Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghệ Thuật Lắng Nghe Trong Giao Tiếp
Việc trở thành một người lắng nghe tốt hơn có ý nghĩa thế nào đối với bạn? Cuộc đời bạn sẽ thay đổi ra sao nếu bạn biết lắng nghe hơn? Trong thế giới hiện đại ngày nay, dường như chúng ta đã quá quen với việc chạy theo những lợi ích cá nhân và dần quên đi sự quan trọng của việc dừng lại và lắng nghe. Khả năng lắng nghe người khác thực sự có thể được coi là kỹ năng quan trọng nhất, giúp thay đổi cuộc đời của bạn và những người xung quanh bạn. Trong giao tiếp đời thường, kỹ năng lắng nghe sẽ giúp bạn xây dựng các mối quan hệ dựa trên nền tảng tiếp nhận thông tin; trong công việc, lắng nghe không chỉ giúp bạn tiếp nhận kiến thức, kinh nghiệm từ những người có chuyên môn, mà còn giúp bạn thấu hiểu đồng nghiệp hơn và từ đó có thể giúp đỡ nhau cùng phát triển, đạt hiệu suất cao. Với những ví dụ sinh động, các kỹ thuật dễ học và bài tập thực tế, hãy cùng học lại cách lắng nghe hiệu quả từ bậc thầy về giao tiếp – Dale Carneige thông qua cuốn sách “Nghệ thuật lắng nghe trong giao tiếp”. Bạn có thể tự đánh giá khả năng lắng nghe của bản thân thông qua bài kiểm tra “Bạn có nghe tôi nói không?”. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng sẽ giới thiệu các đặc điểm thường thấy từ bảy lọai hình người nghe để từ đó gợi ý cho bạn cách thức giao tiếp sao cho phù hợp. Trong chương 3, tác giả sẽ phân tích bốn kiểu lắng nghe, bao gồm: Giả vờ lắng nghe, lắng nghe để đáp trả, lắng nghe học hỏi và lắng nghe đồng cảm.Tất nhiên, đây không phải là danh sách tuyệt đối về các loại hình lắng nghe. Chỉ cần lướt nhanh một vòng trên Internet là bạn có thể thấy hằng hà sa số những cái tên và những mô tả cho các loại hình lắng nghe khác nhau. Tuy nhiên bốn loại hình trên đây có thể bao hàm cho các loại còn lại. Hãy tận hưởng trong quá trình đọc và đắm chìm trong những kiến thức chứa đựng trong cuốn sách này. Món quà tuyệt vời nhất mà bạn có thể dành tặng cho người khác chính là trở thành phiên bản tốt hơn của chính bản thân bạn. Và điều đó bắt đầu với việc trở thành một người lắng nghe hiệu quả hơn. *** [Bookademy] Review Sách Có khi nào bạn cảm thấy không muốn nói chuyện với bố mẹ hay người thân vì họ không lắng nghe bạn không? Có khi nào bạn cãi nhau với đứa bạn thân vì hiểu sai ý nhau không? Hay có bao giờ từ bỏ một mối quan hệ vì không thể giao tiếp? Frank Tyger, nhà báo và nhà vẽ tranh biếm họa người Mĩ, từng nói: “Thính giác là một trong năm giác quan của con người. Nhưng lắng nghe là cả một nghệ thuật.” Thật vậy. Nhiều người cho rằng việc nghe dễ hơn nói bởi họ không phải nghĩ nên và không nên nói gì. Những người không biết cách trò chuyện lại càng lấy cớ lắng nghe để đẩy trách nhiệm cho đối phương. Tuy nhiên, việc lắng nghe cũng quan trong như việc nói vậy, bởi để giao tiếp thành công cần có sự tương tác hai chiều giữa hai bên đối thoại. Người nghe cần thấu hiểu, hay ít nhất là nắm bắt được chủ đề người nói đang đề cập tới, từ đó khiến người nói có cảm giác thoải mái và tạo dựng được một mối quan hệ tốt đẹp. Lắng nghe, trên thực tế, là một kĩ năng khó. Nhưng cuốn sách “Kĩ năng lắng nghe trong giao tiếp” của Hiraki Noriko sẽ dạy bạn mọi thứ bạn cần để dành 50% chiến thắng trong đời. Tại sao lắng nghe lại quan trọng? Mới đây thôi, tôi đã cắt đứt quan hệ tình bạn với một người. Có nhiều lí do dẫn đến kết quả này, nhưng một trong số đó lại là vấn đề giao tiếp giữa chúng tôi. Tôi đã qua tuổi 18, em vẫn còn là một đứa nhỏ cần sự quan tâm và thấu hiểu. Tôi có thể lờ đi mọi thứ khiến bản thân bực