Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyện Kể Genji - Murasaki Shikibu

Truyện kể Genji (源氏物語), là một trường thiên tiểu thuyết của nữ sĩ cung đình Nhật Bản có biệt danh là Murasaki Shikibu sống dưới trướng của thứ phi Akiko trong cung Fujitsubo, triều đại Thiên hoàng Nhất Điều (986-1011), không rõ tên thật của bà là gì. Truyện được sáng tác vào khoảng những năm 1010 thời đại Heian bằng chữ viết kana, theo thể loại monogatari (truyện) cổ điển đã có lịch sử phát triển từ 200 năm trước đó của Nhật Bản. Xoay quanh hình tượng nhân vật hoàng tử Genji trong phần chính và Kaoru, người con trai trên danh nghĩa của Genji trong phần thập thiếp cùng mối quan hệ của họ với những người phụ nữ, tác phẩm gồm 54 chương, thuộc một trong những truyện rất lớn về dung lượng, rất phức tạp về nội dung và rất quyến rũ về mặt hình thức trong lịch sử văn học thế giới. Trở thành một hiện tượng có một không hai đối với văn học nhân loại vào thời kỳ trung cổ tiền Phục Hưng: về mặt lịch sử truyện được đánh giá là tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, sớm hơn rất nhiều so với sự ra đời của tiểu thuyết ở châu Âu với tác phẩm Đôn Kihôtê của Miguel de Cervantes vào thế kỷ 16 *** Murasaki Shikibu (Kana: むらさきしきぶ; Kanji: 紫式部, Hán Việt: Tử Thức Bộ; 978 - 1016) là biệt hiệu của một nữ văn sĩ cung đình thời Heian Nhật Bản, tác giả của cuốn tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, kiệt tác Truyện kể Genji, được viết bằng tiếng Nhật vào khoảng năm 1000 đến 1012. Cái tên Murasaki Shikibu chỉ là biệt hiệu của bà, không ai biết rõ tên thật của bà là gì và bà sinh ra ở đâu, chỉ biết bà thuộc dòng dõi dòng họ Fujiwara và mất tại Tokyo, tuy một địa điểm tham quan phía Bắc Kyoto hiện nay được coi như mộ của bà. Murasaki Shikibu thuộc cành thứ của dòng họ lớn đang trị vì đất nước là họ Fujiwara. Thành viên của gia tộc này làm chức nhiếp chính thay cho các Thiên hoàng trong suốt phần lớn thời Heian, cùng tổ phụ về phía họ nội 6 thế hệ trước đó với Fujiwara Michinaga, quan đại chưởng ấn điều khiển việc nước trong buổi đầu thế kỷ 11. Tuy nhiên khi Murasaki Shikibu mới ra đời chi họ của bà bị tụt xuống hạng thứ trong giới quý tộc cung đình. Cha bà, ông Fujiwara no Tametoki (藤原為時) chỉ là một nhà thơ, người có địa vị khiêm nhường ở thủ đô và đã 2 lần làm tỉnh trưởng tỉnh Echizen. Không ai biết gì nhiều về thời thơ ấu của Murasaki Shikibu ngoài những điều bà tự nói với chúng ta. Trong lời mào đầu nổi tiếng của cuốn Nhật ký Murasaki Shikibu (Murasaki Shikibu nikki) mô tả các biến cố triều đình từ cuối 1008 đến đầu 1010 cho chúng ta biết cha bà, thấy con gái có khả năng trong việc học hành, đã than phiền bà không sinh ra là con trai. Cha bà trở thành tỉnh trưởng Echizen ở duyên hải Biển Nhật Bản, phía bắc Tokyo, vào năm 990 và bà đã đi theo cha đến nơi nhậm chức cho đến khi lấy chồng