giống câu "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi" của cụ Cố Hồng trong văn Vũ Trọng Phụng. Nhẹ dạ, nông nổi, nhiều lầm lạc, con thiêu thân trong lò lửa đam mê - không ít lần tác giả làm người đọc ngỡ tưởng như vậy về nhân vật Bà mẹ - nhưng tất cả ấn tượng ấy phải được xét lại trước một thực tế thế này: "Năm lần lấy chồng, năm lần li dị, mỗi lần li dị được một cái nhà. Chồng đầu tiên được một cái nhà để xe. Chồng thứ hai được chia đôi căn phòng 26m2. Chồng thứ ba căn hộ tập thể tầng hai. Chồng thứ tư được 9m2 phố cổ. Chồng thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư chất lượng cao". Việc nâng dần cấp độ đền bù sau mỗi lần li hôn như vậy là một cách phóng đại cho cái tham của Bà mẹ. Để rồi, người đọc không khỏi bật cười trước sự tổng kết của cô con gái: "Mẹ ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén được"! Có một cặp nhân vật nghịch dị không thể không nói đến trong Mười lẻ một đêm, đó là giáo sư Một tên Xí, giáo sư Hai tên Khoả. Ông Khoả vốn là chồng thứ năm của nhân vật Bà mẹ. Ông khác đời ở cái bệnh cười vô tiền khoáng hậu: "Chỉ định bật lên một tiếng cười thôi thì cứ thế mà cười mãi. Không sao hãm lại được. Hơ hơ hơ hơ. Mãi. Chập dây thần kinh cười". Không có thuốc chữa tận gốc căn bệnh ấy, chỉ có một giải pháp tình thế: "Hễ bật lên tràng cười không tắt được thì chỉ việc tát cho chàng một cái. Đứt luôn". Từ cái bệnh cười ấy của ông mà tác giả cho chúng ta một "xen" hài kịch đáng xem: ông Khoả hướng dẫn luận văn cho nữ sinh viên, đến lúc ra về, sinh viên khẩn khoản xin lại thầy cái chân. "Thầy bật cười khan. Cười khan tức là chỉ cười một tiếng. Chết dở, nãy giờ thầy cho em về mà thầy vẫn giữ đùi em. Thầy cười khan, nhưng bệnh cười vượt quá quy định, bắt đầu nhân ra thành chuỗi cười bất tận. Cô sinh viên hoảng quá. Chẳng biết ứng phó thế nào. Cũng không dám rút chân ra khỏi tay thầy. Đúng lúc nàng (tức Bà mẹ) về. Nàng chồm lên tát vào mặt chồng một cái. Tịt. Nàng hất chân con kia ra khỏi tay chồng. Dứt". Hoạt cảnh này bóc lộ cái dâm, sự bất lực và cả cái quái đản của nhân vật, chính vì thế mà người ta phải bật cười. Từ hình ảnh một ông giáo sư già, tay nắm chân một người con gái trẻ, miệng cười không dứt, người đọc có quyền liên tưởng tới hình ảnh một con đười ươi tay giữ ống tre, nhìn về phía mặt trời cười sằng sặc, như dân gian thường kể, không nhỉ? Đó là ông giáo sư Hai, còn người tạo nên với ông hình ảnh cặp bài trùng, ông giáo sư Một, thì sao? Ngay từ đầu tác giả đã giới thiệu với chúng ta rằng ông là một nhà văn hoá lớn, là người duy nhất trong đám giáo sư tiến sĩ có thể sử dụng tiếng Anh để giảng dạy. Nhưng ngay sau đó, ông đã bị "lật tẩy" bằng chính những hành vi cực kỳ đối nghịch với các chuẩn mực văn hoá hiện hành. Dù không phải là đại biểu được mời tham luận trong một hội nghị quốc tế, ông vẫn "vô tư" phát biểu quá thời lượng cho phép, khiến cho cả chủ và khách đều lâm vào tình thế khó xử, mọi thứ rối tung như canh hẹ. Ông ăn uống trong bữa tiệc chiêu đãi sau hội thảo như trong chốn không người, đúng hơn, như một anh mõ trong xó bếp bần hàn của mình. Và đặc biệt là việc ông "tè bậy" vào chân nhóm tượng đài công nông binh - một công trình văn hoá - đều đều ngày hai lần, và bao giờ cũng khoan khoái, thoả mãn! Nhà văn hoá tiểu tiện vào công trình văn hoá, sự tương phản giữa cái "nó phải là" và cái "nó thực sự là" chính là một tình huống kiểu mẫu để bộc lộ cái hài. Chỉ có điều, cái "nó thực sự là" ở ông giáo sư Một, nhà văn hoá lớn, đã vượt ngưỡng phản văn hoá. Khai thác triệt để sự vượt ngưỡng này qua các hành vi ăn uống, tiêu hoá - vốn liên quan đến phần dưới cơ thể, phần được coi là thô, nặng, đục, uế tạp - của nhân vật, tác giả đã cho ta một hình ảnh đầy chất nghịch dị! (Hãy nhớ lại những nhân vật tương tự trong Gargantua và Pantagruel của Rabelais). 