Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vinh Quang Và Quyền Năng - Graham Greene

Graham Greene, nhà văn Anh nổi tiếng được công chúng Việt Nam biết đến với tiểu thuyết The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) đã được dựng phim hai lần, ông được coi là người viết về chiến tranh Việt Nam ấn tượng nhất. Là người sống cuộc đời đầy phiêu lưu và mạo hiểm nên, Greene thích đưa các nhân vật người Anh dè dặt của mình vào những tình huống khắc nghiệt, ở những nơi chốn khác lạ. Trong thế kỷ 20, không nhà văn nào có được những nhìn nhận tinh tế hơn Graham Greene khi đưa ra sự so sánh giữa con người với con người. Khi mà ngày càng có ít các nhà văn cố gắng phân tích những đức tính tốt đẹp của con người rơi vào sự sa ngã, thì Greene là bậc thầy trong sự phân minh đầy tính phức tạp này. Nhân vật của ông tồn tại trong hệ thống phẩm hạnh được xác định rõ ràng… Với thành công đó, nhà văn nào cũng thèm muốn có được sức tưởng tượng chứa đầy sự đột phá vô cùng hấp dẫn như Greene - người không bao giờ thiếu chuyện để viết mà ngược lại, luôn ngập trong những áng văn không ngừng tuôn chảy trong mình. Greene từng nói rằng, thời niên thiếu không hạnh phúc là sự cân bằng vô cùng bổ ích cho ông. Tuổi thơ của ông là sự khổ cực ở trường học, những cuộc vật lộn với thầy hiệu trưởng lại là chính người cha của mình; tìm cách tự vẫn ở tuổi vị thành niên và rồi lại si tình đến mê muội người vợ của chuyên gia tâm thần học chữa bệnh cho mình; không đam mê thể thao và thường bỏ học để dành thời giờ đọc tiểu thuyết phiêu lưu của các nhà văn như Rider Haggard và R. M. Ballantyne… Chính những câu chuyện đó đã có ảnh hưởng sâu đậm tới Greene và giúp ông tạo được phong cách văn chương của mình. Graham Greene là người trầm lặng, kín đáo nhưng cuộc sống riêng tư của ông lại rối như tơ vò. Ông tự nhận mình là “một người chồng tồi và người yêu không kiên định” bởi có quan hệ với nhiều phụ nữ, chưa kể thú đam mê rượu đến mức trở thành huyền thoại. Năm 1925, khi mới 21 tuổi, Graham Greene phải lòng Vivienne Dayrell-Browning – một cô gái xinh đẹp theo đạo Công giáo. Nhà văn tương lai mất hai năm ròng với hàng trăm lá thư tình mùi mẫn mới chinh phục được người đẹp. Chưa hết, trước khi được Vivienne mở lời nói câu đồng ý trước bàn thờ Chúa, Greene còn phải cải đạo để vừa lòng ý trung nhân. Hai người kết hôn năm 1927. Họ đã có một thời gian khá mặn nồng, nhưng càng ngày, bất đồng giữa hai người càng lớn. Vivienne khá khắt khe và có cái nhìn cao đạo với vấn đề tình dục. Trong khi chồng cô lại là một người rất trần tục và luôn thẳng thắn thể hiện các nhu cầu bản năng. Họ có hai người con Lucy Caroline và Francis. Cuộc hôn nhân tan vỡ từ năm 1939 nhưng đến năm 1947, hai người mới chính thức chia tay. Cuốn “Vinh quang và quyền năng” có lẽ là một lời biện hộ muộn màng cho hôn nhân tan vỡ của mình. *** Là tài năng hiếm có trong thế giới văn chương ngày càng mang tính bản địa, một người theo chủ nghĩa quốc tế tài năng có nhận thức chính trị sắc bén, nhưng Graham Greene lại từ chối nhìn nhận mình là một nhà văn chính trị. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông, Thư viện Anh tổ chức một cuộc triển lãm các kỷ vật của Green; còn tại thành phố Berkhamstead quê bương ông thuộc Tây Bắc London diễn ra hội nghị kéo dài một tuần, trong đó bàn đến những đóng góp của Greene cho nền điện ảnh, món nợ văn chương của ông với Joseph Conrad và mối quan hệ với Vua hề Charlie Chaplin... Nếu còn sống, chắc chắn Graham Greene sẽ là người phản đối quyết liệt cuộc chiến của Mỹ ở Iraq, bởi ông từng lớn tiếng lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở VN: "Đây không chỉ là việc làm xấu xa mà là cuộc chiến xuẩn ngốc nhất...", Greene nói như vậy trong một cuộc phỏng vấn năm 1967. Ông còn chỉ trích về chính sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Greene từng nói rằng, nhiệm vụ của ông là mô tả "nỗi cam go của sự việc theo tâm lý, và đôi khi theo quan điểm chính trị". Đọc sách , độc giả nhận thấy phần lớn trong hơn hai chục tiểu thuyết của ông bộc lộ sự xung đột giữa lòng trung thành và khát vọng, sự giao thoa đầy khó khăn giữa chính trị và đạo đức. *** Tác phẩm của một tiểu thuyết gia công giáo người Anh, một người Anh giáo trở lại, như cuốn “Vinh Quang và Quyền Năng” trước hết mang lại cho tôi cảm giác bỡ ngỡ. Chắc chắn là tôi tìm được trong đó môi trường tâm linh quen thuộc, chính trong sâu thẳm của màu nhiệm quen thuộc mà Graham Greene đã đưa tôi vào. Nhưng mọi việc diễn ra cứ như thể tôi đi vào một khu nhà cổ qua một cánh cửa bị che khuất sau những dây leo, cành cây, mà tôi không biết, và bỗng chốc tôi nhận ra cái lối đi lớn trong vườn nơi ngày xưa tôi thường nô đùa, và tôi nhẩm đọc những chữ viết tắt mà tôi đã khắc lên thân cây sồi trong những kỳ nghỉ hè năm nào. Một người công giáo Pháp chỉ đi vào giáo hội qua cổng chính; họ bị chi phối bởi lịch sử chính thức của giáo hội Pháp; họ dự phần vào những cuộc tranh luận đã từng phân hoá giáo hội Pháp trong nhiều thế kỷ, người ta khám phá ra người nào đó thuộc phe Port Royal hay Dòng tên, họ về phe Bossuet chống lại Fenelon hay họ về phe với Lamenais và Lacordaire hay với Louis Veuillot. Không thể không liên tưởng đến tác phẩm của Bernanos khi đọc “Vinh quang và Quyền năng”. Những tranh luận của giới công giáo trong suốt bốn thế kỷ qua như được phác hoạ lại nơi đây. Sau cha xứ Donissan trong “Dưới ánh mặt trời của Satan” xuất hiện cha sở xứ Ars. Những vị thánh của Bernanos, những linh mục có khuynh hướng tự do, những giáo dân ngoan đạo mà ông mô tả với giọng điệu cay cú nói ngược lại sự tôn kính và sự gớm ghiếc của ông. Phần mình, Graham Greene đã lén lút đi vào vương quốc bí nhiệm, trong vương quốc của thiên nhiên và ân sủng. Không có thiên kiến nào làm vẩn đục cái nhìn của ông. Không có luồng tư tưởng nào làm ông rời xa phát hiện của ông, cái bí quyết mà ông đã đột nhiên tìm thấy. Ông không có một định kiến nào về cái mà chúng ta gọi là “linh mục tội lỗi”. Có thể nói rằng, ông không có trong đầu óc một mô hình đạo đức nào cả. Có bản tính tự nhiên hay hư nát và có Ân sủng quyền năng; có con người khốn khổ, không đáng giá gì sất, ngay cả để làm điều tội lỗi và cái tình yêu nhiệm màu bao trùm con người trong cái khốn nạn cũng như trong cái hổ nhục để biến họ thành thánh, một vị tử đạo. Vinh quang và quyền năng của Chúa Cha toả rạng nơi bản thân một linh mục Mexico nghiện rượu