thì trở về. Murasaki vào triều hầu hạ thứ phi Akiko, con gái của Michinaga, trong cung điện Fujitsubo thời Thiên hoàng Ichijō (986-1011) trong khoảng giữa thập niên đầu của thế kỷ 11. Cuốn Nhật ký Murasaki Shikibu của Murasaki có nhắc đến sự ra đời của hai người con trai hoàng hậu và cả hai hoàng tử sau đó đều trở thành vua. Trong nhật ký của mình Murasaki cho biết bà vào triều ngày 29 tháng 12 âm lịch nhưng không cho biết năm, có thể là năm âm lịch 1005 và/hoặc 1006. Hoàng hậu Akiko góa chồng năm 1011, khi Thiên hoàng Ichijo băng hà, và Murasaki Shikibu còn ở lại trong cung phục vụ hai năm tiếp theo. Chịu sự giáo dục chu đáo, tỉ mỉ của một phụ nữ trẻ cùng tầng lớp trong cung, và mặc dầu có một trí tuệ khác thường, Murasaki Shikibu đã phải tiếp thu một cách chậm chạp nhưng chắc chắn tất cả những kiến thức văn hóa rộng lớn đương thời mà người thiếu phụ này truyền cho, từ lịch sử Trung Hoa, thơ ca trữ tình Trung Hoa và Nhật Bản cho đến các trước tác triết học Khổng giáo và Phật giáo. Về truyện hư cấu bằng văn xuôi, bà cũng chỉ biết không nhiều hơn là những trước tác buổi đầu của chính người Nhật Bản vào thế kỷ 10 và ngay cả văn xuôi trong văn học Trung Hoa đương thời, vốn không phải là loại hình được người Trung Hoa ca ngợi hay thành thạo vào thời đó. Murasaki Shikibu lấy chồng khoảng năm 998 hoặc năm 999, chồng là một người bà con xa với bà. Có lý do để tin rằng, so với thời bấy giờ bà lấy chồng khá muộn, có lẽ vào tuổi 20. Bà sinh được một con gái vào năm 999 và góa bụa vào năm 1001. Chịu nhiều đau khổ sâu sắc trong đời tư nên Murasaki Shikibu đã sớm rút lui khỏi thế giới trần tục và dồn sinh lực của đời mình vào việc học tập cũng như sáng tạo nghệ thuật. Bà đã đạt được những thành tích xuất sắc trong âm nhạc, thơ, hội họa, và đặc biệt là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Truyện kể Genji 54 chương, viết xong vào khoảng năm 1004, một kiệt tác đứng vào hàng lớn nhất của văn xuôi cổ điển Nhật Bản cũng như văn xuôi nhân loại. *** KIRITSUBO Dưới triều của một vị vua không rõ thời nào, trong số rất nhiều thứ phi và cung nữ, có một người tuy không thuộc dòng dõi quý tộc có đẳng cấp cao nhưng lại được nhà vua hết mực yêu chiều. Ngay từ đầu, nàng đã bị những người có địa vị cao và tự đắc về thân thế của mình ganh ghét, cho là vô lễ. Những người ngang bằng hoặc thấp hơn nàng về địa vị thậm chí còn khó chịu với nàng hơn. Ngày ngày, khi phụng sự nhà vua trong cung, nàng đã làm cho những người khác bực mình vì ghen tỵ. Và có lẽ vì những hờn giận ấy chồng chất quá nhiều nên sức khỏe của nàng cứ yếu dần. Nàng cảm thấy buồn phiền, cô đơn và hay trở về quê. Nhà vua lại càng thấy tội nghiệp cho nàng, không để tâm đến những lời đàm tiếu xung quanh. Tình cảm của nhà vua dành cho nàng trở thành một đề tài đàm tiếu quen thuộc của người đời. Tình yêu ấy khiến cho cả các vị quan lớn trong triều cũng cảm thấy bất ổn và cứ ngoảnh đi không muốn nhìn trực tiếp. Ở Trung Quốc thời Đường cũng xảy ra một chuyện như thế đã làm cho tình hình xã hội xấu đi dẫn đến loạn lạc. Dần dà, người đời cũng cho rằng đây là chuyện không hay và đem ví với chuyện nàng Dương Quý Phi với vua nhà Đường. Nàng cung phi ấy rất đau khổ nhưng vẫn sống nhờ vào tình cảm cao quý hiếm có mà nhà vua dành riêng cho nàng. Bố nàng là quan Dainagon nhưng đã qua đời. Mẹ nàng - được gọi là phu nhân sống ở cung phía Bắc - là một người nệ cổ và có hiểu biết. Nàng được bố mẹ dạy dỗ để có thể đảm đương mọi chuyện lễ nghĩa trong cung đình không kém gì những người được xã hội đương thời trọng vọng nhưng nếu có chuyện gì thì vẫn thiếu người hậu thuẫn, nên không khỏi cảm thấy cô đơn vì thiếu nơi nương tựa mỗi khi có chuyện bất ngờ. Có lẽ vì duyên nợ sâu nặng từ tiền kiếp, nàng cung phi Kiritsubo đã sinh hạ một hoàng nam có vẻ đẹp rực rỡ lạ thường và trong sáng như một viên ngọc quý. Nhà vua rất nóng lòng mong được gặp con nên khi vừa hết thời gian ở cữ là ngài vội vã mời cung phi và hoàng tử về cung. Trông thấy hoàng tử lúc ấy mới là một đứa trẻ sơ sinh, nhà vua đã nhận thấy con mình có khí sắc phi thường. Hoàng tử thứ nhất của nhà vua là con của hoàng phi con gái quan Hữu đại thần, có thế lực hậu thuẫn rất tốt tại triều đình và theo sự ngưỡng vọng của dân tình lúc đó thì "chuyện chàng được kế thừa ngôi vua không còn gì có thể nghi ngờ nữa". Nhưng hoàng tử mới ra đời lại có vẻ đẹp không ai sánh bằng. Vì thế nhà vua vẫn hết lòng yêu quý hoàng tử thứ nhất như một người con bình thường, còn với hoàng tử mới sinh thì ngài dành cho một tình yêu vô hạn và nâng niu như một báu vật của riêng mình. Mẹ của chàng hoàng tử vốn không phải thuộc loại cung nữ tầm thường chỉ chuyên làm công việc hầu hạ. Mọi người đều biết rằng nàng được nhà vua hết mực yêu thương và cũng có địa vị khá cao trong cung đình. Nhà vua lúc nào cũng muốn giữ nàng bên cạnh. Bất cứ cuộc vui tao nhã nào trong cung, nhà vua cũng cho gọi nàng trước hết. Cũng có lúc nhà vua qua đêm với nàng, và hôm sau lại tiếp tục giữ nàng ở lại không cho về, nên tất nhiên nàng bị những người khác coi thường, cho là loại người thiếu ý tứ và hời hợt. Sau khi nàng sinh hạ hoàng nam thì tình yêu thương của nhà vua đối với nàng càng sâu đậm hơn bao giờ hết. Vì vậy mẹ của hoàng tử thứ nhất cũng lo lắng nghĩ rằng "biết đâu hoàng tử nhỏ này chiếm được vị trí đông cung". Hoàng phi này vào cung sớm nhất và cũng được nhà vua rất yêu thương, quý trọng. Nàng cũng đã sinh cho nhà vua hoàng tử và các công chúa nhưng đôi khi những điều nàng hay phàn nàn không khỏi làm cho nhà vua cảm thấy "phiền toái, buồn lòng". ... Mời các bạn đón đọc Truyện Kể Genji của tác giả Murasaki Shikibu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bước Khẽ Tới Người Thương - Nhã Ca