bội, em thì thích để chúng vào mắt. Tôi ở một góc độ nào đó đã thấu hiểu sự bất công của thế giới, em thì lại quá nhạy cảm. Mỗi lúc trông thấy tôi, em sẽ quấn quit kể về những điều em trông thấy, cảm thấy và những chuyện xảy ra trong ngày hôm đó. Sẽ không có gì đáng nói nếu tôi không càng ngày càng phát ngán với những câu chuyện tưởng chừng bất tận về cùng hay vài chủ đề luẩn quẩn. Em hay kể những chuyện khiến em không thoải mái, những điều tôi chẳng quan tâm, những thứ tôi đã dặn em đừng làm nữa nhưng em vẫn ngang bướng không nghe. Và tôi bắt đầu hờ hững với em, hờ hững lắng nghe những câu chuyện em kể. Có quá nhiều khác biệt giữa chúng tôi khiến việc chấm dứt chỉ là vấn đề thời gian. Nhưng tôi đã nghĩ đến một cái kết trong êm đẹp, chứ không phải bắt đầu bằng việc tổn thương em bởi sự hờ hững ích kỉ này. Thế đấy, bạn của tôi ạ, lắng nghe quan trọng bởi nó có thể giúp bạn giữ lại dù chỉ một chút kỉ niệm đẹp về đối phương, để bạn không phải ngày ngày canh cánh trong lòng hai chữ “xin lỗi”, và nếu bạn không phải là một kẻ xấu xa như tôi, có thể bạn sẽ hàn gắn được mối quan hệ đang rạn nứt này với tình yêu thương và tấm lòng thông cảm, bao dung. Như đã đề cập ở trên, lắng nghe là một trong hai chiều của giao tiếp. Nếu việc nói giúp bạn bộc lộ bản thân và chia sẻ quan điểm thì việc nghe giúp bạn hiểu đối phương, từ cách suy nghĩ đến tính cách và thái độ của người đang cùng bạn trò chuyện, rồi dựa vào đó mà khéo léo tạo dựng được những mối quan hệ phù hợp, có thể khiến bạn được yêu mến nữa (Bởi là thôi nào, có ai mà không yêu mến người khiến mình thoải mái trò chuyện và được thấu hiểu chứ?)  Như Johann Wolfgang von Goethe có nói: “Nếu bạn muốn hiểu tư duy của ai đó, hãy nghe anh ta nói.” Tác giả Hiraki Noriko cũng cho biết: Những người không biết cách lắng nghe, không nắm bắt được chủ đề đối phương đang nói, tuy không phải là người xấu nhưng cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong giao tiếp. Nói một cách cực đoan thì họ sẽ không tạo dựng được mối quan hệ với mọi người trong gia đình, bạn bè hay đồng nghiệp, thậm chí những việc đơn giản như mua đồ tại cửa hàng cũng trở nên khó khăn với họ. Hơn thế nữa, những người như vậy cũng khó có thể hi vọng rằng mình sẽ có một mối quan hệ thân thiết hay sự đồng cảm sâu sắc với người khác. Từng ấy lí do đã đủ khiến lắng nghe trở nên quan trọng chưa? Về đối tượng hướng đến Theo từ điển Oxford, giao tiếp (communication) là hành động hay quá trình cung cấp thông tin, diễn đạt suy nghĩ và cảm xúc đến mọi người. Trong tiếng Anh, “communication” (giao tiếp) và “community” (cộng đồng) có cùng từ gốc Latin “communis”, mang nghĩa chung, phổ biến. Bên cạnh đó, tiếng Latin còn có từ “communicare”, nghĩa là khiến cái gì đó trở nên phổ biến với nhiều người, chia sẻ, truyền đạt, chia ra. Do vậy, ta có thể suy ra bản chất của giao tiếp chính là sự sẻ chia. Theo tâm lý học, giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành các mối quan hệ giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội, là nhu cầu sớm nhất của con người từ khi tồn tại đến khi mất đi. Con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa, đạo đức, chuẩn mực xã hội thông qua giao tiếp. Như vậy, con người không thể tồn tại mà không có giao tiếp, và ai cũng cần quan tâm đến cách lắng nghe. “Kĩ năng lắng nghe trong giao tiếp” của Hiraki Noriko phù hợp với mọi đối tượng. Dù bạn là cô gái tuổi đôi mươi hay đã là phụ huynh của hai nhóc tì, thậm chí là một ông lão tóc bạc trắng, dù bạn có đang gặp khó khăn trong giao tiếp nói chung và kĩ năng lắng nghe