và đã có con với một nữ giáo dân của mình. Mô típ lố bịch, tầm thường và tội trọng của ông chỉ làm cho người ta cười nhạo hay nhún vai và ông linh mục tội lỗi nhận biết điều đó. Cái mà cuốn sách này muốn chứng minh cho chúng ta là, nếu tôi nói không quá, là việc thánh hoá tội lỗi nhờ ân sủng. Vị linh mục phản động, bị chính quyền kết án tử hình, đầu ông bị treo giá (cuốn truyện mượn khung cảnh một nước Mexico bị thao túng bởi những người cầm đầu chống đạo) đã tìm cách đi trốn, như những linh mục khác đã làm, ngay cả những vị thánh thiện nhất. Ông chạy trốn, đã vượt được qua biên giới, nhưng lại quay về khi có người hấp hối cần đến ông hay cả khi ông biết sự hiện diện của ông không mang lại gì hay cả khi ông biết đó là một cái bẫy, rằng người đến kêu cứu ông là người chỉ điểm. Vị linh mục nghiện rượu, tội lỗi, run sợ trước cái chết, đã hiến dâng mạng sống mình nhưng không bao giờ quên cái cảm giác hèn hạ, nhục nhã của mình. Ông ta sẽ cho là chuyện tiếu lâm nếu ai đó nói ông là Thánh. Ông được bảo vệ cách lạ lùng chống lại thói kiêu ngạo, sự tự mãn. Ông đi tử đạo nhưng luôn mang trong mình ý thức về sự sa đoạ, phạm thánh của một linh mục đang trong tình trạng tội trọng, đến nỗi ông hy sinh thân mình nhưng qui chiếu tất cả cho Thiên Chúa, cho quyền lực và vinh quang của Ngài nơi con người khốn nạn nhất trong những con người: chính bản thân ông ta. Và càng đi đến hồi kết, chúng ta càng thấy con người tội lỗi tầm thường này càng hoá thân nên giống Chúa Kitô để nên giống Ngài, nhưng chưa đủ: đến mức đồng hoá mình với Chúa của mình. Mầu nhiệm Thương khó tái hiện nơi tội nhân này, tội nhân được lựa chọn trong cặn bã của nhân loại và đã lặp lại điều Đức Kitô đã làm, không phải ở trên bàn thờ dưới hình bánh hình rượu và mình thì chẳng mất gì, nhưng là hiến tế chính máu và thịt mình trên Thánh giá. Ở nơi con người vị “linh mục tội lỗi” này, không phải là những nhân đức đã tỏ rạng để đối lập với tội lỗi, nhưng chính là đức tin - đức tin vào cái dấu ấn vô hình ông đã lãnh nhận ngày thụ phong, vào cái kho tàng mà chỉ có mình ông (bởi vì những linh mục khác đã bỏ trốn hay đã bị sát hại) còn mang trên đôi tay bất xứng nhưng đã được Thánh hiến. Vị linh mục cuối cùng còn lại trong vùng, ông không thể tin được rằng sau ông sẽ còn linh mục để cử hành thánh lễ, để giải tội, để giúp kẻ liệt trước ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu. Và dù sao đức tin của ông đã không lay chuyển dù ông không biết rằng, ngay khi ông vừa gục ngã dưới làn đạn, một linh mục khác đã đột ngột xuất hiện. Qua đó, chúng ta cảm nhận sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa trong một xã hội vô thần, cái giòng chảy ngầm của ân sủng đã làm Graham Greene choáng ngợp hơn là cái mặt tiền hoành tráng mà giáo hội trần thế trình ra trước mặt các dân tộc. Nếu có một ki tô hữu nào đó mà sự sụp đổ của giáo hội hữu hình không làm cho xao xuyến, chính là Graham Greene mà tôi nghe nói ở Bruxelles, trước mặt hàng ngàn tín hữu và sứ thần toà thánh, đã gợi lên hình ảnh vị giáo hoàng cuối cùng trong một Âu châu hoàn toàn mất đức tin, đứng xếp hàng trước quầy vé, mặc chiếc quần tây xoàng xĩnh, cầm trên tay, còn lấp lánh chiếc nhẫn của “người