Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Người Chân Chính - Boris Polevoy

Năm 1954, khi từ bưng biền về hoạt động bí mật ở Sài Gòn, tôi đến cửa hàng Albert Portail ở đường Catinat mua sách báo ngoại văn. Tình cờ tôi thấy một số sách Liên Xô dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Xã hội Pháp (Editions Sociales) bày bán tự do. Tôi lựa được một cuốn tiểu thuyết rất hay: “Một người chân chính” (Un homme veritable) của nhà văn Xô viết Bôris Pôlêvôi. Tôi bắt đầu dịch ngay trong những thời gian rảnh rỗi, nhất là vào ban đêm. Lúc đầu tôi định chuyển thể để có thể đăng trên các báo Sài Gòn hoặc ra sách, như kiểu anh Năm Châu chuyển thể vở “Người mặt cháy”. Nhưng dưới sự kiểm duyệt rất khắc nghiệt của địch nên không thể qua mặt được. Tôi liền gửi đăng trên báo Sông Chung (sau này là báo Trung Lập) của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Sau đó tôi sửa chữa lại lần nữa bản dịch gửi ra Hà Nội. Vợ tôi (chị Lê Đoan) lúc đó là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam đã đưa bản dịch cho Nhà xuất bản Thanh Niên. Cuốn sách được in 2 lần, mỗi lần với số lượng lớn 15.000 bản. Nhà xuất bản còn đề nghị tác giả Bôris Pôlêvôi gửi ảnh và lời tựa cho cuốn sách kèm với bản tự thuật của ông. Vì tôi dịch cuốn sách từ tiếng Pháp, chớ không phải tiếng Nga, nên phải nhờ Giáo sư Phạm Huy Thông hiệu đính theo nguyên bản tiếng Nga. Anh Phạm Huy Thông lại có dịp gặp cả tác giả Bôris Pôlêvôi và anh hùng Xô viết Alếchxây Mêrétxép nên việc xuất bản cuốn “Một người chân chính” càng có giá trị thắt chặt quan hệ anh em giữa Liên Xô và Việt Nam. Đây là bản dịch rất sớm các tác phẩm văn học của Liên Xô. Vì cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài, tôi rất tiếc không gặp được Bôris Pôlêvôi và anh hùng Alếchxây Mêrétxép, chỉ có liên hệ thư từ với Bôris Pôlêvôi. Chính tác giả đã gởi cho tôi nhiều tác phẩm văn học của Liên Xô và cả sách học tiếng Nga để tôi tự học khi còn ở chiến khu. Bôris Pôlêvôi còn khuyên tôi nên dịch cuốn “Tấm kiếng Parabôn” của Alếchxây Tônstôi, tôi cũng đã dịch và in thành truyện nhiều kỳ (feuilleton) trong tuần san “Hòa bình trung lập” của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Cuốn “Một người chân chính” có tính giáo dục, rèn luyện thanh niên rất cao, gần như cuốn “Thép đã tôi thế đấy”. Bởi vì phi công Alếchxây Mêrétxép sau khi bị bắn hạ trên bầu trời Đức chiếm đóng, gãy hai chân, đã bằng hai tay bò suốt 18 ngày đêm vừa đói vừa rét, để về căn cứ Hồng Quân. Sau khi lắp chân giả, anh lại bay nhiều ngày tấn công địch đến thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh chống Phát xít. Anh được phong Anh hùng lực lượng võ trang Liên Xô và được bầu vào Ban Chấp hành “Hội đồng Hòa bình thế giới” chính anh đã lên tiếng nhiều lần ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam trên các diễn đàn Quốc tế. Tôi có ý định tái bản cuốn “Một người chân chính” vì cuốn sách là một tác phẩm có giá trị văn học, có giá trị giáo dục thanh thiếu niên, ngay cả trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Người dịch Minh Đô (Phạm Dân). *** LỜI TÁC GIẢ Tôi chưa sang thăm nước Việt Nam. Nhưng tôi có cảm tưởng là mình đã từng sống ở đấy, đã quen biết cảnh thiên nhiên giàu đẹp của đất nước này, với những khu rừng nhiệt đới, những con sông hùng tráng và những thung lũng phì nhiêu, những người Việt Nam tuy tầm vóc không cao lắm, nhưng gần cảnh vật và những con người ấy, không ai có thể coi là bé nhỏ. Những năm trước đây, khi nhân dân Việt Nam đang tiến hành cuộc đấu tranh thần thánh và anh dũng chống bọn thực dân được trang bị đẩy đủ thì những người Xô viết chúng tôi đã theo dõi quá trình các trận chiến đấu anh dũng của các bạn với tấm lòng kính phục và thông cảm sâu sắc. Nhân dân chúng tôi biết rõ giá trị của lòng dũng cảm, tinh thần can đảm và lòng yêu mến tự do. Người anh hùng họ biết kính phục tinh thần anh dũng của những người anh hùng khác. Vì vậy người Việt Nam ở xa chúng tôi, đã trở thành người bạn gần gũi và thân thiết. Chúng tôi rất vui mừng trước mỗi thắng lợi chống thực dân của các bạn và đã gửi đến đất nước các bạn lời chào hòa bình. Ngày nay với tấm lòng kính phục anh em, chúng tôi rất yêu mến những người Việt Nam quang vinh đang nắm trong tay vận mệnh của mình để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc. Tôi hy vọng Alếchxây Mêrétxép, nhân vật có thực trong cuốn sách của tôi, một người Xô viết bình thường sẽ được gặp những người bạn tốt trong hàng ngàn vạn người lao động của nước Việt Nam mới. Chính vì ở nước các bạn cũng biết rõ giá trị tinh thần anh dũng chân chính, nên Alếchxây Mêrétxép đã đến với các bạn như tình anh em. Mạc tư khoa (Mascơva) 2-1960 Bôris Pôlêvôi *** LỜI TỰ THUẬT CỦA TÁC GIẢ   Tôi sinh ngày 17 tháng 3 năm 1908 tại Mátxcơva, nhưng tôi lớn lên ở Tưve (bây giờ gọi là Calinin); cho nên tôi có thể có lý do để tự coi mình là một công dân Calinin. Cha tôi xưa là luật gia. Ông chết vì bệnh lao năm 1916. Tôi gần như không còn nhớ gì hết về ông, nhưng cứ phán đoán theo tủ sách rất tốt ông để lại, trong đó có đầy đủ các nhà văn cổ điển Nga và nước ngoài, và theo lời mẹ tôi nói lại, thì đối với thời ông, ông là một người có đầu óc tiến bộ và có học vấn cao rộng. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi vào làm việc ở một nhà thương xưởng máy, làm thầy thuốc, và mẹ con chúng tôi dọn đến ở trong một xưởng dệt lớn của bọn buôn bán Marôdốp. Tôi ở đấy suốt thời thơ ấu và thời niên thiếu của tôi. Chúng tôi ở trong chỗ gọi là “nhà nhân viên”, nhưng bạn học và bạn chơi của tôi là các con cái thợ thuyền, và vì mẹ tôi làm việc ở nhà thương nên công việc bận rộn bù đầu và chả mấy khi gần gũi con được, có những khi tôi cứ cả ngày ở trong các nhà ngủ công cộng của công nhân hay ở vùng ngoại ô quanh đấy. Tôi học hành không đến nỗi quá kém ở trường, nhưng cũng không hào hứng quá độ, và vào ngày giờ rảnh, tôi hoặc ra giữa dòng sông Tưmaca - một dòng nước hôi thối chảy ngang qua xưởng - và hoặc đắm chìm trong sách vở trong thư viện của cha. Tuy bận bịu, mẹ tôi cũng cố gắng hướng dẫn tôi đọc sách và khuyên nhủ tôi đọc sách của những tác giả mà mẹ tôi ưa thích nhất. Những cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Gôgôn, Sêkhốp, Nêcưraxốp, Pimialốpski. Nhà văn tôi thích nhất là Goócki. Khi còn là sinh viên, cha mẹ tôi đều rất tôn sùng ông, và tủ sách của gia đình gồm hầu tất cả những sách của ông xuất bản trước cách mạng. Thời còn bé, tôi lại còn có một chiều hướng thích thú khác nữa, là yêu thiên nhiên. Học lớp tư, tôi đã là một “người lãnh đạo” nhóm các nhà sinh vật học trẻ tuổi và đã tham dự những cuộc gặp gỡ của thanh thiếu niên thành phố và của thanh thiếu niên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô viết Nga. Ở nhà tôi lúc nào cũng có chứa những khách lạ: một lần, có con ưng không biết tại sao lạc đến bay lới phới trong sân xưởng và đụng phải dây điện tín gẫy cánh; một lần khác, có con quạ con bị ngã từ trên ổ xuống được tôi cứu thoát khỏi móng mèo, có con nhím và có cả con rắn nước mà tôi dọn dẹp chỗ cho ở giữa hai khung cửa sổ, trong một đường rãnh nhỏ đã đào riêng cho nó. Trong thành phố bấy giờ có xuất bản một tờ báo địa phương: tờ Sự thật Tưve. Trong những năm hai mươi [1] có thành lập nên trong xưởng một mạng lưới quan trọng các thông tín viên công nhân. Tòa báo đặt trong căn nhà sắp xếp dụng cụ cứu hỏa. Và lũ bé con chúng tôi vô cùng kính phục nhìn những kẻ ra vào căn nhà gạch nhỏ ấy. Những thông tín viên công nhân mà! Những người viết bài trong báo mà! Chủ tịch của tổ chức đó, bác thợ nguội Gurianốp, là một trong những người được trọng vọng nhất nhà máy. Chắc hẳn là từ thuở xa xăm ấy đã chớm nở trong tôi cái chiều hướng thích thú đối với nghề viết báo, bấy giờ tôi đã coi như nghề hay nhất, quan trọng vô cùng, lại có cái khía cạnh đôi chút huyền bí. Tôi đang học lớp sáu khi báo Sự thật Tưve đăng bài báo nhỏ đầu tiên của tôi. Bài, theo như tôi còn nhớ được, có bảy dòng; nó kể chuyện một nhà thơ nông dân có tiếng tên là Đưrốtgin, đến thăm trường. Báo đăng bài đó cuối trang tư và tôi nhớ là đâu không có ký tên. Nhưng tôi thì tôi biết là ai viết bài đó, nên tôi không bao giờ rời số báo có đăng bài đó cho đến lúc nó rách tan từng mảnh trong túi tôi. Từ đó, tôi viết đều đặn trong báo Sự thật Tưve: bắt đầu là phản ánh mọi việc gì lôi thôi ở thành phố, rồi vào những đề nghiêm chỉnh hơn; cuối cùng, khi tòa soạn chú ý đến tôi, tôi được giao cho làm những phóng sự nho nhỏ về thời sự ở thành phố trong các xưởng, các nhà máy. Tôi tiếp tục học phổ thông, rồi tôi vào trường kỹ thuật công nghiệp; tôi chuyển ngành hóa học và cắm đầu vào phân tích chất lượng và số lượng. Nhưng tôi đã mơ màng tới những phòng tòa soạn phảng phất mùi mực in; trong những giờ nghe giảng, tôi viết trộm những bài báo hay những thiên phóng sự về những đề khá là xa với những đề mà giáo sư đang diễn đạt. Cứ như thế dần dần tôi đi đến làm cái nghề làm báo Xô viết, cái nghề mà tôi luôn vẫn coi như ngành văn chương nhiều hứng thú hơn tất cả các ngành khác. Báo Sự thật Tưve bấy giờ là một tờ báo rất là sinh động: Nhờ báo biết nắm lấy đúng lúc và “cho ra” cái gì có vẻ mới, hay và có giá trị trong công tác lao động xã hội chủ nghĩa ở xí nghiệp và ở thôn xóm. Làm việc báo chí, tôi quen quan sát cẩn thận, suy nghĩ về các sự việc, và chỉ viết về những vấn đề mà tôi biết thật đầy đủ. Tôi bỏ những tháng nghỉ ngơi của tôi để làm việc cho nhà báo, cố gắng lợi dụng thì giờ ấy để mà quan sát. Tấm gương huy hoàng của Goócki, mà tôi đọc tác phẩm từ bé, soi sáng đường đi cho tôi chẳng khác ngọn hải đăng. Tôi học được tinh thần quan sát là chính ở nơi ông. Một mùa hè nọ, tôi định sẽ cho tòa soạn một thiên phóng sự về những xí nghiệp làm nghề rừng và những xí nghiệp làm nghề thả bè trên sông trong vùng Tưve. Tôi đi tuốt đến quận Xêligiarốpski. Ở đó, tôi tới những xí nghiệp làm nghề rừng, tôi lên bè trôi sông và tôi làm việc ở đó, cầm tay lái, giữ tay chèo ở phía sau bè. Cứ thế là từ nguồn sông Vonga tôi xuống đến tận Calinin, rồi lại còn xuống thấp hơn thế nữa, đến tận Rưbinscơ, nơi đó kết thúc thật là mỹ mãn, lịch trình của tôi vừa lúc những bè cây cặp đúng bến. Trong khi rong ruổi như vậy, báo đăng loạt bài của tôi tựa là Trên những bè trôi sông. Tôi viết những bài đó ban đêm, gần ngọn lửa nhỏ đốt ở giữa nhà lều trên bè. Một mùa hè khác, tòa soạn báo Thôn xóm Tưve giao cho tôi làm một thiên phóng sự về tình hình chủ nghĩa xã hội thâm nhập đời sống các thôn xóm chưa tổ chức thành nông trang. Tôi đến làng Míchsina một nơi cùng tận trong tỉnh Tưve, làm nghề sắp xếp sách trong thư viện và viết một loạt bài báo về đời sống trong làng về những bước đầu tiên của lao động tập thể. Năm 1927, tập bài báo đầu tiên của tôi ra đời. Các bạn tôi trong tòa báo của