Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sau Cánh Cửa Đóng

Jack tài năng và lịch lãm, còn Grace xinh đẹp và thành công. Trong mắt mọi người, họ là một cặp đôi hoàn hảo. Thậm chí, thử thách duy nhất cho mối quan hệ tưởng chừng không gì có thể hủy hoại của họ - sự xuất hiện của Millie, người em gái bị bệnh Down và hoàn toàn sống dựa vào Grace - dường như chỉ là chất xúc tác để họ nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, sự bao dung và lòng vị tha vô bờ bến của nhau… Nhưng, liệu có thật là như thế, hay thực ra, cái tam giác Jack - Grace - Millie chính là căn nguyên cho một bi kịch khủng khiếp, là vỏ bọc hoàn hảo để kẻ ác tự do đùa giỡn và hành hạ con mồi của mình?  Và, có mấy ai biết đến sự tồn tại của những bí mật kinh khủng, trái ngang đằng sau cánh cửa luôn khép chặt của một gia đình lý tưởng, nơi hạnh phúc hoàn hảo và tội ác hoàn hảo nhiều khi chỉ cách nhau một cánh cửa đóng? *** HIỆN TẠI Chai sâm panh va vào bệ đá hoa cương trong bếp khiến tôi giật nẩy người. Tôi đưa mắt nhìn Jack, hy vọng anh không nhận thấy tôi đang căng thẳng đến nhường nào. Anh mỉm cười khi bắt gặp tôi đang nhìn. “Hoàn hảo,” anh nhẹ nhàng nói. Jack cầm tay tôi dắt ra chỗ khách khứa đang chờ. Trên đường đi qua hành lang, tôi thấy cây loa kèn đang nở hoa được Diane và Adam tặng để chúng tôi trồng trong vườn. Hoa màu hồng đẹp đến mức tôi hy vọng Jack sẽ trồng ở nơi tôi ngắm được từ cửa sổ phòng ngủ. Chỉ cần nghĩ tới khu vườn là nước mắt đã trào lên trong lòng, nhưng tôi vội nuốt xuống. Vào một đêm sống còn như đêm nay, tôi phải tập trung vào thực tại. Lửa đang cháy đều trong lò sưởi cổ tại phòng khách. Đã là cuối tháng Ba nhưng không khí vẫn tê cóng, mà Jack thì muốn khách khứa của chúng tôi được thoải mái hết mức. “Nhà cậu tuyệt thật đấy, Jack ạ,” Rufus ngưỡng mộ nói. “Em có thấy thế không, Esther?” Tôi không biết cả Rufus lẫn Esther. Họ mới chuyển tới khu này và đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, thành ra tôi càng căng thẳng. Nhưng vì không được phép để Jack thất vọng nên tôi phải cố nhoẻn miệng cười, thầm cầu nguyện họ sẽ quý mình. Esther không mỉm cười đáp lại, tôi đoán cô đang dè dặt phán đoán. Nhưng tôi không trách cô được. Kể từ tháng vừa rồi sau khi cô kết bạn với chúng tôi, tôi biết chắc cô đã được nghe đi nghe lại rất nhiều lần rằng Grace Angel, vợ của chàng luật sư sáng giá Jack Angel, là ví dụ hoàn hảo cho một phụ nữ có mọi thứ trên đời - ngôi nhà hoàn hảo, tấm chồng hoàn hảo, cuộc sống hoàn hảo. Nếu là Esther, tôi cũng sẽ dè dặt với tôi như thế. Ánh mắt tôi rơi xuống hộp kẹo sô cô la đắt tiền cô vừa lấy ra khỏi túi xách và một cảm giác kích động chợt dấy lên trong lòng. Không muốn cô đưa hộp kẹo cho Jack, tôi nhẹ nhàng đưa tay về phía cô và theo bản năng, cô chìa hộp kẹo cho tôi. “Cảm ơn cô, trông ngon quá,” tôi cảm kích nói, đặt hộp kẹo lên mặt bàn uống nước để lát nữa khi uống cà phê sẽ mở ra. Tôi thấy khoái Esther. Cô đối lập hoàn toàn với Diane - cao, tóc vàng, người mảnh dẻ, tính kín đáo - và tôi không thể không đánh giá cao cô vì cô là người đầu tiên bước vào nhà chúng tôi mà không nói mãi về vẻ đẹp của nó. Jack nhất quyết đòi tự chọn nhà, bảo ngôi nhà chính là quà cưới cho tôi, vậy nên mãi đến khi chúng tôi trở về sau tuần trăng mật, tôi mới thấy nó lần đầu tiên. Mặc dù Jack đã nói trước là ngôi nhà thực hoàn hảo cho chúng tôi, nhưng tôi không hoàn toàn hiểu hết ý anh, cho tới lúc tận mắt nhìn thấy nó. Nằm trên khu đất rộng lớn ở tận cuối làng, ngôi nhà mang lại sự riêng tư Jack hằng khao khát, đồng thời trao cho anh đặc quyền được làm chủ ngôi nhà đẹp nhất Spring Eaton. Và cũng là ngôi nhà an ninh nhất, được trang bị hệ thống báo động phức tạp, với những cánh cửa chóp bằng thép bảo vệ cửa sổ tầng trệt. Quả cũng kỳ quặc khi những cánh cửa này thường xuyên đóng im ỉm cả ngày, nhưng như Jack vẫn luôn nói mỗi khi có người hỏi đến, một trong những ưu tiên hàng đầu với một người làm công việc như của anh chính là an ninh. Tường phòng khách nhà chúng tôi treo rất nhiều tranh, nhưng mọi người thường bị thu hút bởi bức tranh vải bạt khổ lớn màu đỏ phía trên lò sưởi. Mặc dù đã từng thấy bức tranh này, Diane và Adam vẫn không cưỡng nổi mà phải bước lại gần ngắm thêm lần nữa, Rufus cũng theo họ, còn Esther thì ngồi xuống một trong những chiếc sofa da màu kem. “Thật kỳ diệu,” Rufus nói, mê mẩn ngắm hàng trăm đốm nhỏ li ti đã làm nên phần lớn bức tranh. “Tên tranh là Đom đóm,” Jack nói trong khi tháo sợi dây thép cột nút cổ chai sâm panh. “Tôi chưa từng thấy thứ gì tương tự thế này.” “Grace vẽ đấy,” Diane bảo anh ta. “Anh có tin được không?” “Anh phải xem các bức tranh khác của Grace mới được.” Jack bật nút chai rượu, chỉ làm vang lên một âm thanh nhỏ xíu. “Chúng thật sự ấn tượng lắm đấy.” Rufus nhìn quanh phòng vẻ hứng thú. “Trong phòng này hả?” “Không, chúng được treo ở những nơi khác trong nhà cơ.” “Chỉ để một mình Jack ngắm,” Adam đùa. “Và cả Grace nữa. Phải không, em yêu?” Jack nói, mỉm cười nhìn tôi. “Chỉ để hai ta ngắm.” “Vâng, đúng thế,” tôi đồng tình, quay đầu đi chỗ khác. Chúng tôi ra sofa ngồi cùng Esther và Diane thích thú reo lên khi Jack rót sâm panh vào những chiếc ly cao thành. Cô ta nhìn sang tôi. “Chị đã đỡ hơn chưa?” cô ta hỏi. “Hôm qua, Grace không đi ăn trưa cùng tớ được vì bị ốm,” Diane quay sang nhìn Esther giải thích. “Chỉ nhức đầu thôi mà,” tôi phản đối. “Thật không may, Grace rất hay bị nhức đầu.” Jack nhìn tôi thông cảm. “Nhưng ơn trời, chúng không bao giờ kéo dài quá.” “Lần này là lần thứ hai chị lỡ hẹn với em đấy nhé,” Diane nhận xét. “Tôi rất tiếc,” tôi xin lỗi. “Chậc, ít ra thì lần này không phải do chị quên,” cô ta đùa. “Sao ta không hẹn vào thứ Sáu tuần tới để bù lại nhỉ? Chị có rảnh không, Grace? Không có cuộc hẹn khám răng nào chị đột nhiên nhớ ra vào phút chót đấy chứ?” “Không, và hy vọng cũng sẽ không có cơn nhức đầu nào hết.” Diane quay sang Esther, “Cậu có muốn đi cùng không? Sẽ phải chọn quán trong thị trấn để tớ còn đi làm.” “Cảm ơn cậu, tớ rất thích.” Cô đưa mắt nhìn tôi, chắc để đảm bảo tôi không phiền khi có cô cùng tham dự, và khi mỉm cười đáp lại cô, tôi cảm thấy áy náy kinh khủng vì biết mình sẽ không đến được. Gọi to để mọi người chú ý, Jack đề nghị nâng ly chúc mừng Esther và Rufus, chào mừng họ tới sống trong khu. Tôi nâng cốc nhấp một ngụm sâm panh. Tăm rượu sủi trong miệng khiến cảm giác hạnh phúc chợt bừng lên và tôi cố níu giữ nó. Nhưng nó tan biến nhanh không kém gì lúc ùa tới. Tôi nhìn Jack đang sôi nổi chuyện trò với Rufus. Anh với Adam gặp Rufus tại câu lạc bộ golf hai tuần trước và đã mời Rufus chơi cùng. Khi phát hiện ra Rufus là một tay golf tuy cừ khôi nhưng chưa đủ để đánh bại mình, Jack bèn mời anh ta cùng Esther đến nhà ăn tối. Quan sát hai người họ, có thể thấy rõ mười mươi Jack đang cố gây ấn tượng với Rufus, có nghĩa tôi sẽ phải cố gắng lái Esther theo ý mình. Nhưng việc đó chẳng dễ chút nào; trong khi Diane đơn giản chỉ thán phục tất thảy mọi thứ, Esther lại có vẻ phức tạp hơn nhiều. Tôi cáo lỗi vào bếp để lấy món canapé[1] đã làm từ trước và hoàn thành những công đoạn cuối cùng cho bữa tối. Jack rất mô phạm với các phép tắc xã giao nên tôi không được phép vắng mặt quá lâu. Tôi nhanh tay đánh bông lòng trắng trứng đang chờ sẵn trong tô rồi đổ lên kem bánh souffle đã làm khi nãy. Vừa xúc hỗn hợp này vào từng chiếc khuôn, tôi vừa căng thẳng nhìn đồng hồ, sau đó đặt các khuôn bánh vào khay cách thủy và đưa vào lò nướng, ghi nhớ chính xác thời gian. Tôi thoáng hoảng hồn, sợ mình sẽ không làm xong mọi thứ, nhưng sau khi nhắc nhở bản thân rằng sợ hãi chính là kẻ thù, tôi cố bình tĩnh mang khay canapé quay lại phòng khách. Tôi mời mọi người, cảm kích đón nhận những lời khen ngợi của họ, vì Jack cũng nghe được chúng. Quả vậy, sau khi tặng tôi một nụ hôn lên đỉnh đầu, anh đồng ý với Diane rằng tôi đúng là một đầu bếp xuất sắc và tôi khẽ thở phào nhẹ nhõm. Kiên quyết tạo tiến triển với Esther, tôi ngồi xuống cạnh cô. Thấy thế, Jack liền đỡ khay bánh giùm tôi. “Em nên nghỉ một chút, em yêu, sau những vất vả suốt cả ngày hôm nay,” anh nói, những ngón tay thon dài thanh lịch giữ khay bánh thăng bằng. “Có vất vả gì đâu,” tôi phản đối, mặc dù đó là một lời nói dối và Jack biết rõ điều đó, vì chính anh đã lên thực đơn. Tôi bắt đầu hỏi Esther những câu hỏi hợp tình hợp lý: cô đã thấy hòa nhập với khu này chưa, có thấy tiếc vì đã bỏ Kent ra đi không, hai đứa nhỏ đã ổn định ở trường mới chưa. Chẳng hiểu vì sao, cô có vẻ khó chịu vì thấy tôi biết nhiều thế, vậy nên, tôi cố tình hỏi tên con trai và con gái cô, mặc dù đã biết thừa chúng là Sebastian và Aisling. Tôi còn biết chúng lên mấy nữa, một đứa lên bảy và một đứa lên năm, nhưng tôi vờ như chưa biết. Jack đang lắng nghe từng từ tôi nói