đánh cá”, cái cặp giấy carton. Có thể nói rằng, cuốn sách này là một thông điệp gởi đến thế hệ trong đó mọi cái đều bị xem là phi lý. Những người trẻ thời đại Jean Paul Sartre, Camus, những con mồi tuyệt vọng của cái tự do phù phiếm. Graham Greene hé lộ rằng, có thể, sự phi lý này thực ra chỉ là một tình yêu không bờ bến. Ông cũng gởi thông điệp cho những người ngoan đạo, những người chưa bao giờ nghi ngờ về những giá trị của chính mình và luôn mang trong đầu những mô thức thánh thiện, với những phương thế chuyên biệt để đạt được những mức độ đạo đức khác nhau. Ông đặc biệt nhắm tới những kitô hữu, linh mục và giáo dân, các tiểu thuyết gia đang rao giảng con đường thập giá nhưng phải nói là họ chưa chịu “đóng đinh” đủ. Bài học lớn cho những người bị ám ảnh bởi sự toàn thiện, những con người khốn khổ săm soi những khiếm khuyết của mình mà quên rằng ngày phán xét sau cùng, theo thánh Gioan Thánh giá, chính tiêu chuẩn tình yêu là tiêu chí phán xét. Cái đất nước ông mô tả truy lùng các linh mục và giết hại các ngài, đúng là cái đất nước mà chúng ta đang thấy hình thành trước mắt. Đây là giờ của “hoàng tử thế gian”, nhưng ông mô tả họ không chút hận thù: ngay với tên đao phủ, ông cảnh sát trưởng đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Họ tìm kiếm chân lý; họ tin đã tìm thấy chân lý và đang phục vụ chân lý, cái chân lý đòi phải hy sinh một số đồng loại. Bóng tối bao trùm vùng đất mà ông mô tả, nhưng có một tia sáng nào đó đang xuyên qua. Dù gì đi nữa, chúng ta không nên sợ hãi, tác giả đã nhắc cho chúng ta rằng điều bí ẩn sẽ được nhận biết, cũng còn những giá trị cho thế giới phi lý này. Cái tự do mà Sartre đề nghị cho con người có những giới hạn: chúng ta biết rằng, những tạo vật được yêu thương như chúng ta không có tự do nào khác ngoài cái tự do từ chối tình yêu đó… Francois Mauriac. Mời các bạn đón đọc Vinh Quang Và Quyền Năng của tác giả Graham Greene.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nana Du Ký - Arikawa Hiro
Truyện lấy tâm điểm là một con mèo tên Nana. Một con chảnh mèo. Sinh ra vốn là mèo hoang nhưng được Satoru nuôi nấng. Nana bị ô tô đâm, được Satoru đem đi bệnh viện. Satoru và Nana như có thần giao cách cảm. Rất hiểu nhau và không thể tách rời. Thế rồi một biến cố xảy ra khiến Satoru phải đem Nana đi cho người khác nuôi. Mối liên hệ với những người bạn cũ được hình thành. Satoru đã đến gặp những người bạn cũ như Kosuke bạn cấp 1, Yoshimine bạn cấp 2, Sugi và Chikako bạn cấp 3. Mỗi chuyến đi là 1 lần hồi tưởng về quá khứ, về những niềm vui bạn bè cùng trải qua. Truyện còn được đan xen dòng suy nghĩ khá khốn nạn của con mèo Nana. Con mèo giả nai ngoan ngoãn nhưng thật tình rất phá phách và ranh ma. Tưởng chừng như đó là một câu chuyện vui. Không. Nó là một cái kết buồn, và khi đọc xong, ta mới chợt so sánh lại. Đau đớn làm sao khi cuộc đời của Satoru lại không khác gì cuộc đời của Nana cả. Phải chăng vì thế nên cả 2 đã hình thành sợi dây liên kết, khiến cả 2 hiểu nhau và không thể tách rời. Tuy nhiên không hẳn là buồn khi Satoru đã gắn kết được các bạn với nhau. Và để nụ cười là điều ta nghĩ đến khi gấp cuốn sách lại. Mời các bạn đón đọc Nana Du Ký của tác giả Arikawa Hiro.