thanh niên cộng sản Thế hệ trẻ không bảo gì tôi cả mà cứ gửi nó đến cho Mácxim Goócki ở Xorente. Khi hay biết được, tôi cuống cuồng cả lên. Bắt nhà đại văn hào phải mất công đọc các sáng tác chẳng ra gì mấy đó, mà tôi lại nhận thức được vô cùng rõ ràng là thật là còn non nớt, thì theo tôi thật là một việc xúc phạm. Cho nên tôi ngạc nhiên lạ lùng khi nhận được một cái gói to lùm lùm đề tên tôi, có dán tem nước ngoài, chữ viết to và cứng cáp lắm. Tự tay viết đến sáu trang giấy, Goócki nghiên cứu tỉ mỉ và rất đỗi khoan dung các tác phẩm tuổi trẻ đó của tôi. Ông khuyên tôi nên làm việc không ngừng, học tập các nhà văn cổ điển mà mài giũa văn như “anh thợ tiện mài giũa kim khí”. Bức thư ấy của nhà đại văn hào đối với tôi thật là bằng không biết bao nhiêu năm học tập. Tôi đã từng phen suy nghĩ về mỗi chữ ông viết, ra sức rút ra những kết luận đúng đắn và hữu ích. Goócki đã giúp tôi hiểu được rằng nghề làm báo và nghề viết văn là những nghề khó khăn, đòi hỏi phải học tập và lao động nhiều hơn bất cứ nghề nào khác. Tôi hiểu rằng không thể nào làm được những nghề ấy theo lối tài tử được, phải bỏ hết tâm lực vào, và chỉ có thế mới mong trở nên được một người lao động thực sự trong ngành báo chí bônsêvích. Thời ấy, tôi học xong trường kỹ thuật, vừa vào làm việc ở xưởng nhuộm, nơi in những thứ vải gọi là “vải Ấn độ”. Xưởng này là một bộ phận của nhà máy liên hợp Vô sản. Chẳng bao lâu, tôi đứng đầu một nhóm thông tín viên công nhân ở đó. Công việc của tôi ở xưởng và công tác xã hội của tôi ở nhà máy chẳng để cho tôi mấy thì giờ để làm cái việc tôi thích thú hơn cả, là làm báo. Mà sự ưa thích của tôi thì lại cứ ngày càng rõ. Cuối cùng, suy nghĩ chín chắn rồi, tôi thôi việc ở xưởng để vào làm biên tập viên tờ báo của thanh niên trong tỉnh, là tờ Thế hệ trẻ. Ở đó có một tập thể biên tập viên tốt, sau đó nhiều người đã trở nên những người làm báo có giá trị. Hoạt động thật là sôi nổi. Quỹ tờ báo nhỏ bé, rõ là không đủ cho sáu hay tám trang báo mà chúng tôi cứ hàng tuần cho ra hai kỳ. Cho nên phần chính công việc là phải do những nhà thông tín viên trẻ tuổi làm công không giúp cho. Tinh thần phát huy sáng kiến của báo đó đã khiến cho báo được từng phen khen ngợi trên những cột báo của Sự thật. Tôi đã làm việc ở tòa báo Thế hệ trẻ rồi, khi báo thôi, làm việc cho báo địa phương của Calinin là tờ Sự thật Vô sản, cứ thế không lúc nào ngừng mãi cho tới chiến tranh. Tôi viết những thiên phóng sự cùng những bài báo, và tôi phụ trách các mục kinh tế và văn hóa. Tôi được kết nạp Thanh niên năm 1930; năm 1940 tôi gia nhập Đảng Cộng sản, Nhờ trường học lớn của Đảng bônsêvích mà tôi trở nên được một nhà văn. Vừa tiếp tục cộng tác biên tập, tôi vừa viết truyện, nhưng, nghe đúng theo lời khuyên nhủ của Goócki, tôi chỉ cho đăng một phần nhỏ thôi trên báo hay trong tập niên lịch của vùng, là tập Ngày nay. Năm 1939, tập san Tháng Mười đăng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi: Xưởng nóng hổi. Tôi định cố tóm thâu trong cuốn sách đó toàn bộ kết quả của những điều tôi đã quan sát được về tình hình phát triển của phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong những xí nghiệp ở Calinin và về hoàn cảnh trong đó phát sinh ra được những sáng kiến của những kẻ phát minh. Tôi đã tự mắt mình quan sát tất cả những cái đó và tôi đã viết phóng sự nhiều về việc này. Sách, sở dĩ thời ấy được đôi chút hoan nghênh, đó là nhờ trước hết ở sự vĩ đại của những sự việc mà sách viết ra, kể đến và của những con người đã là những vai chính của truyện. Tôi muốn được nhấn mạnh nhất là vào một điểm, là đề truyện và nhân vật trong truyện đều là từ trong đời sống mà lấy ra; những ai công tác từ lâu trong các xưởng chế tạo dụng cụ vận chuyển ở Calinin đều đã nhận ra ngay bạn mình trong đám nhân vật trong truyện, và, rốt cuộc, anh là vai nam chính trong truyện đã mời tôi dự lễ cưới chị là vai nữ chính. Hôm lễ, đã đùa khá nhiều về cái điều đó: chính là nhân vật trong tiểu thuyết bắt buộc phải làm cho xong hẳn công việc của tác giả, để cho tác phẩm được kết thúc có hậu, dầu không ly kỳ chi mấy. Công tác lâu năm trong báo chí đã khiến tôi viết được những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, nhưng chính công tác của tôi trong tờ Sự thật, mà tôi là thông tín viên chiến tranh khi cuộc chiến tranh dân tộc vĩ đại bùng nổ, đã là bổ ích nhất cho sự nghiệp nhà văn của tôi. Có người đôi khi hỏi tôi: - Cố nhiên là anh làm báo thành ra bị trở ngại nhiều trong công tác viết văn của anh; cái đời nhà làm báo vốn rồn rập, cứ bắt là phải viết về những đề tài nhất định phải gửi bài đến những ngày giờ hẹn trước, chẳng kể tâm tình mình mỗi lúc thế nào, rồi lại kèm vào đấy nữa là phải viết đúng là bao nhiêu hàng chữ. Những câu hỏi loạt ấy không khiến tôi khó chịu, chỉ khiến tôi buồn cười, vì chính là công tác trong báo chí bônsêvích đã đưa tôi tới con đường văn chương. Làm báo giúp tôi biết rút ra cái chủ yếu, ghi cái gì là mới, là đã cộng sản rồi trong tâm tình của những người đương thời. Là thông tín viên chiến tranh của báo Sự thật, tôi lúc nào cũng ở những điểm quyết định của mặt trận mênh mông, nơi quyết định số mạng của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Tôi đã thu thập được ở đó một khối lượng tài liệu vô giá. Mọi người đã biết rằng những vai chính trong những cuốn sách của tôi: Một Người chân chính và Người Xô viết chúng ta, đều là những nhân vật có thật. Phần lớn tên thật ngoài đời thế nào, tên trong sách của tôi cũng là thế, đôi khi có thay đổi rất ít mà thôi. Ý đầu tiên của hai cuốn sách này là do ở tòa báo Sự thật mà ra. Sự việc xảy ra như thế này này. Tháng 2 năm 1942, có đăng một bài tựa là: Thành tích của Mátvây Cuzơmin. Bài ấy, tôi đã viết vội vã, sau khi đưa ma vị anh hùng ấy. Đó là chuyện một nông dân tập thể, đã bát tuần, thuộc nông trang tập thể Bình minh, trồng gai, cụ nông dân này đã lập lại cử chỉ anh hùng của Ivan Xuxanin. Bài viết vội và không có giá trị chi mấy. Lần đầu tôi ở mặt trận về, anh chủ bút báo Sự thật gọi tôi đến và trách tôi viết về một thành tích đáng kính phục như vậy một cách quá ư vội vã, y như một phóng viên nhà báo. - Thật tiếc là lẽ ra có thể kể câu chuyện này một cách khác hẳn, - anh trách tôi như vậy. Rồi, với thói quen của anh là hay tổng quát, anh nói thêm: - Tôi đã bảo tất cả các anh thông tín viên chiến tranh, và tôi xin hết điều căn dặn anh: Cứ ghi cho đầy đủ chi tiết những công trạng của những người Xô viết mà các anh có cái may mắn được chứng kiến. Đó là bổn phận công dân của các anh, và, hơn thế nữa, đó là bổn phận đảng viên Đảng Cộng sản của các anh. Nghĩ coi: trong cuộc chiến tranh này, nhân dân Liên Xô đã vượt qua về dũng cảm tất cả các vị anh hùng của tất cả các thời đại xưa cũ. Và để cho không quên chi hết về những thành tích hiển hách ấy, để cho mọi người Xô viết biết rõ đồng bào mình đã đánh phát xít như thế nào, đã thắng nó như thế nào, thì phải ghi tất cả, tất cả. Tôi liền mang theo một tập vở to, đóng bìa cứng, và tôi bắt đầu ghi vào đó thật là rành mạch địa chỉ các vị anh hùng hay những người đã chứng kiến những sự việc quan trọng, nhất là những tấm gương anh dũng mà tôi biết được. Là thông tín viên chiến tranh, tôi bay nhảy từ góc mặt trận này đến một góc mặt trận khác, khi thì tôi tới cùng quân du kích, khi thì tôi vào rừng, nơi các biệt đội nhảy dù chuẩn bị đánh chớp nhoáng phía sau lưng địch, rồi tôi lại trở về chiến tuyến ở Stalingơrát, về tuyến lồi Cuốcscơ ở Goócxun Sépchengơrat, tới sông Visla, tới sông Naixơ, tới sông Spưtê, và đâu đâu tôi cũng đã được chứng kiến cái bản lĩnh anh hùng của người Xô viết, đã làm phai mờ cả những thành tích hiển hách của các bậc anh hùng xưa: Ivan Xuxanin, Mácpha, Côgina, Côsơca người thủy thủ Xêbastôpôn, và biết bao nhiêu người nữa mà lịch sử ta, văn chương ta còn nhớ tên, nhớ tuổi. Suốt thời chiến tranh như thế là tôi đã ghi chép được sự việc về sáu mươi nhăm câu chuyện thuộc loại ấy. Một trong những câu chuyện ấy kể lại buổi gặp gỡ kỳ lạ với trung úy Vệ quốc Marétxép, phi công ở một phi trường lâm chiến, gần Oren, thời tấn công đánh lấy thành phố ấy. Đó là đề tài cuốn Một Người chân chính. Tôi đã rút ra từ những điều tôi đã ghi chép được hai mươi bốn câu chuyện tôi cho là quan trọng hơn cả, điển hình hơn cả, bộc lộ rõ hơn cả tinh thần của con người Xô viết. Và tôi đã viết thành những bài truyện ngắn, tập hợp lại trong một cuốn sách lấy tựa là Người Xô viết chúng ta. Giờ đây, xong chiến tranh rồi, tôi cứ tiếp tục làm việc theo đúng phương châm ấy, là kể những cái mà tôi đã chứng kiến. Trong truyện lấy tên là Trở về, tôi đã cố gắng trình bày bằng một hình thức nghệ thuật một mẫu đời của một anh thợ đúc nổi tiếng ở Mátxcơva. Đề tài của cuốn tiếu thuyết Vàng cũng là lấy ra từ trong đời sống thực sự: nó kết liễu vào lúc tấn công trên mặt trận Calinin, đầu năm 1942. Cái quan tâm đến sự xác thực đó, không phải là một cái gì riêng cho một mình tôi chút nào. Đời sống của chúng ta, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cứ ngày một đổi thay hoài; nó tiến lên, nó cung cấp cứ mỗi ngày, mỗi giờ, cho nhà văn những đề vừa giản dị vừa say mê, lấy ở kinh nghiệm hàng ngày thấy có. Người Xô viết, được lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản dìu dắt, đạt đến đỉnh cao của sự vĩ đại trong lao động cũng như trong chiến đấu. Những công lao cao cả làm nên vì Tổ quốc, ta cố suy diễn đặt để nó ra thì thật là rất khó, ngay đối với một nghệ sĩ có trí tưởng tượng mãnh liệt nhất. Nhưng đời sống Xô viết chúng ta thì cung cấp cho nhà văn biết bao nhiêu tâm tình thật vô cùng là phong phú. Công tác làm báo luôn luôn đưa chúng tôi tiếp xúc với những người đáng lưu ý nhất của thời buổi này, và cho phép chúng tôi được thấy những người ấy trong lao động và trong đấu tranh. Nghề làm báo khiến cho mắt chúng tôi sắc hơn, tai chúng tôi thính hơn. Riêng về bản thân tôi, thì những sự việc mà đời sống hiến dâng cho, thay thế vào chỗ trí tưởng tượng văn chương của tôi bị thiếu sót. Những nhân vật mà tôi phác họa ra, mà đời sống vượt tràn ra khỏi những trang sách của tôi, hoàn thành cái gì còn chưa hoàn chỉnh trong sách tôi: chúng tôi đã cùng nhau gặp gỡ nhau lại với anh Marétxép ở Vácxava, không phải với danh nghĩa nhân vật và tác giả tiểu thuyết, mà lần này với danh nghĩa cùng là đại biểu Liên Xô tại Đại hội thế giới lần thứ hai của các Chiến sĩ Hòa bình. Malích Gápđulin, nhân vật truyện Một anh hùng ca ra đời hiện lãnh đạo Viện Văn học trong Viện Hàn lâm khoa học nước Cadắc và chị nông dân ở Pôntava, chị Uliana Bialôgơrút, người đã cứu được lá cờ của một trung đoàn chiến xa, trong truyện Lá cờ của trung đoàn của tôi, thì sau chiến tranh đã được tặng thưởng huân chương về kết quả chị đã thu được trong vụ mùa củ cải. Được chứng kiến hạnh phúc của những con người ấy, hoạt động say mê của những con người ấy, lao động sáng tác của những con người ấy, lòng ta thật là vui sướng không cùng không tận. Làm nhà văn ở xứ sở của chủ nghĩa xã hội, là được hướng một hạnh phúc lớn lao không bờ bến. Bôris Pôlêvôi Mátxcơva Tháng 11 năm 1950   Mời các bạn đón đọc Một Người Chân Chính của tác giả  Boris Polevoy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vì Em Yêu Anh