H iền lại phạm thêm một lỗi lầm nữa, và ăn năn. Ai mượn Hiền leo lên chiếc xe xích lô đạpđã chớ. Khi vội, sao không gọi chiếc tắc xi. Nhưng Hiền tự chống chế: Mưa mù mịt thấy gì đâu.Xe cộ nào chạy đâu? Có chiếc xích lô, thà leo lên đại. Hiền muốn giục ông xích lô đạp nhanh chút nữa. Nhưng ngồi kín bít bung như thế này, có hét, ông cũng chẳng nghe ra đâu. Người ta đôi khi chậm một chút mà hỏng cả một đời đấy chứ. Ví dụ như Hiền tới không kịp. An chết trước vài phút, thì sẽ ra sao nhỉ? Hiền sẽ sốnh với ám ảnh ghê gớm lắm. Mưa gió thế này. An lại yếu như ngọn đèn sắp tắt. Thê thảm quá. Nghĩ tới An, nằm thoi thóp trong bệnh viện, phấn đấu với thần chết từng giây phút để chờ Hiền. Hiền muốn ứa nước mắt. Anh An Hiền đã đến với anh đây, đến để gật đầu cho anh thấy. Không phải vì nhân đạo, vì lương tâm hay cứu người gì hết, mà vì Hiền yêu An. Yêu thật. Yêu nặng. Ví dụ, lúc Hiền tới, cả nhà đang đông đủ ngồi bên An. Hiền cũng vào như thường. Tưởng tượng An nằm trên giường mặt trắng như sáp, và hơi thở mong manh. An chờ đợi ,An nuối Hiền. Và cả nhà khóc ơi là khóc. Hiền đẩy cửa đi vào. Hiền đẩy cửa thật nhẹ, và bước thật khẽ. Rồi Hiền tới bên giường An. Cả nhà thấy Hiền lại òa lên khóc. Họ phải biết An chờ Hiền chứ. Ðến phút này thì còn đấu diếm gì ai nữa. Hiền còn cần thẹng thùng xấu hổ gì nữa. Hiền dám công khai. Hiền cúi xuống gọi chớ sợgì:- Anh An ,An còn nghe được không? Chắc còn thở thì còn nghe được. Và An nhướng mắt lên. An trông thây Hiền rồi. Trong đôi mắt đang dại dần , ánh lên những tia sáng mừng vui. Miệng An mấp máy. Phải mấp máy chứ, vì An còn ngậm mãi câu hỏi trong miệng:- Hiền yêu An không? Hiền sẽ cầm tay An, và Hiền khóc. Hiền gật đầu, trả lời câu hỏi của An chỉ có Hiền hiểu:- An Hiền có, có thương An. Thương? Hẳn An chưa hài lòng câu trả lời đó. Và mặt An tái đi,An ho. Máu bắn ra dữ quá. Maú bắn lên cả áo Hiền nữa. Hiền gật đầu rối rít:- Anh An ,Hiền yêu anh. Ðó, Hiền trông rõ nụ cười của An. Nụ cười, chao ơi, suốt đời Hiền sẽ ghi nhớ. Và An khẽ đưa tay ra, khẽ cầm chặt tay Hiền úp lên ngực. Và với nụ cười cứ mơ hồ phảng phất trên môi, An đi rất nhẹ nhàng. Mọi người chung quanh sẽ khóc ghê lắm. Còn Hiền ,Hiền chỉ ngồi bên An, tay còn đặt lên trái tim đang lạnh dần của An, và nhỏ nước mắt. Mưa đã khóc dùm Hiền biết bao nhiêu lệ rồi. Hiền sẽ yêu cầu tắt hết điện, để chỉ thắp trong phòng An một ngọn nến. Rồi sau đó, Hiền trả cái xác của An cho gia đình chàng. Hiền với linh hồn An ra đi,trong mưa. Ði đâu nhỉ? Có lẽ phải trở lạinhà Huyên,và nói với Huyên: - Huyên ơi. Thế là hết. Không, phải tìm một câu nào cho thật văn hoa, để Huyên phải ứa nước mắt , phải khóc cho cuộc tình quá đẹp, lại quá mong manh, và tan vỡ. Có lẽ Hiền sẽ nói thế này: - Huyên ơi, tụi này đã mất nhau trong đời. *** Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Bước Khẽ Tới Người Thương của tác giả Nhã Ca.