nên tôi biết chắc anh sẽ tự hỏi tôi đang chơi trò gì. “Chị chưa có con, đúng không,” Esther nói, nghe như một lời khẳng định hơn là câu hỏi. “Chưa, vẫn chưa. Chúng tôi định dành hai năm đầu tiên cho riêng mình đã.” “Tại sao chứ, hai người đã kết hôn được bao lâu rồi?” Giọng cô biểu lộ sự ngạc nhiên. “Một năm,” tôi thú nhận. “Họ vừa kỷ niệm ngày cưới vào tuần trước,” Diane xen vào. “Và tôi vẫn chưa muốn chia sẻ cô vợ xinh đẹp của mình với ai hết,” Jack nói, rót thêm rượu vào ly cô ta. Nhất thời xao lãng, tôi nhìn một giọt rượu nhỏ xíu trượt khỏi miệng ly rơi xuống đầu gối chiếc quần chino mới tinh của Jack. “Tôi hy vọng hỏi thế này không làm chị khó chịu,” Esther lại nói, nỗi tò mò đã thắng thế, “nhưng đã ai trong hai người từng qua một lần đò chưa?” Có vẻ cô muốn câu trả lời là rồi, như thể một anh chồng cũ hoặc một cô vợ cũ đầy thù hận ẩn nấp trong lai lịch của Jack và tôi sẽ là bằng cớ chứng tỏ chúng tôi không hoàn hảo. “Chưa, cả hai chúng tôi đều kết hôn một lần,” tôi nói. Cô đưa mắt nhìn Jack và tôi biết cô đang băn khoăn tại sao một người đẹp trai như vậy lại có thể độc thân lâu đến thế. Cảm thấy ánh mắt cô đổ dồn vào mình, Jack mỉm cười thiện chí. “Phải thú nhận là ở tuổi bốn mươi, tôi đã bắt đầu tuyệt vọng nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ tìm được người phụ nữ hoàn hảo. Nhưng ngay khi thấy Grace, tôi đã biết cô ấy chính là người mình mong chờ bấy lâu nay.” “Lãng mạn thật,” Diane thở dài, biết rõ chuyện tôi với Jack gặp nhau thế nào. “Tớ không còn đếm được mình đã cố giới thiệu cho Jack bao nhiêu cô gái nữa, mối nào cũng không thành cho đến khi anh ấy gặp Grace.” “Còn chị thì sao, Grace?” Esther hỏi. “Với chị cũng là tình yêu sét đánh chứ?” “Đúng,” tôi nói và nhớ lại. “Đúng thế.” Choáng ngợp trước kỷ niệm, tôi đứng dậy hơi nhanh, Jack liền xoay đầu về phía tôi. “Món souffle,” tôi điềm tĩnh giải thích. “Chắc đã chín rồi. Mọi người sẵn sàng ngồi vào bàn chưa?” Được Diane hối thúc và giải thích rằng món souffle không đợi bất kỳ ai, mọi người uống cạn ly rồi ra bàn. Tuy nhiên, Esther đang đi thì dừng lại để nhìn kỹ bức Đom đóm hơn, và khi Jack tới ngắm cùng Esther thay vì giục cô vào bàn, tôi nhẹ nhõm thở hắt ra vì món souffle còn lâu mới chín. Nếu chúng đã chín thì chắc sự kề cà này sẽ khiến tôi phát khóc vì căng thẳng mất, đặc biệt là khi Jack bắt đầu giải thích vài kỹ thuật khác nhau tôi đã sử dụng để vẽ bức tranh. Năm phút sau, khi cuối cùng tất cả đã yên vị, món souffle cũng vừa chín đến độ hoàn hảo. Lúc Diane biểu lộ sự kinh ngạc, Jack mỉm cười nhìn tôi từ đầu bàn đối diện và bảo mọi người rằng tôi quả thực nấu nướng rất khéo. Chính những buổi tối thế này khiến tôi nhớ ra vì sao mình đem lòng yêu Jack. Quyến rũ, vui tính và thông minh, anh biết chính xác mình phải nói gì và nói ra sao. Vì Esther và Rufus mới chuyển đến nên Jack đảm bảo chúng tôi vừa ăn souffle vừa trò chuyện về những điều có ích cho họ. Anh gọi cho Diane và Adam kể ra những thông tin riêng có thể giúp ích cho hai người bạn mới của chúng tôi, chẳng hạn như họ mua sắm ở đâu và chơi môn thể thao nào. Mặc dù Esther lịch sự lắng nghe danh sách các trò tiêu khiển của họ, tên của những người làm vườn và các cô trông trẻ, hay nơi bán cá ngon nhất, nhưng tôi biết mình mới là chủ đề cô quan tâm, tôi cũng biết cô sẽ quay lại với chuyện Jack và tôi kết hôn khá muộn, hy vọng sẽ tìm ra điều gì đó - điều gì cũng được - giúp cô thấy mọi chuyện không hoàn hảo như vẻ bề ngoài. Không may cho Esther, rồi cô sẽ thất vọng thôi. Cô chờ Jack cắt xong miếng thịt bò Wellington rồi ăn cùng khoai tây bỏ lò và cà rốt láng mật ong. Còn có cả những hạt đậu Hà Lan bé xíu tôi đã nhúng vào nước sôi ngay trước khi lấy thịt bò ra khỏi lò. Diane kinh ngạc khi thấy tôi có thể thu xếp hoàn thành tất cả các món cùng lúc, rồi thú nhận rằng mình luôn chọn một món chính như cà ri để có thể nấu sẵn từ sớm và trước khi ăn chỉ việc hâm nóng lên là xong. Tôi muốn nói với cô ta rằng tôi cũng muốn làm như thế, rằng việc tính toán khó nhọc cùng những đêm mất ngủ chính là cái giá tôi phải trả để cho ra mắt một bữa tối hoàn hảo đến thế. Nhưng nấu một bữa ăn thiếu hoàn hảo không phải là lựa chọn dành cho tôi. Esther nhìn tôi từ phía bên kia bàn. “Thế chị với Jack gặp nhau ở đâu?” “Tại công viên Regent,” tôi đáp. “Vào một chiều Chủ nhật.” “Chị kể chi tiết cho cô ấy nghe đi,” Diane giục, làn da nhợt nhạt ửng hồng vì sâm panh. Tôi lưỡng lự trong giây lát vì trước đây đã từng kể chuyện này. Nhưng đó là câu chuyện Jack thích nghe tôi kể nên lặp lại lần nữa sẽ có lợi cho tôi. May thay, Esther giải vây cho tôi. Tưởng tôi lưỡng lự vì ngại, cô nhảy ngay vào. “Chị kể đi,” cô giục. “Chậc, rất có thể tôi sẽ khiến những người đã nghe chuyện này phát ngấy đấy nhé,” tôi bắt đầu với một nụ cười hối lỗi. “Lúc đó, tôi đang cùng em gái, Millie, chơi ngoài công viên. Chúng tôi thường ra công viên vào chiều Chủ nhật. Hôm ấy, tình cờ có một ban nhạc đang chơi. Millie rất thích âm nhạc, nó thích đến nỗi đứng dậy khỏi ghế rồi bắt đầu nhảy trước bục biểu diễn. Nó mới học nhảy valse nên vừa nhảy vừa dang tay ra trước mặt, hệt như đang khiêu vũ cùng ai đó.” Tôi thấy mình mỉm cười trước kỷ niệm này, tuyệt vọng ao ước cuộc đời tôi vẫn đơn giản và trong sáng như trước. “Mặc dù mọi người nói chung rất độ lượng và vui vẻ khi thấy Millie thích thú như thế,” tôi kể tiếp, “nhưng tôi có thể thấy một hai người khó chịu và tôi biết mình nên làm gì đó, tỷ dụ như gọi em mình quay lại ghế ngồi. Nhưng một phần trong tôi cảm thấy miễn cưỡng không muốn làm thế, vì…” “Em gái chị bao nhiêu tuổi?” Esther cắt ngang. “Mười bảy.” Tôi dừng lời một lát, không muốn đối diện với thực tại. “Gần mười tám.” Esther nhướn mày. “Thế thì con bé thuộc loại thích được chú ý rồi.” “Không, không phải vậy, chỉ là…” “Chớ còn gì nữa. Ý tôi là, chẳng ai tự nhiên lại đứng dậy khiêu vũ trong công viên, phải không?” Cô đắc thắng nhìn quanh bàn và khi ai cũng tránh ánh nhìn của cô, tôi không thể không thấy thương hại Esther. “Millie mắc hội chứng Down.” Giọng Jack phá tan sự im lặng khó xử đã buông xuống cả bàn. “Thế nên con bé thường có những hành động cực kỳ bột phát.” Nét mặt Esther ngập tràn vẻ bối rối và tôi thấy khó chịu khi mọi người kể lể đủ chuyện về tôi với cô mà không hề nhắc đến Millie. “Dù sao thì, trước khi tôi kịp quyết định nên làm gì,” tôi nói để giải vây cho Esther, “quý ông hoàn hảo đây bỗng đứng dậy, tới chỗ Millie đang khiêu vũ, cúi chào rồi đưa tay ra cho con bé. Chà, Millie thích lắm. Khi cả hai bắt đầu nhảy valse, mọi người cũng bắt đầu vỗ tay, sau đó vài cặp khác đứng lên và cũng bắt đầu khiêu vũ. Thực là một khoảnh khắc vô cùng, vô cùng đặc biệt. Và tất nhiên rồi, tôi yêu Jack ngay lập tức vì anh ấy đã khiến chuyện đó xảy ra.” “Lúc ấy, Grace không hề biết rằng tôi vốn đã thấy cô ấy cùng Millie trong công viên từ tuần trước và ngay lập tức đem lòng yêu cô ấy. Cô ấy vô cùng ân cần với Millie, không một chút vị kỷ. Tôi chưa bao giờ chứng kiến một tấm lòng tận tụy đến thế và nhất quyết phải làm quen với cô ấy.” “Còn Jack lúc ấy lại không biết một điều,” đến lượt tôi nói, “rằng tôi đã chú ý đến anh ấy từ tuần trước nhưng không bao giờ nghĩ anh ấy lại để ý đến một người như tôi.” Thấy mọi người gật đầu tán thành, tôi thích lắm. Mặc dù tôi là một cô gái hấp dẫn, nhưng vẻ ngoài điển trai như ngôi sao điện ảnh của Jack khiến mọi người nghĩ rằng tôi thật may mắn khi anh muốn kết hôn với tôi. Nhưng ý tôi không phải thế. “Grace không còn anh chị em nào khác nên cô ấy cứ nghĩ vì một ngày nào đó cô ấy rồi sẽ trở thành người duy nhất chăm sóc cho Millie, nên hẳn tôi sẽ mất hết hứng thú,” Jack giải thích. “Như đã xảy ra với những người khác,” tôi bổ sung. Jack lắc đầu. “Ngược lại, khi biết Grace sẽ làm bất cứ điều gì cho Millie, tôi nhận ra cô ấy chính là người phụ nữ tôi đã tìm kiếm cả đời. Với nghề nghiệp của tôi, người ta rất dễ mất niềm tin vào con người.” “Hôm qua, tôi đọc báo thấy đã đến lúc chúc mừng anh một lần nữa,” Rufus nói, nâng ly về phía Jack. “Đúng thế, cừ lắm.” Adam, luật sư cùng công ty với Jack, cũng hùa vào. “Lại một chiến thắng nữa trong tay cậu.” “Vụ ấy khá rõ ràng,” Jack khiêm tốn đáp. “Mặc dù có đôi chút khó khăn vì phải chứng minh những vết thương đó không phải do thân chủ của tôi tự gây ra, trong khi cô ấy có xu hướng tự gây thương tích cho mình.” “Nhưng nhìn chung, chẳng phải các vụ ngược đãi thường rất dễ chứng minh sao?” Rufus hỏi, trong khi Diane nói với Esther, phòng trường hợp cô chưa biết, rằng Jack là người bênh vực cho những người yếu thế, cụ thể hơn là cho những người vợ bị ngược đãi. “Tôi không muốn chê bôi những việc làm tuyệt vời của anh, nhưng các vụ ấy thường có bằng chứng vật lý hay nhân chứng mà, đúng không?” “Jack có biệt tài khiến các