Stephanie có sắc đẹp cổ điển, nhưng hơn thế, nàng có một trái tim đam mê. Ham thích mạo hiểm, nàng dám lao đầu vào những cuộc tình cuồng nhiệt và cũng sẵn sàng chịu trả giá cho những mối tình của mình. Một tính cách như vậy lại ra đời trong thời đại bão táp của nước Pháp nửa cuối thế kỷ XIX với những cuộc tranh giành quyền lực trong nước, chiến tranh ở ngoài nước, những cuộc xâm lược thuộc địa và sự phát triển nhanh chóng của các công ty liên quốc gia, ắt cuộc đời nàng phải bảy nổi ba chìm với ... yêu đương. Số phận éo le đã đẩy Stéphanie lưu lạc khắp năm châu và rơi vào đủ những mối tình hết sức khác nhau: - Nhà kinh doanh trẻ tuổi Armand Dytteville có tài sản lớn ở Nam Thái Bình Dương. - Chàng sĩ quan điển trai, tùy tùng của hoàng đế Napoléon III. - Chàng quý tộc Nga hào hoa Boris tại kinh thành Saint Petersburg. - Một thanh niên bản xứ tại miền đất hoang vu, Yann Kendelec. - Và ... văn hào Victor Hugo, cây bút vĩ đại đồng thời cũng nổi tiếng là thuộc số những đàn ông có nhu cầu tình ái mãnh liệt nhất trong lịch sử thế giới ... STEPHANIE lấy nhân vật cùng tên làm trung tâm, được viết thành 4 cuốn với tên gọi như sau: 1. Bốn mùa yêu. 2. Vì em yêu anh. 3. Cái giá của tự do. 4. Ngọn lửa tình. Tuy là bốn cuốn cùng viết về một nhân vật, song cũng như bộ tiểu thuyết Angelic đã quen thuộc với bạn đọc, mỗi cuốn đều là những câu chuyện hoàn chỉnh, độc lập với nhau, không nhất thiết phải đọc toàn bộ tác phẩm hoặc đọc theo trình tự nhất định mới thấu hiểu được nó. Tất nhiên, hy vọng rằng bạn đọc sẽ gắn bó và say mê với số phận của Stéphanie để không bỏ sót một cuốn, một tập nào, như đọc giả phương Tây đã hết sức hoan nghênh STÉPHANIE khiến bộ sách được tái bản liên tục trong vòng 10 năm nay kể từ khi nó ra đời. *** Vậy là Stephanie đã trở về nhà bếp của trường quân chính, nơi ngày nào nàng đã rời đây để cùng với Pompette lên đường ra trận, cốt đuổi theo René. Bây giờ nàn cũng sắp phải rời bỏ nơi này để trở thành phu nhân Dytteville, trở về thành phố Paris với các con, với gia đình của nàng, lấy lại vị trí của nàng trong gia đình cũng như trong xã hội thượng lưu và trong công việc kinh doanh. Nghĩ tới việc lại phải tiếp xúc với "giới dân sự" Stephanie hoang mang vô cùng, không phải chỉ bây giờ vì nàng phải bắt đầu mọi thứ từ đầu vì nàng đã bị mang cái tiếng là "làm cấp dưỡng" trong trung đoàn lính Bắc Phi. Trong đáy thâm tâm, Stephanie coi đó là vinh dự, một thứ đáng để nàng tự hào. Nhưng mọi người xung quanh nàng lại không nghĩ như thế. Stephanie sẽ phải "đương đầu" với họ. Tuy nhiên nàng thầm nghĩ, bất cứ trước mặt ai, dù vị trí là thế nào đi nữa, nàng sẽ không bao giờ từ chối việc nàng đã tham gia chiến trường Crimée, bên cạnh Pompette, trong trung đoàn lính Bắc Phi số 3. Hôm qua Stephanie đã may một tấm áo dài, một chiếc mũ, đôi giày, chiếc xắc, bởi nàng không thể mặc đồng phục cấp dưỡng quân đội để đến nhà Amélie. Chỉ chị là người có thể khuyên bảo nàng đôi điều cần thiết. Hôm nay, trước lúc đi, Stephanie ngập ngừng đôi chút rồi cuối cùng nàng quyết định cởi áo dài ra, mặc lại bộ đồng phục cấp dưỡng quân đội vào người. Nàng thầm tự nhủ: - Để mai... mai mình hãy đi. Để lấy lại can đảm, Stephanie nhớ lại câu Amélie đã nói với nàng một lần. Hôm đó phu nhân Resmont bảo nàng: - Tôi quý chị hơn chị tưởng đấy, Stephanie. Tôi muốn nói với chị rằng bao giờ chị cũng có thể coi tôi là người bạn tin cậy, tận tụy và thông cảm với chị. Hai chữ "bao giờ" của Amélie nói ra hàm nghĩa "bất kể hoàn cảnh nào". Nhưng Stephanie đã không viết lá thư nào trả lời bạn. Nàng chỉ đọc ba lá thư của Amélie nàng nhận được đầu tiên. Từ lá thư thứ tư cho đến tất cả các lá tiếp theo, Stephanie đều xé vứt đi, mặc dù Amélie gửi thư rất đều đặn cho nàng. Do đó Stephanie hoàn toàn không biết tin tức gì ở nhà, bây giờ trở về gia đình nhà chồng, nàng chưa biết, sau khi nhận được tin nàng tử trận, ông bà Dytteville liệu có còn giữ lại căn hộ của nàng không. Suốt thời gian nàng ở ngoài mặt trận, bà Francoise Dytteville không hề viết thư cho con dâu, vì Amélie đã nói với bà rằng Stephanie không muốn nhận thư ai, ngoài thư của chị. Và mẹ chồng nàng đã tôn trọng ý muốn ấy của Stephenie. Nhưng rất có thể Amélie đã báo tin của nàng cho hai ông bà Dytteville. Vậy thì nàng phải gặp Amélie đã. Nhưng liền sau đó Stephanie lại chợt nghĩ "Bố mẹ chồng ta không thể không nhận ta. Ta là mẹ của hai cháu nội họ: Armand và Charles. Và là con dâu, ta vẫn là một cổ đông của công ty". Cho dù bố mẹ chồng tiếp đón nàng ra sao, Stephanie quyết định không làm điều gì ảnh hưởng xấu đến hai con nàng. Stephanie kết luận, người duy nhất nàng có thể hoàn toàn tin cậy là Amélie. Chắc chắn khi nghe tin cuộc chiến tranh Crimée kết thúc, chị đã nóng lòng mong gặp mặt bạn. Vấn đề chỉ còn là Stephanie không đến một mình mà có thêm con chó Cesar. Thôi được, nàng sẽ đến gặp Amélie trước. 8 giờ sáng hôm sau, tay dắt con chó, Stephanie bước ra khỏi cổng trường quân chính, nàng rất khó chịu trong tám áo bó chặt trên ngực, dưới lại xòe rộng với khung lồng bên trong vướng víu. Thêm nữa, đôi giày chật, bó đã lâu nàng không dùng, bây giờ khiến nàng bước đi rất khó khăn. Stephanie quen ở mặt trận, mặc áo quần rộng rãi, thoải mái, đi giày quân nhân mềm mại. Dọc đường nàng đi ngang qua một cửa hàng đồ chơi thấy có dòng chữ rất to làm nàng ngạc nhiên vô cùng "Cuộc phong tỏa Sebastopol - Trò chơi lý thú cho mọi lứa tuổi, giá thấp nhất: 6 franc!" Thì ra cuộc chiến tranh đẫm máu đã được dân chúng Paris khai thác thành trò chơi. Stephanie nhìn vào tủ kính thấy bày đầy các kiểu hộp carton to nhỏ màu sắc sặc sỡ với các hình thành lũy, pháo đài, quân Đồng minh đang tấn công, cũng như quân đội Nga đang tự vệ... Stephanie muốn văng ra một câu chửi tục tĩu của binh lính Bắc Phi, nhất là của bác Tubosiquoi. Nhưng nhàng cố gắng ghìm lại, cay đắng và nhẫn nhục đi tiếp về phía biệt thự của gia đình Resmont. Một gia nhân nàng không biết tên ra mở cổng. - Bác vào báo Phu nhân Resmont tôi là phu nhân Dytteville đến thăm. - Bà chủ tôi sáng nay không tiếp khách. - Chính vì vậy mà tôi đến gặp phu nhân. - Nhưng hôm nay không phải là ngày tiếp khách của bà chủ tôi. - Tôi cũng hy vọng như thế. - Tôi không biết bà chủ tôi có... -... có tiếp tôi không chứ gì? Bác cứ nói tên tôi với bà chủ bác sẽ thấy. Tôi là phu nhân Dytteville. Con chó Cesar của Stephanie nhảy bổ đến bác gia nhân, nhưng bị sợi dây níu lại nên nó chỉ sủa vang giận dữ. Bác gia nhân tỏ vẻ khó chịu, đưa mắt lườm "mụ khách" và con chó hung dữ, rồi bực dọc khép cánh cổng, đi vào trong. Stephanie đứng đợi bên cạnh một cửa sổ. Nàng đang ngắm vườn hoa, sân trời, chuồng ngựa và cố không nghĩ đến điều gì làm nhụt ý chí. Tiếng một cánh cửa trên gác đóng lại, tiếng sột soạt váy áo trên cầu thang làm Stephanie quay đầu lại. - Stephanie! Stephanie! Ôi, mình mừng quá! Con chó Cesar gầm gừ. - Im, Cesar! Amélie lao đến ôm chầm lấy Stephanie, hôn vào má bạn. Con chó Cesar vẫn còn gầm gừ nhưng lúc này không còn nhe răng hung dữ nữa. Nó đã cảm nhận người lạ kia là bạn thân của chủ nó. - Vào đây, bạn thân mến! Vào đây! Amélie mừng rỡ đến mức Stephanie phải xúc động. Chị định kéo nàng vào phòng khách, nhưng Stephanie ngăn lại, trỏ con chó: - Tôi còn con chó này. - Ôi, chó của chị đấy à, Stephanie? Chị đem nó ở mặt trận về sao? Ôi, trông nó có vẻ quý chị lắm nhỉ? Thì có sao đâu, dắt cả nó vào! Đi! Amélie bao giờ cũng nói những câu đáng nói. Stephanie thấy nhẹ cả người. Bao nhiêu căng thẳng, bao nhiêu chua chát, bao nhiêu tự ái về cách người dân Paris coi thường những anh hùng từ chiến trận trở về đột nhiên tan biến hết. Đối với Amélie mọi thứ trở nên đơn giản lạ thường. Chị tiếp bạn mới như hôm qua hai người vẫn còn gặp nhau. Con chó Cesar đã thôi không gầm gừ nữa. Nó như lắng nghe người phụ nữ lạ kia cầm tay trò chuyện huyên thuyên với chủ nó. Dường như nó đã thấu hiểu tính tình hiền hậu và tốt bụng của bà ta còn hơn cả Stephanie. Amélie đã tước đi mọi thứ vũ khí phòng ngự nàng chuẩn bị sẵn để đối phó. Amélie không đòi hỏi gì ở nàng. Chị kể mới tối hôm qua hai vợ chồng chị còn nhắc đến Stephanie. Achille đã hoàn toàn bình phục những vết thương ngoài chiến trường. Đứa con trai của chị là niềm vui khôn tả của hai vợ chồng chị.   Amélie kể hai con Stephanie là Armand và Charles đều khỏe mạnh, ngoan ngoãn và bà Dytteville, mẹ chồng nàng, thường xuyên đưa hai cháu nội đến đây. Chị cho biết hai ông bà Dytteville hiện ở lâu đài tại nông thôn, nơi có các khu rừng vẫn đẹp tuyệt vời và chắc chắn mọi người đều rất mong Stephanie về. - Nhưng chị phải ở lại đây với hai vợ chồng tôi vài ngày. Ôi, anh Achille và tôi mong chị vô cùng. Bao giờ chị thuê được đầy tớ, sắm được xe, tậu được ngựa, chị hãy về nhà. - Nhà tôi ấy à? Amélie? - Chứ còn gì nữa? Nhà chị vẫn y nguyên như cũ, chỉ có mấy bức rèm hơi bạc màu đôi chút. Chị thấy chưa nhỉ? Rèm ở nhà tôi, tôi đã phải thay rồi đấy. Stephanie lúc này mới kịp nhìn những tấm rèm cửa sổ của Amélie. - Đẹp quá! - Nàng khẽ nói. Trong những câu nói của Amélie, Stephanie không hề thấy một lời trách móc, một câu hỏi nào, chứng tỏ chị biết rõ tất cả mọi chuyện liên quan đến nàng. Tất nhiên Amélie cũng muốn hỏi bạn thêm chi tiết, nhưng chị nghĩ hãy đợi đến lúc Stephanie ổn định cuộc sống mới, hòa nhập được vào xã hội Paris đã. Sau khi huyên thuyên cho bạn biết những chi tiết chủ yếu tại đây và thấy Stephanie đã trở lại thoải mái, Amélie mới khẽ rụt rè câu hỏi đầu tiên: - Ôi, nhưng bây giờ chị kể đi, Stephanie. Chị nói về chị đi, Stephanie thân yêu. - Tôi đã về. Chiến tranh đã kết thúc, có vậy thôi. - Tôi biết ngoài mặt trận chị được mọi người rất quý. Achille đã kể tôi nghe rồi. Chị biết tính Achille không bao giờ nói dối. Tuy nhiên tôi cảm thấy anh ấy chưa kể hết. Bây giờ gặp chị tôi muốn nghe chị kể về chiến trường, những gian nan, thiếu thốn mà tôi biết là rất ghê gớm. Chị là người chứng kiến và bản thân chịu đựng tất cả những thứ đó. Tôi muốn nghe chính miệng chị kể. - Ôi, tất cả những thứ đó đã lùi vào dĩ vãng rồi - Stephanie khẽ đáp, trìu mến đặt tay lên đầu con Cesar. - Tôi không muốn làm chị buồn, Stephanie thân mến. Tôi chỉ muốn để chị thấy là vẫn theo dõi chị, vẫn là bạn tận tuỵ và quý mến chị. Chị có thể thổ lộ nỗi lòng tất cả chuyện gì, bất cứ lúc nào. Tôi sẵn sàng nghe và chia sẻ với chị mọi kỷ niệm vui buồn. - Ôi, chị tốt quá, Amélie. Stephanie thở dài, cúi đầu thầm nghĩ "Vậy là Amélie mạnh hơn mình. Chị ấy đã chinh phục được mình". Amélie im lăng, tôn trọng dòng suy nghĩ thầm kín của bạn. Đột nhiên Stephanie ngẩng đầu, nói rành rọt: - Tôi muốn biết tại sao anh ấy cưới Agnès. - Nhiều nguyên nhân thúc đẩy lắm, Stephanie thân mến ạ - Amélie bình thản đáp, dường như chị đã đoán trước được Stephanie thế nào cũng sẽ hỏi câu đó - Lúc ở ngoài chiến trường trở về, René rất yếu. Vết thương ở chân mãi không lành. Chỗ xương gãy mãi vẫn chưa lành lại bình thường. Phải mổ đi mổ lại bao nhiêu lần. Thế là phu nhân Lomanais mời anh ấy về nhà họ để chăm sóc. Tôi đã viết trong thư kể chị biết rồi đấy. - Chị có viết à, Amélie? Tôi không nhận được lá thư đó. - Tôi biết. Thư bị trả lại cho người gửi với dòng chữ "Người nhận mất tích". Ít lâu sau tôi nhận được bản danh sách chính thức do René đưa xem. Chẳng là hôm ấy tôi đến biệt thư gia đình Lomanais thăm René và anh ấy thấy vẻ mặt tôi buồn bã đã đưa tôi xem. Anh ấy rất đau khổ vì cho rằng chị bị thiệt mạng là do lỗi của anh ấy. Achille và tôi đã tưởng René không sống nổi. Bệnh tình anh ấy kéo dài quá lâu và anh ấy dường như tuyệt vọng. Hôm đầu tiên anh ấy dậy được và tập đi, tiểu thư Agnès Lomanais đã dìu anh ấy và sau đó... - Tôi hiểu. Từ bước thứ nhất đến bước thứ hai! Chuyện ấy là tất nhiên rồi. Duy có điều anh ấy biết rằng tôi còn sống, sao anh ấy không... - Lúc ấy René đã đính hôn với Agnès rồi. Đính hôn chính thức! Lợi dụng lúc René đang yếu, đang cần chăm sóc, bà mẹ Agnès, phu nhân Lomanais đã...  - Ôi, bà ấy là người nào tôi biết rồi! - Trong khi đó phu nhân Guichamp khánh kiệt, bán đến cả chiếc trâm cuối cùng...  - Tôi biết đấy là kỷ vật duy nhất còn lại của bà Guinchamp. - Bà ta phải bán để sắm nhẫn cưới cho con dâu... một cái nhẫn rất đẹp, rất sang. - Xứng đáng với cô ta! - Stephanie chua chát nói. - René cảm động trước sự hy sinh của mẹ, không nỡ thoái hôn. Sau khi René và Agnès cưới nhau được vài tháng thì phu nhân Guinchamp qua đời. - Bà ấy đã hoàn thành sứ mạng. - Kìa, Stephanie! - Amélie kêu lên. - Bà ta, phu nhân Guinchamp, đã làm tròn công việc là gây đau khổ cho con trai và cho tôi, vậy mà chị muốn tôi đền ơn bà ta chăng? Chị còn muốn tôi cầu nguyện cho linh hồn bà ta được yên ổn dưới suối vàng hay sao? - René đã viết thư báo tin đó cho chị, Stephanie. Anh ấy có đưa tôi nhờ tôi gửi, bởi anh ấy chưa đi ra khỏi nhà được. Chính tôi đã gửi bưu điện lá thư đó cho chị. Nhưng chị không hề viết thư trả lời, cho tôi cũng như cho René. Stephanie nhắm nghiền mắt lại. Nàng dường như còn nghe rõ tiếng giấy bị nàng xé hôm đó và nàng còn nhìn thấy tất cả những mảnh giấy bay lả tả theo chiều gió. Hôm đó nàng đã xé cùng với lá thư, cả số phận cuộc đời nàng. Lúc đó Stephanie bị ma quỷ nào xui khiến, nàng đã đập một đòn tan tành mọi thứ. Nàng thầm nghĩ "Làm sao chàng thay đổi được? Cũng như mình, làm sao mình thay đổi tính nết được? Tính tình bao giờ cũng vẫn thế: sôi nổi, mãnh liệt, trong khi René bao giờ cũng vậy: hời hợt, nông cạn và nhu nhược. Trong khi mình vẫn say mê chàng thì chàng lại tin là mình đã chết, dựa ngay vào hai mẹ con Agnès. Có gì lạ đâu? Cả ta lẫn chàng đều 'trung thành' với bản chất của mình". Đột nhiên Stephanie thấy mệt mỏi vô cùng. Toàn thân nàng rã rời, nàng chán chường đến mức không còn muốn cưỡng lại gì nữa. Lúc này nàng chỉ ao ước một điều là trốn biệt đi đâu đó, lánh xa tất cả mọi người ở đây, chui vào một xó xỉnh nào để được một mình. Hoặc là quay về nhà bếp của trường quân chính, đấy mới thực sự là "nhà" của nàng, là "gia đình" của nàng. Stephanie lẩm bẩm một lời cáo lỗi rất khẽ: - Amélie, tôi phải về thôi. Mai tôi lại đến thăm chị, có lẽ thế. - Tôi hiểu, Stephanie. Nhưng... Achille sẽ buồn lắm đấy. Anh ấy rất mong gặp chị. Tôi đã tưởng có thể giữ chị lại ăn bữa trưa với vợ chồng tôi. - Tôi ở lại thế nào được, tôi phải về nấu ăn cho mọi người. Amélie không nằn nì. Chị chỉ thở dài thông cảm: - Achille sẽ trách tôi ghê gớm là không giữ chị ở lại. Nhưng chị nói đúng, bao nhiêu người ở đó đang chờ chị. Không có ai ở đó có thể thay chị được. - Chúng tôi có hai người, Amélie. Ngoài tôi còn có cô Marinet. Nếu tôi không về, cô ấy sẽ "quán xuyến" mọi công việc. Lúc đi tôi có dặn cô ấy là có thể tôi đi xa và không về kịp. - Tuỳ chị, Stephanie. Chị ở lại với chúng tôi thì Achille và tôi sẽ rất mừng. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, Achille bước vào phòng khách. Anh sững người lại khi nhìn thấy Stephanie. Sau đó anh reo lên và chạy đến bên nàng:   - Stephanie! Sao mà tuyệt vời thế này! Từ hôm được tin cô bình yên, ngày nào vợ chồng tôi cũng nhắc đến cô và mong gặp cô. Đúng thế không em, Amélie?  Amélie gật đầu, mỉm cười nhìn chồng và bạn bắt tay nhau mạnh mẽ như hai quân nhân bắt tay nhau ngoài chiến trường. - Ôi, tôi sung sướng vô cùng được gặp lại cô, Stephanie! Hay quá, vậy là cô đã trở về!  - Và chúng ta phải giữ chị ấy ở lại đây. Đúng không anh? Stephanie sẽ ở lại nhà mình. - Đúng quá đi rồi. Bé Quille đâu? - Achille quay sang hỏi vợ.  - Sao lúc nào anh cũng hoảng hốt như vậy? Anh yên tâm, nó hoàn toàn khỏe mạnh - Amélie âu yếm đáp.  - Quille là con trai chúng tôi - Achille nói rồi nhìn con chó - Còn bạn này tên là gì?  - Cesar - Stephanie đáp.  Nghe đến tên mình, con chó sủa lên vài tiếng.  - Im nào, Cesar.  - Vậy là một tù binh chó được cô đem vềParis? - Achille vui vẻ nói.  - Nó đã cứu sống tôi đấy, Achille!  - Ôi, nếu vậy thì nó đáng được tất cả chúng ta trân trọng.  Stephanie bật cười. Câu của Achille hàm ý "Nhờ nó mà chúng tôi được hưởng niềm hạnh phúc gặp cô hôm nay".  - À, nhưng cô thấy bé Quille của chúng tôi chưa?  Amélie vội đáp thay bạn:  - Ôi, em mừng quá đâm quên béng đi mất, chưa đem con ra cho Stephanie xem mặt.  Nói xong, Amélie chạy ra ngoài và quay vào liền, bế trên tay một đứa bé xinh xắn, đang nép đầu vào cổ mẹ nó.  Stephanie bỗng nhói đau trong lồng ngực. Nàng chợt nhớ đến hai con và muốn bay đến đó gặp chúng ngay. Nhưng không được. Đành phải chờ. Phải để Amélie tiến hành các bước đi cần thiết. Achille xuất hiện làm đảo lộn mọi ý nghĩ của Stephanie. Nàng nhớ đến vết thương của anh nhưng không dám hỏi thăm, không biết vết thương đó có làm cho Achille đau đớn không? Mọi chuyện đều phải gác lại đã. Nàng nhớ lần cuối cùng nàng gặp Achille. Hôm đó anh bị nhát kiếm chém suốt từ bả vai đến háng, người đầy máu, nằm giữa những xác chết, những thương binh rên rỉ. Rồi nàng nhớ lại Achille trong bộ quân phục sĩ quan hồi chưa xảy ra chiến tranh và bỗng thấy bãi chiến trường Crimée xa vời vợi. Bây giờ Achille đã trở lại hình dạng của anh xưa kia, điều đó gợi lên trong lòng Stephanie bao ý nghĩ quay cuồng.  Sự xuất hiện của Achille gợi lên trong lòng Stephanie cảm giác nàng sắp phải trở lại cuộc sống ngày xưa. Nàng cảm thấy mình như con cá đang chui vào rọ và sẽ không bao giờ thoát ra được nữa. Mọi người xung quanh đã chuẩn bị để đưa nàng vào tròng. Cả Achille và Amélie cũng đang đan những mắc rọ để nhốt nàng vào trong. Họ đan một cách lặng lẽ, không phải chỉ vì tình bạn mà phải nhận đó là tình yêu, lòng quý mến tận tình. Stephanie vừa hỏng sợ, vừa xúc động.  Nàng thầm nghĩ "Họ đang trói buộc ta chính vì họ yêu ta. Ta chẳng nên làm họ thất vọng. Ta là ai? Chỉ là một kẻ bị ruồng bỏ, một nữ cấp dưỡng. Họ băn khoăn cho ta trong khi ta chẳng hề băn khoăn chút nào! Sẽ không bao giờ ta từ bỏ cô cấp dưỡng Phanie, Phanie Mourlon, từ bỏ Pompet, Tuboisquoi cũng như các đồng đội Bắc Phi. Nhưng ta lại là phu nhân Dytteville. Bao nhiêu người mong đợi ta. Rồi hai đứa con yêu quý của ta, chúng cũng mong mẹ chúng trở về. Vì các con, vì gia đình, ta đành phải chui vào cái rọ ấy. Không còn cách nào khác".  Stephanie quay nhìn Achille và đứa con trai xinh xắn đang đứng nhìn nàng như chờ đợi điều gì đó.  - Cô cầm lấy quả bóng đánh ki này, Stephanie. Rồi lăn bóng đến cho cháu.  Stephanie đỡ quả bóng nhỏ trong tay Achille, liệng nhẹ trên sân nhà về phía đứa trẻ. Khi quả bóng lăn đến gần chân nó, thằng bé reo lên mừng rỡ.  - Đánh ki! Đánh ki! - Vừa hét nó vừa vỗ tay đôm đốp.  Bây giờ Stephanie mới hiểu tại sao hai vợ chồng Achille và Amélie gọi con trai họ là Quille: Môn đánh ki!  - Cô thấy chưa, Stephanie? Từ hôm đi chơi trên đại lộ Champs Elysees thấy người ta đánh ki, thằng bé không thích chơi gì khác ngoài môn này. Cô liệng tiếp quả bóng cho nó và nó yêu cô ngay đấy. Bây giờ mọi người đều quen gọi nó là thằng Quille.  - Cesar! - Stephanie sai con chó - Ra cầm bóng về đây. Nhẹ nhàng thôi... Nhẹ nhàng thôi.  Cesar quay đầu nhìn quả bóng, rồi như thể do dự, bước tới cầm quả bóng về đặt dưới chân cô chủ, rồi ngẩng đầu nhìn nàng vẻ chờ đợi.  - Con chó của cô khôn quá - Achille lẩm bẩm nói.  - Đúng thế. Vài hôm nữa, khi nó đã quen với bé Quille, tôi sẽ bảo nó trông nom bé và không ai trêu chọc gì được bé nữa đâu. Hồi ở chiến trường, nó canh cổ xe cấp dưỡng cho tôi rất chu đáo. Nó chỉ có một khuyết tật là rất ghét ngựa. Cứ chơi kiểu này thì chẳng mấy chốc con Cesar sẽ quen với bé Quille và bé cũng sẽ quen với con chó.  - Có nghĩa, cô đến đây bao giờ cũng phải dắt theo con Cesar?  - Đúng thế.  - Tốt thôi, nhưng lúc nào cũng phải buộc dây cẩn thận đấy.  Stephanie bật cười, tiếp tục chơi bóng với đứa bé. Con Cesar chừng như hiểu biết, mỗi lần đến gần đứa bé nó đều tỏ vẻ hết sức hiền lành để khỏi làm đứa bé sợ. Thấy vậy, Achille dần dần cũng mến con chó và thấy nó không xấu xí như lúc đầu anh nhìn thấy nữa.  Stephanie thấy rõ Achille muốn chìu chuộng nàng. Suốt bữa ăn, anh ta luôn miệng kể đủ thứ chuyện về thành phố Paris, coi như nàng chưa hề rời khỏi đây một ngày nào. Khi nói đến những bạn bè của nàng, Achille nói như kiểu nàng vẫn thường gặp họ trong những ngày qua.  Lúc ngồi ăn tráng miệng và uống cafe sau bữa ăn, Stephanie nói:  - Sau đây tôi phải về trường quân chính. Bởi tôi đã xuất ngũ đâu? Tôi vẫn còn ở trong quân đội kia mà.  - Ôi, chuyện ấy chẳng khó khăn gì hết. Chị cứ yên tâm, Stephanie - Achille nói - Tôi sẽ đến đó và nếu cần, cha tôi can thiệp thêm nữa.  - Tôi sẽ trao cho anh giấy tờ nhập ngũ của tôi - Stephanie nói, tay nhấc chiếc xắc - Nếu cần tôi phải làm chứng trong nửa tháng, một tháng, tôi xin sẵn sàng. Tôi cần có giấy tờ hợp pháp, đầy đủ mọi văn bản chứng nhận, nhưng anh đừng quên, tên tôi ở quân đội là Stephanie Mourlon đấy nhé.  Amélie hiểu rằng việc chị và Achille bảo trợ cho Stephanie cần được sự đồng ý của gia đình nhà chồng nàng. Chị bèn thảo một bức thư gửi Dytteville, mẹ chồng Stephanie, báo tin con dâu bà đã trở về, khỏe mạnh và hai vợ chồng xin phép bà đề Stephanie sống tạm với họ, trong khi chờ đợi sửa sang ngôi nhà của nàng.  Ngay sau đấy Amélie cho người đem thư đến bà Dytteville và mời bà ngày mai đến gặp hai vợ chồng chị. Mời các bạn đón đọc a của tác giả Marcel Gobineau.
