Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Xa Vắng

Công cuộc đổi mới đất nước vừa được mở ra thì ngay lập tức văn học đã ghi được dấu ấn bất ngờ bằng tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu. Ông viết từ mình, rút ruột mình ra mà kể chuyện mình, chuyện một người nhưng là chuyện của nhiều người, chuyện của một thế hệ, chuyện của một thời. Cái thời đó tác giả gọi là “Thời xa vắng” nhưng thật ra vẫn chưa qua. Đó là cái thời nhân vật Giang Minh Sài sống không phải là mình, nửa đời trước sống cho cái mình không có, nửa đời sau sống chạy theo cái không phải của mình. Nhân vật văn chương này đã được nhớ tên, được coi như một định ngữ chỉ một kiểu người, một kiểu sống, điều này rất ít có trong văn chương nhiều năm trước đó vốn chỉ có hình tượng nhân vật tập thể mà không thể gọi tên một nhân vật cụ thể nào. Thời xa vắng đã được đón đọc nồng nhiệt, ai đọc cũng thấy mình trong đó, và được giới phê bình coi là tác phẩm mở đầu cho một xu hướng của văn học đổi mới - xu hướng nhận thức lại thực tại. - Nhà LLPB Phạm Xuân Nguyên - Thời xa vắng là một tiểu thuyết tiêu biểu trong đời viết văn của nhà văn Lê Lựu. Tác phẩm ông chứa một dung lượng lớn chặng đường lịch sử 30 năm oai hùng của dân tộc, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng toàn bộ đất nước. Lịch sử được khái quát bằng tiểu thuyết thông qua số phận của anh nông dân Giang Minh Sài: học giỏi, là niềm hy vọng, tự hào của cả gia đình và dòng họ. Nhưng cũng chính niềm tự hào đó cũng đã đặt lên vai cậu bé Sài một thứ áp lực vô hình, lúc nào cũng phải học phải làm theo những điều mà mọi người xung quanh cho là "tốt nhất". Lấy vợ cũng phải do cha mẹ chọn, ngủ với vợ cũng vì để tránh cái án kỷ luật làm ô nhục danh tiếng gia đì Là một người lính với vẻ ngoài thô mộc, khô khan nhưng thực chất bên trong con người Sài lại là một người đang vùng vẫy với niềm khao khát được yêu, được sống với cảm xúc thực sự của mình. Hơn nữa tác phẩm còn có nhiều tầng nhiều lớp với nhưng trăn trở rất đáng suy ngẫm của tác giả. *** Lê Lựu là một trong số những nhà văn ra đời và trưởng thành từ giai đoạn đất nước còn đang kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước. Ông sinh năm 1942 tại Hưng Yên và đến năm 1974 thì ông là hội viên trong Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn khởi đầu sự nghiệp viết văn của mình từ những năm 60 của thế kỷ XX, và từ đó ông là một trong những nhà văn đã để lại ấn tượng trong giới văn học với những tác phẩm nổi bật như truyện ngắn Tết làng Ma (1964), tiểu thuyết Mở rừng (1977), tiểu thuyết Thời xa vắng (1986), tiểu thuyết Chuyện làng Cuội (1993), tiểu thuyết Sóng ở đáy sông (1994),… Và đặc biệt với tiểu thuyết Thời xa vắng đã tạo nên tên tuổi của Lê Lựu và làm khuấy động làn sóng văn học nước nhà, có thể nói Thời xa vắng là tác phẩm đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn và nó đã trở thành một hiện tượng trong văn học thu hút nhiều nhà nghiên cứu phê bình bàn luận về nó. Vị thế của Lê Lựu được khẳng định qua tác phẩm này với một hướng khai thác đề tài mới mẻ, đánh đúng vào tình hình của con người – đất nước – dân tộc, và đặc biệt là dấu mốc lịch sử của đất nước lúc bấy giờ, lúc xã hội đang tiến hành công cuộc “đổi mới đất nước”. Tác phẩm Thời xa vắng được tác giả hoàn thành vào năm 1984 và xuất bản vào năm 1986, đúng vào thời điểm đất nước mới bắt đầu đi vào thời kì đổi mới đất nước sau khoảng thời gian của xã hội “bao cấp”. Và chính vì vậy, bối cảnh mà tác phẩm muốn đề cập đến là những năm tháng trước đó, những năm tháng đất nước trong giai đoạn “bao cấp”. Tác phẩm ra đời đã tạo nên tiếng vang lớn trong văn học nước nhà, có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình đất nước vận động phát triển của văn học từ sau năm 1975. Chính vì vậy năm 1990, tác phẩm này đã đạt giải A của Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết với nội dung chính xoay quanh câu chuyện về cuộc đời của nhân vật tên là Giang Minh Sài. Và tác phẩm này có thể khái quát chia thành hai phần chính dựa trên cuộc đời của nhân vật Sài. Phần thứ nhất, cuộc đời Sài trong bối cảnh đất nước còn chiến tranh. Lúc Sài 10 tuổi thì đã bị gia đình bắt ép lấy một cô vợ lớn hơn mình 3 tuổi là Tuyết. Tuy rằng ngoài mặt thì Sài chấp nhận mình có một cô vợ như thế, nhưng trong lòng Sài không hề công nhận cô ta là vợ của mình. Trong một lần cùng vợ giã ngô do sơ ý nên Tuyết giã vào tay Sài và cộng thêm nỗi uất ức bấy lâu trong lòng, Sài đã đánh vợ và đuổi cô đi. Gia đình Sài là một gia đình mang nặng những tư tưởng phong kiến và những hủ tục lạc hậu, mặc dù Sài không yêu vợ nhưng trước mặt mọi người thì Sài vẫn là một người chồng đúng mực. Sài là một người học giỏi, trong mắt mọi người rằng học giỏi thì phải cộng thêm đạo đức tốt, sống đúng chuẩn mực thì mới được gọi là một đội trưởng tốt và gương mẫu. Nhưng bên trong Sài phản kháng quyết liệt chống đối và tránh xa cô vợ của mình mặc cho người nhà tạo mọi điều kiện cho họ ở bên nhau. Thời gian như thế cứ trôi qua, cuộc sống của Sài với cô vợ vẫn cứ tiếp tục như không có gì và Sài vẫn không chấp nhận cô vợ của mình. Bước ngoặt cuộc đời Sài thay đổi khi anh gặp được tình yêu cuộc đời mình là Hương. Họ yêu nhau say đắm mãnh liệt, nhưng vì sĩ diện của gia đình nên Sài đã im lặng chạy trốn vào chiến trường chiến đấu nhằm trốn tránh cuộc sống ngột ngạt của gia đình và tình yêu đầu đời của mình. Khi Sài vào quân ngũ, anh lại là một người dẫn đầu về thành tích học tập giỏi và gương mẫu, tuy nhiên trong môi trường quân đội anh vẫn không có được sự tự do, cuộc sống của anh đều bị giám sát, sống phải theo ý định của mọi người nếu không thì sẽ bị xem là có “tư tưởng phản động”. Vì thế từ lúc vào quân ngũ, Sài đã sống theo ý định của mọi người chứ không theo ý định của mình. Phần thứ hai, cuộc đời của Sài từ lúc đất nước hòa bình. Khi Sài trở về với cuộc sống của một người bình thường, đồng thời với anh bây giờ một cuộc sống