nạn nhân tin tưởng và kể hết cho anh ấy nghe những chuyện đã xảy ra,” Diane giải thích, tôi nghi cô ta đã đem lòng thích Jack. “Rất nhiều phụ nữ không biết phải trông cậy vào ai và sợ sẽ chẳng ai tin mình.” “Cậu ấy còn đảm bảo những kẻ gây ra tội ác phải trả giá trong một thời gian dài,” Adam thêm vào. “Trước những kẻ bị phát hiện giở trò bạo lực với vợ mình, tôi không có cảm giác gì khác ngoài khinh thường,” Jack tuyên bố chắc nịch. “Chúng xứng đáng nhận mọi hình phạt dành cho mình.” “Tôi xin uống mừng điều đó,” Rufus lại nâng ly. “Anh chưa bao giờ thua vụ nào, đúng không Jack?” Diane hỏi. “Chưa, tôi cũng không có ý định sẽ để thua vụ nào hết.” “Thành tích không gián đoạn - đúng là tuyệt vời,” Rufus trầm ngâm vẻ ấn tượng. Esther nhìn sang tôi. “Em gái Millie của chị nhỏ hơn chị khá nhiều tuổi nhỉ,” cô nhận xét, hướng cuộc trò chuyện về chủ đề chúng tôi đang nói dở. “Đúng, chúng tôi cách nhau mười bảy năm. Millie ra đời khi mẹ tôi đã bốn mươi sáu. Lúc đầu, do không biết mình đang mang thai nên mẹ tôi có hơi sốc trước việc sẽ được làm mẹ một lần nữa.” “Millie sống với cha mẹ chị à?” “Không, nó học nội trú tại một ngôi trường tuyệt vời ở Bắc London. Nhưng nó sẽ lên mười tám vào tháng Tư nên phải rời trường vào mùa hè này, âu cũng đáng tiếc vì nó rất thích ngôi trường ấy.” “Vậy con bé sẽ đi đâu? Về nhà cha mẹ chị à?” “Không.” Tôi dừng một lát vì biết điều mình sắp nói sẽ khiến cô sửng sốt. “Cha mẹ tôi sống ở New Zealand.” Mất một lúc Esther mới phản ứng lại. “New Zealand?” “Đúng thế. Họ nghỉ hưu và chuyển đến đó vào năm ngoái, ngay sau đám cưới của chúng tôi.” “Tôi hiểu rồi,” cô nói. Nhưng tôi biết cô chẳng hiểu gì. “Millie sẽ chuyển đến sống cùng chúng tôi,” Jack giải thích. Anh nhìn tôi mỉm cười. “Tôi biết đó là điều kiện để Grace đồng ý kết hôn với tôi và tôi hoàn toàn vui lòng chấp nhận.” “Anh cao thượng thật đấy,” Esther nói. “Hoàn toàn không phải thế - tôi rất mừng vì Millie sẽ sống ở đây. Việc đó sẽ mở ra một khía cạnh mới cho cuộc sống của chúng tôi, phải không, em yêu?” Tôi nâng ly nhấp một ngụm rượu để khỏi phải trả lời. “Rõ là anh rất hòa hợp với con bé,” Esther nhận xét. “Chậc, tôi hy vọng con bé cũng yêu quý tôi như tôi yêu quý nó, mặc dù vẫn phải mất một thời gian sau khi tôi và Grace kết hôn mới được như thế.” “Sao lại thế?” “Tôi nghĩ việc chúng tôi kết hôn với nhau khiến con bé bị sốc,” tôi trả lời cô. “Con bé ngay từ đầu đã rất quý Jack, nhưng khi chúng tôi trở về sau tuần trăng mật và Millie hiểu ra Jack sẽ ở bên tôi mãi mãi, nó lại thấy ghen tị. Nhưng giờ thì ổn rồi. Jack lại là người con bé yêu quý nhất rồi.” “May sao, George Clooney đã thế chỗ tôi trở thành đối tượng đáng ghét trong lòng Millie,” Jack phá lên cười. “George Clooney?” Esther thắc mắc. “Đúng thế.” Tôi gật đầu, hài lòng vì Jack đã đề cập đến việc này. “Tôi thích anh ta…” “Ai mà chẳng thích,” Diane lẩm bẩm. “… và Millie ghen tị đến nỗi, khi mấy người bạn tặng tôi một tờ lịch in hình George Clooney vào lễ Giáng sinh, nó đã nguệch ngoạc viết lên đó ‘Tôi không thích George Clooney’, có điều nó viết tên anh ta theo cách phát âm - J-O-R-J K-O-O-N-Y - con bé gặp khó khăn khi phát âm chữ ‘L’,” tôi giải thích. “Đáng yêu thế chứ.” Ai cũng cười. “Giờ thì gặp ai nó cũng nói chỉ thích tôi chứ không thích anh ta. Nghe gần như tụng kinh vậy - ‘Em thích anh, Jack ạ, nhưng em không thích George Clooney.’ “ Jack mỉm cười. “Phải thừa nhận là tôi thấy rất khoái khi được so sánh với anh ta,” anh khiêm tốn nói thêm. Esther nhìn Jack. “Anh biết không, trông anh cũng khá giống anh ta đấy.” “Trừ một điều, Jack đẹp trai hơn nhiều.” Adam nhe răng cười. “Cô không hình dung nổi tất cả chúng tôi đã cảm thấy nhẹ nhõm đến mức nào khi cậu ấy kết hôn với Grace đâu. Ít ra thì đám phụ nữ trong văn phòng không còn mộng tưởng về Jack nữa, cả nam giới cũng vậy,” anh ta vui vẻ thêm vào. Jack thở dài hiền hậu. “Đủ rồi đấy, Adam.” “Chị không đi làm, đúng không?” Esther quay sang hỏi tôi. Tôi nhận ra giọng cô thoáng ẩn giấu sự coi thường mà phụ nữ đi làm thường dành cho những người chỉ ở nhà, điều đó thôi thúc tôi phải bào chữa cho mình. “Ngày trước thì có, nhưng tôi đã nghỉ làm ngay trước khi chúng tôi kết hôn.” “Thật sao?” Esther nhíu mày. “Tại sao lại thế?” “Cô ấy không muốn thôi việc,” Jack xen vào. “Nhưng cô ấy đã có một công việc chức trọng quyền cao và tôi không muốn về nhà khi đã kiệt sức chỉ để thấy Grace cũng kiệt sức như mình. Có lẽ tôi đã ích kỷ khi đề nghị cô ấy thôi việc, nhưng tôi muốn được về nhà để trút bỏ mọi căng thẳng trong ngày hơn là bị người khác trút lên mình. Công việc của cô ấy cũng đòi hỏi phải đi lại khá nhiều và tôi không muốn về một ngôi nhà trống, như cách tôi đã sống suốt bao năm qua.” “Chị làm gì?” Esther hỏi, đôi mắt xanh nhạt nhìn thẳng vào tôi. “Tôi nhập hàng cho Harrods[2].” Mắt cô sáng lên, cho thấy cô rất ấn tượng, nhưng việc cô không hỏi thêm nữa chứng tỏ cô chưa muốn cho tôi thấy điều đó. “Chị ấy thường đi khắp thế giới trên khoang hạng nhất,” Diane nín thở nói. “Không phải khắp thế giới đâu,” tôi chỉnh lại. “Chỉ tới Nam Mỹ thôi. Tôi tìm nguồn hoa quả ở đó, chủ yếu từ Chile và Argentina,” tôi bổ sung, chủ yếu để cho Esther biết. Rufus nhìn tôi đầy thán phục. “Chắc là thú vị lắm.” “Đúng thế.” Tôi gật đầu. “Tôi yêu từng giây từng phút được làm công việc của mình.” “Thế thì chắc chị nhớ lắm,” Esther lại tuyên bố. “Không, cũng không hẳn,” tôi nói dối. “Ở đây có khối việc chiếm trọn thời giờ của tôi rồi.” “Chẳng mấy chốc, chị lại phải chăm sóc cho cả Millie nữa.” “Millie rất tự chủ và dù sao thì con bé cũng sẽ dành phần lớn thời gian làm việc ở Meadow Gate.” “Ở nhà vườn ấy hả?” “Đúng thế. Con bé rất thích cây cối hoa lá và đã may mắn được nhận vào làm một công việc hoàn hảo.” “Thế cả ngày chị thường làm gì?” “Thì cũng như hiện tại thôi - cô biết rồi đấy, nấu ăn, dọn dẹp, làm vườn - nếu thời tiết cho phép.” “Sau này cô phải tới dự bữa trưa Chủ nhật để thăm vườn mới được,” Jack nói. “Grace mát tay trồng trọt lắm.” “Trời ạ,” Esther nhẹ nhàng nói. “Chị nhiều tài thật đấy. Thật mừng là tôi được mời làm việc ở St Polycarp. Ở nhà cả ngày tôi thấy chán lắm.” “Bao giờ cô bắt đầu?” “Tháng sau. Tôi thế chỗ cho một cô giáo nghỉ sinh con.” Tôi quay sang Rufus. “Jack nói với tôi vườn của anh lớn lắm,” tôi gợi ý, và trong khi tôi lấy thêm thịt bò Wellington được giữ ấm cùng rau quả trên bếp điện, cuộc chuyện trò bên bàn bắt đầu xoay quanh chủ đề phong cảnh thay vì về tôi. Khi mọi người cười nói với nhau, tôi thấy mình bâng khuâng nhìn hai người phụ nữ kia, tự hỏi nếu mình là Diane hoặc Esther thì sẽ ra sao, hay nếu không phải chăm lo cho Millie thì tôi sẽ thế nào. Tôi lập tức thấy có lỗi vì tôi yêu Millie hơn cả cuộc đòi này và sẽ không đánh đổi con bé để lấy bất cứ thứ gì. Chỉ cần nghĩ đến Millie, lòng tôi dâng lên một quyết tâm mới và tôi cố ý đứng dậy. “Đã ai muốn ăn tráng miệng chưa?” tôi hỏi. Jack và tôi dọn bàn, sau đó anh theo tôi vào bếp. Tôi bỏ đĩa bát gọn gàng vào bồn rửa để lát nữa xối nước cho sạch, trong khi Jack cất con dao lạng thịt về chỗ cũ. Món tráng miệng tôi làm quả là kiệt tác - một ổ bánh trứng đường hoàn hảo, không một vết rạn, cao bảy phân, phủ đầy kem tươi Devon. Tôi lấy số hoa quả đã chuẩn bị từ trước rồi cẩn thận xếp các khoanh xoài, dứa, đu đủ và kiwi lên trên lớp kem, sau đó thêm dâu tây, mâm xôi và việt quất. Khi cầm quả lựu lên, cảm giác của nó trong lòng bàn tay đưa tôi quay về một thời điểm khác, một địa điểm khác, nơi ánh mặt trời ấm áp rọi trên mặt và tiếng trò chuyện háo hức là những thứ tôi coi như nghiễm nhiên được hưởng trên đời. Tôi nhắm mắt lại trong giây lát, nhớ tới cuộc đời mình từng sống trước đây. Nhận thấy Jack đang giơ tay ra đợi, tôi đưa quả lựu cho anh cắt ra làm đôi, rồi tôi dùng thìa nạo hạt rắc lên chỗ hoa quả kia. Món tráng miệng đã hoàn thành, tôi bê ra phòng ăn, nơi những tiếng trầm trồ trước sự xuất hiện của nó khẳng định Jack đã đúng khi chọn món này thay vì bánh ga tô sô cô la hạt dẻ tôi muốn làm. “Cậu có tin là Grace chưa bao giờ học nấu ăn không?” Diane nói với Esther và cầm thìa lên. “Tớ thật ngưỡng mộ sự hoàn hảo này, cậu có thấy thế không? Mặc dù tớ sẽ không tài nào mặc vừa bộ bikini vừa mua nữa,” cô ta đế thêm, rên rỉ vỗ tay vào bụng dưới lớp váy lanh màu xanh nước biển. “Tớ không nên ăn mới phải, nhất là khi vừa đặt một chuyến nghỉ mát vào mùa hè này, nhưng ngon thế kia thì làm sao cưỡng nổi!” “Hai người định đi đâu?” Rufus hỏi. “Thái Lan,” Adam trả lời. “Chúng tôi định đi Việt Nam, nhưng sau khi xem ảnh kỳ nghỉ vừa rồi của Jack và Grace ở Thái Lan, chúng tôi quyết định sẽ đi Việt Nam vào năm sau.” Anh ta nhìn Diane cười. “Mọi chuyện được quyết ngay khi Diane trông thấy khách sạn họ đã ở.” “Vậy hai người sẽ ở đúng khách sạn ấy