Bốn Mùa Yêu
Stephanie có sắc đẹp cổ điển, nhưng hơn thế, nàng có một trái tim đam mê. Ham thích mạo hiểm, nàng dám lao đầu vào những cuộc tình cuồng nhiệt và cũng sẵn sàng chịu trả giá cho những mối tình của mình. Một tính cách như vậy lại ra đời trong thời đại bão táp của nước Pháp nửa cuối thế kỷ XIX với những cuộc tranh giành quyền lực trong nước, chiến tranh ở ngoài nước, những cuộc xâm lược thuộc địa và sự phát triển nhanh chóng của các công ty liên quốc gia, ắt cuộc đời nàng phải bảy nổi ba chìm với ... yêu đương. Số phận éo le đã đẩy Stéphanie lưu lạc khắp năm châu và rơi vào đủ những mối tình hết sức khác nhau: - Nhà kinh doanh trẻ tuổi Armand Dytteville có tài sản lớn ở Nam Thái Bình Dương. - Chàng sĩ quan điển trai, tùy tùng của hoàng đế Napoléon III. - Chàng quý tộc Nga hào hoa Boris tại kinh thành Saint Petersburg. - Một thanh niên bản xứ tại miền đất hoang vu, Yann Kendelec. - Và ... văn hào Victor Hugo, cây bút vĩ đại đồng thời cũng nổi tiếng là thuộc số những đàn ông có nhu cầu tình ái mãnh liệt nhất trong lịch sử thế giới ... STEPHANIE lấy nhân vật cùng tên làm trung tâm, được viết thành 4 cuốn với tên gọi như sau: 1. Bốn mùa yêu. 2. Vì em yêu anh. 3. Cái giá của tự do. 4. Ngọn lửa tình. Tuy là bốn cuốn cùng viết về một nhân vật, song cũng như bộ tiểu thuyết Angelic đã quen thuộc với bạn đọc, mỗi cuốn đều là những câu chuyện hoàn chỉnh, độc lập với nhau, không nhất thiết phải đọc toàn bộ tác phẩm hoặc đọc theo trình tự nhất định mới thấu hiểu được nó. Tất nhiên, hy vọng rằng bạn đọc sẽ gắn bó và say mê với số phận của Stéphanie để không bỏ sót một cuốn, một tập nào, như đọc giả phương Tây đã hết sức hoan nghênh STÉPHANIE khiến bộ sách được tái bản liên tục trong vòng 10 năm nay kể từ khi nó ra đời. *** Cỗ xe ngựa chạy nước kiệu trên đường cái Orleans. Công tước tiểu thư Stephanie De Boisnaudouin ngồi thu mình trên ghế trước, giữa bác đánh xe Firmin và ông già lão bộc Damon. Cỗ xe song mã cao lớn và sang trọng, sơn mầu xanh nước biển, có những hoa văn thiếp vàng, mang gia huy của dòng họ công tước Boisnaudouin. Xe chạy đến đâu, nông dân làm lụng hai bên đường đều dừng tay ngó nhìn. Từ ngày nền quân chủ được phục hồi, Lousis Philppe I lên ngôi hoàng đế, nhiều đại quý tộc lại vênh vang như thời trước cách mạng. Tuy nhiên họ không còn uy thế như xưa. Dân nước Pháp vào những năm giữa thế kỷ XIX này biết rất rõ, mặc dù tầng lớp quý tộc cố giữ vẻ hào nhoáng bên ngoài, nhưng thực ra đã suy tàn ghê gớm. Tuy nhiên họ đâu có biết đây là cỗ xe tang! * Stephanie năm nay mười bẩy tuổi. Khác với những thiếu nữ quý tộc khác, nàng không chỉ có sắc đẹp kiểu cổ điển lạnh lùng mà còn có thêm nét quyến rũ của một cơ thể tràn đầy sức sống. Mới mười bẩy tuổi, thân hình nàng đã phát triển hoàn chỉnh với đôi vai tròn trĩnh, bộ ngực mở nang, như hút lấy bất kỳ đôi mắt người đàn ông nào. Stephanie còn vượt lên trên các thiếu nữ quý tộc khác cùng lứa tuổi ở nét tự tin, bướng bỉnh, ham sống, thiếu cái vẻ phục tùng, nhịn nhục của những cô gái ngoan đạo và được giáo dục nghiêm khắc. Vầng trán cao, cặp mắt lúc nào cũng nhìn thẳng chứng tỏ một tính cách tự chủ cao. Nhưng lúc này, ngồi trên xe, khuôn mặt kiều diễm của Stephanie phảng phất niềm u uất. Rời khỏi kinh thành Paris đã hai ngày đường, hôm nay nàng mới thấy nhẹ lòng đôi chút. Suốt hai ngày qua, ấn tượng khủng khiếp về cái chết của hai người thân cứ bám riết lấy nàng. Rồi tiếng rên rỉ của Công Tước phu nhân, mẹ nàng, từ phía sau càng khiến nàng thêm rối tung đầu óc. Phu nhân ngồi trong hòm xe, bên hai linh cữu chồng và con trai, mắt đỏ hoe. Hình như bà đã cạn hết nước mắt. Nhưng thỉnh thoảng bà lại rên rỉ và lầm rầm cầu nguyện. Hai tấm linh cữu đặt nằm song song giữa xe. Hai bên là hai ghế nệm bọc nhung màu xanh lam đính kim tuyến vẫn thừa chỗ, nhưng Stephanie không đủ can đảm ngồi ở đó, đối diện với mẹ. Nàng rất muốn nghĩ đến cha và anh, nhưng nàng không muốn chết. Nàng muốn sống, muốn khỏe mạnh, muốn được hưởng ánh mặt trời. Stephanie còn rất trẻ và cả một cuộc đời tràn đầy hứa hẹn đang mở ra trước mắt nàng. Và nàng không chịu nổi bộ mặt sầu thảm của mẹ. Tiếng vó ngựa gõ đều đặn xuống mặt đường, tiếng bánh xe lăn, phong cảnh tuyệt đẹp của miền Trung nước Pháp với cây cối, đồng ruộng hai bên liên tiếp thay đổi khiến Stephanie cảm thấy đê mê như say rượu. Nhưng mặt trời đã đang thấp dần, trời sắp tối, nghĩ đến sắp phải nghỉ lại ở một nhà trọ nào đó ven đường, Stephanie bỗng hoảng sợ. Nàng rất sợ ngồi đối diện với mẹ, chỉ có hai người trong phòng trọ chật hẹp. Công tước phu nhân Boisnaudouin mấy hôm nay như người mất trí, hết rầu rĩ lại nổi nóng gắt mắng gia nhân chỉ vì những sơ xuất rất nhỏ. Và hầu như lúc nào Stephanie cũng cảm thấy cặp mắt mẹ đè nặng xuống nàng như thể oán trách. Nàng có lỗi gì đâu? Đâu phải vì nàng mà cả gia đình kéo nhau lên Paris để gặp anh Charles nghỉ phép từ mặt trận Algérie về? Đâu phải vì nàng mà nổ ra cuộc khởi nghĩa của dân chúng Paris, lật đổ vương triều hoàng đế Louis - Philippe I? Đâu phải vì nàng mà trên đường từ buổi dạ tiệc ở lâu đài quận chúa Etsac trở về, cỗ xe của họ bị đám quân nổi loạn hất đổ và ngài công tước Boisnaudouin, cha nàng, bị vó ngựa giẫm lên chết? Đâu phải vì nàng mà anh nàng trong đội ngự lâm bảo vệ cung điện bị tử trận? Mùa xuân năm 1848, cả Paris hỗn loạn chưa từng thấy. Đâu phải chỉ công tước Boisnaudouin và Charles mà hàng chục ngàn người khác đã bị thiệt mạng. Máu lênh láng trên đại lộ Champs Elysées, cả trên nhiều đại lộ khác. Khi toà lâu đài cổ hiện ra ở chân trời, Stephanie mới thở phào nhẹ nhõm. Suốt năm ngày năm đêm qua nàng đã phải vật lộn với những cơn ác mộng khủng khiếp và những bóng ma lúc nào cũng như hiện lên đầu giường, với bộ mặt rầu rĩ cau có của mẹ nàng. Nàng đã mệt mỏi đến bã cả người. Nhìn toà lâu đài cổ hình dáng thân thuộc, nàng thầm nghĩ: “Vậy là mình sắp thoát rồi. Lâu đài rộng mênh mông, bao nhiêu phòng và cả những dãy nhà phụ đằng sau, những khu vườn um tùm bao quanh. Mình không buộc phải lúc nào cũng kè kè bên cạnh mẹ”. Toà lâu đài của dòng họ công tước Boisnaudouin nằm trên một đỉnh đồi, nhìn xuống bên dưới là một dòng sông Vendée, chơ vơ giữa một vùng đồi núi rộng lớn. Lâu đài xây từ thế kỷ thứ mười tám, cách thị trấn Fontenay-le-comte chừng mười lăm cây số và nàng rất tự hào về nó. Chính tại đây Stephanie đã sống phần lớn quãng đời thơ ấu cùng với cha mẹ, anh Charles cùng những gia nhân thân tín. Cuối cùng cỗ xe đã dừng bánh trước bậc thềm lâu đài. Chị quản gia Suzane chạy trên bậc thềm xuống đón họ. Trong lúc bác đánh xe Firmin dìu bà chủ lên phòng, Stephanie giữ chị quản gia lại, ra lệnh: - Nếu bác sĩ Allaire đến, chị bảo ông ta hãy gặp tôi trước khi vào thăm bệnh cho công tước phu nhân. Cả cha linh mục cũng vậy, gặp tôi trước rồi hãy vào gặp phu nhân. Ngày mai bà Nhất ở Tu Viện Fontenay đến, tôi sẽ nói chuyện với bà. Hai linh cữu này thì chị cho khiêng vào phòng khách để mọi người đến viếng. Suzane khóc nức nở: - Vâng, thưa cô chủ! Vâng! Stephanie thấy ghen với chị quản gia. Chị ấy có thể khóc còn mình không sao khóc nổi nữa. Mình mệt mỏi quá rồi. Từ hôm sau nàng bắt đầu nắm quyền “chủ nhân lâu đài”. Nàng bỗng cảm thấy mình quan trọng hẳn lên. Trước hôm rời đây điParis, cách chưa đầy hai tháng, nàng chỉ là một đứa trẻ hoàn toàn phụ thuộc. Nhất cử nhất động đều bị cha mẹ nhìn bằng cặp mắt nghiêm khắc. Hơi tự do một chút là đã bị phạt. Mà nàng lại thích tự do, thích thoát ra ngoài sự kiểm soát của những người trên. Thoạt đầu mọi người cũng hơi ngỡ ngàng nhưng sau họ quen dần. Từ chị quản gia Suzane, bác quản lí trang ấp Germain, gia nhân trong lâu đài, tá điền trong các xóm làng gần đó, thậm chí cả ông trưởng khế địa phương Ballereau đều đến gặp nàng để hỏi công việc chứ không còn hỏi công tước phu nhân mẹ nàng nữa. Ngay bản thân Stephanie, mấy hôm đầu gặp những việc quan trọng còn hỏi ý kiến mẹ, nhưng chỉ thấy bà trả lời được hoặc không lấy lệ, nàng bèn tự quyết định lấy mọi việc. Công tước phu nhân mẹ nàng suốt ngày ở lì trong phòng riêng, đến bữa ăn mới ra khỏi đó. Chiều nào cũng vậy, bất kể thời tiết tốt hay xấu bà đều ra nghĩa trang. Stephanie rất thích những lúc mẹ vắng nhà như thế. Nghĩa trang nằm cách lâu đài hai cây số, đi bộ thong thả ra đó, hít thở không khí trong lành cũng là một cách hoạt động. Riêng chủ nhật thì nàng phải cùng đi với mẹ. Hai mẹ con lặng lẽ đi, không nói với nhau một lời. Đến trước hai ngôi mộ mới đắp, cả hai đều lặng lẽ lần tràng hạt. Nàng thấy mẹ nàng lầm rầm khấn, nhưng để ý thì không thấy bà nhắc đến tên chồng và con trai, cũng không nói lên mấy tiếng: Chồng tôi hoặc cha con, con trai tôi hoặc anh con Stephanie có cảm giác nàng bị mẹ gạt ra ngoài, coi nàng không xứng đáng được yêu quý cha, anh cũng như nhớ nhung đến họ. Mời các bạn đón đọc Bốn Mùa Yêu của tác giả Marcel Gobineau.