Đônha Perfêcta - Bênitô Pêrêx Galđôx
Benitô Pêrêx Galđôx sinh năm 1843 tại Lax Palmax, thành phố cảng của Tây Ban Nha trên đảo Gran Canaria. Thuở nhỏ, Galđôx là một cậu bé trầm lặng, đơn độc, nhút nhát nhưng rất thông minh, tò mò và ham học. Galđôx học tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Anh, và nghiên cứu khoa học, sử học, luật học, văn học, hội họa, âm nhạc. Vì thế ở tuổi thanh niên, Galđôx đã có trình độ học vấn vững vàng, uyên bác. Sống trong một thời kỳ đất nước Tây Ban Nha có rất nhiều biến động. Galđôx đã chứng kiến những vụ đàn áp của chính quyền phong kiến chuyên chế, những cuộc đảo chính quân sự, với những cảnh đau thương trong các vụ bạo loạn của sinh viên và dân nghèo. Ông đã đi sâu vào cuộc sống để tìm hiểu những khuyết điểm và những nguyên nhân thất bại của các trào lưu đòi tự do, và những thủ đoạn thâm hiểm của bọn thống trị độc tài trong việc ngăn cản cấm đoán khát vọng tự do của dân chúng, ông đã tiếp xúc với nhiều tầng lớp, và làm quen với đủ loại người. Ông đã đến hầu hết các thành phố và thị trấn ở Tây Ban Nha, đã đi thăm nhiều nước ở Châu Âu (Pháp, Anh, Đức…). Galđôx bắt đầu viết cho các báo từ khi còn là học sinh trung học. Năm hai bốn tuổi (1867), ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Giếng Vàng (La Fontana de Oro). Trải qua những năm dài làm việc không ngừng, năm sáu mươi chín tuổi ông bị mù (1913). Nhưng tám năm cuối đời, ông vẫn đọc cho người khác chép những tác phẩm cuối cùng. Ông mất năm 1920, thọ bảy mươi bảy tuổi, để lại trên 100 tác phẩm gồm 30 cuốn tiểu thuyết, 21 vở kịch, và 16 tập Những sự kiện quốc gia (Episodios nacionales). Tài năng và lao động sáng tạo của Galđôx đã đưa ông lên ngang hàng với Lôpêx đê Vêga (1562 - 1635) *, Canđêrôn đê la Barca (1600 - 1681) *, Mighel đê Xenrvantex Saavêđra (1547 - 1616) *. Toàn bộ tác phẩm của ông tập trung vào một chủ đề lớn cuộc sống của đất nước Tây Ban Nha, cùng với những tệ nạn xã hội và những bất hạnh đau thương. Nhân vật chính trong các tác phẩm của Galđôx là nhân dân Tây Ban Nha với đầy đủ tính cách, tập quán, hoàn cảnh sống của họ, những người bị áp bức, bóc lột, và giam hãm trong cảnh nghèo hèn lạc hậu. Galđôx đã miêu tả một cách hiện thực sinh động các nhân vật ấy cùng với những khát vọng mãnh liệt, những hy vọng sục sôi, niềm tin sắt đá, và những cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ của họ vì Tự do, Công lý và Tiến bộ. Đồng thời ông cũng nêu lên những thói hư tật xấu, tính ích kỷ nhỏ nhen, lòng tham không đáy, những ý nghĩ cùng những hành động ngu ngốc của một số người không ít... Đônha Pertêcta, cuốn tiểu thuyết thứ tư của Galđôx, ra