nói riêng hay không, dù bạn có muốn thay đổi hay không, bạn vẫn có thể đọc hiểu và áp dụng cuốn sách này. Ở mỗi chương đều có những hình minh họa tóm tắt và ví dụ cụ thể mà người đọc dễ dàng liên hệ vào thực tế. Càng đọc những lời khuyên của Hiraki Noriko, tôi càng nhận ra bản thân đã mắc quá nhiều lỗi trong việc lắng nghe như thế nào, dù tôi luôn nhận mình là đứa giỏi nghe hơn nói. Chà, nghe mỉa mai nhỉ? Nhưng đó là sự thật. Bởi tôi đã nhầm tưởng về việc lắng nghe như bao người ngoài kia. Tôi nhận ra, nghe và hiểu điều đối phương muốn đề cập không phải là tất cả, đáp lại đối phương như thế nào cũng vô cùng quan trọng. Nếu bạn đã từng gắt gỏng với bố mẹ, từng không muốn trò chuyện với gia đình vì không ai hiểu cách suy nghĩ của bạn hay từng đánh mất một mối quan hệ và cách lắng nghe là một trong nhiều vấn đề dẫn đến rạn nứt, giống như tôi, thì bạn nên ra hiệu sách và mang cuốn này về, bởi nó sẽ giúp bạn nhiều hơn bạn tưởng tượng về một cuốn sách kĩ năng. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Lắng Nghe Trong Giao Tiếp của tác giả Dale Carnege & Ngân Nga (dịch).
Nghệ Thuật Làm Vợ
Nghệ thuật làm vợ là nghệ thuật biến một người phụ nữ bình thường thành niềm ao ước của đại đa số đấng mày râu. Một nửa thế giới còn lại mong muốn gì về những người vợ như chúng ta? Làm vợ, đơn giản là trở thành một hình mẫu lý tưởng trong lòng các quý ông chồng. Vậy, bạn có đang nằm trong Top những người vợ lý tưởng ? Người vợ như thế nào là người vợ đáng để mơ ước. Làm vợ là cả một nghệ thuật và người phụ nữ trong thế giới hiện đại luôn hướng tới chuẩn mực nhất định. Sự dịu dàng, thông minh, đảm đang, ngăn nắp hay biết nấu ăn,.. chưa hẳn là yếu tố làm vợ, làm mẹ một cách hoàn hảo. Làm vợ được trải qua thời gian khá dài, làm tròn bổn phận và trách nhiệm của một người vợ khiến ai ai cũng phải ngưỡng mộ quả là điều không đơn giản. Cuốn sách này chắt lọc kinh nghiệm của những "người vợ" đi trước, là cẩm nang hữu ích giúp bạn trở thành người vợ đảm đang trong gia đình hạnh phúc. *** Làm vợ! Hai tiếng ngắn gọn và giản dị đó bao hàm biết bao trọng trách thiêng liêng của người phụ nữ. Ngay từ lúc cúi lạy trước bàn thờ tổ tiên là đôi lứa đã cảm thấy cuộc đời cả hai thuộc về nhau rồi. Cũng từ giây phút ấy, bạn sẽ không còn nghĩ và làm cho riêng cá nhân nữa, và chồng bạn cũng vậy... Hai con người riêng rẽ đã tiến đến bên nhau để cùng đi chung một cuộc đời. Bạn và chồng bạn phải cùng nhau gánh vác nhiệm vụ xây dựng gia đình mà trong đó cả hai sẽ cùng nhau chia sẻ niềm vui lẫn nỗi buồn, phải hòa hợp với nhau cả tâm hồn và thể xác. Cuộc sống ấy không hoàn toàn thơ mộng đẹp đẽ như bạn tưởng tượng trước đó, nhưng nó cũng sẽ là một "mái ấm vô cùng tuyệt vời" cho bạn và chồng bạn nếu cả hai cùng yêu thương, cảm thông nhau và cùng có một nghị lực phấn đấu trước các chông gai thử thách của cuộc đời. Nhưng để được như vậy, trước hết bạn phải làm đủ trọng trách của một người làm vợ. Hãy làm sao cho căn nhà của bạn là một tổ ấm mà chồng bạn phải nhớ tới, phải cần tới để được thoải mái nghỉ ngơi, làm cho mọi người cảm thấy được hạnh phúc bên nhau... Tất cả là do nghệ thuật làm vợ của bạn. Cuốn Nghệ Thuật Làm Vợ sẽ phân tích và hướng dẫn cho các bạn rõ những vấn đề trên. Với Nghệ Thuật Làm Vợ, mong rằng khi bạn đã trao tay cho chàng đeo nhẫn là bạn đã quên tất cả để sống với chồng cho trọn vẹn, và là lúc bạn sẽ đem tất cả sự khôn ngoan, tế nhị cũng như lòng nhân ái vốn có của phụ nữ làm hành trang đi vào đời. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Làm Vợ của tác giả Lan Anh (biên soạn).