Bên Kia Mây Trời Là Nơi Hẹn Ước
Tôi và cậu, đôi bạn thân rất thân, niềm thân ái thắm thiết bền lâu. Hai đứa hiểu nhau mà chẳng cần nói trọn một câu. Có chung nhau những sở thích vô cùng khác lạ. Rồi tình thân tiêu tan sau một ngày mùa hạ, khi cô ấy đến rồi đi không để lại lời nào. Giữa biển người mênh mông, Takuya và Hiroki trở nên gắn kết nhờ có chung những kĩ năng và sở thích khác hẳn cộng đồng. Nghĩ nhiều, làm nhiều, nói ít… Mấy năm thân thiết của hai cậu được ghi dấu bằng những lúc âm thầm đứng cạnh nhau trên sân ga đợi tàu đi học, âm thầm cùng chế tác chiếc máy bay chở ước vọng tương lai, âm thầm sẻ chia những tật xấu phải che mắt người ngoài, âm thầm cảm nhận nét đẹp của một cô gái, và âm thầm cả khi phát hiện ra nhau lại tiếp tục chung sở thích về một người. Người ấy không chỉ gây xáo trộn tâm tư, mà có lẽ còn sẽ gây chia rẽ tình bạn thân thiết của hai cậu… Trên vụn nắng lấp lánh mặt ao xanh, trong tiếng vĩ cầm réo rắt, tơ lòng mong manh của một cô bé và hai cậu bé đã lặng lẽ dệt nên những canh vải vô cùng phức tạp, không thể gỡ ra chỉ bằng cách đơn giản là quyết định ai ở bên ai. *** Trong lịch sử, nước Nhật chưa bao giờ rơi vào cảnh bị chia cắt hai miền. Thế nhưng, với tài năng và trí tưởng tượng phong phú, Kano Arata đã tạo nên một câu chuyện đầy cảm động, chân thực về nỗi đau chia cắt ấy trong 'Bên kia mây trời là nơi hẹn ước'. Một câu chuyện hư cấu đầy chân thật Light novel Bên kia mây trời là nơi hẹn ước lấy bối cảnh Nhật Bản hư cấu, nơi bị chia cắt hai miền Nam – Bắc và phải chịu sự thao túng từ các cường quốc khác. Sự đấu đá giữa Mĩ và Liên Bang, hai thế lực đã chia cắt nước Nhật, trở thành lý do chính để phe Liên Bang (chiếm đóng các đảo phía Bắc) cho phép nhà khoa học Tsukinoe Ekusun xây dựng lên ngọn tháp cao kỳ lạ. Trong bối cảnh loạn lạc vì những phe phái, mâu thuẫn như vậy, bộ ba người bạn trẻ  Hiroki, Sayuri và Takuya xuất hiện mang theo sự trong trẻo, hồn nhiên. Hiroki và Sayuri hạnh ngộ trên chuyến tàu hỏa, họ cùng chia sẻ với Takuya sự thích thú với tòa tháp của Liên Bang. Ba người bạn cùng hẹn rằng sẽ có một ngày nào đấy cùng bay đến ngọn tháp trên chiếc máy bay Velaciela (đôi cánh trắng) mà Takuya và Hiroki chế tạo. Tuy nhiên, lời hứa đó không thể thực hiện vì Sayuri đã mất tích đầy bí ẩn. Âm mưu và tình yêu Ba năm sau đó, Takuya làm việc cho cơ quan Liên Minh Khoa học (Alliance Scientific Facility) do Cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ tài trợ. Nhờ vậy, cậu dần phát hiện ra sự liên quan mật thiết giữa tòa tháp với một chiều không gian song song khác. Cùng lúc đó, Hiroki đến Tokyo để hoàn thành chương trình cấp 3. Dù bị trầm cảm sau vụ mất tích đột ngột của Sayuri, nhưng Hiroki vẫn đủ tỉnh táo để phát hiện ra những manh mối còn sót lại trong lá thư trước lúc biến mất mà Sayuri để lại. Cũng từ đây, những bí mật dần được vén màn với những âm mưu khủng khiếp đến từ cả hai cường quốc. Liệu Hiroki và Takuya có thể tìm được Sayuri?  Bộ ba sẽ làm thế nào để thoát khỏi cuộc chiến tương tàn giữa hai miền đất nước? Ngọn tháp kỳ lạ đóng vai trò gì? Tất cả những thắc mắc của độc giả sẽ đều được tác giả giải đáp khéo léo trong light novel 'Phía bên kia mây trời là nơi hẹn ước' Những lời khen dành cho 'Bên kia mây trời là nơi hẹn ước' Hầu như  những độc giả yêu quý bộ truyện, dù là nguôn tác manga hay anime đều nhận xét rằng họ bị thu hút bởi tính nhân văn của câu chuyện. Hiroki, Takuya và Sayuri là những người trẻ giữa cuộc chiến, song họ không chiến đấu bằng súng đạn mà lựa chọn tình bạn, quyết tâm thực hiện hoài bão làm vũ khí.  Hiroki và Takuya đã có lúc buông lơi cuộc hẹn trên tòa tháp với Sayuri mà từ bỏ việc lắm ráp máy bay, nhưng sau đó cũng chính để cứu Sayuri mà cả hai tiếp tục hoàn thành 'đôi cánh trắng' ấy. Còn Sayuri, cô bé chấp nhận đánh đổi ký ức 3 năm để giúp được quân kháng chiến có cơ hội thống nhất hai miền đất nước... Tất cả những chi tiết ấy đều tô điểm cũng như khẳng định giá trị tuyệt vời của bộ light novel này. Light novel 'Bên kia mây trời là nơi hẹn ước' hiện đã được IPM phát hành tại Việt Nam. *** Phải chăng ta đang nghe hơi thở của bầu trời nơi tháp kia khóc than trôi xa về phương Bắc. Miyazawa Kenji Tôi bất giác ngẩng đầu nhìn trời trong lúc đợi đèn xanh ở ngã tư trước trung tâm thương mại Odakyu HALC. Khoảnh trời hẹp bên trên cổng Tây ga Shinjuku bị vây quanh bốn phía bởi cao ốc, chẳng rực rỡ cho lắm vào sáng sớm, nhưng cũng coi như khá trong xanh giữa đô thị xám xịt, đủ khiến tôi nhận ra hè đang về. Trong hình dung của tôi, hương sắc mùa hè giống như một khối không khí nồng nàn, chầm chậm rơi xuống từ không trung. Tôi nheo mắt, mường tượng về khối hương sắc mùa hè ấy. Vào khoảnh khắc đó, kí ức về mùa hè đặc biệt, mùa hè của mười sáu năm trước, bỗng bồi hồi trào dâng trong lồng ngực. Buồng phổi như thắt lại, đau nghẹn đến mức nước mắt chực rơi. Mất một lúc mới nhận ra đèn tín hiệu đã chuyển sang xanh, tôi vội vàng bước qua đường, theo dòng người hướng về cửa soát vé ở cổng Tây. Nhà ga đang giờ cao điểm. Đám đông trước mặt tôi tạo thành dòng người tấp nập, lần lượt tràn qua cửa soát vé tự động. Tôi ngắm nhìn cảnh tượng đó, lòng chẳng mảy may ngạc nhiên hay xúc động. Chừng này con người cùng sống trong một thành phố, mỗi người lại có cuộc đời riêng. Ngẫm lại mới thấy, chẳng rõ từ lúc nào chuyện này không còn khiến tôi kinh ngạc. Tôi ý thức được gánh nặng trên vai mình. Bước sang tuổi ba mươi mốt, tôi đã thấm thía nỗi mỏi mệt tương xứng với tuổi tác. Không quá to tát, nhưng cũng khó bơ đi mà sống. Tôi bỗng không muốn đến công ty nữa. Tính cách tôi vốn hơi khác thường, đúng hơn là y như trẻ con. Nhưng nghĩ lại, hồi nhỏ tôi từng trốn học bao giờ chưa nhỉ? Hình như là chưa. Tôi ngờ rằng mình đã lớn lên theo cách không trọn vẹn. Bởi người ta khó có thể trưởng thành thực sự nếu chưa làm trẻ con đúng nghĩa khi còn bé. Tôi chẳng biết việc làm người lớn có giá trị đến nhường nào. Có điều, chí ít mối hoài nghi về sự trưởng thành nửa vời của bản thân vẫn luôn canh cánh trong lòng tôi. Tôi điểm lại lịch trình hôm nay. Trước mắt không có cuộc hẹn nào cả. Việc gấp không phải không có, nhưng chắc sẽ xoay xở được thôi. Tôi bỏ cặp đi làm vào tủ gửi đồ của nhà ga, khóa lại. Lấy điện thoại trong túi áo ra, tôi định bụng gọi đến công ty... Tôi chợt đổi ý, tắt nguồn rồi cất điện thoại vào túi áo. Tôi quyết tâm, đã trốn thì trốn cho ra trò đúng kiểu trẻ con. Tôi biết ngay mình muốn đi đâu. Sau khi xuống ga Tokyo qua tuyến Chuo, tôi mua vé tàu tốc hành tuyến shinkansen Tohoku đi Hachinohe cùng vé về Aomori. Bước lên con tàu shinkansen Hayate rời ga lúc 8 giờ 56 phút, tôi nhét mình trong ghế ngồi chật hẹp, mơ màng ngủ gà ngủ gật suốt hành trình gần ba tiếng. Tôi chuyển sang tàu hỏa tốc hành ở Hachinohe, đi tới ga Aomori. Đợi thêm ba mươi phút, tôi lên chuyến tàu hỏa chạy bằng dầu diesel của tuyến Tsugaru. Đây là tuyến tàu chặng ngắn chạy đến tận cùng bán đảo Tsugaru, điểm cực Bắc đảo Honshu. Chuyến tàu vùng quê đầy hoài niệm. Đoàn tàu gồm hai toa. Mỗi ngày vỏn vẹn năm chuyến. Không có gì thay đổi. Toa tàu vắng khách tạo cảm giác bình lặng đến lạ kì. Người dân sống ở Tsugaru chỉ đi lại bằng tuyến đường sắt duy nhất này. Có thể vì vậy mà tôi nhận thấy ở nó sự thân thuộc đặc biệt. Thế nhưng, trong đó có cả cảm giác lạc lõng. Bởi tôi đã trở thành kẻ xa lạ trên mảnh đất này. Tôi không còn thuộc về bầu không khí thân thương ấy nữa. Một cặp đôi cấp hai ngồi ở khoang ghế đằng xa. Cả hai đang vui vẻ trò chuyện. Tôi bồi hồi ngắm cảnh tượng ấy. Hai đứa mặc đồng phục trường cấp hai của tôi. Bộ đồng phục cũng không đổi khác so với trước kia. Tôi nghe thấy nội dung cuộc đối thoại. Toàn chuyện lặt vặt của trẻ con, nhưng trông cả hai rất vui vẻ, không vướng bận gì cả. Tôi cũng có một thời rạng rỡ, vô ưu như thế. Những điều nhỏ nhặt từng là báu vật, đem đến niềm vui khôn tả. Cạnh tôi có một người bạn thân cùng một cô gái xinh đẹp. Ba chúng tôi ngồi trên chuyến tàu này, mong sao cỗ xe lửa vận hành bằng dầu diesel vốn vừa nặng vừa chậm chạy từ từ hơn nữa. Giờ đây tất cả chỉ còn trong kí ức xa vời... Đúng rồi. Tôi đã đi rất xa. Khi ấy, tôi gắng hết sức vùng vẫy, cốt để đi càng xa càng tốt. Cái đích mà tôi của ngày đó cố gắng vươn tới có phải chính là đây? Tôi cũng chẳng biết. Tôi xuống ga Tsugaru-Hamana, trước điểm cuối của tuyến một ga. Tôi vừa đưa mắt nhìn bãi để xe nhỏ dành cho xe đạp, vừa bước về hướng ngược lại với ngôi làng, băng qua gầm cầu cạn của tuyến Tsugaru-Kaikyo mới, tuyến đường sắt xây dở chưa từng được đưa vào sử dụng. Đoạn đường tiếp theo hơi dốc. Chẳng mấy chốc tôi đã tới nhà máy bỏ hoang dựng theo kiểu nhà tiền chế*. Đi tắt qua phần đất của xưởng, tôi khom mình lách sang bên kia hàng rào đã hỏng, chầm chậm leo lên ngọn đồi nhỏ ở phía sau. Mất nửa tiếng đồng hồ vượt qua quãng đường um tùm cây cối, cảnh vật đột ngột hiện ra. Trước mắt tôi là đồng cỏ mênh mông ánh lên màu lục nhạt, trông hệt như trang trại, cỏ non mơn mởn mọc ngút tầm mắt, tỏa hương tươi mát hòa quyện trong gió. Một thế giới xanh dịu, bao la, trải dài vô tận. Tôi chậm rãi bước vào vùng cỏ. Tiếng xào xạc khi đám cỏ lay động khẽ lướt qua tai. Ở khá xa bên tay phải là một nhà ga hoang phế nằm trơ trọi. Ba sân ga bê tông nối với nhau bằng cây cầu gỗ bộ hành nằm trên cao. Vài chỗ trên tường hay sàn cầu đã mục. Nhà ga bị bỏ hoang khi việc xây dựng còn dang dở, vì thế chưa có chuyến tàu nào chạy qua đây. Nó chẳng thể đưa người ta đi đâu, cũng chẳng đón ai ghé đến. Trước kia, nơi này từng chứa