đời năm 1875 (cách đây trên trăm năm) lên án cái xã hội Tây Ban Nha nghèo khổ, lạc hậu, cuồng tín, tự hãm mình trong cảnh tối tăm ngu dốt, nhưng lại dương dương tự đắc về truyền thống sùng đạo, về uy lực nhà thờ Gia tô giáo của họ, và điên cuồng, trắng trợn chống lại những tư tưởng nhân đạo tiến bộ. Kỹ sư Hôxê (Pêpê) đê Rây là một thanh niên tiến bộ, học vấn uyên bác, tính tình trung thực. Nhưng vì nhiều khi quá thẳng thắn, luôn luôn vạch trần sự dốt nát, mê muội, cuồng tín nên có một số kẻ xấu không ưa anh, căm tức anh, và chống lại anh... Theo nguyện vọng của cha, Pêpê Rây đến thị xã Orbahôxa thăm bà cô ruột Đônha Perfecta và cô em họ Rôxariô để tìm hiểu và quyết định đính hôn với cô. Nhưng vừa mới đặt chân vào gia đình Đônha Perecta (bà Toàn Thiện) ở cái thị xã sùng đạo Orbahôxa (đô thị uy nghiêm), anh đã vấp ngay phải sự phản ứng chống đối, đả kích cay độc của ông cố đạo rửa tội đôn Inôxenxiô (ngài Ngay Thật), người có nhiều đặc quyền đặc lợi ở vùng này, và cũng đang ấp ủ ý định gán ghép cô Rôxariô cho Haxintô (Hoa Dạ Hương), cháu họ của ông, một chàng trai tầm thường và lố bịch. Pêpê Rây cố tự kiềm chế tránh né những điều có thể gây va chạm. Nhưng bắt đầu từ hôm đó, sự bất đồng ý kiến cứ tiến triển và cuối cùng tạo ra mâu thuẫn đối kháng giữa anh với ông cố đạo và bà cô ruột của anh, cùng với đám tay chân thân tín của họ: mụ Maria Rêmêđiôx (mụ Maria Nhiều Thủ Đoạn), mẹ đẻ của Haxintô, lão nông dân giảo hoạt Licuôcgô (lão Thày Cò), tên côn đồ anh chị Cabaducô (thằng Người Ngựa). * Những văn hào, thi hào vĩ đại của Tây Ban Nha. Cũng ngay từ buổi đầu Pôpê Rây và Rôxariô yêu nhau say đắm. Nhưng bà Pertêcta cuồng tín và ông cố đạo nham hiểm Inôxenxiô tìm mọi cách để ngăn cản phá hoại cuộc hôn nhân. Họ không cho Rôxariô được gặp Pêpê Rây. Họ dựng lên nhưng vụ kiện cáo rắc rối liên tiếp chống lại Pêpê Rây, và tung ra những tin đồn vu khống, làm cho anh mất uy tín và bị cách chức. Từ các giám mục, linh mục cai quản mọi việc trong nhà thờ và các yếu nhân, nắm quyền hành trong thị xã, cho đến các tầng lớp nhân dân trong vùng Orbahôxa, hầu như mọi người đều căm ghét anh... Cuối cùng nhà khoa học trẻ tuổi Pêpê Rây đã ngã xuống do lòng cuồng tín ngu xuẩn và sự gian ác cố chấp của bà phú hào Toàn Thiện, do tâm địa ích kỷ vụ lợi nham hiểm của ông cố đạo rửa tội Ngay Thật. Qua tác phẩm của mình, Galđôx đã phơi bày ra ánh sáng bọn người cuồng tín, giả nhân giả nghĩa, nhỏ nhen, ích kỷ, và tham lam tàn bạo. Galđôx không chống lại tín ngưỡng, chống lại nhà thờ thiên chúa giáo, mà ông tố cáo và lên án tính chất giả đạo đức, phản động của tầng lớp cha cố Tây Ban Nha, những kẻ đã