mới đã bắt đầu khi anh được phép ly hôn Tuyết. Từ đây anh được quyền lựa chọn tình yêu cho chính bản thân mình. Không ngờ rằng, khi anh quyết định cưới Châu làm vợ một cách vội vàng để che đậy đứa con trong bụng mà anh tưởng là của anh, cuộc đời lại đẩy Sài bước vào một bi kịch mới. Châu là một cô gái Hà Nội đã yêu một người trước đó, có con với hắn nhưng hắn không chịu cưới cô nên cô đành phải lừa Sài cưới cô như một tấm bình phong bảo vệ sĩ diện. Sài từ khi lấy vợ thì lao vào những thứ vặt vãnh mỗi ngày anh phải làm, mọi thứ nó lặp đi lặp đi hết ngày này qua tháng nọ. Quần quật suốt ngày với những thứ như: cơm, áo, gạo, tiền đè nặng trên vai để rồi anh dần lãng quên đi những người thân đã từng giúp đỡ và cưu mang anh vượt qua khó khăn. Cuộc sống với Châu ngày càng có nhiều đổ vỡ rạn nứt giữa hai người để rồi cả hai phải quyết định ra tòa ly hôn. Những tưởng rằng anh sẽ được nuôi đứa con đầu còn Châu nuôi đứa con thứ 2 nhưng nào ngờ một sự thật phũ phàng mà bấy lâu nay anh bị lừa dối, anh đã nuôi đứa con không phải là con ruột của mình mà là con của Châu với người yêu của cô ấy trước khi đến với anh. Mọi thứ của anh dường như đã mất tất cả chẳng còn điều gì thuộc về anh, rồi anh quay trở về ngôi làng Hạ Vị nơi được sinh ra và nuôi dưỡng, anh dốc sức để xây dựng quê hương mình phát triển hơn. Cuộc sống như thế trôi qua với niềm hạnh phúc của Sài khi nhìn thấy quê hương đất nước mình đang đổi mới từng ngày. Vậy tác giả lại đặt nhan đề cho tác phẩm là “Thời xa vắng” nhằm ngụ ý điều gì? Có lẽ ở đây tác giả muốn nói đến thời mà Sài đã trải qua. Cuộc đời Sài từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, anh luôn sống theo ý nguyện của người khác, như đang bị siết chặt trong một sợi dây trói buộc anh không thể nào thoát ra được, anh chấp nhận số phận mình được vạch sẵn như vậy, sống theo những ý định mà bố mẹ muốn, làm việc gì cũng phải nghĩ đến sĩ diện của dòng họ gia đình sẽ ra sao. Anh gồng mình gánh chịu hết tất cả những thứ đó ràng buộc o ép anh, ngay cả khi có tình yêu đầu đời của mình anh cũng vì đã có vợ nên không dám sống hết mình với tình yêu ấy, cuộc tình không đi đến viên mãn làm cho cả hai phải đau khổ. Cuộc đời của Sài sau khi cưới Châu cũng như thế, sống với một người vốn không thuộc về anh lại làm cho cả hai đau khổ, cái thời đó đã qua khi Sài trở về làng quê xây dựng xóm làng, tất cả giờ chỉ còn lại là dĩ vãng, là quá khứ một thời mà có lẽ chính Sài cũng không muốn nhắc đến nữa, tất cả chỉ là quá khứ xa vắng. Với tác phẩm Thời xa vắng, trung tâm của toàn bộ câu chuyện tập trung ở hình tượng nhân vật Giang Minh Sài, trải dài theo suốt cuộc đời Sài từ khi 10 tuổi cho đến hơn 40 tuổi là cả tuổi trẻ của một con người sống gói gọn trong 13 chương (tính cả chương kết). Khi Sài được 10 tuổi, bỗng dưng bị bắt phải cưới một cô vợ lớn hơn mình 3 tuổi, lúc nào cô ta cũng có thể mách bố mẹ những chuyện của mình “tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao ngầu bùn của nhà chú Hào lúc nào”. Sài chỉ 10 tuổi thì làm sao có thể chống cự lại ý định của người lớn thế nên Sài đành phải chấp nhận sự thật đắng cay đó – có vợ lúc 10 tuổi. Nếu như lúc nhỏ Sài là một đứa trẻ bị gò ép như vậy thì khi anh trưởng thành, những cảm xúc, những suy nghĩ, tình cảm,…của cá nhân mình cũng không dám tự quyết định được. Không dám cưới Hương – tình yêu đầu tiên của anh, vì nghĩ đến bản thân mình đã có một người vợ rồi, gia đình sẽ mất sĩ diện với họ hàng làng xóm nên không dám quyết định một cách tự chủ tình cảm để rồi cuối cùng trong lúc uất hận thì Hương đã quyết định lấy một người yêu cô tha thiết mà cô không yêu anh ta. Thế rồi cả cuộc dời anh vỡ lỡ cũng chính bởi vì phần nào nguyên nhân Sài “yêu cái người khác yêu” và “yêu cái mà mình không có”. Lê Lựu xây dựng nên hình tượng nhân vật Sài với những nỗi đắng cay vậy một phần cũng muốn nhắn nhủ những thông điệp đến độc giả. Nguyên nhân vì đâu cuộc đời Sài rơi vào vòng luẩn quẩn đầy bi kịch như vậy, có thể giải thích bằng hai nguyên nhân chính làm nên bi kịch này. Thứ nhất là nguyên nhân khách quan, chính bối cảnh xã hội mà Sài đang sống cũng là nguyên trực tiếp làm nên bi kịch cuộc đời Sài như thế. Gia đình Sài cả bố mẹ và anh chị em đều mang nặng tư tưởng phong kiến lạc hậu, những hủ tục cổ hủ lỗi thời như nạn tảo hôn, tục cưới xin,…áp đặt lên Sài phải thực hiện theo:“Một nề nếp, một thói quen, một thông tục cha truyền con nối từ mấy đời nay: con cái không được quyền muốn sao được vậy vì như thế là trái với phép tắc gia phong”. Danh dự của gia đình, danh dự của ông đồ Khang,… Chính những thứ này đã đè nặng lên đôi vai của Sài, anh không thể sống nếu như mình làm khác đi những gì họ muốn và như vậy sẽ bị coi là “phản động” và không tốt. Như bao người khác ở làng Hạ Vị, Sài đành gò ép chính mình sống theo ý muốn của họ và “không dám là mình” và cũng không đủ can đảm “đạp lên dư luận mà sống”. Sống ở nhà lúc nhỏ Sài luôn bị bố, mẹ, anh, chị, dòng họ bắt phải sống như thế này, không được làm cái kia, ngay cả dân làng cũng thế, nếu mà Sài làm khác những gì họ muốn thấy thì lập tức Sài bị lên án gay gắt dữ dội. Cũng chính vì thế, Sài không muốn mất danh hiệu của một liên đội trưởng tốt gương mẫu trong mắt mọi người nên anh đã cố “yêu vợ” như chuẩn mực của một người đội trưởng phải có, ép buộc mình làm những điều mà bản thân không muốn để được mắt mọi người. Thứ hai là nguyên nhân chủ quan nằm ở chính con người của Sài, nếu như mọi người áp đặt Sài phải sống và làm theo ý của họ muốn mà Sài không phản kháng thì xem như Sài chấp nhận như vậy và sẽ không có bi kịch nào xảy ra, còn Sài ở đây nội tâm luôn có một ý chỉ phản kháng mạnh mẽ, bằng chứng là những lần phải đi cùng với Tuyết thì “Sài thường chạy đi trước hoặc tụt lại thật xa”, “bao giờ Sài cũng tìm cách rời khỏi “nhà ấy” nhanh chóng”. Hay những lần Sài bị bắt ép phải vào ngủ chung với vợ, anh thà nằm ngủ dưới đất chứ không bao giờ chịu nằm ngủ chung giường với người