chứ?” “Không, khách sạn ấy đã kín chỗ. Không may là chúng tôi không được phép đi nghỉ ngoài thời gian làm việc.” “Hãy cố tận hưởng hết mức có thể,” Esther nói, quay sang nhìn tôi. “Tôi cũng định thế.” “Năm nay hai cậu có định quay lại Thái Lan không?” Adam hỏi. “Nếu có thì phải đi trước tháng Sáu, nhưng chắc tôi không đi được vì vụ Tomasin sắp tới,” Jack nói. Anh ném một cái nhìn đầy ẩn ý về phía tôi ở đầu bàn bên kia. “Còn sau đó thì Millie sẽ đến sống cùng chúng tôi.” Tôi nín thở, hy vọng không ai gợi ý rằng nếu kiên nhẫn chờ đợi, chúng tôi sẽ có thể đưa cả Millie đi cùng. “Vụ Tomasin hả?” Rufus nhướn mày. “Tôi có nghe được chút ít. Có phải vợ anh ta là một trong số các thân chủ của anh?” “Đúng thế.” “Dena Anderson,” anh ta trầm ngâm. “Chắc là một vụ rất thú vị.” “Quả vậy,” Jack đồng tình. Anh quay lại nhìn tôi. “Em yêu, nếu mọi người đã ăn xong, sao em không cho Esther xem ảnh lần trước bọn mình đi nghỉ ở Thái Lan nhỉ?” Tim tôi chùng xuống. “Chắc cô ấy không muốn xem ảnh đi nghỉ của chúng mình đâu,” tôi cố tình nói sao cho thật nhẹ nhàng. Nhưng chỉ một dấu hiệu nhỏ nhoi cho thấy sự bất hòa giữa hai chúng tôi cũng đã đủ cho Esther. “Tôi rất thích xem!” cô kêu lên. Jack đẩy ghế lùi lại rồi đứng dậy. Anh lấy cuốn album ảnh ra khỏi ngăn kéo và đưa cho Esther. “Vậy thì tôi với Grace đi pha cà phê trong khi cô xem ảnh nhé. Sao cô không sang phòng khách mà ngồi, ở đó thoải mái hơn nhiều.” Lúc chúng tôi mang khay cà phê trở lại từ trong bếp thì Diane đang trầm trồ khen ảnh, trong khi Esther chẳng nói gì nhiều. Tôi phải thừa nhận đó là những tấm ảnh tuyệt vời. Tôi có mặt ở tấm nào là y như rằng đều phô ra ưu điểm của mình trong tấm đó: làn da rám nắng tuyệt đẹp, thân hình thanh mảnh như hồi còn đôi mươi, mặc một trong hằng hà sa số các bộ bikini của mình. Hầu như trong ảnh nào tôi cũng đang đứng trước một khách sạn hạng sang, hoặc nằm dài trên bãi biển riêng, hay ngồi ở một quầy bar hoặc nhà hàng, bên cạnh ly cocktail sặc sỡ cùng một đĩa đồ ăn mới lạ trước mặt. Xem ảnh nào cũng thấy tôi tươi cười nhìn máy ảnh, quả là một ví dụ hoàn hảo về kiểu phụ nữ vô lo được cưng chiều và yêu chồng tha thiết. Jack khá cầu toàn khi chụp ảnh và thường chụp đi chụp lại một kiểu đến khi nào ưng mới thôi, vậy nên tôi đã học cách diễn cho chuẩn ngay lần đầu. Cũng có một số tấm ảnh hai chúng tôi chụp chung, do những người lạ dễ tính nháy máy hộ. Chính Diane đã trêu chọc và chỉ ra rằng trong những bức ảnh ấy, Jack với tôi thường nhìn nhau say đắm chứ chẳng hề nhìn đến ống kính. Jack rót cà phê. “Có ai muốn ăn sô cô la không?” tôi hỏi, cố hết sức làm ra vẻ ngẫu nhiên với lấy hộp sô cô la Esther mang tới. “Anh nghĩ tất cả đều đã ăn khá no rồi,” Jack gợi ý, nhìn quanh tìm kiếm sự đồng tình. “Quả vậy,” Rufus nói. “Tôi không thể ăn thêm bất cứ thứ gì nữa,” Adam rên rỉ. “Thế thì tôi cất đi để dịp khác vậy.” Jack chìa tay đón hộp kẹo. Tôi đang tưởng sẽ phải chấp nhận không bao giờ được nếm chúng thì Diane đã kịp đứng ra giải cứu. “Đừng cất đi - em nghĩ mình còn ăn được một, hai viên sô cô la.” “Nhắc cho em nhớ tới bikini chắc cũng vô ích,” Adam thở dài, lắc đầu tuyệt vọng chế giễu vợ. “Hoàn toàn vô nghĩa,” Diane đồng ý rồi lấy một viên sô cô la từ chiếc hộp Jack đưa cho mình, sau đó chuyền cho tôi. Tôi lấy một viên, bỏ tọt vào miệng và đưa hộp cho Esther. Thấy cô từ chối không ăn, tôi lại lấy thêm một viên nữa trước khi trả hộp cho Diane. “Sao chị làm được như thế?” Diane hỏi, nhìn tôi đầy băn khoăn. “Làm gì cơ?” “Ăn nhiều thế mà chẳng tăng cân chút nào.” “Nhờ may mắn,” tôi nói, thò tay ra lấy thêm một viên kẹo nữa. “Và có kiểm soát.” Đến tận khi đồng hồ nhích đến mười hai rưỡi, Esther mới nhắc đến chuyện đi về. Jack đưa áo khoác cho mọi người khi chúng tôi ra tới hành lang. Trong lúc anh giúp Diane và Esther mặc áo khoác, tôi đồng ý sẽ gặp họ trong thị trấn vào thứ Sáu tới để ăn trưa tại nhà hàng Chez Louis lúc mười hai rưỡi. Diane ôm tôi chào tạm biệt. Khi bắt tay Esther, tôi nói tôi mong được gặp lại cô vào bữa trưa đã hẹn. Hai người đàn ông hôn tạm biệt tôi và trong lúc tất cả ra về, họ đều cảm ơn chúng tôi vì một buổi tối hoàn hảo. Trên thực tế, từ “hoàn hảo” cứ vang lên khắp hành lang khi Jack đóng cửa sau lưng các vị khách, khiến tôi biết chắc mình đã thắng cuộc. Nhưng tôi phải đảm bảo Jack biết rằng tôi đã thắng. “Ngày mai ta sẽ phải lên đường vào lúc mười một giờ,” tôi nói, xoay lại nhìn anh. “Để tới nơi đúng giờ đưa Millie đi ăn trưa.” Mời bạn đón đọc Sau Cánh Cửa Đóng của tác giả B. A. Paris & Lan Young (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lê Phong
"Đọc truyện trinh thám của Thế Lữ có thể thấy tuy mức độ đậm nhạt khác nhau trong từng tác phẩm nhưng chi tiết này, chi tiết khác đều gợi liên tưởng mạnh mẽ đến những truyện tiêu biểu nhất làm nên tên tuổi Edgar Poe... Mở đầu và chứng cứ cũng như cách phá án đều phảng phất các truyện nêu trên của Poe. Mọi bí mật đều được phanh phui nhờ vào tài quan sát, phán đoán tâm lý nhân vật và những giả thuyết lập luận chặt chẽ logic của nhà thám tử nghiệp dư chứ không phải những thanh tra nhà nước, cảnh sát trưởng chuyên nghiệp. Cuối cùng hung thủ phải lộ mặt đúng như tiên đoán của Dupin, hay Lê Phong. Ở phần kết thúc truyện, việc tập họp đông đủ mọi người để công bố tên hung thủ tương tự như trong Mi cũng là một con người." (Hoàng Kim Oanh) *** Lê Phong một phóng viên chuyên mảng phóng sự của báo Thời thế, có trụ sở tại Hà Nội. Phong là người nhanh nhẹn, vui vẻ, có đôi mắt sáng, linh động, có tài quan sát. Với tài năng đó, Lê Phong thích tham gia vào các vụ án bí ẩn và khám phá các sự thật bị che giấu. Lê Phong là người hâm mộ Sherlock Holmes và áp dụng phương pháp suy luận của Holmes để suy luận. Cộng sự với Lê Phong là Văn Bình, là nhân vật đóng vai trò ghi chép lại quá trình điều tra vụ án.   Với truyện trinh thám, Thế Lữ đã sáng tạo ra cặp nhân vật thám tử Lê Phong và Mai Hương – một chàng và một nàng - được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích. Họ là những người thông minh, có óc phán đoán và khả năng suy luận cao. Họ say mê nghề nghiệp, họ quyết liệt trong việc truy tìm cái ác để bảo vệ và đề cao cái thiện. Nhưng cũng cần phải nhìn ra rằng, cặp nhân vật Lê Phong và Mai Hương chính là hiện thân cho kiểu con người lãng mạn có tính lý tưởng của Tự Lực văn đoàn: trẻ trung, được giáo dục theo mô hình châu Âu, yêu tự do dân chủ, yêu khoa học và luôn hướng tới sự tiến bộ xã hội. ” “    Học tập, vay mượn mô hình tiểu thuyết trinh thám phương Tây, cả Thế Lữ và Phạm Cao Củng đều xây dựng những series truyện về các thám tử như thám tử Lê Phong (Thế Lữ), thám tử Kỳ Phát (Phạm Cao Củng). Cả hai thám tử đều thông minh, lý trí, giỏi suy luận, phán đoán và lập luận logic để điều tra phá án. Thông qua hai thám tử, người đọc dễ dàng nhận thấy dáng dấp thám tử Sherlock Holmes của Conan Doyle. Điều này cũng không có gì là lạ, khi mà quá trình hiện đại hóa văn học đòi hỏi mọi thể loại phải diễn ra gấp rút, phải nhanh chóng đưa văn học Việt Nam hiện đại bước vào quỹ đạo của văn học thế giới. Thành công của Thế Lữ và Phạm Cao Củng là điều đáng ghi nhận và trân trọng. *** Tổng hợp tất cả các truyện của Thế Lữ thuộc serie Lê Phong. Đây là một trong những truyện trinh thám đầu tiên của Việt Nam, viết từ năm 1935, xoay quanh một phóng viên có tài trinh thám... Gồm 6 truyện được đăng trên báo Ngày Nay:  - Lê Phong phóng viên - Những nét chữ - Mai Hương và Lê Phong - Lê Phong làm thơ - Đòn hẹn - Gói thuốc lá *** Thế Lữ, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ) là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và Máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Truyện của Thế Lữ, theo cách xếp quen thuộc được chia làm 3 thể loại chính: truyện kinh dị (Vàng và Máu, Bên đường Thiên Lôi), truyện trinh thám (Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Tay đại bợm...) và truyện lãng mạn núi rừng (Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh). *** Một cách xin việc kỳ khôi Ngày nào cũng vậy, cứ đúng mười một giờ sáng là anh ta đã có mặt trong phòng khách tòa báo. Anh ta nói là muốn giáp mặt ông chủ nhiệm để hỏi một việc cần lắm. Việc cần ấy, chúng tôi đã biết: Anh ta muốn xin làm một phóng viên. Ông chủ nhiệm tiếp anh ta có một lần rồi bảo tôi: - Ít ra họ cũng phải hiểu rằng ở đây có thừa người rồi, phóng viên không phải là người khó kiếm đến thế. Hôm sau, anh ta lại đến, rồi hôm sau nữa: lần nào ông chủ nhiệm cũng không có nhà. Nghĩa là ông chủ nhiệm vẫn có nhà, nhưng không muốn anh ta quấy rầy mãi. Chúng tôi hễ cứ thấy đồng hồ đánh mười một tiếng là lại nhìn nhau cười. Xuống phòng khách ngó xem thì tôi đã thấy anh ngồi vần cái mũ trong tay, hỏi tôi một cách lo ngại: - Hôm nay hẳn ông chủ nhiệm lại đi