Giai Điệu Của Annie - Catherine Anderson
Annie - một cô gái bị tất thảy mọi người coi là loạn trí sau một trận ốm lúc nhỏ. Cô lớn lên xinh đẹp như một bông hoa rừng nhưng bị mọi người xa lánh, cha mẹ coi như nỗi hổ thẹn của gia đình. Bất hạnh hơn nữa cô bị một gã trai nhà giàu vô tích sự cưỡng bức. Và kết quả là người anh trai gã phải lĩnh trách nhiệm lấy cô về để đảm bảo cho cháu mình sẽ không bị cho vào trại mồ côi. Cứ nghĩ câu chuyện sẽ đầy những dằn vặt, đau khổ, những đôi mắt đau đáu, những tội lỗi không gột rửa được, và đến hết truyện, cho dù tác giả có bảo hạnh phúc gì đó, vẫn gợn nỗi đau. Ấy thế mà không, với khả năng kể chuyện tài tình của tác giả khiến cho độc giả hoàn toàn bất ngờ. Khi Alex buồn bã mang Annie về như một gánh nặng, anh không ngờ mình mang về một kho báu, mà càng ngày, kho báu ấy càng cho thấy sự vô giá của nó. Khi Annie nghe Alex nói cô là vợ anh, cô đau khổ không hiểu sao mình làm đám cưới mà chẳng có quà, để rồi biết anh là món quà tuyệt vời nhất trong đời. Bạn sẽ chăm chú xem Alex vén dần bức màn bí mật quanh cô gái Annie như thế nào. Bạn sẽ bật cười khi được nhìn từ cái nhìn đầy ngây ngô của Annie với thế giới xung quanh. Bạn sẽ dõi theo sự lúng túng của Alex khi phải kiểm soát những cảm xúc đang dâng lên của mình với Annie - người vợ để đương đầu với Annie - đứa trẻ. Bạn sẽ thấy thú vị với bà quản gia thông thái và ông bác sĩ giàu lòng trắc ẩn, những nhân vật góp phần quan trọng để hai người tìm đến với nhau. *** Catherine Anderson sinh ngày 22 tháng 12 năm 1948 tại Hoa Kỳ, là một trong những nữ nhà văn ăn khách nhất trong thể loại truyện lãng mạn. Một số tác phẩm của bà: Điệu Waltz dưới ánh trăng, Gió mùa hè,... *** Ánh nắng tràn qua cửa sổ phòng ăn, tạo một quầng sáng vàng óng quanh Annie, cô đang ngồi bên bàn, đầu cúi xuống, ánh mắt chăm chú vào thứ gì đó trong lòng mình. Dù lấy nhau đã gần ba năm nhưng Alex chưa bao giờ hết biết ơn Chúa vì đã ban cho cuộc đời anh một người con gái yêu kiều, anh ngập ngừng ngay ngoài cửa ra vào để ngắm nhìn cô một lúc. Nhìn vào đĩa thức ăn của cô, thấy rằng cô đã bỏ bữa sáng suốt ba ngày nay rồi. Không khỏi lo âu, Alex sải bước vào phòng. Gabby, con chó lông xù trắng mà Alex đã tặng cô hai năm trước, chắc đã cảm nhận được bước chân của cậu chủ rung trên sàn, vì nó nhổm lên từ giấc ngủ rồi bắt đầu nhảy nhót quanh ghế Annie, sủa inh tai suốt cả lúc ấy. Nhận thấy âm thanh đó, Annie nhìn lên từ thứ mà giờ Alex mới thấy được đó là một mảnh khăn thêu. “Chào buổi sáng”, cô nói cùng nụ cười ấm áp. “Chào buổi sáng.” Mặt mũi nhăn nhó như đau đớn, Alex liếc xuống con chó om sòm. Vì tiếng sủa chói tai của loài động vật này là một trong số ít những âm thanh mà vợ mình nghe được, nên anh cố nén không phàn nàn. Dù khá vô dụng nhưng chú chó xù này vẫn đáng giá ngàn vàng khi luôn biết sủa lớn để báo cho Annie biết rằng bé Bart khóc. Gabby, cái tên rất phù hợp với nó, còn sủa để Annie biết nếu có ai đó gọi cô hay gõ cửa, giúp cô kịp phản ứng với các âm thanh khác mà cô có thể bỏ lỡ. Cười nhỏ nhẹ, Annie đặt mảnh khăn thêu sang một bên rồi cúi xuống chụp tay lên mõm con Gabby. “Đủ rồi”, cô nhẹ nhàng nói với nó. ... Mời các bạn đón đọc Giai Điệu Của Annie của tác giả Catherine Anderson.