mà mình không hề yêu. Như vậy, trong thâm tâm của Sài thì anh luôn phản đối, chống lại những hủ tục phong kiến, chống lại sự áp đặt con người theo ý muốn của bố mẹ và xã hội, chống lại những gì mà mình không muốn,…Thế mà, Sài có ý chí phản kháng, chống lại những gì đã gò ép anh vậy rồi cuối cùng anh lại lặng lẽ chấp nhận tất cả chúng như một điều tất nhiên. Rõ ràng chính Sài nhu nhược, hèn nhát, không đủ can đảm để đứng lên phản kháng lại những thứ đang gò ép mình mà lại lặng lẽ bẻ bản thân sống sao cho đúng những gì mà người khác muốn. Ngay cả khi Sài sống trong môi trường quân ngũ cũng vậy, khi những nỗi niềm riêng anh ghi vào quyển nhật ký rồi bị đồng đội phát hiện và cho là nó chứa tư tưởng bất chính, và thế là từ đó Sài không dám viết nhật ký nữa mà anh vẫn tiếp tục cuộc đời gương mẫu như: học giỏi, chăm chỉ làm việc, học đại học,…luôn là người xuất sắc nhất trường. Thêm nữa, để được kết nạp Đảng thì Sài phải ép mình sống chung với Tuyết theo sự chỉ bảo của các vị thủ trưởng chỉ định, có như vậy thì Sài mới đủ tiêu chuẩn để được kết nạp vào Đảng, nếu không thì Sài không được kết nạp vì lý do “không yêu vợ”. Và cuối cùng là Sài vẫn phải làm theo ý của thủ trưởng muốn, và có một đứa con với Tuyết như việc ban ân huệ cho cô ấy để rồi cả cuộc đời của Tuyết phải chịu những khổ đau dằn vặt vì yêu người mà không yêu mình. Tác giả khắc họa nhân vật Sài không phải là một nhân vật hoàn toàn nhu nhược và thiếu dũng cảm, có thể thấy quá trình tự nhận thức của nhân vật bắt đầu được hình thành từ những cảm xúc, suy nghĩ, độc thoại mà tác giả chú ý khắc họa nhiều hơn. Trải dài suốt 13 chương của tiểu thuyết, chúng ta có thể bắt gặp những suy tư, trăn trở của Sài về cuộc đời, về tình yêu, về xã hội,… Qua đó, người đọc có thể hiểu được những suy nghĩ của Sài và nhận ra Sài đang khát khao những gì, đang muốn thoát khỏi sự tù túng như thế nào và nhận thức được mình cần phải àm gì để thay đổi hoàn cảnh hiện tại này. Đồng thời, mượn hình tượng nhân vật Sài tác giả muốn phản ánh chân thực những chuyển biến và thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá lại thực tại vấn đề. Xã hội mà Sài sống có những tiêu cực của nó, nhưng không phải nó tiêu cực thì lên án gay gắt nó, mà thông qua đó tác giả muốn chúng ta nhìn nhận lại một thời đã qua, nó có những thiếu sót gì, có những gì chưa làm được thì cố gắng khắc phục và sửa chữa. Chẳng hạn như xã hội trước thời kỳ đổi mới có những hạn chế và tiêu cực của nó, chính vì vậy ở thời kỳ đổi mới đã sửa đổi những sai lầm và thiếu sót của xã hội giai đoạn trước. Nhìn nhận lại thời gian đã qua để định hướng cho hiện tại. Bên cạnh việc khắc họa nhân vật Sài là chủ yếu, tác giả còn tập trung khắc họa những nhân vật khác để làm nổi bật lên tính cách của họ. Chúng ta có thể thấy nhân vật Tuyết – người vợ đầu tiên của Sài lúc 10 tuổi, Tuyết cũng có những nổi khổ của riêng mình chứ không phải cá nhân Sài mới khổ. Cô yêu chồng mình nhưng hóa ra thứ mà cô nhận lại được chỉ là sự hờ hững, lạnh lùng, oán ghét, thậm chí là xua đuổi xem cô như là một chướng ngại vật cản đường. Rốt cuộc thì cô có lỗi gì để Sài ghét cô đến như vậy? Câu hỏi luôn trực diện trong suy nghĩ của Tuyết như một bi kịch day dứt cuộc đời cô. Qua đó có thể thấy thân phận người phụ nữ lúc bấy giờ qua đại diện là Tuyết, khát khao hạnh phúc gia đình nhưng lại sống trong đau đớn cả cuộc đời như vậy. Còn nhân vật Hương cũng như vậy, cô yêu Sài hết mực và cũng muốn xây dựng hạnh phúc gia đình với anh, nhưng Sài không thể lấy cô làm vợ và cũng không có một quyết định dứt khoát trong tình cảm của mình, anh chỉ im lặng để Hương chờ, chờ mãi để rồi cuối cùng cô phải lấy một người mà mình không yêu, như vậy Hương cũng không hạnh phúc và Sài cũng không hạnh phúc. Với các nhân vật như Hiểu, Hiền, anh Tính, chú Hà,… chúng ta có thể hiểu được rõ hơn về tính cách của nhân vật Sài được thể hiện qua điểm nhìn trần thuật của tác giả. Ngoài việc khắc họa nhân vật, Lê Lựu còn đề cập đến vấn đề về xã hội, vấn đề về tâm lý của con người trước thời đại. Cụ thể là tâm lý của dân chúng trong bối cảnh xã hội “bao cấp” và trong giai đoạn đổi mới. Xen kẽ những đoạn văn trong tác phẩm, tác giả có tái hiện nên bức tranh của dân làng Hạ Vị với tâm lý “đi làm thuê” mà không thích làm ruộng đồng. Đoạn trích dưới đây có thể thấy rõ nhà văn đã miêu tả khá chi tiết về việc dân làng chuyên “đi làm thuê”. “Không hiểu từ thuở nào làng chỉ quen đi làm thuê. Miếng cơm thiên hạ bao giờ cũng ngon nên người sức dài vai rộng thì đi tứ chiếng bằng đủ thứ nghề: hàn nồi và cắt tóc, đốt gạch và nung vôi, thợ nề, thợ đất, thợ lặn… Dăm bữa, nửa tháng vợ hoặc con đảo qua để làm cỏ, xáo xới rồi cũng lại vội vã ra đi. Đến mùa thu hoạch lại về. Hết mùa lại đi. Cứ thế. Khi về lại nhớ cơm thiên hạ. Khi đi lại cồn cào thương từ gốc cau, bụi chuối. Họ không yêu tha thiết với đồng ruộng nhưng không đủ sức dứt bỏ những gì quen thuộc từ thuở cha sinh mẹ đẻ ở cái nơi mà ai cũng quen gọi là quê Hương…Những người còn lại hoặc tuổi già yếu, con bận con mọn, hoặc không biết nghề, không quen đi xa, cái lực lượng sản xuất chủ yếu ấy cũng chỉ chòn chọt năm một vụ ngô, tháng mười cày bừa dối dả, tháng tư bẻ bắp chặt cây vội vàng để rồi lại nô nức kéo nhau sang bên kia sông, vào nội đồng làm thuê, sáng cắp nón đi, tối cắp nón về nói cười rả rích. Dường như số trời đã định cho làng này chỉ có việc đi làm thuê. Chen lấn, tranh cướp nhau từng người chủ, và ai được chủ tin thì coi đó là một diễm phúc có thể vênh váo, hãnh diện với kẻ khác, sẵn sàng hạch sách bắt bẻ người cùng xóm, cùng làng, cùng cánh thợ làm thuê một cách nghiệt ngã độc ác hơn cả người chủ thật. Bởi thế, cũng là tỉa ngô, rắc đỗ, ruộng nhà thì làm quáng quàng chỗ dầy, chỗ mỏng, hàng thưa hàng mau nhưng ruộng của chủ cứ đều tăm tắp. Ruộng nhà không bao giờ bón phân, cả làng không ai bón phân, cần quái gì chuồng lợn, chuồng xí. Đàn ông, đàn bà, cả người già trẻ con đều chạy toá ra đồng