vắng? - Vâng, ông ấy vừa mới ra xong. Anh ta mỉm cười một bên mép rồi đứng lên thong thả bước ra, ngừng lại toan hỏi tôi một câu, nhưng bỗng đội mũ đi thẳng. Sau cùng anh ta không đợi ở phòng khách nữa, lèn đứng ngay ngoài cửa tòa soạn, đợi có người vào là vào theo liền. Anh ta vừa mới nói: - Thưa ông... Thì ông chủ nhiệm ngắt lời: - Thưa ông, người ta không bao giờ nên tự tiện quá đến thế. Ở đây không phải là một cửa hàng. - Nhưng đây là một tòa báo. - Nhà báo không phải để mở cửa cho hết thảy mọi người. Anh ta khẩn khoản: - Vâng, tôi biết thế này là đường đột quá, nhưng xin ông cho biết rằng tôi muốn làm phóng viên, mà nhất là trong tòa báo ông. Người ta cần phải chọn mặt mà gửi vàng. Tôi muốn đem tài của mình dùng cho báo ông trước nhất... - Nhưng tôi biết tài ông to đến bực nào? - Ông cứ dùng thử xem. - Dùng thử xem!... (Ông chủ nhiệm đã thấy nóng tai). Không, chúng tôi không thiếu người, ông có lòng muốn giúp, xin cảm ơn. Nhưng tôi không... tôi chưa thể nhận ông được. Trong lúc ông chủ nhiệm cau mày cúi xuống đọc những bản thảo trên bàn thì anh ta lại nói: - Tôi chắc ông sẽ vừa lòng khi thấy những việc tôi làm sau này... Ông cứ giao việc cho tôi xem... Mà nếu ông cần biết ngay học thức của tôi... Không nhịn nữa, ông chủ nhiệm nói gọn một câu: - Thưa ông... tôi đi vắng. Chàng thiếu niên sẽ mỉm một nụ cười mai mỉa, nét mặt vẫn tươi tỉnh, cúi chào chúng tôi, rồi quay ra. Ông chủ nhiệm lắc đầu: - Con người kỳ khôi đến thế là cùng. Nhưng thôi, thoát nợ. --- Sáng hôm sau, chúng tôi không thấy anh ta đến nữa. Bị cự tuyệt một cách rõ ràng như thế, tất nhiên anh ta biết không còn hi vọng gì. Chiều hôm ấy, đáng nhẽ không còn việc gì phải làm ngay, chúng tôi lại bận hơn các buổi khác. Bài vở của số báo sau đã đưa sắp chữ cả, bỗng được tin bị bỏ gần hết những mục quan trọng (hồi ấy, ty kiểm duyệt vẫn còn). Ông chủ nhiệm vừa càu nhàu vừa lục những bài dự phòng ra coi lại. Nhưng vẫn không đủ. Đang lúc chia tay mỗi người một việc cùng nhau cặm cụi viêt lấy viết để, thì cửa tòa soạn bật mở, chàng thiếu niên hôm qua bước nhanh vào. Ông chủ nhiệm giơ hai tay một chán nản toan sừng sộ hỏi, thì người kia nhoẻn miệng cười. Tức mình, ông để mặc chàng ta đó, đứng dậy gọi người thư ký vào toan cự thì chàng ta cau: - Lỗi đó ở cả tôi. Tôi xin ra ngay. Nhưng xem chừng ông bân lắm thì phải. - Tôi chẳng bận gì hết. Nhưng... - Không hề gì. nếu ông vội, xin cứ cho tôi biết... Hay để cho tôi cùng viết đỡ các ông này cho chóng xong. Chàng ta nói rất dịu dàng, miệng tươi cười rất thực tàh, khiến ông chủ nhiệm cũng phải nguôi giận. - Nếu vậy, ông ngồi xuống đó, viết cho tôi ba cột về việc chủ hiệu cầm đồ lừa đảo... Ông biết viết ấy chứ? - Biết. - Nhưng ông có biết tôn chỉ của báo tôi không đã? - Định làm cho một tờ báo lại không biết tôn chỉ báo ấy sao! - Được, ông thuật về việc này qua loa thôi, còn thì phải công kích dữ. - Tôi hiểu. - Một giờ nữa phải viết xong. Bốn mươi phút sau, người thiếu niên đã đưa cho ông chủ nhiệm ba tờ giấy đặc chữ. Ông chủ nhiệm cầm lấy đọc một lần, hơi gật đầu. Đó là triệu chứng hay. Ông ký bức điện tín người ta vừa đem vào, đọc nốt trang sau cùng, sửa qua mấy chữ viết không được rõ. Đọc xong, ông lấy bút chì xanh viết mấy chữ lên cạnh trang đầu, đứng nhìn người thiếu niên bằng đôi mắt gườm gườm nhưng không có vẻ ác cảm. Anh ta se sẽ hỏi: - Thưa ông, bài tôi viết... - Không tồi lắm. Nhưng ông nhất định làm phóng viên cho báo tôi? - Vâng... Sao? - Vậy ngay bây giờ ông có thể đi Bắc Ninh được không? - Đi điều tra? - Phải, mà phải đi rất nhanh. Người ta mới bắt được một tụi buôn thuốc phiện lậu rất quan trọng.   Mời các bạn đón đọc Lê Phong của tác giả Thế Lữ.
Vụ Án Mạng Ở Lữ Quán Kairotei
Một tác phẩm đậm chất trinh thám cổ điển vua trinh thám Nhật Bản Keigo Higashino. Bản di chúc về khối tài sản kếch xù của ông Ichigahara Takaaki sẽ được công bố vào đúng lễ 49 ngày của ông tại lữ quán Kairotei, nơi sinh thời ông vô cùng yêu mến. Nhưng một lá thư hé lộ sự thật bị chôn vùi dưới lớp tro tàn của vụ hỏa hoạn ở lữ quán này nửa năm trước, xuất hiện đúng buổi tối trước ngày công bố di chúc đã khiến mọi chuyện trở nên rối tung. Cũng trong đêm đó, một người đã bị sát hại. Ngọn lửa ngờ vực bắt đầu âm ỉ cháy lan, một thảm kịch khác đã được soạn sẵn và chờ hồi kết để hạ màn... *** Higashino Keigo là tiểu thuyết gia trinh thám hàng đầu Nhật Bản với nhiều tác phẩm hàng triệu bản bán ra trong và ngoài nước, gặt hái vô vàn giải thưởng. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Mỗi tác phẩm của ông đều có phong cách khác nhau, nhưng nhìn chung đều có diễn biến bất ngờ, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc, làm nên nét riêng biệt trong chất văn của Higashino Keigo. *** Tổng giám đốc một công ty lớn qua đời để lại khối tài sản kếch xù. Và bản di chúc phân chia số tài sản ấy sẽ được công bố tại lữ quán Kairotei vào 49 ngày mất của ông, địa điểm gắn bó thân thiết với ông trong những ngày quá vãng. Nhưng tất cả tình yêu, đam mê, dục vọng của những người liên quan cùng bản di chúc ấy đã bị nhấn chìm vào biển lửa bi kịch quá khứ và thảm kịch ở hiện tại. Không giống như nhiều tác phẩm khác của tác giả Higashino Keigo, tác phẩm thường được kể theo ngôi thứ ba, người kể chuyện mang điểm nhìn toàn tri bao quát toàn bộ diễn tiến câu chuyện, tường thuật lại chi tiết quá trình điều tra cũng như suy nghĩ cả phía người điều tra lẫn những bên liên quan đến vụ án. Thì Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei (cũng như Án mạng mười một chữ), được kể theo ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện xưng tôi, tự thuật lại hành trình theo đuổi vụ án của người đó. Và một điểm đặc biệt nữa, nhân vật xưng “tôi” ở đây là một nhân vật nữ, chịu nhiều bất hạnh, phải tự gồng mình lên để đòi lại công lý cho bi kịch chính bản thân cô phải chịu đựng. Đó là cô gái 32 tuổi tài năng, thư ký riêng của tổng giám đốc Ichigahara Takaaki – Kiriyu Eriko. Cô gái ấy đã bị chính người đàn ông cô yêu mưu đồ ám sát giữa đêm tối tại lữ quán Kairotei. Sau khi bóp cổ cô, anh ta châm lửa hòng tự sát và thiêu rụi toàn bộ chứng cứ. Nhưng may mắn, Eriko sống sót một cách thần kì; tuy vậy, cô cũng bị hủy hoại nhân hình trong vụ hỏa hoạn. Tuy nhiên, với Eriko, đó không phải là kết thúc bởi ẩn tình, sự thật đằng sau vụ án, yêu hận tình thù cùng trách nhiệm cô mang với tổng giám đốc Ichigahara Takaaki vẫn còn đè nặng trên vai cô. Bởi vậy, Eriko đã hi sinh tất cả, kể cả tên gọi, kể cả danh tính, hóa thân vào vai bà lão Honma Kikuyo đã qua đời, nửa năm sau quay lại lữ quán Kairotei vào ngày công bố di chúc của ông Ichigahara nhằm báo thù và đòi lại công lý. Chính vì đặt điểm nhìn vào vai người phụ nữ đã mất tất cả, để con người đó tự xưng tôi mà tràn ngập trong cuốn tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei là những suy nghĩ riêng, là suy luận cá nhân, là ánh nhìn chủ quan qua con mắt của một kẻ như chỉ còn sống mà chờ đợi giây phút khám phá ra tất cả ẩn tình, như chỉ tồn tại để đợi chờ phút giây tự tay cô chấm dứt tất cả. Cũng từ ngôi kể thứ nhất đấy mà điểm nhìn trần thuật cũng dễ dàng hướng ra bên ngoài theo ánh nhìn, sự đánh giá của nhân vật đồng thời nhanh chóng trở thành điểm nhìn bên trong khắc họa nội tâm con người. Và, một câu chuyện trinh thám, được kể từ ngôi thứ nhất đặt lên vai nạn nhân, người bị hại mà chất bi của truyện lại càng thêm sâu sắc. Quá khứ đau thương, vụ hỏa hoạn cách đấy nửa năm tước đi của Eriko tất cả: tình yêu, tương lai, tuổi trẻ. Câu chuyện vì thế như đã vượt ra ngoài một tiểu thuyết trinh thám đơn thuần mà mang đặc điểm của một cuốn tự truyện: tản mát trong suy nghĩ, đứt gãy trong hành động, sự đan xen liên tiếp quá khứ và hiện tại… Bởi vậy sự cực đoan, sự hồ nghi tất thảy, thậm chí là sự lạnh lùng trong ý nghĩa mà cô mang, rất dễ tạo sự đồng cảm nơi độc giả. Án nằm trong án, truyện nằm trong truyện. Ngay từ những chương truyện đầu tiên, thậm chí ngay trong lời bạt tóm tắt tác phẩm nằm ở trang bìa 4 cuốn Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei Nhã Nam xuất bản đã phần nào hé lộ cấu trúc tác phẩm: Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei mang hình thức án lồng trong án, câu chuyện này là kết quả của câu chuyện trước đồng thời mở ra câu chuyện về sau. Cấu trúc như vậy đã tạo nên tính lớp lang, móc xích cho toàn bộ cuốn sách gần 300 trang. Có thể nói, không gian vật lý trong tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei khá hẹp, gần như mọi hoạt động, sự việc đều diễn ra nơi khuôn viên lữ quán. Vậy nhưng, không gian hẹp nơi lữ quán Kairotei đã chứng kiến trận hỏa hoạn gần như nhấn chìm một cặp đôi nam nữ, lữ quán đó cũng là nơi xảy ra liên tiếp hai vụ án mạng kinh hoảng, và nơi ấy lần nữa lại chìm trong ngọn lửa