Kỷ Luật Bản Thân Nền Tảng Cho Thành Công
“Một ngày sẽ dài bất tận cho những ai biết cách trân trọng và sử dụng nó.” (Goethe) Tất cả chúng ta đều có cùng số giờ dành cho mình trong một ngày, nhưng một số người có thể hoàn thành nhiều việc hơn trong 24 giờ so với những người khác. Chìa khóa dường như nằm ở việc kiểm soát thời gian đó thay vì để nó kiểm soát bạn. Nói cách khác, sự khác biệt là do quản lý thời gian. Cố tổng thống mỹ Benjamin Franklin từng nói: “Nếu thời gian là thứ đáng giá nhất, phí phạm thời gian hẳn phải là sự lãng phí ngông cuồng nhất.” Cuốn sách “Kỷ luật bản thân nền tảng cho thành công” sẽ mang đến cho các bạn các mẹo và kỹ thuật đã được chứng minh để giúp bạn xem xét và đánh giá việc quản lý thời gian của mình và áp dụng các phương pháp làm việc mới để cải thiện nó. Nó bao gồm các ý tưởng tiết kiệm thời gian tuyệt vời, các giải pháp thực tế và danh sách công việc phải xem xét, cùng với lời khuyên về: kiểm soát thủ tục giấy tờ; sắp xếp các email; ủy nhiệm và làm việc với những người khác; ưu tiên tập trung vào những vấn đề trọng tâm; sắp xếp và duy trì tổ chức. Cuốn sách có nhiều bài tập thực tế hơn, các vì dụ hữu ích và các mẹo hàng đầu để giúp bạn giảm thiểu sự lãng phí và gián đoạn thời gian, đồng thời tập trung vào các ưu tiên sẽ dẫn đến thành công trong công việc và sự nghiệp của bạn. “Kỷ luật bản thân nền tảng cho thành công” sẽ cung cấp cho bạn các công cụ để trở nên hiệu quả và hiệu quả hơn. “Kỷ luật bản thân nền tảng cho thành công” nằm trong bộ sách “Tạo dựng Thành công” cực kỳ phổ biến được viết bởi các chuyên gia dành cho các nhà quản lý và nhà lãnh đạo mới và đầy tham vọng. Được kết hợp với tư duy nhạy bén, lời khuyên thông minh và hàng loạt các kỹ năng để thành công thực sự mang lại hiệu quả bất ngờ, bạn sẽ đạt được tiến bộ rõ rệt, nhanh chóng đạt được mục tiêu và tạo ra thành công lâu dài trong sự nghiệp của mình. Hãy luôn nhớ rằng: “Chúng ta không bao giờ có đủ thời gian để làm mọi việc mình muốn, nhưng chúng ta luôn có đủ thời gian để làm những việc quan trọng nhất” (Brain Tracy). *** Bạn là một người trẻ hiện đang vùng vẫy trong công việc và cuộc sống? Bạn dường như không bao giờ đủ thời gian để làm mọi thứ? Bạn có quá nhiều công việc cần làm mà chẳng bao giờ hoàn thành? Hay bạn chỉ đang trên con đường đi tìm một cách để quản lý thời gian hiệu quả, tăng năng suất, chất lượng cho công việc của bạn. Tuy nhiên,  bạn có thể không những làm nhiều thứ hơn, năng suất hơn, hiệu quả hơn. Và khi ấy, cuốn sách Kỷ luật bản thân, nền tảng cho thành công là dành cho bạn.  #1. Tổng quan cuốn sách Cuốn sách được chia là 9 chương bao gồm: Chương 1: Thời gian, nguồn lực chính yếu ”Các cơ hội và khó khăn” Chương 2: Bước đầu của việc quản lý thời gian hiệu quả Chương 3: Đạt được (và duy trì) sự tổ chức  Chương 4: Đối đầu với các tác nhân tiêu tốn thời gian Chương 5: Email: Lối tắt hay lỗ đen thời gian? Chương 6: Điều tiên quyết đầu tiên  Chương 7: Kiểm soát giấy tờ Chương 8: Làm việc với người khác Chương 9: Lời cuối cùng “Vĩnh cửu là một suy nghĩ khủng kiếp. Ý tôi là nơi mà nó sẽ kết thúc?”-Tom Stoppard- Chín chương này sẽ giúp bạn mở ra cuộc sống mới cho bạn, thành công trong công việc và thư thái nghỉ ngơi.   #2. Bước đầu của việc quản lý thời gian và đạt được và duy trì sự tổ chức Tác giả đưa ra cách kết hợp công việc của bạn và đánh giá việc hiện tại của bạn, đặt ra mục tiêu của bạn thật rõ ràng và thông tin, cách dành thời gian để tiết kiệm thời gian, cũng như tự thưởng cho bản thân và hơn cả vậy nữa. Từ đó mang lại hiệu quả bất ngờ, giúp bạn có được tiến bộ rõ rệt, nhanh chóng đạt được mục tiêu và tạo ra thành công lâu dài.  Bạn có thể tạo nên sự thay đổi và mọi sự thay đổi đều có giá trị, nó có thể ảnh hưởng triệt để đến cả công việc lẫn sự nghiệp. Đừng nhầm lẫn, hiệu quả của việc nắm bắt cách thức quản lý thời gian rất đáng kể và đa dạng. Nó có thể: Ảnh hưởng đến năng suất, hiệu quả, kết quả của bạn điều này chỉ ra thái độ của bạn với việc quản lý thời gian vô cùng quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến công việc của bạn từng ngày, từng giờ, mọi lúc. Điều chỉnh áp lực đi kèm với bất cứ công việc nào. Tạo cho bạn một tầm nhìn tích cực. Quản lý thời gian sẽ thay đổi cách bạn được nhìn nhận từ mọi người trong tổ chức. Việc quản lý thời gian tốt là một yếu tố quan trọng có thể phân biệt được những người có tài và có khả năng tương đương nhau, khiến nhiều người sẽ thành công hơn về mặt nghề nghiệp so với những người khác.   Do đó mặc dù có thể mất nhiều thời gian, nhưng việc nắm bắt được hệ thống quản lý thời gian cá nhân của riêng bạn là vô cùng quan trọng. Quản lý thời gian phải được xem như là việc tự quản lý bản thân; nó đòi hỏi kỉ luật, những kỷ luật được cùng cố bởi một thói quen. Mặt khác, tin tốt là nó sẽ trở nên dễ dàng hơn khi bạn thực hành chúng. Những thói quen tốt giúp bạn có cách tiếp cận có tổ chức trong quá trình lên kế hoạch và thực hiện công việc. Mặt khác, những thói quen xấu-như nhiều người trong chúng ta nhận thức được - rất khó thay đổi. Việc này thay đổi thói quen là điều vô cùng cần thiết đối với kết quả của việc đánh giá lại cách làm việc của bạn.   Bất kể công việc của bạn là gì cho dù bạn là người quản lý hay điều hành, bất kể loại hình tổ chức nào bạn đang làm việc và lĩnh vực bạn tham gia, bạn chắc chắn có nhiều việc phải làm. Những thứ này là sự khác biệt về bản chất và sự phức tạp liên quan đến khung thời gian khác nhau. Chúng bao gồm 1011 thứ, từ việc soạn thảo một bức thư hay một báo cáo về kế hoạch di dời các tổ chức đến một văn phòng mới đến việc ra mắt một sản phẩm mới. Hơn thế nữa, bạn có thể gặp phải các trường hợp như có quá nhiều thứ diễn ra cùng một lúc cũng như các yêu tiên chồng chéo lên nhau, dẫn đến sự xung đột thông thường công việc cũng như việc tung hứng ở ví dụ trước và tầm với của bạn - Bao nhiêu việc bạn có thể giữ để chạy cùng lúc? Nếu bạn vượt quá tầm với như những người tung hứng, điều nguy hiểm là bạn phải đối mặt không chỉ đơn giản là cách đánh rơi một ngọn đuốc mà là một vài trong số chúng, điều này quản lý tất cả một cách hiệu quả.   Có rất nhiều cách để làm điều này, nhưng chỉ có bốn cách phân loại có thể mang đến một thứ tự cụ thể cho việc này: 1. Lập kế hoạch: đây là điều tiên quyết cho tất cả hành động những việc phải làm sẽ liên quan đến nghiên cứu điều tra phân tích và thử nghiệm với những người khác nhau. Điều này cũng sẽ liên quan tới việc tham vấn ý kiến cuối cùng là truyền đạt được kế hoạch, tất nhiên, là chìa khóa để đưa ra quyết định. 2. Thực hiện: nói một cách đơn giản, làm mọi việc với tất cả các loại - Cho dù là những việc vô hình (trong đó có việc ra quyết định thuộc về người khác) hay hữu hình. Nhiệm vụ cụ thể được chia làm hai loại: Thứ nhất, nhiệm vụ cá nhân. Đây là các công việc không theo một khuôn mẫu nào. Chúng có thể là nhiệm vụ lớn hoặc nhỏ. Ví dụ, một