và lợn cũng thả rông hoặc có chuồng thì cũng chả cần phân ấy để làm gì. Chính những con người ấy lại đánh phân, rửa ráy quét dọn cả chuồng xí, chuồng lợn cho chủ rồi gánh ra đồng cứ của những người chủ tốt tươi sai quả, mấy hạt lại theo đà đâu đó, ca thán, và xỉ vả làng mình ngu si không biết đường làm ăn.” Qua đó, tác giả đang châm biếm giễu nhại một xã hội không có tinh thần vươn lên, cầu tiến trong cuộc sống mà chỉ sống lay lắt qua ngày này tháng nọ bằng việc làm thuê làm mướn trong khi có thể kiếm sống trên chính mảnh đất quê hương của mình. Nhà văn đã vạch trần tâm lý của nhân dân trong bối cảnh đất nước đang vượt qua giai đoạn khó khăn như thế. Đồng thời, nhà văn cũng phản ánh vấn đề của người nông dân lúc này rằng họ cảm thấy chưa có sự yên ổn và đi lên trong xã hội hiện tại, xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu của họ và những phương pháp cải tiến xã hội lúc bấy giờ đã thất bại. Người nông dân khi chuyển đổi thời đại xã hội bước vào một đất nước mới, họ chỉ kịp trang bị cho mình hành trang tinh thần, còn hành trang về phương tiện, vật chất cũng như cách thức thì họ không có. Như vậy thì chưa đủ cho việc thích nghi với bối cảnh mới của thời đại của đất nước. Sài cũng vậy, khi Sài bước vào một đất nước chuyển mình từ bối cảnh chiến tranh sang hòa bình xây dựng và phát triển đất nước, anh chưa trang bị kịp cho mình những thứ cần thiết để thích nghi trong một môi trường mới, để rồi kết cuộc là cái giá mà anh phải trả là khá đắt cho sự thiếu sót đó được diễn tả qua cuộc hôn nhân giữa anh với Châu. Nhà văn phản ánh những hoàn cảnh, những thói quen, những tập quán nó đã là “thuộc di sản của xã hội cũ” đó là việc đi làm thuê mãi rồi trở thành thói quen. Tác giả xây dựng cốt truyện Thời xa vắng rất mạch lạc, cách xây dựng các tình tiết cốt truyện phát triển đơn giản, với tác phẩm Thời xa vắng Lê Lựu đã xây dựng và phát triển truyện truyền thống như tác phẩm đã có trước đó. Ở tác phẩm này nhà văn đặc biệt quan tâm đến xây dựng hình tượng nhân vật Sài để làm nổi bật lên tính cách và con người trong xã hội. Bên cạnh đó, nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm là một bút pháp tạo nên dấu ấn với độc giả, thông qua việc trần thuật lại những sự việc diễn ra trên khía cạnh góc nhìn khách quan của nhà văn từ điểm nhìn đa diện nhiều chiều khác nhau. Nhà văn đã xây dựng nên tính cách và diện mạo của Sài từ góc nhìn của những nhân vật khác như: Hương, Châu, anh Tính,… Dần dần qua cảm nhận của những nhân vật này thì hình ảnh của Sài sẽ được hoàn thiện dần một cách khách quan hơn. Qua tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu, câu chuyện về cuộc đời bi đát của Sài được dựng nên trong bức tranh của xã hội đương thời với những đắng cay và đau đớn mà một đời người phải trải qua, nhà văn vừa thành công trong việc tái hiện những bi kịch đau khổ của con người đồng thời cũng tạo nên tiếng cười châm biếm mỉa mai với những vấn đề xã hội của thời đại. Vừa sâu lắng nhưng cũng vừa xót xa cho một thế hệ, một đời người. Lấy cảm hứng vừa bi vừa hài để lồng ghép vào nhau làm cho tác phẩm có sức cuốn hút hấp dẫn người đọc chiêm nghiệm những triết lý ẩn sau bức tranh của tác phẩm muốn đề cập đến. Với mỗi nhân vật nhà văn khắc họa là một nét điển hình đại diện cho một bộ phận hay một phương diện nào đó trong xã hội. Đó có thể là Hương hoặc Tuyết đại diện cho tầng lớp của những người phụ nữ trong xã hội, hay đó có thể là anh thủ trưởng và các chiến sĩ với môi trường quân ngũ đại diện cho tầng lớp những cán bộ chiến sĩ anh dũng bảo vệ xây dựng và phát triển đất nước với lòng nhiệt thành, hoặc đó là ông đồ Khang và mẹ của Sài là tầng lớp những người nông dân còn sót lại với tư tưởng của xã hội phong kiến cũ. Tất cả những tầng lớp đại diện này đang trong tiến trình bước vào xã hội mới và họ cần phải thay đổi để thích nghi với bối cảnh của xã hội mới. Thời xa vắng tạo được làn sóng mạnh mẽ trong văn học Việt Nam thời kỳ bắt đầu đổi mới xã hội. Nó không chỉ đề cập đến những vấn đề của con người mà còn mở rộng ra cả xã hội, cả thời đại. Ngoài những khía cạnh mà bài viết này đề cập đến thì còn những vấn đề khác ẩn sâu trong tác phẩm, đó là sự phát hiện bổ sung của độc giả với góc nhìn cảm nhận khác nhau của từng người. Mỗi khía cạnh sẽ cung cấp cho chúng ta một cách nhìn nhận đánh giá các vấn đề của xã hội một cách khách quan hơn. Chính vì ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa trong nó và kết hợp với văn phong giản dị của tác giả, ngôn từ dễ hiểu thêm sinh động và chân thực, lôi cuốn là một thế mạnh giúp cho Thời xa vắng khẳng định được giá trị của nó trên văn đàn nói chung và trong lòng độc giả nói riêng. Và cho đến ngày nay, tác phẩm Thời xa vắng gắn với cái tên Lê Lựu vẫn còn nguyên những giá trị nghệ thuật và ý nghĩa của nó. Bài Review Sách được đóng góp bởi Cộng Tác Viên Lê Thị Hồng Thắm Mời các bạn đón đọc Thời Xa Vắng của tác giả Lê Lựu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sống Nhờ
Nhân vật chính trong tự truyện Sống nhờ (1942) là Dần gọi thế bởi cậu sinh vào giờ Dần. Dần sống ở nông thôn, một làng quê tỉnh Hải Dương; mồ côi cha từ lúc chưa sinh, lên sáu tuổi mẹ đi lấy chồng. từ ấy, Dần sống với bà nội và với các cô chú bên nội: rồi lại chuyển sang bên ngoại, với ông bà và các cậu, dì. Một thế giới họ hàng gồm cả hai bên nội ngoại thật là đông đúc, nhưng Dẫn vẫn rất thiếu tình thương. Chỉ vài ba tình cảm hiếm hoi của một người cô, một người mợ và hai phía ông – bà không thể làm ấm lên được bao nhiêu bầu không khí lạnh lẽo bao lấy một đứa trẻ mồ côi. Giữa những mắng mỏ, hắt hủi, đánh đạp. Dần chỉ còn tìm được nguồn an ủi và chỗ dựa là bà nội – người cho đến tuổi già còm cõi, gần đất xa trời vẫn còn góp nhặt từng đồng cho Dần đi học, và cố đỡ vực cho một đại gia đình trong suy sụp vì những đứa con phá tán cơ nghiệp bởi cờ bạc và rượu chè. “Sống nhờ” trong thế giới người thân, bị đun đẩy qua lại giữa hai bên nội ngoại, Dần