của lòng tham và hận thù. Vụ án trong quá khứ, vụ án ngày hiện tại, tất cả lại mở ra những nhánh truyện khác nhau về hàng loạt bí ẩn khó thể cắt nghĩa, khó thể công khai ngoài ánh sáng. Từ bí mật mà người đàn ông quá cố Takaaki vẫn luôn cất giấu tới bí mật Eriko quyết định chôn chặt cùng vụ hỏa hoạn năm nào. Từ mối tình oan trái gắn liền với lữ quán Kairotei tới sự thật câu chuyện về người đàn ông tự vẫn trong hỏa hoạn – Satonaka Jiro. Và giữa thảm án liên hoàn, những góc khuất mà các nhân vật đã luôn lảng tránh cũng dần hé lộ. Để ta nhận ra, những con người xuất hiện trên trang sách của Higashino Keigo, dẫu là kẻ thủ ác hay nạn nhân hay đơn thuần chỉ là những con người liên đới, vô tình xuất hiện tại lữ quán Kairotei, không một ai không có mảng tối trong quá khứ, trong đời sống, trong tâm hồn. Ai cũng có suy nghĩ và có phần ích kỷ riêng. Lữ quán Kairotei, bi kịch tình yêu và thảm kịch một gia đình, như lát cắt của đời sống xã hội Nhật Bản vào giai đoạn chuyển mình thời suy thoái kinh tế. Bên cạnh đấy, cấu trúc truyện lồng truyện ở Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei còn nằm trong khía cạnh: hành động trả thù của Eriko không chỉ diễn ra song song với hành động của hung thủ thật sự mà còn song song với hành động của cảnh sát. Khác với nhiều tác phẩm trinh thám, cảnh sát chỉ nắm giữ vai trò làm nền, thì ở cuốn tiểu thuyết này, họ là những nhân vật thật sự sống động, có những suy luận đặc biệt sắc sảo giúp thúc đẩy tiến trình phát triển câu chuyện cùng đẩy nhanh đến cao trào suy luận, hành động của nhân vật chính, xưng “tôi”. Dẫu rằng họ vẫn là kẻ đến sau, dẫu rằng đến cuối cùng họ cũng không thể ngăn nổi thảm kịch định sẵn, thì tuyến nhân vật cảnh sát vẫn góp một nhánh truyện quan trọng trong cả mạch truyện chảy trôi 288 trang của tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei. Bi kịch tình yêu và thảm kịch lòng tham chìm vào biển lửa. Có lẽ, không phải nói quá nếu như khẳng định rằng: Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei là tổng hòa của bi kịch tình yêu và lòng tham con người. Vì một chuyện tình vụng trộm dang dở mà kéo theo sự dở dang của hàng loạt số phận. Vì một tình yêu không nhận được hồi đáp, người ta quyết định phản bội lại yêu thương khi xưa. Vì một tình yêu ngỡ rằng là yêu, đã đẩy người ta xuống bờ vực của hận thù không thoát… Và lòng tham, có thể khiến người ta trở mặt lại với chính thân thích ruột thịt, với chính bạn bè, bán rẻ cả lương tri, bán rẻ cả nhân cách. Nhưng yêu thương hay hận thù, tham lam vô độ cuối cùng cũng chìm vào biển lửa nơi lữ quán Kairotei. Lửa cháy thiêu rụi quá khứ đau thương, ngọn lửa lan rộng cuốn đi thực tại nghiệt ngã. Hỉ nộ ái ố tham sân si, yêu hận tình thù đến thế, cuối cùng đều chìm vào biển lửa. Để rồi tất cả hóa thành hư vô, như cái kết của tiểu thuyết Vụ án ở lữ quán Kairotei vẫn còn để ngỏ về số phận những người ở lại, và cho độc giả tự suy ngẫm, tự viết tiếp cái kết của cuốn sách sau những bi kịch liên tiếp nơi lữ quán hữu tình mà lòng người như nguội lạnh, vô tình ấy. Mọt Mọt Review *** Tôi là một bà lão. Một bà lão sắp bước sang tuổi 70. Đưa vé bước qua cửa soát, cảm giác căng thẳng trong tôi vơi đi được phần nào. Dù tự tin là trông mình rất ổn, nhưng để cho chắc không bị nhìn thấu tâm can, tôi cứ thế cúi gằm mặt trong tàu điện. Đám học sinh ngồi ở hàng ghế đối diện mải mê đọc tạp chí truyện tranh như chẳng thèm đếm xỉa gì đến bà lão này. Không được căng thẳng như thế này. Phải tự tin lên. Cứ đường đường chính chính là ổn. Làm được như thế sẽ không bị ai nghi ngờ. Bên cạnh quầy bán vé có một chiếc gương. Làm bộ thản nhiên, tôi ra đứng trước đó. “Coi này, nhìn ở góc độ nào cũng chỉ thấy một cụ bà cực phẩm là đây.” Không được mất tự tin. Bí quyết chỉ có vậy. Nói rồi, tôi nhìn xung quanh phía trước nhà ga. Không phải một nhà ga to lớn gì. Đại khái cũng có một cái nom giống bùng binh phía trước nhưng không đến mức có đường riêng cho các tuyến xe buýt chạy qua. “Chỗ này mà thuận tiện hơn thì có lẽ khách du lịch sẽ đông lên đấy” tôi đã nói suốt với ông Takaaki như thế, nhưng ông chỉ cười rồi bảo “Nhưng chính cái kiểu dị thường ấy lại ghi điểm cho nơi này.” Tấm biển đề điểm chờ xe taxi gỉ sét khiến tôi lo lắng không biết liệu có xe nào chạy qua đây không. Nhưng chờ độ mười phút thì cũng có một xe taxi tư nhân từ phía bùng binh chạy lại. Lái xe là một người đàn ông đầu tóc bạc phơ, khuôn mặt có vẻ phúc hậu. “Xin cho tôi đến lữ quán1 Ichiharatei.” Tôi nói. “Lữ quán Ichiharatei... À, vâng.” Bác tài vừa khởi động đồng hồ tính tiền vừa hơi ngoái lại phía tôi. “Lữ quán đó giờ không còn kinh doanh nữa. Quý khách có biết không ạ?” “Vâng, tôi có biết. Từ sau vụ tai nạn đó phải không ạ?” “Là vụ hỏa hoạn đấy. Cũng được nửa năm rồi thì phải. Tôi cũng không rõ cụ thể thế nào nhưng đối với lữ quán mà nói thì quả là vận đen hết mức.” Đúng là một ông già nhiều chuyện, cả chuyện đó cũng nói ra được. Qua gương chiếu hậu, bác tài ngó nhìn phản ứng của tôi rồi dò hỏi: “Quý khách chắc không phải là người của lữ quán đâu nhỉ?” “Tôi chỉ là người quen biết với chủ lữ quán thôi.” Tôi đáp. “Ra vậy. Biết thế tôi đã không cần giải thích cặn kẽ rồi.” “À, nhưng đây cũng là lần đầu tiên tôi đến Ichiharatei.” “Chắc vậy rồi. Vì khách quen của lữ quán sẽ không gọi là Ichiharatei mà gọi là Kairotei.” “Kairotei?” “Vì lữ quán được chia thành các khu khác nhau, nối liền bằng một dãy hành lang nên được đặt tên như vậy.” “À, ra là thế.” “Lữ quán ấy nổi tiếng lắm đấy, quý khách. Nghe nói tuy không rộng đến mức cho nhiều khách đến nghỉ nhưng trước đây một nhà văn nổi tiếng nọ đã trọ ở đó trong một thời gian dài. Tôi cũng mong được một lần đến đấy nghỉ mà vẫn chưa có cơ hội.” Nói thế xong bác ta nở nụ cười tươi rói. “Dạo đó chắc vụ hỏa hoạn cũng trở thành đề tài bàn tán của vùng này bác nhỉ?” “Cũng có đấy. Vì kể ra cũng là vụ việc kỳ lạ mà.” Nói đến đây, ông ta đột nhiên thay đổi giọng điệu. “À mà thật tình, cụ thể thế nào thì tôi cũng không rõ. Nhưng nghe nói là đã được tu sửa lại như cũ rồi nên chắc không có gì phải lo lắng đâu.” Ông ta phải vội vàng chữa lời như vậy hẳn là vì đã buột miệng nói về lời đồn kỳ quái đó, sợ sau này bị phía lữ quán Kairotei để mắt đến đây mà. Chẳng mấy chốc, chiếc xe đi vào đoạn đường núi. Những con đường mấp mô nối tiếp nhau. Dân cư thì thưa thớt còn cây cối lại rậm rạp, um tùm. Đi thêm một đoạn nữa, các ngã rẽ nhỏ dần hiện ra. Đầu mỗi ngã rẽ đều dựng biển hiệu của các lữ quán. Đi qua hết dãy biển hiệu, gần đến cuối đường thì mới thấy một tấm biển mới coong đề chữ “Kairotei”. Ở góc biển hiệu còn ghi một dòng chữ nhỏ “Ichiharatei”. Tôi xuống xe trước lữ quán, nhưng không thấy có người ra đón. Tôi liền bước vào sảnh trong nhà kiểu Nhật, hai lần cất tiếng gọi. Được một lát thì nghe thấy tiếng chân vọng lại, rồi từ phía sâu bên tay phải, bà quản lý lữ quán đi ra. Tôi đột nhiên cảm thấy thân thể mình cứng đờ. Đây là cửa ải đầu tiên. Nếu không công phá được nó thì đừng mơ làm gì tiếp. Bà quản lý quỳ gối, nền nã khép hai tay lại rồi hỏi: “Có phải quý bà Honma không ạ?” Bà ấy quãng gần 50 nhưng nhờ lớp trang điểm kỳ công mà mang vẻ nhu mì trông chỉ như ngoài 30. Nhìn vậy tôi cũng có đôi chút ghen tị trong lòng. “Vâng, tôi là Honma Kikuyo.” Phải vừa giữ nguyên tư thế điềm đạm, vừa toát ra một sự thiếu sức sống đúng với cái tuổi này. Chẳng phải vì giây phút này mà mình đã luyện tập trước gương không biết bao nhiêu lần rồi sao. Cho dù đến giờ vẫn không làm được cho hoàn hảo. Một khoảng lặng trôi qua, sau đó bà quản lý nở một nụ cười tươi tắn. “Hân hạnh được đón tiếp quý khách. Quý khách đường xa đến đây chắc mệt lắm rồi đúng không ạ.” Nhìn gương mặt này, tôi chắc mẩm là mình đã thắng. Bà ta không một chút nghi ngờ. Tôi cởi giày bước lên bậc thềm, bà quản lý vẫn giữ nét mặt hồn hậu rồi đứng lên. “Vậy tôi xin phép dẫn quý khách về phòng luôn. Chúng tôi đã nhận được yêu cầu chuẩn bị phòng cao cấp cho quý khách.” “Cảm phiền bà quá.” Nói đoạn tôi cúi đầu xuống, vừa tủm tỉm cười vừa nói tiếp: “Về phòng nghỉ, tôi xin mạn phép có yêu cầu vô lối này.” “Sao cơ ạ?” Mặt bà quản lý lộ rõ vẻ bất ngờ. “Quý khách có yêu cầu gì ạ?” “Cũng chẳng phải yêu cầu gì to tát.” Tôi vẫn cúi mặt cười mỉm, rồi ra vẻ quan trọng, tôi ngẩng đầu lên. “Thật ra tôi có nghe ông nhà tôi kể đã từng nghỉ ở đây. Nghe nói quang cảnh từ phòng ông ấy nghỉ khi đó đẹp tuyệt vời, nên nhân dịp này tôi cũng muốn được nghỉ tại phòng đó.” “À, ra là vậy ạ. Tôi cũng mong sẽ đáp ứng được yêu cầu của quý khách. Phòng đó là phòng nào vậy ạ?” Ánh mắt thoáng hiện lên sự bất an, bà quản lý hỏi. “Ông nhà tôi nói là phòng Inoichi2.” Nghe tôi trả lời xong, bà ấy bối rối thấy rõ. ... Mời bạn đón đọc Vụ Án Mạng Ở Lữ Quán Kairotei của tác giả Higashino Keigo.