3. Còn có thể nói về chất nghịch dị - và từ đó gây cười - ở một số nhân vật khác trong Mười lẻ một đêm. Tựu trung, nó được hình thành từ việc tác giả chú ý nhặt ra một (hoặc một vài) thói tật và sự lập dị, bơm phồng lên, tô đậm vào, biến nó thành một tồn tại bất bình thường trong đời sống bình thường, một sự lộ liễu quá mức hình dung sẵn có về đối tượng. Và chính từ những nhân vật nghịch dị này mà tác giả đưa chúng ta vào những phạm vi hoạt động xã hội cũng đầy tính nghịch dị. Với họa sĩ Chuối Hột, chúng ta đặt chân tới hội họa đương đại, nơi mà nghệ thuật sắp đặt (installation) và nghệ thuật trình diễn (performance) đang rùm beng khua chiêng gõ mõ. Nó là cái gì thế? Xem nhé: "Bày mấy cái chậu nhựa trên vỉa hè. Treo lủng lẳng trên mỗi chậu một cái nón. Rồi cầm vòi nước tưới lên nón cho mưa rơi xuống chậu. Thế là hoàn chỉnh một tác phẩm. Ngũ Hổ cởi hết mở hết, đóng độc cái khối ngồi thế kiết già trong công viên. Bảo một thằng Tây đối tác đi qua từng vị cởi mở, lấy gậy gõ lên từng cái đầu trọc. Gõ một cái thì cái đầu trọc lại kêu cốc một cái kêu boong một cái. Thế là được một sô". Khoan hẵng bàn về chuyện đó là nghệ thuật hay không nghệ thuật. Điều chắc chắn là những hoạt động này không trở thành mục đích của chính nó. Như Họa sĩ Chuối Hột giảng giải, thì: "Sắp đặt và diễn là để thu hút. Người ta thấy là lạ ngô ngố ghê ghê kinh kinh, người ta xúm lại xem. Cái ú ớ khờ khạo vớ vẩn lại làm cho người ta thinh thích nhơ nhớ. Tên tuổi ta được lưu vào bộ nhớ của công chúng. Từ đó công chúng đếu đâu cũng để ý tìm tên tuổi ta. Từ đó công chúng mới xem tranh ta mua tranh ta. Đến đó mới là mục đích". Với nhân vật người đàn ông và chuyến đi dọc theo đất nước của anh, chúng ta tham dự hội Lim, nơi có "anh hai đi giày tây, chị hai đi giày khủng bố"; chúng ta lên vùng cao vào chợ văn hoá Bắc Hà, nơi mà những sơn nữ người Mông, người Dao đã biết sỗ sàng đòi tiền khách du lịch mỗi khi khách định chụp ảnh; chúng ta tới Đà Lạt, thành phố ngàn hoa với thác Cam Ly ngày một ít nước, còn rác rưởi thì vứt như thể đó là bãi tập trung rác cho cả khu vực! Theo chân Người đàn ông đưa con sang nước ngoài du học, chúng ta biết đến cảnh những du học sinh con các ông to bà lớn tụ bạ với nhau để chơi đêm, tán chuyện, đánh bài đánh bạc, hút hít chích choác, và "thực hành tiếng Việt đến mức điêu luyện" trên xứ sở của Anh ngữ! Với hai ông giáo sư khả kính Khoả và Xí, tác giả đưa chúng ta vào lãnh địa của khoa học xã hội nhân văn đương đại, nơi mà khá nhiều giáo sư đầu ngành "mãi mãi dừng lại ở trình độ cử nhân bổ túc công nông. Có thêm cái lanh cái ma cái xảo của cá tính. Có thêm kiến thức tham khảo khoa học xã hội Đông Âu đến những năm 1980". Tóm lại, đó là những ngụy khoa học gia với đầy những cố tật: uyên bác rởm, tham quyền cố vị, lừa bịp người đời và cũng tự huyễn hoặc chính mình (nhưng điều nguy hiểm là họ lại được một bộ phận đông đảo trong xã hội coi như là những giá trị!). Theo con đường "một bước lên bà" của nhân vật Người đàn bà, người đọc được khám phá một phần những "bí sử" cười ra nước mắt ở chốn quan trường. Nhiều, và nhiều những kẻ giống như nhân vật ông Víp (chồng của người đàn bà), loại chính khách xuất thân từ những phong trào "cờ đèn kèn trống" cơ sở, năng lực yếu, chuyên môn kém, nhưng lại được đặt vào những vị trí công tác trọng yếu, và bản thân họ cũng rất biết kiếm lợi từ đó. Quan ông thì thế, quan bà cũng không kém. Hội các phu nhân vụ trưởng, phu nhân thứ trưởng, phu nhân bộ trưởng được nói đến trong Mười lẻ một đêm quả đúng là một êkíp mua quan bán tước, mua đất kiếm lời đại tài và đầy gian ngoan. Tuy vậy, cái nét thô lậu "nhà quê" trong căn tính các mệnh phụ thì vẫn không sao gột rửa được. Chi tiết bà vợ một ông to "tắt mắt" lấy trộm cái đĩa sứ trong bữa tiệc do sứ quán nước ngoài chiêu đãi đã cho thấy điều này. Đó là một tiếng cười, tiếng cười lột tả đến đáy của sự thực: con vịt xấu xí không bao giờ có thể trở thành con thiên nga xinh đẹp! Đến đây thì đã có thể nhận xét đôi điều về những tình huống nghịch dị trong Mười lẻ một đêm. Được tạo ra bởi những nhân vật nghịch dị - tôi muốn nói là những nhân vật mang trong mình một vài nét tính cách lập dị, thậm chí là quái đản, nó phô lộ ra giữa chợ đời một cách hồn nhiên và hoàn toàn không nghĩ rằng mình lập dị, quái đản - những tình huống nghịch dị này tạo ra ấn tượng mạnh về một đời sống mất chuẩn: những chân giá trị và ngụy giá trị xâm thực, chồng chéo, che phủ lẫn nhau, người ta không có cách nào phân biệt được và vì thế luôn phải mò mẫm giữa các vách tường của ảo tưởng. Bằng tiếng cười, tác giả của Mười lẻ một đêm đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống, và mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực! 4. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái, như đã nói, bắt đầu bằng việc "Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm". Đó là hai người nửa bạn nửa tình nhân mới gặp lại nhau sau hơn mười năm xa cách, và họ muốn trao thân cho nhau, lần đầu tiên. Họ mượn căn hộ của một người bạn - hoạ sĩ Chuối Hột - để gặp gỡ, và đã bị nhốt ở đó bởi sự đãng trí ma lanh của ông bạn trời đánh. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia tấn trò: Hoạ sĩ Chuối Hột, Người đàn ông và Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Tất cả các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít; và luôn luôn giọng phát ngôn này bị đan cài, bị đánh lẫn vào giọng của chính các nhân vật đang được nói tới, nó tạo nên một kiểu giọng tưng tửng, giỡn cợt, giễu nhại rất đặc trưng cho văn xuôi Hồ Anh Thái giai đoạn gần đây 3. Tính trào lộng suồng sã hết mức ở các sự kiện, các chi tiết được kể lại trong truyện khiến cho tôi, dù không muốn, cũng buộc phải nhớ tới một luận điểm cốt tử trong lý luận về tiểu thuyết của nhà bác học Nga Mikhail Bakhtine 4 rằng tiểu thuyết tiếp xúc với thế giới ở cái ngày hôm nay không hoàn kết; và rằng chính bằng thái độ trào lộng suồng sã hết mức ấy mà người viết mới có thể xoá bỏ mọi khoảng cách, "nắn gân bắt mạch" đối tượng một cách đầy tự tin và nói về nó một cách chính xác! Dẫu sao đi chăng nữa, chỉ riêng việc khiến cho độc giả có thể cười khi đọc Mười lẻ một đêm - trong bối cảnh một tình hình văn học quá ư đạo mạo nghiêm túc - đã là một thành công của nhà văn Hồ Anh Thái. Và để kết thúc bài viết này, xin lặp lại một câu của Milan Kundera trong tập Những di chúc bị phản bội: "Tim tôi đau thắt, khi nghĩ đến ngày Panurge 5  không còn gây cười". (Nguồn: Người Đại biểu Nhân dân, số ra ngày 25/4/2006) Mời các bạn đón đọc Mười Lẻ Một Đêm của tác giả Hoàng Anh Thái.