công việc viết có thể là sợ một meo dài hai dòng hoặc một báo cáo 20 Trang. Thứ hai, các nhiệm vụ mang tính chất tiếp diễn hàng loạt các hành động được liên kết chặt chẽ với nhau để đạt được một hoạt động tổng thể. Di dời văn phòng sẽ bao gồm nhiều hoạt động và các công việc này có thể dễ dàng hình dung hơn là mô tả chúng - Thực sự một sơ đồ sẽ cung cấp sự hữu ích và hiệu quả về thời gian hơn khi phải xử lý những công việc này. Các nhiệm vụ ở cả hai loại để lên được gắn chặt với nhiệm vụ kế hoạch ở bất kỳ quy mô nào. 3. Giám sát và kiểm soát: việc kiểm tra có thể là điều cần thiết để đảm bảo mọi thứ đã được thực hiện theo cách tốt nhất và mang lại kết quả mong muốn việc kiểm tra có thể đơn giản, chẳng hạn như việc chỉnh sửa lại bản nháp của báo cáo hoặc sử dụng một phần mềm kiểm tra chính tả. Hay phức tạp hơn, có nhiều hệ thống kiểm soát tài chính. 4. Giao tiếp và thương mại với người khác: điều này rõ ràng sẽ trên ngang vào các hoạt động của ba mục kia, nhưng nó lại luôn tồn tại trong công việc của hết mọi người. Rất ít, những người làm việc tách biệt với những người khác, và hầu hết giao tiếp với người khác là một phần thiết yếu trong công việc và chiếm phần lớn thời gian của mọi người. Trong tất cả bốn mục, sẽ có học nên có một liên kết mạnh mẽ với mục đích là thành quả của các kết quả đạt được. Tất cả các nhiệm vụ và hành động nên tập trung vào mục tiêu tổng thể và thường sẽ mang tính chất kém quan trọng hơn. Sự hiệu quả được đo lường bằng thành tích.   Mời các bạn đón đọc Kỷ Luật Bản Thân Nên Tảng Cho Thành Công của tác giả Patrick Forsyth & Trương Minh Hoàng (dịch).
Đường Đến Thành Công
15 biển báo từ Napoleon Hill giúp bạn không bị lạc đường trên hành trình tìm kiếm sự thành công trong cuộc sống Tại sao thành công luôn mỉm cười với tất cả mọi người, còn với mình thì lại không? Tại sao việc đạt được điều bản thân mong muốn luôn trông dễ dàng với người khác, còn mình dù có nỗ lực bao nhiêu thì hai từ “thành công” vẫn cứ xa tầm với? Có bao giờ trong phút giây chán nản vì những thất bại, bạn đã than thở những điều trên? Hãy khoan thất vọng, sự thành công không phải là điều quá xa xỉ nếu như bạn nắm bắt được cách vận hành của mọi thứ diễn ra quanh mình, cũng như biết được cách thay đổi bản thân để có thể thích ứng với chúng. Trăn trở này cũng đã từng lóe lên trong đầu Napoleon Hill khi ông còn là một cậu thiếu niên. Nó đã ngự trị trong tâm trí ông một thời gian rất dài. Có lẽ cũng vì vậy mà Napoleon Hill đã dành cả đời mình để theo đuổi và tìm đáp án cho câu hỏi ấy. Kết quả là, ông không những đã đi được đến tận cùng của vấn đề, mà bản thân ông còn trở thành một người có sức ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ nhất trong lĩnh vực truyền cảm hứng thành công trong lịch sử thế giới. Ông nói: “Chúng ta không thất bại khi cố gắng thực hiện nhiệm vụ của mình, chúng ta chỉ thất bại khi xao nhãng nhiệm vụ đó”. “Đường đến thành công” là cuốn sách chứa đựng những ghi chép của Napoleon Hill, về những giá trị cốt lõi mà ông đã tìm thấy và chiêm nghiệm được khi theo đuổi sự thành công. Cuốn sách gồm bốn phần. Trong đó, phần một là trọng tâm, chứa đựng 15 biển báo, tượng trưng cho 15 sự chỉ dẫn, giúp bạn đọc không bị lạc đường trên hành trình khám phá cuộc sống và mưu cầu sự thành công của mình. Phần hai, ba và bốn đem lại cho độc giả nhiều thông tin bổ ích khi bàn luận chuyên sâu về việc lãnh đạo, sự thành công trong lãnh đạo, cũng