từ nhỏ đã quen cảnh sống vất vưởng, lang thang. Lớn lên một chút, Dẫn cũng được đi học, cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ, trước là ở trong làng, sau được gửi lên tỉnh. Nhưng thói quen lêu lổng và nỗi nhớ nhà khiến Dần chẳng thể nào chí thú trong việc kiếm chữ. Sao nhãng việc học, Dần tìm đến những đam mê của một tuổi trẻ cô đơn, buồn tẻ. Và, đến lúc mấp mé tuổi lớn, trong cảnh sa sút của gia đình và bao người thân lần lượt ra đi, Dần mới chợt giật mình thấy phải nuôi dần cái chí tự lập để thoát ra khỏi thân phận “sống nhờ”. Trên mạch hồi ức của đứa trẻ từ tuổi lên sáu xa mẹ đến tuổi mười lăm chuẩn bị bước vào đời, luôn luôn in bóng hình ảnh người mẹ trong quyến luyến và cách xa. Trên mạch hồi ức của đứa trẻ từ tuổi lên sáu xa mẹ đến tuổi mười lăm chuẩn bị bước vào đời, luôn luôn in bóng hình ảnh người mẹ trong quyến luyến và cách xa. Đọc Sống nhờ để hiểu một tuổi thơ xót xa buồn khổ trong xã hội cũ. Xót xa không phải chỉ do tình cảnh mồ côi cha và mẹ đi lấy chồng. Mà vì cả một bối cảnh xã hội, do sự mưu sinh vất vả và sự mờ mịt của tương lai mà rất vắng thiếu tình yêu. Và để thấy, việc thay đổi trạng huống bơ vơ, buồn khổ, để cho mọi tuổi thơ được sống đầm ấm, êm vui dẫu có Cách mạng tháng Tám vĩ đại, vẫn không dễ chút nào. Đọc Sống nhờ, để thương cảm và chia sẻ với biết bao tuổi thơ bất hạnh; và để mong mỏi cho mỗi tuổi thơ như thế có được một chỗ dựa, một ý chí vươn lên tự lập mà thoát ra khỏi cảnh “sống nhờ”, dưới bất cứ hình thức nào. Cuốn sách là kết đọng mười năm tuổi thơ của một người giàu nhận xét, giàu xúc cảm – nhà văn Mạnh Phú Tư. Phải đọc vào truyện, phải soi vào mỗi trang chữ mới sống hết được các cảnh đời, mới cảm nhận được hết cái dư vị chua xót nhưng cũng đầy chất thơ trong một hồi tưởng và hình dùng, theo tôi nghĩ, khó ai đạt được sự sắc nét và thiết tha đến thế. Sống nhờ, dẫu trong dạng tự truyện xen hồi ức, nhưng Mạnh Phú Tư vẫn rất biệt tài trong tạo dựng các cảnh đời và khắc họa các chân dung – từ những ông chú, bà cô, ông cậu, bà mợ và hai phía ông bà nội ngoại trong gia đình Dần, đến những ông thầy: thầy lang, thầy phù thủy, thầy đồ Nho đồ Tây, rồi các loại bạn bè từ bé đến lớn của Dần, trong đó có đến ba cô… người yêu, đều chưa vượt tuổi vị thành niên. Có thể nói, Mạnh Phú Tư đã giúp cho người đọc hiểu, không kém Ngô Tất Tố, Nam Cao về đời sống làng quê Việt Nam xưa, trong cả bề mặt và bề sâu các vấn đề xã hội, phong tục và tâm lý dường như nghìn năm không đổi của nó. Đọc Sống nhờ từ tuổi bé, rồi nhiều lần đọc lại Sống nhờ qua các lứa tuổi, niềm hứng thú trong tôi gần như không giảm. Có thể nói đó là một trong số ít cuốn sách tiêu biểu và sáng giá của văn học hiện thực Việt Nam trước 1945. Cuốn sách viết về tuổi thơ, nhưng là để cho tất cả mọi lứa tuổi, tất cả những ai đã qua tuổi thơ cùng đọc. Giáo sư Phong Lê ***   Mạnh Phú Tư (1913-1959), tên thật là Phạm Văn Thứ, cùng chi với chi của tuyển thủ bóng đá nam quốc gia Phạm Như Thuần, quê ở xã Thanh Lang, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông là một tác giả văn xuôi nổi tiếng trước năm 1945, trong đó tác phẩm tiêu biểu là tiểu thuyết "Làm lẽ" được giải thưởng của Tự lực văn đoàn năm 1939. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Thanh Hà. Ông tiếp tục viết văn, làm báo. Năm 1959, ông mất ở Hà Nội khi đang làm biên tập viên báo "Văn học". Tác phẩm chính: Làm lẽ (1939), Gây dựng (1941), Nhạt tình (1942), Sống nhờ (1942), Một thiếu niên (1942), Người vợ già (1942), ... *** Tôi sinh vào giờ Dần. Bà tôi lấy ngay cái giờ đó để đặt tên cho tôi. Người bảo như thế cho tiện về sau, khi nào muốn lấy số tử vi hoặc có ốm đau xem bói cũng dễ nhớ giờ. Vừa mới lọt lòng mẹ, tôi đã là đứa trẻ mồ côi. Mẹ tôi có thai tôi được ngoài năm tháng thì cha tôi chết. Mẹ tôi nuôi tôi tới năm lên sáu, bỏ tôi lại rồi đi lấy chồng. Năm đó mẹ tôi chừng hai mươi ba tuổi. Cha tôi và mẹ tôi khi mới lấy nhau hãy còn như hai đứa trẻ: Chồng mười bẩy, vợ mười lăm. Những cặp vợ chồng trẻ như thế, hiện nay ở vùng tôi cũng hãy còn có rất nhiều. Thường thường gia đình nào cũng vậy, chỉ mong cưới được nàng dâu về để cho trong nhà được thêm đông đúc và có người giúp đỡ các công việc. Bà tôi cũng có cái ý nghĩ đó, nên đều lấy vợ sớm cho các con. Vả lại, nuôi con mà chưa gây dựng cho trai có vợ, gái có chồng thì vẫn chưa là đủ; bởi thế, khi thấy người đã bắt đầu già yếu, bà tôi chỉ nghĩ tới sự kiếm đủ vợ cho các con. Ngày mẹ tôi sa vào cảnh góa bụa, là ngày bà tôi bắt đầu hắt hủi mẹ tôi. Hình như bà tôi đã hiểu rằng một người đàn bà góa chồng vào cái tuổi mười bẩy, mười tám thì khó lòng ở vậy được. Lòng hắt hủi đã khiến bà tôi coi mẹ tôi như một người ngoài và chỉ còn nghĩ tới tôi, giọt máu đầu tiên và cũng là giọt máu cuối cùng của người con giai mà bà tôi thường khen là khấm khớ. Cả đến các chú, các thím tôi cũng tỏ vẻ ghét bỏ mẹ tôi. Bà tôi dành riêng cho hai mẹ con tôi một gian buồng bên cạnh buồng bà tôi. Mẹ tôi vẫn phải ăn chung và làm chung với các chú tôi. Trong khi mẹ tôi phải đi cuốc hoặc đi cấy ngoài đồng, ở nhà, một mình tôi tha thẩn góc sân, xó vườn để nghịch đất, đào giun. Chiều chiều, cứ khi nào gà đã lên chuồng, các công việc đã thu dọn xong cả, mẹ tôi lại dẫn tôi ra cầu ao rửa mặt và chân tay cho tôi. Mẹ tôi rủ rỉ hỏi tôi: - ở nhà, con có ăn no không? - Con ăn ba bát, chan với canh. Mẹ tôi bế tôi từ cầu ao về nhà để khỏi lấm chân. Mẹ tôi lại mắng yêu tôi: - Sao u dặn con ở nhà không được nghịch đất mà hôm nào chân tay cũng bẩn thỉu thế? Chẳng bao giờ tôi trả lời câu hỏi đó. Tôi chỉ đưa tay ôm chặt lấy cổ mẹ tôi. Đêm tới, mẹ tôi đưa tôi đi ngủ. Bao giờ mẹ tôi cũng duỗi thẳng một tay, đặt đầu tôi lên và một tay nhè nhẹ vỗ trên mông đít tôi. Tôi nằm nghiêng về một bên, đặt một tay lên ngực mẹ tôi. Có hôm tôi ngủ được ngay. Có hôm tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Những hôm đó, tôi thấy bà tôi dịu dàng gióng một, nói với sang giường mẹ tôi: - Gái hóa cũng