Chai Thời Gian - Praphatsorn Seiwikun
Tác phẩm yêu thích nhất của thanh thiếu niên Thái Lan "Nếu cất được thời gian trong chai Điều đầu tiên tôi mong được làm Là chắt chiu dành dụm từng ngày Cho tới khi vĩnh hằng trôi qua Chỉ để dành trọn chúng bên em..." Chai thời gian, ca khúc xưa cũ đã cùng Fatso đi qua tuổi niên thiếu bỗng êm ả vang lên trong một quán cóc nhỏ, gọi về những kỷ niệm... Kỷ niệm mang bóng hình một mối tình đơn phương lặng lẽ, với con đường nhỏ rợp bóng cây kèn hồng còn vương tiếng cười của đám bạn sau giờ tan lớp. Fatso, em gái, những người bạn thân, đã tiến tới ngưỡng cửa trưởng thành trong niềm vui niên thiếu, với cú sốc đầu đời khi gia đình tan vỡ, với cả cần sa, với bao lựa chọn khó khăn, khi vô tình bị cuốn vào những biến cố xã hội. Để rồi khi nhìn lại, chợt thấy tuổi trẻ như một bức tranh ghép với những mảng sáng tối, gợi những nỗi niềm man mác... Chai thời gian, cuốn tiểu thuyết bestseller nổi bật với thế hệ học sinh sinh viên Thái thập niên 1970, khám phá khoảng cách thế hệ giữa cha mẹ và con cái trong một gia đình Bangkok trung lưu, những nhức nhối của hành trình trưởng thành, những giằng xé giữa tình bạn tình yêu trong trái tim tuổi mới lớn. Được khắc họa qua những khúc hồi tưởng đặc biệt ấn tượng và gần gũi, thế giới xúc cảm đó vừa thân thuộc vừa tươi mới, mang thời thanh xuân trở lại ngập tràn tâm hồn người đọc. "Tôi vẫn hay tự hỏi mình câu hỏi cũ ấy, rằng nếu tôi có thể giữ thời gian đứng yên, liệu tôi có thể có được tất cả những gì mình mong ước... Tôi vẫn còn nhớ những ngày chúng tôi đi bộ trên con đường rợp bóng cây kèn hồng; những ngày nắm tay nhau làm thành một đoạn xích để một đứa với ra rìa đầm lầy hái đài sen rồi chia nhau ăn; những ngày túm cặp của nhau không cho đứa nào lên xe buýt trước; và tất cả những ngày Jom cùng tôi sánh bước, khoác trên vai hộp đàn đến quán cóc, nơi mà chúng tôi sẽ nhét hàng đống xu vào máy hát nghe Chai thời gian hết lần này đến lần khác." *** Ca khúc “Chai thời gian” của Jim Croce phát ra từ chiếc máy hát tự động của một quán cà phê nhỏ ven đường khiến tôi dừng bước. Từ lâu, rất lâu rồi, tôi đã không nghe lại bài hát này, như thể nó đã biến mất khỏi kí ức của mọi người và bị ém nhẹm vào một xó xỉnh tối tăm nào đó. “Này Béo, đừng về vội.” Một giọng nói trong trẻo vang lên từ góc phòng. Tôi ngẩng đầu khỏi hộp đàn vĩ cầm, ngạc nhiên quay về phía người nói. “Chị chưa muốn về nhà.” Chủ nhân của giọng nói xách hộp đàn vĩ cầm đi về phía tôi. “Muốn đi loanh quanh một chút.” “Vậy đi cà phê đâu đó nhé?” tôi gợi ý, đoạn đưa tay gạt một lọn tóc dính trên trán. Chị gật đầu thay câu trả lời. “Tóc cậu lại dài ra rồi đấy.” Chị nhìn tôi. “Tốt nhất là đi tỉa đi.” “Vội gì,” tôi vừa đáp vừa chìa tay đỡ lấy hộp đàn của chị. “Để em cầm.” “Cảm ơn,” chị lầm bầm gỡ cặp khỏi vai tôi. “Bọn mình bỏ đám này vào ô tô đi, đỡ phải vác theo.” “Chị nói cứ như mấy thứ này nặng bằng cả trái đất ấy.” Tôi bật cười bước đi, hai tay duỗi thẳng, mỗi tay xách một hộp đàn vĩ cầm, chị đi đằng sau ôm cặp sách của tôi. “Chú Maen!” chị gọi người lái xe đang ngồi đợi trên ghế băng trước cửa phòng nhạc. “Chú cho cặp sách và hai cái đàn này vào xe đi.” “Vậy còn cô thì sao ạ, thưa cô?” Chú Maen đỡ lấy đàn và cặp, nhìn chị dò hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Chai Thời Gian của tác giả Praphatsorn Seiwikun.