đựng toàn bộ cuộc sống của tôi. Tôi ngước nhìn bầu trời rộng lớn đến quá đáng. Những đám mây dày bồng bềnh trôi trên tầng không xanh thẳm. Tôi ngửa mặt, ngước lên nhìn quanh một lượt, bầu trời cũng xoay tròn, sắc xanh như thể dồn hết về chỗ tôi. Giữa khoảng không cao vời vợi, một chiếc máy bay hiện ra. Chiếc máy bay nhỏ màu trắng. Velaciela... Là ảo ảnh do tôi tưởng tượng. Nó không thực sự bay trên trời. Mà chỉ tồn tại trong kí ức cũ kĩ của tôi. Một cỗ máy với hình thù lạ lùng, không được nhắc đến và cũng không thể xuất hiện trong bất kì tập san máy bay nào. Velaciela. Tác phẩm của ba chúng tôi. Chiếc máy bay đẹp đến nao lòng. “Tuyệt quá...” Giọng Sayuri vang lên bên tai. Không, là ảo giác thôi. Cô đã không còn. Chỉ là một mảnh kí ức bị khuấy động và tái hiện nhờ không gian. Vậy mà tôi lại có thể góp nhặt gần như trọn vẹn hình ảnh của cô. Tiếng bước chân cất lên khi cô bé chạy trên cỏ, đuổi kịp tôi từ phía sau, vượt qua tôi rồi quay đầu lại, chiếc váy đồng phục ngắn và mái tóc đen ngang vai đung đưa. “Máy bay!” Sayuri mừng rỡ nói. Cô vẫn mang hình hài nữ sinh cấp hai của mười sáu năm trước. “Sao mình lại xuất hiện trong hình dáng đó? Bạn biết dáng vẻ mình khi trưởng thành hơn cơ mà?” Gió lướt qua da, đem tôi về với thực tại. Chiếc máy bay, bóng hình Sayuri, cả hai vụt tan biến. Tôi thẫn thờ nhìn nơi ảo ảnh Sayuri vừa đứng. Tôi ngẩn người hồi lâu, ngắm màu xanh của đồng cỏ và bầu trời. Cuối dải đất nhô cao như ngọn đồi là mũi đất. Đứng trên đó có thể nhìn thấy biển. Biển màu xanh đen lạnh lẽo. Sâu thẳm và tối tăm, nhưng lại trong suốt đến kì lạ. Đó là màu eo biển Tsugaru vào mùa hè. Xa hơn nữa, bên kia eo biển là đảo Hokkaido xanh xám, nửa như hòa vào màu trời. Tôi bỗng thắc mắc vì sự thiếu vắng một chi tiết đáng lẽ phải có ở đây. Đúng rồi. Ngọn tháp. Ngày trước, mỗi khi đứng ở chỗ này, trông sang đảo Hokkaido bên kia eo biển, tôi đều thấy ngọn tháp trắng lừng lững giữa nền trời đầy mây. Ngọn tháp cao ngất, từ bán đảo Tsugaru vẫn trông thấy được. Đường thẳng màu trắng xinh đẹp như được vẽ lên không trung bằng thước kẻ, có phần giống bản phác thảo thang máy vũ trụ trong tạp chí khoa học dành cho thiếu niên. Kiến trúc khổng lồ đến mức vô thực, chẳng khác nào tới từ nền văn minh thuộc thế giới khác. Nhưng giờ không thấy tháp đâu. Không còn nữa. Tôi đã đánh mất nó. Thảm cỏ xao động trong gió, gợn sóng như mặt nước, mang hơi hướm Sayuri lại bên tôi. “Mình luôn có linh tính sắp đánh mất thứ gì đó. Thế giới đẹp đẽ nhường này, vậy mà...” Phải. Cô từng nói thế, rằng luôn có dự cảm mất mát. Bấy giờ tôi mới học cấp hai, chắc chắn chưa thể hiểu hết, nhưng lời cô vẫn lay động tôi một cách kì lạ. Chuyện xảy ra nhiều năm trước cuộc chiến ấy. Bấy giờ Hokkaido được gọi bằng cái tên Ezo, là mảnh đất bị quốc gia khác xâm lăng, kẻ địch chiếm đóng. Gần ngay trước mắt mà không thể đặt chân đến. Ở một chân trời ngoài tầm với. Là nơi hẹn ước. Đúng vậy. Mùa hè ấy, ba chúng tôi đứng đây ngắm ngọn tháp và cùng lập một lời hứa. Vào một ngày mà hôm nay đã thành dĩ vãng xa xôi, bên kia mây trời từng là nơi hẹn ước với Sayuri. Ngọn tháp mất đi là lỗi của tôi. Sayuri cũng không còn bên tôi nữa. Sayuri... Cô ấy giờ thế nào? Tại sao lúc này tôi không thể ở bên Sayuri? Vừa nghe tiếng cỏ xào xạc, tôi vừa cúi mặt, xòe ngón tay ra đếm. Đếm những thứ đã để mất, đã phá hỏng, đã vứt bỏ suốt mười mấy năm nay. Tính thử mới thấy chẳng có bao nhiêu. Vậy mà sao cảm giác lại nặng nề thế này. Tôi chầm chậm bước tới chỗ đường ray sắt bị bỏ hoang trong tình trạng lắp đặt dở. Trước mắt tôi là nơi hai đường ray giao nhau rồi tách ra. Tôi ngồi xuống thanh ray gỉ sét. Tôi khóc. Có lẽ tôi đã đánh mất toàn những thứ không được phép mất đi. Nhưng chừng nào tôi còn là tôi, cậu ấy còn là cậu ấy, cô ấy còn là cô ấy, đó vẫn là điều bất khả kháng. Con đường của chúng tôi không cho phép chuyển tuyến hay thay đổi điểm đến. Khi bầu trời đã loáng thoáng nhuốm sắc đỏ, tôi vẫn ngồi im như thế. Tôi lắc đầu, xua đi cảm xúc u buồn rồi chậm rãi đứng dậy, khẽ phủi gỉ sét bám trên quần xuống. Đã đến lúc trở về với “hiện tại”. Tôi quay người cất bước, bỏ biển lại sau lưng.   Mời các bạn đón đọc Bên Kia Mây Trời Là Nơi Hẹn Ước của tác giả Kanoh Arata & Shinkai Makoto & HẢI HÀ (dịch).
Bà Già Phá Luật
Tuổi già xồ tới như một con chó xồm, chưa kịp nhận ra, ta đã ở trong viện dưỡng lão. Nếu chẳng thể nào thanh tân trở lại, chi bằng hãy già đi theo một kiểu thật ngầu? Một bà lão nhỏ bé, 79 tuổi, Martha Anderson không có ý định dành những ngày tháng còn lại của cuộc đờitrong viện dưỡng lão mà không làm gì, bàmuốn hướng đến một lối sống thú vị hơn nhiều: với phong cách Robin Hood. Cùng với bốn người bạn thân,Martha quyết định nổi dậy chống lại tất cả các luật lệ áp đặt lên họ. Rồi khi những người già trở nên táo bạo hơn, các hoạt động của họ cũng leo thang: họ đưa ra một kế hoạch xảo quyệt để trốn khỏi viện dưỡng lão và ĐI CƯỚP!!! Sức quyến rũ đặc biệt của Bà già phá luật đến từ những tình tiết gây cười, bất ngờ, khó đoán nhưng thật đáng suy ngẫm. Xét cho cùng, đời người cốt yếu đâu phải sống được bao nhiêu năm, mà là bao nhiêu năm ta thực sự sống? *** "Một ngày phạm tội, khỏe lên gấp bội" (Chritina, bảy mươi bảy tuổi) Từ thế giới ảm đạm của tuổi già và sự quên lãng, tại trại dưỡng lão Kim Cương ngày một tồi tệ, 5 người già đã về hưu bỗng "sống lại" với những kế hoạch phạm tội để đời. Cùng với nhau 5 người bạn thân: Martha, Brains, Christina, Anna-Greta và Rake lần lượt phá bỏ tất cả các luật lệ, đưa người đọc đến những bất ngờ nối tiếp. Với một phong cách rất Robin Hood, những ông bà lão tuổi thất tuần từng bước dấn thân vào một đời sống tội phạm đầy rủi ro nhưng cũng vô cùng quyến rũ. Họ trốn khỏi trại dưỡng lão, thành lập Băng Hưu Trí, ăn trộm tại một khách sạn hạng sang, "bắt cóc" tống tiền tranh của Renoir và Monet tại Bảo tàng Quốc gia...và đi cướp ngân hàng! "Bà già phá luật" của Catharina Ingelman-Sundberg khá trọn vẹn trong vai trò một cuốn mở đầu của bộ ba tiểu thuyết. Tiểu thuyết đem tới cho người đọc những phút giây hồi hộp, bất ngờ của những tiểu thuyết trinh thám-tội phạm, những phút cười thư thái, những khoảng lắng đọng trầm lắng và sự tò mò ngóng đợi những hành trình tiếp theo của Băng Hưu Trí. Suy cho cùng, sự nổi loạn của những ông lão bà lão, là nỗi lực cuối cùng, nhưng xứng đáng để thoát khỏi sự bức bối và sự thờ ơ của một xã hội - nơi những người già bị bỏ lại như những món đồ cũ kĩ trong kho, để một lần nữa, được sống lại thực sự và sống lại thật "ngầu". Với thông điệp giản đơn: Không phải ta sống được bao nhiêu năm, mà bao nhiêu năm ta thực sự sống, cùng lối viết dễ gần, vui tươi, "Bà già phá luật" là một cuốn sách tươi sáng, tích cực mà bạn nên đọc. *** #Review #Bà_già_phá_luật Đọc xong quyển này mình cũng muốn lập băng hưu trí để già đi một cách thật ngầu :D “Tuổi già xồ tới như một con chó xồm, chưa kịp nhận ra, ta đã ở trong viện dưỡng lão” Đã vậy, nếu không thể quay trở lại tuổi thanh xuân thì làm cách nào để già đi theo một cách thật ngầu? Bà lão nhỏ bé Martha ở viện dưỡng lão quyết định nổi dậy chống lại các luật lệ, bà lên kế hoạch trốn khỏi viện dưỡng lão và đi cướp. Thế đã đủ ngầu chưa nhỉ? Bà đến ngân hàng và quyết định cướp ngân hàng bằng cách giơ tấm biển CƯỚP ĐÂY và bảo cô thu ngân của ngân hàng “ba triệu, bỏ vào giỏ ngay lập tức”. Một vụ cướp không thể hài hước hơn và dĩ nhiên nó thất bại. Sau vụ cướp bất thành vì như trò đùa đó của bà Martha, bà về viện dưỡng lão và cùng với những người bạn của mình lập kế hoạch trốn khỏi viện dưỡng lão để phạm tội. Băng hưu trí của bà Martha đã gây ra một vụ trộm chấn động Thuỵ Điển. Họ trộm 2 bức tranh nổi tiếng của Monet và Renoir cùng với số tiền chuộc 10 triệu cuaron của viện bảo tàng. Cuộc phiêu lưu của bức tranh, số tiền và băng hưu trí cũng hấp dẫn, ly kỳ không kém một vụ truy đuổi các tên tội phạm trong các tác phẩm trinh thám đâu nhé. Một vụ phạm tội ly kỳ nhưng khá bất thường bởi cùng với nó là các tình huống hài hước phát sinh ngoài dự tính của họ. Hài hước nhưng cũng kém phần xúc động và suy ngẫm. Bà Martha ước ao có một gia đình nhưng tình yêu của đời bà bỏ đi khi con trai bà mới 2 tuổi. Con trai bà cũng ra đi mãi mãi vào một ngày Chủ nhật bên chiếc cầu tàu. Cố mang bầu để có một đứa con khác thì bà lại bị sẩy thai. Cuối cùng vì tuổi tác bà từ bỏ ý định lập gia đình. Sống ở viện dưỡng lão thì người ta tìm cách cắt xén mọi phúc lợi, bà bị cấm đoán mọi thứ, họ đối xử với những người già như những đứa trẻ mẫu giáo, nhiều khi còn không bằng một nhà tù. Không chỉ những tình huống hài hước mà Bà già phá luật cũng để lại những suy nghĩ trăn trở. Chúng ta rồi cũng sẽ già đi nhưng mấy ai hiểu được người già muốn gì và cần gì. Con cái đưa họ vào viện dưỡng lão nhưng có biết họ sống ra sao ở viện dưỡng lão? Trong nơi mà viện dưỡng lão bị biến thành nơi kinh doanh, nơi người ta trục lợi. Cái họ cần là sự quan tâm. Bà thích xem các bộ phim trinh thám gay cấn, đọc những chồng sách về các vụ giết người rùng rợn. Và việc đó quả thật đã giúp ích cho bà rất nhiều trong việc lên kế hoạch và thực hiện những phi vụ phạm tội mà đến cả cảnh sát, mafia cũng bị qua mặt. Đừng đùa với người già nhé. Sau vụ bức tranh và tiền chuộc băng hưu trí đã kịp lên kế hoạch cho những lần tiếp theo. Nghe nói Nhã Nam sắp phát hành 2 quyển nữa trong series Băng Hưu Trí này, mình ngóng chờ sự bất ngờ, táo bạo trong cuộc phiêu lưu tiếp theo của họ. *** Bà lão bé nhỏ nắm chặt tay cầm chiếc khung trợ lực Zimmer, treo gậy chống