nắm quyền cai trị nhân dân, đã nhúng tay vào mọi vấn đề xã hội, và đã khống chế, đàn áp không thương xót những ai mong muốn được sống tự do. Sự nghiệp sáng tác của Galđôx - bức tranh vĩ đại miêu tả toàn cảnh đất nước Tây Ban Nha, cuộc sống muôn vẻ của xã hội Tây Ban Nha, những mẫu người Tây Ban Nha với những đặc trưng sinh động của họ, những mâu thuẫn đối kháng giữa hai lực lượng tiến bộ và phản động - đã đưa ông lên địa vị xứng đáng là một nhà văn hiện thực cách mạng. Nhưng Galđôx không dừng lại ở đó. Từ những hoạt động văn học, ông đã đi đến hành động cách mạng: ông đã từng đứng đầu một liên danh Cộng hòa - Xã hội và chính ông đã nói: “Chủ nghĩa xã hội! Đó là con đường dẫn đến bình minh”. NHỮNG NGƯỜI DỊCH Mời các bạn đón đọc Đônha Perfêcta của tác giả Bênitô Pêrêx Galđôx.
Trái Đắng Trường Sinh - Doãn Quốc Sỹ
THAY LỜI TỰA Ngăn Cách Tôi đi trên con đường đất Con đường vụn nát, lạc lối, trườn lên Như những con rắn nhỏ giữa cánh đồng dềnh nước Con đường vụn nát, con đường vụn nát Phút chốc tự thấy xa cách muôn trùng Dưới chân không còn con đường Mà chỉ còn từng đốt đường Như từng khúc rắn ngoi lên giữa đồng nước mênh mông Tôi phải bay mình lên cao Bỏ lại dưới chân những khúc đường vụn nát. *** THAY LỜI BẠT 1 Hình như cái gì cũng mất hút lên các nóc cao, lên các ngọn cây lười gió. Bụi trắng ngước nhìn cây xanh, chim hót để xóa nhòa giới tuyến giữa thành thị với lâm tuyền. Tiếng chim còn vang vọng trong không khí nồng nàn khi ánh nắng cuối cùng vừa tắt. Tiếng chim còn vang vọng khi chiều đã đi sâu vào khuya khoắt. Tiếng chim trở thành bất diệt, có đấy mà không đấy, như sao trời tự xóa nhòa ban ngày và tự lấp lánh ban đêm. Có thể mắt chỉ bất chợt có một vì sao mà là thưởng thức được cả trời sao; tai chỉ bất chợt nghe có một tiếng chim mà là chụp ghi được cả muôn giọng chim vào lúc chiều vừa xẫm tím. 2 Có lúc muốn đẩy hồn mình về một vùng trăng dĩ vãng, nghĩ đến chuyện dừng chân bên quán đỉnh đèo, ngắm hàng giậu bìm leo hoa tím, ngắm vườn cải hoa vàng xuân muộn, đi vào nắng thu mong manh, ngửi mùa đất màu ngai ngái, nhìn vào một sân rêu, cúi xuống soi mình trên một mặt gương đáy giếng, uống chén trà trong hương sớm ban mai, đi vào biển đồng xanh gió gợn, dẫm lên muôn vàn hạt sương đọng của ban chiều khi lá hổ ngươi đã khép mình hiu hiu theo gió. 3 Một búp gió thoảng tới như có mang theo hương cau lẫn với hương bưởi. Búp gió tựa như có làm nhòa không gian đi, biến không gian thành huyền ảo ánh trăng, lồng lộng mây trời, âm u núi rừng Việt Bắc, và hùng vĩ thác ngàn cao nguyên. Tâm hồn bỗng căng trải thành muôn vàn dây tơ vi diệu, những dây tơ có thể rung lên thành âm thanh