Nhạn - Mori Ogai
Văn học thời Minh Trị ghi dấu ấn của hai tác gia lớn là Natsume Soseki (Hạ Mục, Thấu Thạch) 夏目漱石 (1867-1916) và Mori Ogai (Sâm, Âu Ngoại) 森鴎外 (1862-1922). Là thế hệ nhà văn tiếp xúc với tri thức và văn minh phương Tây (Natsume đi du học Anh, Mori Ogai đi du học Ðức), cả hai người đều có những đóng góp quan trọng trong việc cách tân văn học Nhật Bản cận đại. Trong khi Natsume được dịch và giới thiệu với độc giả Việt hầu hết những tác phẩm quan trọng thì Mori Ogai chưa có được cái may mắn ấy. Khác với tác giả của “Nỗi lòng” 心 và “Từ đó về sau” それから hầu như chỉ chuyên tâm sáng tác, Mori Ogai ngoài văn chương dịch thuật còn tham gia quân ngũ. Chính Mori Ogai là người khởi xướng tạp chí văn học “Phên giậu” Shigarami soshi しがらみ草紙 và đã dịch tác phẩm “Faust” lừng danh của Goethe ra Nhật ngữ. Ngoài sự nghiệp dịch thuật và binh nghiệp lẫy lừng (làm đến chức Tổng trưởng Quân y Lục quân), văn nghiệp Mori Ogai cũng rất phong phú và trải qua nhiều biến chuyển gắn liền với lịch sử văn học Nhật Bản hiện đại. Vì thế chúng tôi chọn dịch một tác phẩm tiêu biểu của Mori Ogai, tiểu thuyết “Nhạn” 雁 . Quyển tiểu thuyết này gồm 24 chương ngắn không có nhan đề được cấu trúc theo như chính lời tác giả ở chương 24: “Một nửa câu chuyện này là những chuyện xảy ra khi tôi với Okada còn chơi với nhau thân thiết, một nửa còn lại là nghe Otama mà tôi quen sau này kể lại sau khi Okada đã ra đi. Cũng giống như hai mảnh trái phải của một bức tranh dưới kính thực thể cùng phản chiếu một ảnh tượng, câu chuyện này là ghép và tương chiếu những điều tôi thấy trước đó và những điều nghe kể sau này”. Tuy vậy, theo nhà nghiên cứu Takemori Tenyu[1] ở phần giải thích tác phẩm cho rằng, “Câu chuyện được tái cấu thành từ “hai mảnh trái phải của một bức tranh”, tức là “những điều thấy trước đó và những điều nghe kể sau này”. Tính chất của sự tái cấu thành này không chỉ trong quyển “Nhạn” mà còn là điểm cần phải chú ý xuyên qua chỗ thâm sâu của văn nghiệp Ogai”[2]. Takemori Tenyu cũng cho rằng vấn đề tái cấu thành này có bao hàm yếu tố phức tạp. Khi phân tích cụ thể tác phẩm ta có thể nhận ra 27 tình tiết. Chẳng hạn từ chương 1 đến chương 3 ta thấy có 5 tình tiết như sau: 1. “Tôi” dọn về khu nhà trọ Kamijo. Thời điểm là năm “Minh Trị thứ 13”. (Chương 1) 2. Okada, sinh viên trường y, dọn đến trọ sát phòng của nhân vật “tôi”. (Chương 1) 3. “Tôi” do mua quyển truyện “Kim Bình Mai” ở nhà sách cũ mà quen thân với Okada. (Chương 1) 4. Căn nhà phòng nhì nơi con dốc Vô Duyên. (Chương 2) 5. Truyện về “cô gái ngồi bên cửa sổ”. (Chương 2, 3) Và “sau khi thử kiểm tra các tình tiết truyện, tôi (Takemori) đi đến suy nghĩ rằng đây không phải là nguyên vẹn một “câu chuyện cũ” của nhân vật “tôi”. Hơn nữa khi giản lược hóa câu chuyện đến đoạn cuối từ chương 22 đến