như khả năng nhìn xa trông rộng về những điều sẽ xảy đến trong đời mình. “Những điều vĩ đại đạt được dễ dàng, nhưng chính những năm, những giờ, những thời khắc chuẩn bị mới là điều quan trọng”. Thomas Edison phải dành cả đời mình để khám phá ra loại dây tóc tốt nhất và thất bại cả ngàn lần trước đó. Vậy nên, muốn chinh phục được đỉnh thành công, bạn phải chấp nhận đi trên một hành trình dài, và không phải bạn cứ ra sức tiến về phía trước là sẽ đạt được nó ở nơi cuối con đường. Điều bạn cần phải làm là chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, đó là một phương hướng đã được hoạch định một cách rõ ràng. Với tư duy của một tác giả được mệnh danh là “người tạo ra các nhà triệu phú” nhờ những chia sẻ về triết lý thành công, cùng những câu chuyện có thật từ cuộc đời của những người có tên tuổi trong lịch sử nhân loại, như nhà bác học Edison, hay nhà phát minh và khai thác dầu bông vải Eli Whitney… độc giả có thể tự mình vạch ra một lộ trình rõ ràng với những mục tiêu cụ thể, cũng như hướng đi chi tiết để chinh phục được những ước mơ của đời mình thông qua cuốn sách “Đường đến thành công”. Về tác giả: Napoleon Hill (1883-1970) là tác giả có ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ nhất trong lĩnh vực thành công cá nhân, hơn bất kỳ nhân vật nào trong lịch sử. Với công trình nghiên cứu kéo dài gần 30 năm của mình, ông trở thành nhà truyền cảm hứng nổi tiếng bậc nhất thế giới khi chia sẻ triết lý thành công dựa trên phương pháp Tư duy tích cực cho hàng triệu người trên toàn cầu. Các tác phẩm của ông bổ sung và phát triển triết lý này, trở thành những cuốn sách kinh điển, không thể bỏ lỡ trong lĩnh vực phát triển bản thân, tiêu biểu như “Nghĩ giàu và Làm giàu”, “Tư duy làm giàu”, “Để thế giới biết bạn là ai”, “Phụ nữ hiện đại - Nghĩ giàu và Làm giàu”, và “Những nguyên tắc vàng của Napoleon Hill”. Tác phẩm: 13 Nguyên tắc Nghĩ Giàu Làm Giàu - Napoleon Hill Chiến Thắng Con Quỷ Trong Bạn - Napoleon Hill Kế Hoạch Làm Giàu 365 Ngày - Napoleon Hill Những Quy Tắc Vàng của Napoleon Hill - Napoleon Hill Bí Quyết Làm Giàu của Napoleon Hill - Napoleon Hill Cách Nghĩ Để Thành Công - Napoleon Hill Chiến Thắng Con Quỷ Trong Bạn - Napoleon Hill Làm Giàu ... *** Tôi còn thiếu điều gì để thành công? Đâu là sự khác biệt giữa người thành công với những người còn lại? Có một lộ trình đáng tin nào để con đường dẫn đến thành công bớt ngoằn ngoèo, để người ta bớt lạc lối, bớt đâm vào những ngõ cụt thất bại? Tôi còn thiếu điều gì để thành công? Đâu là sự khác biệt giữa người thành công với những người còn lại? Có một lộ trình đáng tin nào để con đường dẫn đến thành công bớt ngoằn ngoèo, để người ta bớt lạc lối, bớt đâm vào những ngõ cụt thất bại? Những câu trả lời xác đáng nhất chắc chắn phải đến từ “nhà nghiên cứu về người thành công” lỗi lạc nhất lịch sử – Napoleon Hill. Trong suốt sự nghiệp kéo dài hàng thập kỷ, ông đã “gõ cửa” Thomas Edison, Henry Ford và những cá nhân giàu có, đạt thành tựu lớn lao nhất thời đại mình, phỏng vấn họ và khám phá những phẩm chất khiến họ khác biệt với số đông. Bộ sách “Quy luật của thành công” và cuốn “Nghĩ giàu và làm giàu” của ông phổ biến trên khắp thế giới, ảnh hưởng đến hàng tỷ độc giả, biến những cá nhân bình thường thành người thành đạt. Napoleon Hill được mệnh danh là “người tạo nên những triệu phú”.  