Mê Cung Đỏ
Con người ta luôn luôn đòi hỏi những câu chuyện. Trong đó, câu chuyện miêu tả cái chết thường gây kích thích hơn cả. Anh thất nghiệp, lang thang tìm việc, đi phỏng vấn rồi một ngày nọ thức dậy ở nơi xa lạ. Khung cảnh kì quái với núi đá dày đặc những khía ngang thân, không gian thảy đều nhuốm đỏ, lửa đỏ, chiều đỏ, đất đỏ, đến núi đá cũng đỏ lòm. Từ máy trò chơi ai đó để sẵn bên cạnh, anh nhận được thông điệp, "Chào mừng đến với mê cung sao Hỏa. Những người đến đích và an toàn thoát khỏi mê cung sẽ nhận được tiền thưởng và trở về Trái Đất. Trò chơi bắt đầu!" Tin vui là không chỉ có mình anh gặp tình cảnh tương tự, còn tám người nữa cũng tỉnh dậy sau một giấc ngủ kì quặc và được đưa tới đây. Bọn họ bị cô lập giữa thiên nhiên hoang vắng này và muốn thoát ra, họ buộc phải tham gia trò chơi của kẻ giấu mặt. Ban đầu chẳng ai hay biết, muốn trở về được, họ phải tiêu diệt người chơi khác để bản thân trở thành kẻ duy nhất sống sót. Đáp án tàn khốc ấy sẽ từ từ hé lộ sau mỗi chặng hoàn thành nhiệm vụ. Trò chơi dần dần biến thành cuộc chiến sinh tồn, cuộc đuổi bắt giành giật sự sống, và cuối cùng đi đến nấc cao nhất trong cầu thang tiến hóa: giẫm lên xác đồng loại để sống, hi sinh mình cho người khác sự sống, hay đoàn kết với nhau để cùng được sống. Tất cả trông chờ vào tỉ lệ giữa lòng tin và nghi ngờ, bác ái và tàn nhẫn, vào sự lựa chọn của nhân cách con người… *** Review Mê Cung Đỏ - Kishi Yusuke Review của một bạn xin giấu tên về cuốn tiểu thuyết đã có mặt ở Việt Nam 2 năm tuổi rồi nhé :D Mê Cung Đỏ kể về câu chuyện của một người đàn ông tên là Fujiki, khoảng tầm 40 tuổi. Sau một khoảng thời gian trên đỉnh cao sự nghiệp, anh ta tụt dốc và bây giờ đang vật vờ khắp nơi. Nhưng rồi thật kỳ lạ, anh ta bị đưa đến một vùng mà không hề ai biết đến. Khung cảnh kì quái với núi đá dày đặc những khía ngang thân, không gian thảy đều nhuốm đỏ, lửa đỏ, chiều đỏ, đất đỏ, đến núi đá cũng đỏ lòm. Tất cả những gì anh biết là một máy trò chơi mà cho thông tin về trò chơi. "Chào mừng đến với mê cung sao Hỏa. Những người đến đích và an toàn thoát khỏi mê cung sẽ nhận được tiền thưởng và trở về Trái Đất. Trò chơi bắt đầu!" Thực chất đây là vùng Bungle Bungle ở Australia. Fujiki và 6 người chơi nữa cũng được đưa đến đây. Nhiệm vụ ban đầu dường như là chỉ cần đi đến hết các trạm kiểm soát là sẽ thắng. Nhưng càng về sau thì trò chơi càng khiến người chơi bộc lộ bản chất khi chính họ phải giết hại lẫn nhau để có thể sinh tồn được. Khi 7 người chơi gặp nhau ở trạm kiểm soát số 1, thì đã được chia làm bốn hướng, và mỗi hướng sẽ được cung cấp những thứ khác nhau, bao gồm dụng cụ phòng thân, thức ăn, vũ khí và thông tin. Vậy Fujiki sẽ chọn hướng nào, và liệu anh ấy có sinh tồn được không? Cuối cùng cá người chơi bước đến nấc cao nhất trong cầu thang tiến hóa: giẫm lên xác đồng loại để sống, hi sinh mình cho người khác sự sống, hay đoàn kết với nhau để cùng được sống. Tất cả trông chờ vào tỉ lệ giữa lòng tin và nghi ngờ, bác ái và tàn nhẫn, vào sự lựa chọn của nhân cách con người… Nếu đã đọc cuốn Nhà đen, đừng bỏ lỡ Mê Cung Đỏ nhé! ♥️ *** KISHI YUSUKE Sinh năm 1959 tại Osaka, tốt nghiệp khoa Kinh tế học Đại học Kyoto. Năm 1996, tác phẩm ISOLA - Nhân cách thứ 13 của ông đoạt giải xuất sắc Tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản. Sau đó, các tác phẩm khác của ông như: Nhà đen (1997), Búa thủy tinh (2004), Tân Thế Giới (2005), Giờ học của ác quỷ (2008) cũng lần lượt được nhận các giải thưởng văn học khác nhau. Một anh nọ làm ở công ty bảo hiểm nhân thọ, chuyên môn thẩm định tiền bồi thường tử vong. Một ngày kia, anh ta được khách gọi đến tận tư gia, và bất ngờ trở thành người đầu tiên phát hiện ra thi thể treo cổ của đứa con trai nhà ấy. Qua thái độ của bố mẹ chúng, anh ngờ rằng đây không phải là tự tử, mà là giết con để lấy tiền bảo hiểm, nên khi đơn yêu cầu bồi thường được gửi tới, anh đã âm thầm tiến hành điều tra. Từ đó, ác mộng dồn dập tấn công cuộc sống của anh. Nỗi khủng hoảng triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn quanh nghi can sát nhân. Và hơn hết thảy, cái chết của những người vô tình hoặc cố ý đã nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Một truyện dài bất tận dẫn vào địa hạt của bất nhân và run rẩy… Nhà đen đoạt giải Nhất tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản năm 1997. *** Nhánh củi bùng lên trong ngọn lửa… Âm thanh đơn điệu, không theo bất cứ trật tự nào ấy cứ vang vọng trong đầu. Rồi nguồn gốc phát ra âm thanh từ từ di chuyển ra thế giới bên ngoài. Thang âm cao thêm một chút, kể cả tiếng vang và tiếng ồn nho nhỏ cũng trở nên rõ ràng, nghe chẳng khác gì âm thanh của đường rải lạo xạo trên mặt báo trải rộng. Không khí chạm vào da nóng ẩm, nhớp nháp. Thỉnh thoảng có cơn gió lạnh phả qua đầu, mang theo hơi nước rét buốt. Mũi ngửi thấy mùi đất ẩm. Ra là trời đang mưa… Cuối cùng, một ý nghĩ cũng hình thành trong cái đầu đang hỗn độn. Fujiki cố cử động thân thể khi nhận ra có gì đó là lạ. Sống lưng và vai có cảm giác cồm cộm, không giống với cảm giác nằm trên tấm đệm quen thuộc chẳng bao giờ gấp ở căn hộ chung cư tồi tàn. Có vẻ đêm qua anh đã trực tiếp ngủ trên nền đất ẩm, hơn nữa còn trên một mặt sỏi gồ ghề. Đây là đâu? Trong đầu chẳng có câu trả lời nào cho câu hỏi hiển nhiên ấy. Quả thật có mấy lần say túy lúy về được nhà, rồi sáng hôm sau cố thế nào cũng không nhớ nổi những chuyện xảy ra trong đêm trước, nhưng đây là lần đầu tiên anh không biết mình đang ở đâu. Có lẽ anh nên uống ít rượu lại. Anh tự biết mình không thể uống một cách vô độ như ngày xưa, cũng chẳng hề có ý định ganh đua với bóng dáng tuổi trẻ. Nhưng, cứ cho là say rượu đi chăng nữa, tình huống này… Fujiki từ từ mở mắt, cố gắng ngồi dậy. Cơn chóng mặt ập đến bất ngờ, mắt hoa lên khiến tầm nhìn càng lúc càng hẹp lại, cảnh vật xung quanh mờ dần đi. Anh lập tức nhắm mắt, đợi tuần hoàn máu phục hồi như cũ. Rốt cuộc thì chuyện gì đã xảy ra với anh? Cảm giác gần như hoảng loạn trào lên. Thân thể bải hoải, miệng khô khốc như vừa ốm dậy. Anh thử thè lưỡi ra liếm thì thấy môi nứt nẻ, nước bọt có vị đắng nghét tựa vị senburi*. Lạ thật. Trạng thái này không bình thường. Có chuyện gì đó đã xảy ra. Chắc chắn có một chuyện mà anh không ngờ tới đã xảy ra. Một loại thực vật của Nhật vị rất đắng, thuộc họ Long đởm, thường được dùng làm thuốc và trà. (Các chú thích trong sách đều của người dịch và Ban Biên tập tiếng Việt). Anh nơm nớp lo sợ, mở mắt ra lần nữa. Một thế giới nhuốm màu đỏ thẫm kì quặc xuất hiện trong tầm nhìn. Mọi thứ trông thật hư ảo qua màn mưa dày đặc. Chuyện quái gì thế này? Fujiki thẫn thờ nhìn chằm chằm vào cảnh tượng trước mắt. Đó là một nơi trông như hẻm núi, hai bên bị bó hẹp bởi hai vách đá hình thù quái dị. Chỗ anh đang nằm là một hốc đá lõm vào một bên vách, nhờ vậy mà anh không bị ướt mưa. Anh chưa từng thấy, cũng không thể tưởng tượng được rằng trên Trái Đất lại tồn tại một nơi có phong cảnh lạ lùng thế này. Đá kết thành từng cụm tròn nằm san sát với kích cỡ khác nhau, trông giống những sinh vật mọc thành chùm như nấm hay bí ngô hơn là những tảng đá vô tri vô giác. Màu và hoa văn của chúng lại càng kì lạ hơn. Tất cả núi đá trong tầm mắt anh đều có sắc đỏ thắm, lấp lánh dưới mưa. Trên bề mặt, các đường sọc ngang đen giống hệt nhau chẳng khác gì vòng tuổi của cây đại thụ, nhìn kĩ hơn một chút còn có thể thấy cả những họa tiết phức tạp hình thành từ vô số đường gân mảnh màu trắng. Anh không nghĩ mình đã hóa điên, bởi cảnh vật trước mắt quá sống động để có thể coi là ảo giác. Thính giác, thị giác, xúc giác đều đã chấp nhận hiện thực và liên tục truyền tải thông tin cho não bộ, chẳng qua nơi đó vẫn chưa thể cho ra một lời giải thích hợp lý nào. Fujiki bỗng thấy khát cháy cổ. Tuy tình huống khó tin hiện giờ khiến anh điên cả đầu, nhưng trước nhu cầu sinh lý của cơ thể, anh vẫn phải tạm thời dẹp nghi vấn sang một bên. Gần chỗ anh, trừ màn mưa mịt mùng ngoài kia ra, chẳng còn nơi nào có nước nữa cả. Ngay cả lúc phải vất vưởng ở khu Shinjuku, anh cũng chưa từng uống nước mưa, vì trong ấy thường hòa lẫn những chất bẩn gây ô nhiễm khí quyển nên tốt nhất là không uống. Có điều, lúc này không phải lúc để kén cá chọn canh. Anh vừa đứng dậy bằng đôi chân run lẩy bẩy thì lập tức mất thăng bằng, ngã chống tay xuống đất. Cảm giác có thứ gì đó chạm vào đầu ngón tay, anh nhìn xuống và thấy một bình đựng nước hình tròn, màu xanh lá cây. Ngoài ra, bên cạnh còn có một hộp đựng cơm màu đỏ để trong túi nhựa trong suốt và một cái túi nhỏ màu bạc. Thật lạ là đến tận bây giờ, anh mới nhận ra chúng nằm ở đấy. Bình nước nặng trịch. Anh mở nắp bình, thứ bên trong có vẻ là nước. Lý trí mách bảo Fujiki nên xác nhận tính an toàn của nó trước, song, anh chẳng còn đủ sức làm điều đó. Anh đưa lưỡi liếm thử miệng bình rồi bắt đầu tu ừng ực. Nước nặng mùi kim loại nhưng anh thấy ngon không sao tả được. Anh uống một mạch gần nửa