vào gần chiếc giỏ để đồ và cố phớt tỉnh. Dù gì thì một người phụ nữ bảy mươi chín tuổi chuẩn bị ra tay cướp ngân hàng lần đầu cũng cần phải có thần thái một chút chứ. Bà thẳng lưng lên, kéo sụp mũ xuống trán và đẩy cửa mở ra. Được chiếc khung Zimmer trợ lực, bà bước chậm rãi và cương quyết vào ngân hàng. Còn năm phút nữa là đóng cửa và ba người khách đang xếp hàng chờ phục vụ. Chiếc khung khẽ kêu cọt kẹt. Bà đã bôi trơn nó bằng dầu ô liu, nhưng một bánh đã lung lay kể từ lúc bà va chạm với xe đẩy dọn vệ sinh ở viện dưỡng lão. Tuy nhiên đó không hẳn là vấn đề. Điều tối quan trọng là chiếc khung trợ lực này có chiếc giỏ rộng đủ chỗ để chứa rất nhiều tiền. Martha Andersson – đến từ Södermalm, Stockholm – khòng khòng bước tới, cố tình mặc áo khoác trơn màu nhờ nhờ để tránh bị người ta để ý. Bà nhỏ con, chắc nịch chứ không béo. Bà đi đôi giày tiện dụng tối màu hoàn hảo cho việc chuồn lẹ nếu cần thiết. Đó là giả sử bà có thể tăng tốc để chạy. Đã nhiều năm rồi bà không làm điều đó, bởi vậy có lẽ bà đành hài lòng với việc rảo bước vậy. Hai bàn tay nổi gân chằng chịt của bà được giấu trong đôi găng da đã sờn và mái tóc trắng cắt ngắn được che dưới chiếc mũ nâu rộng vành. Bà đã quấn một chiếc khăn màu neon quanh cổ, bởi vậy nếu bà bị chụp ảnh, thì bức ảnh sẽ bị dư sáng và đường nét khuôn mặt bà sẽ biến mất. Chiếc khăn đó về cơ bản chỉ mang tính cẩn tắc vô áy náy, bởi vì miệng và mũi bà đã được chiếc mũ che khuất. Nhưng càng già thì bà càng phải khôn ngoan mới được. Chi nhánh ngân hàng nhỏ ở Götgatan trông giống như hầu hết các ngân hàng khác ở Thụy Điển ngày nay. Có đúng một giao dịch viên đứng đằng sau quầy dịch vụ duy nhất; những bức tường phẳng buồn tẻ; sàn nhà siêu bóng và một chiếc bàn nhỏ đặt đầy những tập quảng cáo về các gói vay ưu đãi và những lời khuyên đầu tư. Quý vị viết quảng cáo thân mến, Martha nghĩ, tôi biết cách kiếm được bộn tiền hơn nhiều! Martha định sẽ cười suốt quãng đường tới quầy và suốt cả quãng đường trở ra nữa. Bà ngồi xuống băng ghế dành cho khách hàng và giả vờ xem những tờ quảng cáo về các khoản tiết kiệm nhưng nhận thấy thật khó giữ tay mình khỏi run. Bà kín đáo luồn một tay vào túi áo tìm kẹo thơm trái cây. Một trong những thứ kẹo không tốt cho sức khỏe mà các bác sĩ đã cảnh báo bà tránh xa còn các nha sĩ thì ngấm ngầm ưa thích. Bà đã cố gắng sống lành mạnh; bà đã cố gắng để không bị đồ ngọt khuất phục. Nhưng nếu bà đang cố gắng trở thành kẻ nổi loạn, thì hôm nay là ngày bà cần làm điều đó. Bà hẳn phải được hưởng một thú vui tội lỗi chứ? Số thứ tự xếp hàng thay đổi cùng với một tiếng “tẹt” và một người đàn ông chừng tứ tuần vội bước lên quầy. Giao dịch của anh ta được xử lý nhanh chóng và rồi một thiếu nữ cũng được phục vụ nhanh chóng như vậy. Tuy thế, ở cuối hàng đợi là một ông lão và mất thời gian lâu hơn nhiều vì ông ta nói năng thì lúng búng còn xử lý giấy tờ thì luống cuống. Martha bắt đầu sốt ruột. Bà không được phép ở trong ngân hàng quá lâu. Có thể sẽ có ai đó nhận ra ngôn ngữ cơ thể của bà hoặc những chi tiết khác có thể làm bà bị lộ tẩy. Bởi thế bà cố hết sức để làm bộ giống như một quý bà đang chuẩn bị rút tiền. Mỉa mai thay, bà sắp sửa làm đúng như thế thật, dù giao dịch viên sẽ sốc vì số tiền bà rút và thực tế rằng số tiền đó không nhất thiết là tiền của bà. Nhưng ba cái chi tiết vụn vặt… Martha lần tìm mẩu báo được cắt ra để trong túi áo khoác. Bà đã lưu lại một bài báo viết về thiệt hại của các ngân hàng từ những vụ cướp. Bài báo có tiêu đề: “Cướp đây!” và trên thực tế, chúng chính là những từ đã thúc đẩy bà. Ông già ở quầy giao dịch đã gần xong, Martha chực đứng dậy khỏi sofa, cố thẳng lưng hết cỡ. Từ trước đến giờ, bà vẫn luôn là kiểu người trung thực, đáng tin cậy khiến mọi người đặt trọn niềm tin – hồi trung học bà thậm chí từng là lớp trưởng. Bây giờ bà chuẩn bị trở thành tội phạm. Nhưng nhìn vào thực tế mà xem, bà đâu còn cách nào khác để sống sót qua tuổi già? Bà cần tiền để trả cho một chỗ ở tử tế chút cho bản thân – và cho bạn bè mình. Lúc này đơn giản là bà chẳng thể quay đầu được nữa. Bà và các bạn hữu lâu năm ở dàn đồng ca của mình sẽ phải có một cái dốc bên kia đời xán lạn. Nói một cách đơn giản, một chút vui thú trong mùa thu của cuộc đời. Bà sẽ đảm bảo điều đó. Quý ông lớn tuổi ở bàn thanh toán đứng đó đã lâu, nhưng cuối cùng tiếng loa cũng vang lên và số của bà xuất hiện phía trên màn hình nơi giao dịch viên đứng. Chậm rãi, nhưng đường hoàng, bà bước lại quầy giao dịch. Bà sắp sửa hủy hoại danh tiếng gây dựng cả đời trong một khoảnh khắc. Nhưng còn có thể làm gì khác trong cái xã hội hiện đại đối xử bạc bẽo thế này với những thành viên lớn tuổi của nó chứ? Đành lòng chấp nhận nó và chịu thua, hoặc thích ứng với hoàn cảnh. Bà là kiểu người biết thích ứng với hoàn cảnh. Bà cất những bước cuối cùng tới cửa sổ quầy giao dịch, quan sát kỹ xung quanh căn phòng rồi mới dừng lại. Đoạn, gật đầu thân thiện với cô giao dịch viên, bà chìa ra mảnh báo được cắt rời: CƯỚP ĐÂY! Cô giao dịch viên đọc tít báo và mỉm cười ngẩng lên. “Vậy cháu có thể giúp gì bà ạ?” “Ba triệu – nhanh lên!” Martha hét to. Cô giao dịch viên cười tươi hơn. “Bà muốn rút tiền ạ?” “Không, cô sẽ rút tiền cho tôi, ngay lập tức!” “Cháu hiểu rồi. Nhưng tiền trợ cấp hôm nay chưa đến ạ. Phải đến giữa tháng mới có tiền trợ cấp mà bà.” Martha đã mất phần nhiều động lực. Mọi thứ đang không diễn ra như bà hình dung. Tốt nhất là phải hành động thật nhanh. Bà nhấc chiếc gậy chống lên và chọc nó qua khoảng trống dưới cửa sổ, khua mạnh hết mức có thể. “Nhanh lên! Ba triệu của tôi ngay lập tức!” “Nhưng tiền trợ cấp chưa…” “Làm như tôi nói! Ba triệu! Bỏ vào giỏ – ngay lập tức!” Đến lúc này cô gái đã chịu đựng quá đủ. Đã đến giờ đóng cửa và cô muốn về nhà. Martha dõi theo khi cô đứng dậy gọi hai đồng nghiệp nam. Cả hai trông đều đẹp trai như nhau và cười nhã nhặn. Người gần bà nhất trông giống Gregory Peck – hay là Cary Grant nhỉ? Anh ta nói: “Chúng cháu sẽ giải quyết tiền trợ cấp của bác, bác đừng lo. Và đồng nghiệp của cháu đây sẽ gọi taxi đưa bác về nhà.” Martha nhìn chăm chăm qua vách kính. Bà có thể thấy cô gái đó ở phòng trong, đang nhấc điện thoại lên. “Ồ, vậy có lẽ tôi sẽ phải cướp các vị vào lúc khác vậy,” Martha chịu thua. Bà nhanh chóng thu cây gậy chống về và nắm gọn mẩu báo trong lòng bàn tay. Tất cả bọn họ đều cười một cách ngọt ngào và giúp bà ra khỏi cửa rồi vào taxi. Họ thậm chí còn gập chiếc khung trợ lực giúp bà. “Viện dưỡng lão Nhà Kim Cương – cước ưu đãi cho người cao tuổi,” Martha vừa nói với tài xế vừa vẫy tay chào các nhân viên ngân hàng. Bà cẩn thận đút mẩu báo vào túi áo. Mọi việc đã diễn ra theo đúng kế hoạch. Một bà lão nhỏ bé mang khung trợ lực có thể làm rất nhiều điều mà nhiều người khác không làm được. Bà lại thọc tay vào túi áo khoác tìm chiếc kẹo thơm trái cây nữa và khoái chí lẩm nhẩm một mình. Để kế hoạch của bà thành công, lúc này bà chỉ cần sự giúp đỡ của bạn bè ở dàn đồng ca. Đó là những người bạn gần gũi và thân thiết nhất; những người bà đã quen biết và hát cùng suốt hơn hai mươi năm. Tất nhiên bà chẳng thể hỏi thẳng rằng họ có muốn trở thành tội phạm không. Bà sẽ phải thuyết phục bọn họ bằng nhiều phương cách tế nhị. Nhưng sau đó – và bà khá chắc chắn với điều này – họ sẽ cảm ơn bà vì đã khiến cuộc đời họ thay đổi theo chiều hướng tốt hơn. Martha bị đánh thức bởi tiếng “vù vù” từ phía xa xa, theo sau là một tiếng “tinh” đanh sắc. Bà thức dậy, mở mắt và cố xác định xem mình đang ở đâu. Phải rồi, đương nhiên là bà đang ở trong viện dưỡng lão. Và cũng đương nhiên đó là Rake – cái tên mà mọi người dùng để gọi ông bạn Bertil Engström của bà. Ông luôn thức dậy lúc nửa đêm để ăn vặt. Ồng có thói quen bỏ thức ăn vào trong lò vi sóng xong rồi quên biến. Martha ra khỏi giường và vào bếp với sự giúp đỡ của khung trợ lực. Vừa lẩm bẩm một mình, bà vừa mở lò vi sóng và lấy ra một chiếc đĩa phủ màng bọc thực phẩm, có mì ống và thịt viên trộn xốt cà chua. Bà mơ màng nhìn những tòa nhà phía bên kia đường. Một vài ngọn đèn tỏa sáng trong đêm. Ở phía bên kia đường hẳn các ngôi nhà vẫn còn nhà bếp tử tế, bà nghĩ. Ớ đây, trong viện dưỡng lão này, trước kia họ đã từng có nhà bếp tiện nghi, nhưng để tiết kiệm tiền và nhân lực, những người chủ mới đã cắt béng bộ phận cấp dưỡng. Trước khi Nhà Kim Cương tiếp quản viện dưỡng lão này, các bữa ăn từng là tâm điểm của mỗi ngày và hương vị thức ăn ngào ngạt bay khắp khu sinh hoạt chung. Còn bây giờ ấy à? Martha ngáp và dựa vào bồn rửa bát. Hầu như mọi thứ đều trở nên tồi tệ hơn và tồi tệ tới nỗi bà thường trốn vào những giấc mơ. Và bà vừa bị đánh thức dậy khỏi một giấc mơ tuyệt đẹp. Cảm giác cứ như thể bà đã thật sự ở trong ngân hàng đó vậy, cứ như thể tiềm thức của bà đã trỗi dậy và cố gắng nói với bà điều gì đó. Hồi còn đi học bà luôn chống lại những thứ mà bà cho là bất công. Thậm chí trong thời gian làm giáo viên, bà luôn đấu tranh chống những quy định không hợp lý và những cải cách ngớ ngẩn. Vậy mà thật lạ, ở đây trong viện dưỡng lão này, bà chỉ nhắm mắt đưa chân. Sao bà có thể dễ bảo và lờ phờ đến thế chứ? Dân chúng không thích những kẻ thống trị ở đất nước mình thì họ phát động cách mạng. Ở đây họ cũng có thể làm điều đó một cách ngon nghẻ nếu như bà có sự hậu thuẫn của bạn bè. Nhưng cướp ngân hàng, điều đó có vẻ là hơi quá đà, phải không nhỉ? Bà khẽ cười lo lắng. Bởi vì đây mới là điều đáng sợ – những giấc mơ của bà hầu như luôn trở thành sự thật. Mời các bạn đón đọc Bà Già Phá Luật của tác giả Catharina Ingelman-Sundberg.