nhưng cũng có thể hoa lên thành màu sắc và nhòa vào tâm linh thành những lăng kính suy tư. Có tiếng ca vang vọng đâu đây, tiếng ca đơn độc. Tôi không chú ý là tiếng ca hay hay dở mà chỉ chú ý đến vẻ đơn độc của lời ca. Tôi muốn đốn ngay một cây bạch đàn, gọt nhanh thành chiếc đàn, căng lẹ vài sợi tơ để gảy lên mấy tiếng đàn cho giọng ca của ai kia không còn đơn độc. Âm thanh đường tơ rung trên thớ cây bạch đàn sẽ đẩy giọng ca vút lên trăng sao vô vàn, đi sâu vào vũ trụ hun hút u minh, rồi chợt tới lúc nào đó âm thanh gẫy vụn thành bụi để được yên nghỉ đời đời, nằm đó thành mầm ướp của hỗn mang, vô năng trong yên nghỉ mà vạn năng trong tái sinh.     Mời các bạn đón đọc Trái Đắng Trường Sinh của tác giả Doãn Quốc Sỹ.
Ngày Đẹp Hơn Sẽ Tới - Chetan Bhagat
Ngày đẹp hơn sẽ tới là câu chuyện kể về hai chàng trai chơi thân với nhau từ thuở bé. Gopal – luôn ám ảnh về trình độ học vấn và xuất thân nghèo hèn – muốn sử dụng đầu óc để kiếm tiền. Raghav – một trí thức trẻ tài năng, đầy hoài bão – lại muốn sử dụng nó để tạo ra cuộc cách mạng thay đổi cả đất nước. Và, cả hai cùng yêu Aarti – cô gái trong sáng, lạc quan, giàu tình cảm. Giống như Ba chàng ngốc, đây cũng là câu chuyện về tình yêu và những vấn đề của những người trẻ tuổi, nhưng khác với Ba chàng ngốc lấy sự hài hước làm chủ đạo, Ngày đẹp hơn sẽ tới lại là cách nhìn khác về tuổi trẻ với chiều sâu, nhiều dằn vặt, phản tỉnh và một mối tình đầu có lẽ sẽ khắc khoải đến cuối đời. Đây là một trong những cuốn sách tôi đọc nhanh nhất –  trong một buối sáng lười biếng và thời tiết ảm đạm. Sách dễ đọc thường ít giá trị nhưng cuốn sách này là ngoại lệ. Nhìn người ngẫm ta. *** Chetan Bhagat là nhà văn, nhà báo nổi tiếng người Ấn. Là một người luôn tâm huyết với các chủ đề về giới trẻ, về các vấn đề phát triển đất nước. Các cuốn sách của anh luôn là best seller và được chuyển thành nhiều bộ phim lớn của Bollywood. Bộ phim Ba chàng ngốc – là một phim điện ảnh chuyển thể từ tác phẩm hư cấu nổi tiếng “Five Point Someone” của tác giả Chetan Bhagat – đã làm say đắm cho biết bao người trẻ tuổi và những người tâm huyết với những sự thay đổi mang tính tích cực. Tạp chi Time đã nhận xét tinh tế về Chetan Bhaquat: “Một  số nhà văn thành công trong việc biểu lộ tâm tư, số khác thành công trong việc bày tỏ quan điểm. Chetan Bhaquat làm được cả hai.” Một số tác phẩm của tác giả Chetan Bhagat được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Ba Chàng ngốc - Chetan Bhagat Ba Sai Lầm Của Đời Tôi - Chetan Bhagat Khi Yêu Cần Nhiều Dũng Cảm - Chetan Bhagat Ngày Đẹp Hơn Sẽ Tới .... Mời các bạn đón đọc Ngày Đẹp Hơn Sẽ Tới của tác giả Chetan Bhagat.