vạn người người ta ở vậy nuôi con đấy. Có gan một tý là được. Cái hạng người mà chưa chôn xong chồng đã tấp tểnh đi lấy chồng, chẳng trời nào chứng cho đâu. Tiếng nói của bà tôi cứ nhỏ nhỏ dần rồi bà tôi ngáy đều đều. Rồi chợt, bà tôi lại tỉnh giấc, chẳng hiểu là mẹ tôi còn thức không, nhưng cứ tiếp lời: - Những lúc đi đây đi đó, phải có ý có tứ mà giữ gìn. ăn uống cái gì của ai cho phải cẩn thận. Nhỡ mà nó bỏ thuốc thì rồi lại mẹ một nơi con một nẻo sớm... Không biết mẹ tôi có nghe những nhời đó chăng, nhưng hôm nay bà tôi nói những câu tương tự như thế tôi lại thấy mẹ tôi luôn luôn thở dài. Cái hơi thở làm nóng cả cổ và mặt tôi. Tôi không hiểu gì, tôi chỉ thấy trong người hơi sờ sợ. Những lúc đó, tôi nằm im thin thít, không dám cử động và nín cả thở. Cứ sau một hơi thở dài của mẹ tôi một lúc tôi lại ôm ghì lấy mẹ tôi. Có một buổi tối về mùa đông, hai mẹ con nằm trên chiếc giường rải rơm, và đắp trên người hai chiếc chiếu cói. Tôi vẫn nằm kê đầu lên tay mẹ tôi. Trời lạnh quá thành khó ngủ. Mẹ tôi thỉnh thoảng đùa cù tôi trên cạnh sườn. Tôi bật cười, giãy giụa. Hai chiếc chiếu cọ nhau sột soạt. Bà tôi cất tiếng hỏi: - Cái gì thế? Tôi sợ quá nín hẳn cười. Yên lặng. Bà tôi lại gắt: - Cái gì mà rả rích thế? Mẹ tôi vừa giở mình vừa đáp lại: - Có gì đâu. - Có tiếng ai cười đùa mà lại bảo có gì đâu. Nghe bà tôi nói vậy, tôi quay đầu nhìn ra. Một cái bóng đen lờ mờ từ phía bên kia thong thả tiến lại gần phía giường mẹ tôi. Thỉnh thoảng cái bóng đó lại khuất hẳn sau một cây cột rồi lại hiện ra. Tôi không hiểu là cái gì và nhớ tới những chuyện ma quỷ tôi sợ đến run cả chân tay. Mẹ tôi tưởng tôi rét quá kéo chiếc chiếu phủ kín cho tôi. Cái bóng ấy lại gần hẳn cạnh giường hai mẹ con tôi. Tôi kêu rú lên. Mẹ tôi hỏi: - Sao thế con? Lúc đó bà tôi mới lên tiếng: - Có ai thế? Mẹ tôi hơi sẵng tiếng: - Thằng Dần đấy chứ ạ! Bà tôi sờ soạng khắp cả giường: - Ai đây? Gái hóa: phụ nữ có chồng chết. - Con đấy mà. Bà tôi sờ tới tôi. Tôi sợ quá không dám cựa mình. - Ai đây? Mẹ tôi vội đáp hộ tôi: - Cháu đấy mà. Bà tôi lại quờ quạng khắp giường một lượt nữa rồi quay đi. Tôi lại nhìn thấy cái bóng ghê sợ lúc trước, ẩn hiện ngay giữa nhà và cứ xa xa dần mãi. Tôi không dám nhìn theo nữa. Khi tôi đã nghe thấy tiếng những nan ở giường bên kia sột soạt kêu, bà tôi lên tiếng nói: - ấy, có thân thì giữ... ở giường bên này, lúc đó tôi mới dám bắt đầu thở đều. Mẹ tôi sụt sịt khóc, nước mắt ướt đầm cái cánh tay tôi gối. Tôi không hiểu tại sao. Thấy mẹ khóc, tôi cũng đem lòng thương, tôi ôm chặt lấy cổ mẹ tôi. Và từ cái buổi tối ấy, tôi thấy sờ sợ bà tôi. Nhất là khi bà tôi đi đâu về hãy còn ở đàng xa mà thân hình chưa rõ, chỉ mới như một cái bóng cử động. Mẹ tôi đi lấy chồng giữa năm tôi lên sáu. Ngay từ khi mẹ tôi còn ở với bà nội tôi, cũng đã có người mối manh nói với bà ngoại tôi xin lấy mẹ tôi. Bà ngoại tôi phân vân mãi rồi sau hết nói lại riêng với mẹ tôi, cố tìm cách giấu hết mọi người bên họ nội. Sau đó người ta cứ hỏi tin tức mãi và cách ít lâu người mối lại ngỏ lời xin ăn hỏi. Bà ngoại tôi nhận nhời. Nhưng trước khi nhận lễ bà ngoại tôi cũng có nói lại công việc gả chồng cho mẹ tôi để bà nội tôi được biết. Cái hy vọng giữ được một người nàng dâu ở vậy nuôi đứa cháu giai bị tiêu tán. Không bao giờ bằng lúc này bà nội tôi đem lòng thù ghét bà ngoại tôi: - Tôi không thấy ai lại như bà. Con gái đầu lại gả chồng hai lần. Giá có lấy mười con gái mà gả chồng như bà thì rồi tha hồ mà nhà ngói cây mít. Mời các bạn đón đọc Sống Nhờ của tác giả Mạnh Phú Tư.
Làm Lẽ
Tiểu thuyết ngắn đầu tay của Mạnh Phú Tư, đoạt giải Tự lực văn đoàn năm 1939. Mạnh Phú Tư (1913-1959), tên thật là Phạm Văn Thứ, cùng chi với chi của tuyển thủ bóng đá nam quốc gia Phạm Như Thuần, quê ở xã Thanh Lang, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông là một tác giả văn xuôi nổi tiếng trước năm 1945, trong đó tác phẩm tiêu biểu là tiểu thuyết "Làm lẽ" được giải thưởng của Tự lực văn đoàn năm 1939. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Thanh Hà. Ông tiếp tục viết văn, làm báo. Năm 1959, ông mất ở Hà Nội khi đang làm biên tập viên báo "Văn học". Tác phẩm chính: Làm lẽ (1939), Gây dựng (1941), Nhạt tình (1942), Sống nhờ (1942), Một thiếu niên (1942), Người vợ già (1942), ... *** Giải thưởng Tự Lực Văn Ðoàn năm 1939   PHẦN THỨ NHẤT Một buổi trưa nắng gắt, cuối hè. Hình như có bao nhiêu sức nóng, ngày giờ cố hút hết, để sắp sửa sang thu. Trong làng không một tiếng động; mọi vật bị nắng đốt, im lìm trong không khí khó thở. Không một hơi gió. Trên chiếc sân đất nẻ, gồ ghề và rắn cứng, Trác đội chiếc nón chóp rách, khom lưng quét thóc. Nàng phải dển hai bàn chân để tránh bớt sức nóng của sân đất nện. Thỉnh thoảng, nàng đứng ngay người cho đỡ mỏi lưng, rồi đưa tay áo lên lau mồ hôi ròng ròng chảy trên mặt. Chiếc áo cánh nhuộm nâu đã bạc màu và vá nhiều chỗ bị ướt đẫm, dán chặt vào lưng nàng. Cái yếm trắng bé nhỏ quá, thẳng căng trên hai vú đến thì và để hở hai sườn trắng mịn. Mỗi lần Trác cúi hẳn xuống để miết chiếc chổi cùn nạy những hạt thóc trong các khe, cái váy cộc, hớt lên quá đầu gối, để lộ một phần đùi trắng trẻo, trái hẳn với chân nàng đen đủi vì dầm bùn phơi nắng suốt ngày. Dưới mái hiên, ngay gần chái nhà bếp, bà Thân, mẹ nàng, ngồi trên mảnh chiếu rách, chăm chú nhặt rau muống. Bà cầm trong tay từng nắm rau con, vảy mạnh cho sạch những cánh bèo tấm, rồi cẩn thận ngắt lá sâu, lá úa; vạch từng khe, từng cuống tìm sâu. Bà cẩn thận như thế là vì đã hai bữa cơm liền, bữa nào trong bát rau luộc cũng có sâu, và Khải, con giai bà, đã phải phàn nàn làm bà đến khó chịu. Chốc chốc, bà với chiếc khăn mặt đỏ rách vắt trên vai, lau mắt như để nhìn cho rõ thêm. Hết mớ rau, bà mệt nhọc, ngồi ngay hẳn lên, thở hắt ra một hơi dài, đưa mắt nhìn ra sân. Thấy Trác làm lụng có vẻ mệt nhọc, bà động lòng thương, dịu dàng, âu yếm bảo: - Nắng quá thì để đến chiều mát hãy quét con ạ. Tội gì mà phơi người ra thế. Rồi bằng một