chương 24 ta lại có thể lấy ra được 5 tình tiết khác. I. Bữa ăn tối ở phòng trọ Kamijo có món cá saba hầm súp miso. (Chương 22) II. Cuộc gặp gỡ giữa Otama, Okada và “tôi” ở con dốc Vô Duyên. (Chương 22, 24) III. Câu chuyện về con ngỗng trời. (Chương 22, 23) IV. Chuyện Okada đi du học Tây phương. (Chương 23, 24) V. Các chuyện về sau và giải thích phương pháp viết. (Chương 24) Tình tiết truyện từ I đến IV với tình tiết 1 đến 5 trước đó gần gũi về mặt thời gian, tuy nói là tồn tại với tư cách “nguyên hình” (hình dạng ban đầu, tự nhiên, chưa chỉnh sửa) nhưng chẳng phải là những tình tiết riêng biệt hay sao?”[3] Còn về nội dung thì tác phẩm này xoay quanh chuyện tình của ba nhân vật chính là Suezo, Okada và Otama. Tuy gọi là tình tay ba nhưng thực ra chỉ xoay quanh tâm tình của Otama. Suezo hoàn toàn không hay biết gì về tình địch còn Okada thì chỉ như người đi qua đường, một lần giúp đỡ mỹ nhân mà còn chút gì lưu luyến. Con dốc Vô Duyên là một địa danh có thật nhưng nó cũng hàm chứa ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật. Ðiềm báo của một cuộc tình không thành. Như một tấm tranh cuộn dần dần được mở ra, các nhân vật từ từ xuất hiện cùng những biến chuyển tâm lý qua các hoàn cảnh được Mori Ogai khắc họa rất sắc nét. Tâm trạng thất thường của người cha khi an ổn tuổi già nhớ nhung con gái, toan tính con buôn của Suezo, nỗi muộn phiền của người vợ Otsune, sự chuyển biến từ ngây thơ đến dạn dày của Otama, cả những giằng xé của Okada và của cả nhân vật “tôi”, thói ba hoa của Ishihara lần lượt điểm tô cho tấn tuồng có ba nhân vật chính. Với giọng văn thong dong, điềm đạm và các câu văn gãy gọn rõ ràng, Mori Ogai kể lại cho chúng ta một câu chuyện đầy đủ chương hồi. Tác phẩm dần dần mở ra như một bộ phim quay chậm, như chiếc đèn kéo quân. Trên đó những toan tính, dằn vặt, mâu thuẫn gia đình, bản chất con người dần dần hiện lên rõ ràng minh bạch. Nhân sinh từ ngàn đời nay, dù nơi nào cũng vậy, cũng diễn đi diễn lại một vở tuồng. Có trung có nịnh, có khao khát đam mê, có tuyệt vọng thẫn thờ, có những toan tính nhỏ nhen với những ước vọng phi thường. Tuy chỉ có chừng ấy nội dung nhưng cách diễn đạt và hình ảnh mỗi thời mỗi khác với văn phong riêng biệt của từng tác gia khiến chúng ta mỗi lần xem là một lần cảm thấy tươi mới. Cũng như một bàn cờ tướng chỉ có ba mươi hai quân mà thiên biến vạn hóa, bàn cờ vây chỉ hai màu trắng đen mà mấy ngàn năm để lại biết bao nhiêu huyền thoại, diễn ra biết bao nhiêu trận thư hùng. Mori Ogai đã mang đến cho chúng ta thêm một phối cảnh mới của vở kịch đời với sắc màu riêng biệt độc đáo Nhật Bản. Qua biến thiên dâu bể hàng trăm năm, tác phẩm vẫn ngời sáng lung linh một ngọn lửa tinh thần bất diệt. Nagoya, ngày 23/2/2013 Hoàng Long Mời các bạn đón đọc Nhạn của tác giả Mori Ogai.