Đường đến thành công (tựa gốc: Road to Success) được viết vào những ngày đầu sự nghiệp của Napoleon Hill. Cuốn sách tổng hợp 15 năng lực của người thành công, được chắt lọc từ quá trình nghiên cứu của ông. “Con đường dẫn đến thành công đã được khám phá, đã được nghiên cứu và những tấm biển báo đã được đặt trên lộ trình. Những tấm biển này sẽ cho bạn biết những gì bạn cần thực hiện”, Napoleon Hill chia sẻ.  15 biển báo của “Đường đến thành công” bao gồm những đức tính tối quan trọng như: Tính chủ động, lòng nhiệt tình, sự kiên trì…cũng như những phẩm chất có tính quyết định nhưng không phải ai cũng đánh giá đúng mức, như làm nhiều hơn mức lương được trả, tính cách cuốn hút, lòng khoan dung… Đi qua con đường với những tấm biển báo này, chúng ta sẽ thấy được giá trị của một tầm nhìn vượt trội, một tâm trí “thu hút thành công” hay một tấm lòng sẵn sàng cho đi.  “15 yếu tố được đề cập ở đây đều là những bước chuẩn bị cho việc tổ chức những nỗ lực hoặc năng lực thật phù hợp để chắc chắn mang lại thành công đích thực – loại thành công bao gồm cả hạnh phúc”, Napoleon Hill cho hay. Theo ông, với hầu hết mọi người, một phần trong tổng số 15 yếu tố đó đã trong tầm kiểm soát, và điều ta cần làm là bổ sung những phẩm chất chưa xây dựng được. 15 biển báo này như một tấm gương mà ta có thể nhìn vào đó, soi rọi mình, nhìn thấy ngay những gì bản thân cần phải cải thiện. “Dù bạn nghĩ thành công là sự tích lũy về mặt của cải hay một việc cao cả, lớn lao cho nhân loại, hay cả hai, bạn sẽ không thể nào đạt được nó nếu không có một phương hướng đã được hoạch định rõ ràng”, tác giả khẳng định. Cuốn sách này sẽ vạch ra cho bạn một lộ trình rõ ràng, hiệu quả để bạn tiến tới chinh phục những mục tiêu lớn nhất mà bạn đã đặt ra trong cuộc sống. Điểm cộng lớn nhất của cuốn sách nằm ở văn phong cuốn hút, thuyết phục - một trong những tài năng nổi bật nhất của ngài Hill. Đặc biệt, bạn đọc sẽ được truyền nghị lực từ những hành trình đi tìm thành công có thật mà tác giả dẫn ra. Như câu chuyện của Edwin C. Barnes - người cộng tác kinh doanh giàu có của Thomas Edison, người mà khi khởi đầu sự nghiệp còn không có đủ tiền mua vé xe lửa tới nơi làm việc. Hay chuyện Eli Whitney đã sử dụng óc sáng tạo để thu lợi từ lượng hạt bông vải khổng lồ bị bỏ đi của các nông dân Mỹ.  Cá nhân Napoleon Hill cũng có cho mình một câu chuyện có sức lay động lớn. Sinh ra ở miền núi hẻo lánh thuộc vùng Tây Bắc, Virginia, thuở thiếu niên, mức thù lao kỳ vọng của ông khi làm việc ở mỏ than là một đô la một ngày và “chưa từng nghĩ về điều gì to tát hơn 2,5 đô la một ngày”. Không có bất kỳ điều gì thời bấy giờ là điềm báo cho thấy ông sẽ trở thành một người thành đạt trong tương lai. Nhưng nghị lực, tầm nhìn và một con đường đúng đắn đã đưa Hill tới thành công ngoài sức tưởng tượng. “Edison thường nói với tôi, những người vẫn được mọi người tôn vinh là thiên tài vốn dĩ không phải vậy - anh ta chỉ là một người lao động cần cù đã vạch ra được một kế hoạch đúng đắn rồi bám vững theo nó mà hành động thôi”, Hill chia sẻ. Cuốn sách đơn giản mà giá trị của Napoleon Hill trao cho bạn đọc niềm tin rằng, bất cứ ai, với bất cứ xuất phát điểm nào, nếu có lộ trình phù hợp và liên tục hoàn thiện mình thì sẽ đạt đến đích đến thành công, hạnh phúc như mong đợi.  “Luôn tồn tại điểm khác biệt giữa đòi hỏi thành công và chỉ đơn thuần ao ước nó. Bạn phải tìm ra cho được điểm khác biệt này là gì và triệt để tận dụng nó” - Napoleon Hill. Mời các bạn đón đọc Đường Đến Thành Công của tác giả Napoleon Hill & First News (dịch).