giọng buồn buồn như nói một mình: - Khốn nạn! Con tôi! Nắng thế này! Trác thấy mẹ ngọt ngào, tỏ vẻ thương mình, trong lòng lâng lâng vui sướng. Nàng cũng dịu dàng đáp lại: - Chả còn mấy, mẹ để con quét nốt. Nói xong nàng lại cúi xuống thong thả quét. Nàng vui vẻ thấy đống thóc gần gọn gàng: nhưng nàng vẫn không quên rằng hót xong thóc lại còn bao nhiêu việc khác nữa: tưới một vườn rau mới gieo, gánh đầy hai chum nước, thổi cơm chiều, rồi đến lúc gà lên chuồng, lại còn phải xay thóc để lấy gạo ăn ngày hôm sau. Song nàng không hề phàn nàn, vì phải vất vả suốt ngày. Những việc ấy, không ai bắt buộc nàng phải làm, nhưng nàng hiểu rằng không có thể nhường cho ai được, và nếu nàng không dúng tay vào tất trong nhà sẽ không được êm thấm, vui vẻ. Quét vòng quanh mấy lần, từng thóc đã dần dần dày thêm, và nhát chổi đã thấy nặng, Trác lấy cào vuôn thóc vào đống. Bà Thân đã nhặt xong ba mớ rau. Bà biết rằng bà đã xem xét cẩn thận lắm, nên bà vừa bới những ngọn rau trong rổ, vừa thì thầm: "Lần này thì đào cũng chẳng có lấy nửa con!" Bà đứng lên mang rổ rau đi rửa. Vì ngồi lâu, nên hai chân tê hẳn, mấy bước đầu bà phải khập khiễng, như đứa bé mới tập đi. Bà cầm chiếc nón rách cạp, đội lên đầu, rồi bước xuống sân. Thấy Trác đặt chiếc cào mạnh quá, bà khẽ nói: - Đưa cào nhẹ chứ con ạ, kẻo nó trật gạo ra. Trác im lặng, không trả lời; nhưng từ nhát cào sau nàng làm theo lời ngay. Tính nàng vẫn thế. Không bao giờ nàng muốn trái ý mẹ, ngay những lúc mẹ bắt làm những việc mà riêng nàng, nàng không ưng thuận. Trác còn nhớ một lần, mây kéo đen nghịt trời, trận mưa to như sắp tới. Rơm rạ, phơi khắp mọi nơi, ngoài sân sau nhà, và cả ở những góc vườn không trồng rau. Nàng vội lấy nạng để đánh đống, mẹ nàng cứ nhất định bắt làm tua để hứng nước ở các gốc cau. Nàng bảo dọn rơm, rạ vào trước, rồi làm tua sau, nhỡ có mưa ngay thì rơm, rạ cũng không bị ướt. Nàng lại nói thêm: "Thưa mẹ, nước thì không cần cho lắm, không hứng cũng được, con đi gánh. Chứ ngần này rơm, rạ ướt thì phơi phóng đến bao giờ cho nỏ". Nhưng mẹ nàng nhất định không thuận: - Cứ nghe mẹ làm tua hứng nước đi đã rồi hãy dọn cũng vừa. Trời này có mưa cũng còn lâu. Kiếm ngụm nước mưa mà uống cho mát ruột. Tội gì ngày nào cũng đi gánh cho u vai lên ấy! Thế rồi bà bắt nàng lấy hai cái thùng sắt tây, hai cái nồi đất và cả chiếc nồi mười để hứng nước. Trác không cưỡng được ý mẹ, cặm cụi làm năm cái tua buộc vào năm gốc cau mang nồi ra đặt. Công việc ấy vừa xong, trận mưa đổ xuống. Bao nhiêu rơm, rạ ướt hết. Trận mưa chỉ độ một lúc, rồi tạnh hẳn. Mẹ nàng đội nón giời râm ra thăm nước mưa. Nhưng mỗi tua chỉ được chừng một bát nước. Bà thở dài: "Rõ chán! Nước mưa chẳng thông tráng nồi, lại ướt mất mẻ rơm". Nghe mẹ nói, Trác chỉ buồn cười, không dám nói gì, e mẹ phật ý. Nàng mang chuyện ấy kể cho mấy bạn gái hàng xóm. Họ ngặt nghẹo cười, nàng như muốn chữa thẹn: "ấy, bây giờ bà cụ già nên đâm ra lẩm cẩm thế đấy! Chúng mình ngày sau biết đâu rồi lại không quá!". Bà Thân đã rửa rau ở cầu ao về. Bà tì cạp rổ vào cạnh sườn, một tay dang ra giữ lấy. Rổ rau chưa ráo nước, hãy còn luôn luôn rỏ xuống gần chân bà, và làm thành một vệt ướt trên bờ hè. Thấy Trác đang khệ nệ bưng thóc đổ vào cót, bà mỉm cười bảo, tựa như nàng hãy còn bé bỏng lắm: - Con tôi! Rõ tham lam quá. Xúc ít một chứ mà bưng cho dễ. Người bé lại cứ mang những thùng nặng như cùm. Nàng thong thả đáp lại: - Không nặng đâu mẹ ạ. Cái thùng bé tý ấy mà. Nàng như quên cả nắng, bức; hốt một lúc đã hết đống thóc. Nàng sung sướng ngồi nghỉ ở đầu hè, cầm chiếc nón lá phe phẩy. áo nàng ướt, lại thêm gió quạt, nên nàng thấy một thứ mát dịu dàng thấm thía cả thân thể, làm da thịt nàng đê mê, như khi ta lẹ làng đưa tay trên tấm nhung. Mấy chiếc tóc mai cứ theo chiều gió quạt bay đi bay lại. Hai má nàng vì có hơi nóng, nổi bật màu hồng, và nét mặt nàng càng thêm xinh tươi. Trác thấy bớt nóng, đứng dậy lồng hai chiếc nồi đất vào quang gánh nước. Chẳng bao giờ nàng phải suy nghĩ mới nhớ ra việc; nàng đã quen rồi. Việc gì phải làm trước, việc gì phải làm sau, nàng biết ngay từ sáng sớm. Và ngày nào cũng hình như chỉ có ngần ấy việc, nên buổi tối, khi nàng đặt mình vào giường, là bao nhiêu công việc đã gọn gàng cả, không một việc gì bỏ sót. Tới sáng hôm sau, lúc gà bắt đầu gáy, nàng thức dậy, những công việc phải làm đã như xếp sẵn trong óc. Trác vừa gánh đôi nồi ra khỏi nhà được một lúc, có tiếng chó sủa. Bà Thân vội chạy ra. Bà Tuân tay cầm một cành rào để xua chó, vừa thấy bà Thân đã cười cười nói nói: - Nào, hôm nay lại ăn rình một bữa đây! Cụ có cho không hay là lại lấy nạng nạng ra. Bà Thân cũng cười một tràng dài: - Chỉ sợ lại chê cơm khê rồi làm khách thôi. Rồi bà vừa mắng con chó cứ dai dẳng sủa mãi, vừa lấy giọng đứng đắn. - Sao lâu nay không thấy cụ lại chơi? Bà Thân đưa tay cầm cái bã trầu đã lia ra tới mép, vứt đi; lấy mùi soa lau mồm cẩn thận, rồi ghé vào tai bà bạn như sắp nói một câu chuyện kín đáo can hệ: - Úi chà! Bận lắm cụ ạ. Cụ cứ xét nhà cụ thì đủ rõ. Công việc là cứ ngập lên tận mắt. Bà vừa nói vừa hoa tay, như để nhời nói thêm dễ hiểu. Bà Thân chưa kịp trả lời, bà ta đã sang sảng: - Hôm nay là đánh liều, sống chết mặc bay, nên mới lại hầu cụ được đấy. Thôi chỗ bạn già cả, mình còn gần gụi nhau lúc nào được lúc ấy. Đến lúc trời bắt tội, nhắm mắt buông xuôi xuống âm ty liệu có gặp nhau nữa không? Bà Thân cảm động vì những câu nói thân mật đó, thỉnh thoảng điểm một câu cười giòn và len thêm những tiếng: "Vâng!... vâng!..." như để chấm đoạn chấm câu cho bà bạn. Bà rủ khách vào nhà. Nhưng khách không nhận lời, nói giải chiếu ngồi ngoài hè cho mát. Bà đi tìm cơi trầu, chìa vôi, rồi ngồi đối diện với khách têm trầu. Bà Tuân hình như có câu nào đã nói ra hết; bà Thân khơi chuyện bằng câu hỏi: - Cụ đã ngả được mấy mẫu rồi? - Chưa được lấy một góc. Năm nay mượn phải anh lực điền làm vụng mà chậm quá. Làm với ăn chán như cơm nếp nát. Mời các bạn đón đọc Làm Lẽ của tác giả Mạnh Phú Tư.
Hắn Và Thằng Bạn
Hắn và thằng bạn là những câu chuyện ngắn nhưng vui, được viết dựa trên những việc thực sự đã xảy ra trong cuộc sống của các tác giả, những người trẻ đang bước những bước đầu tiên vào đời. Hắn và thằng bạn không phải là những con người hoàn hảo: tất cả chỉ là những cô cậu nhóc bình thường với những sai lầm, thiếu sót và những tình huống ứng xử khó đỡ như bất kỳ ai. Nhiều người đề xuất nên xem Hắn và thằng bạn là một quyển sách kinh doanh, nhưng thực ra không phải vậy: nhóm tác giả mong bạn xem đây là những bài viết ghi lại những trải nghiệm riêng của người viết, với những câu chuyện vui vẻ mà thôi. Rất hy vọng bạn đọc thấy hình ảnh của bản thân mình trong Hắn và thằng bạn, cũng như có những giờ phút giải trí thật vui, đồng thời rút ra được nhiều kinh nghiệm sống và kinh doanh cho chính bản thân mình. Mời các bạn đón đọc Hắn Và Thằng Bạn của tác giả Hạo Nhiên & Quốc Khánh.
Con Tiện Thỏ Này Phải Chết
Từ sau khi một con tiện thỏ đến thiên đình, nơi ở của các đại thần tiên trên thiên đình đều giăng biểu ngữ: Phòng cháy phòng trộm phòng con thỏ. Đồng thời, bách khoa toàn thư các cách chế biến thịt thỏ cũng bắt đầu bán chạy. Thường xuyên có thể nhìn thấy một đám thần tiên tay khua các loại pháp bảo, đuổi theo một con thỏ chạy khắp núi, hô hào: “Quần ẩu không quan trọng, da mặt có thể không cần nhưng con tiện thỏ này phải chết!” Người đi đường: "Vì sao con thỏ kia trâu bò như vậy? Cơ hồ tất cả thần tiên đều biết nó, bởi vì đáng yêu sao? Người qua đường Ất: "Không! Bởi vì tiện! Cũng không đúng, phải là rất tiện!" Một giấc chiêm bao Hoàng Lương sau đó 《 lão nạp phải hoàn tục 》 《 vạn giới trực tiếp chi đại thổ hào 》 về sau lại nhất tác phẩm mới, sắp ra mắt đến mọi người! P/s: Tìm kiếm loại mới, không theo khuôn sáo cũ, MỜI NHẬP HỐ *** Không phải một lão quái vật trong làng tiên hiệp, xuyên không. Cũng không phải tác phẩm lừng danh của một vị đại thần nổi tiếng. Vậy điều gì đã khiến cho Con Thỏ Này Phải Chết có sức hút lớn như vậy? Trước tiên phải kể đến là sự thành công của "Lão nạp phải hoàn tục". Cá nhân mình mà nói, xét về một phương diện nào đó "Con thỏ này phải chết" vẫn có một âm hưởng mãnh liệt hơn, sâu sắc hơn, đánh dấu sự trưởng thành trong văn phong của tác giả. Nhân vật chính Tần Thọ vốn là một thanh niên hiện đại, sau khi lập được đại công cứu được một đứa bé, không những không được nhà nước và nhân dân kính mến, ngưỡng mộ, còn vận cứt chó bị xuyên không tới một nơi tên "Cung trăng". Không có bàn tay vàng, không có hệ thống, không có thân phận bối cảnh, hắn thậm chí đến người cũng không làm được, chỉ có thể nhắm mắt hận đời làm một con thỏ. Làm thỏ cũng thôi đi, hắn vậy mà còn là một con thỏ sắp chết. Nhưng xưa nay có câu nhân vật chính ắt tự có lợi hại của riêng mình, nam chính sau khi được Hằng Nga hàng thật giá thật hi sinh bản thân để cứu về, cuối cùng cũng từ bỏ ý định tìm chết. Dù là thỏ, cũng phải là một con thỏ đứng trên vạn người, khiến chúng sinh kinh sợ, khiến toàn cõi thiên ma vì một con thỏ mà loạn lên một trận mưa máu gió tanh. Văn án: Từ sau khi một con tiện thỏ đến thiên đình, nơi ở của các đại thần tiên trên thiên đình đều giăng biểu ngữ: Phòng cháy phòng trộm phòng con thỏ. Đồng thời, bách khoa toàn thư các cách chế biến thịt thỏ cũng bắt đầu bán chạy. Thường xuyên có thể nhìn thấy một đám thần tiên tay khua các loại pháp bảo, đuổi theo một con thỏ chạy khắp núi, hô hào: “Quần ẩu không quan trọng, da mặt có thể không cần nhưng con tiện thỏ này phải chết!” Người đi đường: "Vì sao con thỏ kia trâu bò như vậy? Cơ hồ tất cả thần tiên đều biết nó, bởi vì đáng yêu sao? Người qua đường Ất: "Không! Bởi vì tiện! Cũng không đúng, phải là rất tiện!" Đánh giá: Truyện có điểm cộng là nội dung mới mẻ, độc đáo, không đi theo những lối mòn của đại đa số các bộ truyện tiên hiệp hiện nay. Tác giả viết chắc tay, đặc trưng lối viết hài hước, dí dỏm của Kê Vàng. Theo cảm nhận của mình thì tác phẩm này như một làn gió mới, với những cái "riêng" mà không thể tìm thấy ở bất cứ đâu. Bố cục truyện cũng rất ổn, cách dẫn dắt của tác giả thì khỏi bàn. Tóm lại, đây là một bộ truyện đáng đọc cho những ai cần tìm sự mới mẻ trong thể loại truyện không còn mới này. Điểm trừ duy nhất là một vài những chi tiết không quá quan trọng. Tuyến nhân vật phụ đặc sắc nhưng có phần hơi dài dòng, lan man. Đây cũng là hạn chế chung của các tác phẩm tiên hiệp, cho dù là các đại thần kì cựu nhất. Các lão làng trong thể loại này sẽ nhận ra truyện có một vài lỗ hổng về việc tu luyện của main. Vậy nên nếu các lão quái nếu muốn tìm một bộ truyện siêu phẩm về tu luyện thì đây không phải một lựa chọn tối ưu. Nhìn chung, truyện có một vài khiếm khuyết trong tuyến nhân vật, nhưng không làm mất đi sự cuốn hút đặc biệt của nội dung. Lối hành văn trôi chảy, hài hước cùng cách dẫn dắt truyện, cách khắc hoạ nhân vật rõ nét đã tạo nên một tác phẩm thành công và hấp dẫn. Hãy cùng khám phá xem, liệu một con thỏ cả ngày chỉ ăn rồi ngủ sau đó nằm chờ chết, sẽ làm thế nào để trở thành một con tiện thỏ khiến thần tiên nghe tới cũng phải khiếp sợ trong Con Tiện Thỏ Này Phải Chết nhé. ***   Mời các bạn đón đọc Con Tiện Thỏ Này Phải Chết của tác giả Nhất Mộng Hoàng Lương.