bình, giữa chừng còn bị sặc hai, ba lần. Cơn khát vừa dịu đi, cảm giác đói bụng đã ập tới. Đầu óc choáng váng cho anh biết mình đang khẩn thiết cần bổ sung glucose. Sau khi có nước vào, dạ dày teo cứng bắt đầu hoạt động trở lại khiến anh có cảm giác sâu sắc rằng, hình như đã mấy ngày… không, phải một tuần rồi anh chưa được ăn gì. Fujiki lôi hộp đựng cơm từ túi nhựa ra, nhẹ nhàng mở nắp. Bên trong xếp đầy thực phẩm dinh dưỡng dạng thanh. Anh cầm lấy một thanh, do dự vài giây rồi cắn thử một góc. Chúng có vị như bột bánh quy, hình như đã nằm trong hộp khá lâu vì đã ỉu hết cả. Tuy vậy, anh vẫn cứ bốc từng thanh một lên ăn ngon lành. Đến lúc nhận ra thì anh đã ăn hết hàng đầu tiên rồi. Fujiki lập tức đếm số thanh còn lại, ba hàng, mỗi hàng tám thanh, tổng cộng là 24. Anh vội vã rụt tay về, trực giác cho rằng lúc vẫn chưa hiểu được chuyện gì đang xảy ra thì phần lương thực này rất quan trọng. Khi đầu óc tỉnh táo trở lại, Fujiki quan sát xung quanh thêm lần nữa, tự hỏi trước khi tới đây thì mình đã ở đâu. Anh vừa phóng tầm mắt ra xa vừa cố gắng khơi gợi lại kí ức. Trước lúc mất ý thức, nơi cuối cùng anh ở là… Anh có cảm tưởng như một phần nào đó trong kí ức của anh đang bị một màn sương mờ che phủ, cứ như thể đã bị cho uống thuốc gì đó, hoặc anh đã thực sự bị đánh thuốc. Anh nhớ rõ tên mình. Fujiki Yoshihiko. 40 tuổi. Cho đến năm ngoái, anh vẫn là nhân viên của một công ty chứng khoán lớn. Thời kì bong bóng là khoảng thời gian huy hoàng nhất của anh. Gần như đêm nào anh cũng đến Ginza, uống Moêt & Chandon hay Veuve Clicquot* bằng tiền của công ty và tự mãn trong tiếng nịnh nọt của các cô tiếp viên. “Giám đốc điều hành trẻ,” anh thấy sung sướng mỗi khi được gọi bằng cái hư danh ngu ngốc ấy. Thế nhưng, tất cả chỉ là ảo ảnh. Fujiki đã nhận ra điều đó sau khi công ty phá sản và bản thân trở thành một kẻ thất nghiệp. Cả hai đều là tên các nhãn hiệu Champagne nổi tiếng và lâu đời của Pháp. Từ tiểu học, cấp hai cho đến cấp ba, dù chưa từng dốc hết tâm sức cho việc học, anh cũng chưa từng bê trễ mà vẫn cần mẫn đi học thêm. Cuối cùng, bằng thành tích tầm trung, anh bước vào một trường đại học cũng tầm trung nốt. Vì thế, anh chẳng có gì đặc biệt để gợi nhớ về thời thanh xuân cả. Có điều, nhờ cái bằng đại học đó mà anh kiếm được việc ở một công ty lớn và ổn định. Bấy giờ anh nghĩ như thế thật. Nói gì thì nói, nó cũng là công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo. Đã được bảo đảm vững vàng, đáng lẽ đến lúc anh nghỉ hưu, nó vẫn không phá sản mới đúng. Nào ngờ chuyện tưởng như không thể lại xảy ra. Ba ngày trước khi bị đuổi khỏi kí túc xá của công ty, vợ anh - Kyoko, đã bỏ nhà ra đi. Giờ nghĩ lại thì ngay từ thời điểm công ty bắt đầu sa sút, chắc chắn cô đã định làm thế rồi. Không đi ngay lúc ấy, có lẽ chỉ vì cô bận tâm đến điều tiếng xung quanh. Dù sao thì anh với Kyoko cũng chưa có mụn con nào, hơn nữa, vốn dĩ vợ chồng anh cưới nhau không phải vì tâm đầu ý hợp. Cô chỉ bị cám dỗ bởi ảo ảnh tương lai ổn định cùng thu nhập ở thời kì đỉnh cao của anh mà thôi. Sau đó, anh dao động giữa thất nghiệp và vô gia cư rồi may mắn dừng lại ở dạng đầu tiên. Nhờ việc này mà anh hiểu ra rằng, không có một ranh giới rõ ràng nào để phân chia hai loại người ấy, bởi chẳng hề tồn tại một thứ như vòng dây tokudawara* cho những kẻ vốn đã thất bại. Vòng dây thừng giới hạn trong môn sumo, ra khỏi vòng tròn sẽ bị loại. Anh vẫn nhớ được mọi chuyện tính đến thời điểm đó, nhưng tiếp theo thế nào thì chịu. Mảnh kí ức cốt lõi có thể giải thích một cách rành mạch tại sao anh lại ở nơi kì dị này dường như đã biến mất. Anh thậm chí còn không thể nhớ nổi anh đã ở đâu trước khi mất ý thức. Cảm giác về thời gian bị nhiễu loạn khiến anh không thể xác định được đâu là điểm cuối cùng của kí ức. Phòng trọ tồi tàn có bếp và phòng ngủ để sống qua những tháng ngày thất nghiệp. Bờ sông có thể thoải mái tản bộ lúc chạng vạng mà không cần để ý đến ánh mắt của người khác. Văn phòng giới thiệu việc làm. Quán cà phê có giấy dán tường màu kem bong tróc bán những bữa sáng rẻ. Quầy ăn bằng gỗ ép hơi bẩn của quán nhậu, nơi duy nhất mang lại chút niềm vui. Những hình ảnh ấy hiện lên trong đầu, lộn xộn, rời rạc, và vẫn không thể tìm được mắt xích nào kết nối với hiện tại. Mất trí nhớ… Vừa nghĩ đến điều ấy, Fujiki rùng mình. Nhưng nghĩ kĩ thì đó là lời giải thích hợp lý nhất, vì có phải phim Miền ảo ảnh đâu mà có chuyện anh đột nhiên vượt qua không gian, thời gian để xuất hiện ở một nơi kì quặc thế này. Chắc chắn là anh đã đánh mất mảng kí ức về những việc xảy ra trước khi bị đưa tới đây. Chỉ cần lấy lại được chúng, mọi sự sẽ hoàn toàn sáng tỏ. Chứng mất trí nhớ ngược chiều. Đó là cụm từ anh nghe bác sĩ nói khi tới bệnh viện thăm người đồng nghiệp vào công ty cùng đợt ở Phòng Kinh doanh. Anh ta bị tai nạn giao thông trong lúc đi gặp khách hàng, đầu bị đập vào đâu đó nên những thông tin cơ bản như tên và nhân thân thì vẫn nhớ, song kí ức về tất cả những chuyện đã trải qua cho đến khi bị tai nạn lại chẳng còn đọng lại mảy may. Nguyên nhân khiến con người mất trí nhớ không chỉ bởi phần đầu bị tổn thương, một số loại thuốc nhất định cũng có thể gây ra tình trạng tương tự sau khi tiêm vào. Tuy nhiên, dù vì lý do gì thì cũng rất hiếm có trường hợp bệnh nhân quên đi những kí ức cơ bản như địa vị xã hội và tên tuổi. Bởi các thông tin ấy đã bị lặp đi lặp lại vô số lần và khắc sâu vào tiềm thức nên dẫu một phần của não bộ có bị mất chức năng hoạt động đi chăng nữa, họ vẫn có thể lấy chúng ra từ bản lưu dự trữ. Quả là trong đầu anh có ghim “bản sao” về sự thật anh thất nghiệp, hệt như mấy hình vẽ lăng nhăng ở nhà vệ sinh, Fujiki nhếch mép cười khẩy, bởi anh đã không ngừng dằn vặt bản thân mình về điều đó trong suốt thời gian qua. Nhưng, cứ cho là anh đã bị ngã rồi mất một phần kí ức đi, anh vẫn chẳng tìm được lời giải thích hợp lý nào cho khung cảnh lạ lùng trước mắt. Fujiki vừa chăm chú nhìn những dãy núi tròn quái dị vừa cảm nhận nỗi sợ hãi đang dần dâng lên trong lòng. Anh bắt đầu thấy hoang mang, vì đây không đơn giản chỉ là mất trí nhớ. Dù anh có cố gắng tưởng tượng chuyện đã xảy ra với bản thân trong kí ức bị thiếu sót kia là một chuyện hoang đường thế nào đi chăng nữa, vẫn chẳng có giả thiết nào thích hợp cho tình huống hiện tại. Bất chấp cái nóng ẩm ngột ngạt, toàn thân anh túa đầy mồ hôi lạnh. Có gì đó không đúng đến từ xúc giác. Nóng ẩm ngột ngạt… Anh sực nhớ ra một chuyện. Cuối cùng anh cũng tóm được một mảnh trong phần kí ức bị mất. Mùa đông. Đúng, không thể sai được. Tuyết phủ trắng xóa. Đây tuyệt đối không phải Tokyo, cái lạnh như cắt da cắt thịt… Nơi cuối cùng anh ở chắc chắn đang vào giữa đông. Thử nhìn xuống trang phục trên người, trên dưới đều là vest, cổ đeo cà vạt, bên trong mặc sơ mi trắng dài tay. Đồng hồ đeo tay hiển thị 5 giờ 16 phút, rất có thể là buổi chiều. Kim giây vẫn đang chạy bình thường. Fujiki thấy ân hận khi đã chọn Rolex, loại đồng hồ kiểu cổ mang dấu vết của thời kì bong bóng. Đây là loại đồng hồ cơ lên dây cót tự động, có độ chính xác không thua gì thạch anh. Chỉ cần kim vừa dừng, đồng hồ sẽ tự động lên dây cót và tiếp tục chạy. Dù sao thì cũng không thể tin tưởng hoàn toàn vào giờ đang hiển thị được. Mời các bạn đón đọc Mê Cung Đỏ của tác giả Kishi Yusuke.
Nhà Đen
Nhà Đen từng đoạt giải Nhất Tiểu thuyết Kinh dị Nhật Bản năm 1997. Một truyện dài vô tận dẫn vào địa hạt của bất nhân. … Wakatsuki làm việc tại một hãng bảo hiểm, công việc chuyên môn là thẩm định tiền bảo hiểm tử vong. Hằng ngày anh phải tiếp xúc với rất nhiều thành phần khách hàng, trong đó có cả những kẻ lừa đảo rắp tâm chiếm đoạt tiền bảo hiểm. Sau một lần tư vấn quá mức chân tình cho khách, anh bị lợi dụng, bị biến thành nhân chứng đầu tiên cho một cái xác thiếu niên treo lủng lẳng. Tuy bố mẹ cậu bé khẳng định là con mình tự tử, nhưng trực giác mách bảo Wakatsuki rằng đây là một vụ giết người. Do gián tiếp ngăn cản việc chi trả tiền bảo hiểm, chuỗi ngày tiếp theo của anh không còn yên bình như trước. Các màn khủng bố triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn, và hơn hết thảy, thi thể không toàn vẹn của những người hoặc vô tình hoặc cố ý nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Bất chấp tất cả, Wakatsuki vẫn bền bỉ khai quật sự thật, nhưng anh không ngờ mình phải đối mặt với quá nhiều sững sờ và run rẩy. Trong ngôi nhà đen ngập ngụa hôi thối, từ điểm bắt đầu là cái xác treo cổ, Wakatsuki đã đào lên cả một ổ dòi… *** Review NHÀ ĐEN - Kishi Yusuke Người dịch: Nguyệt Phùng #Nhà_Đen #Kishi_Yusuke #TrinhthamNhatBan ------------------------- Một tác phẩm khác của Kishi Yusuke. Mình không biết review này có thiên vị hay không nhưng vì mình quá thích Mê cung đỏ nên cuốn này cũng sẽ khen không ngoại lệ. Mình đọc xong lâu rồi nhưng giờ mới viết. Giọng văn của Kishi đặc biết đến cái độ mà dù không biết cùng một tác giả, một khi đã đọc được một tác phẩm của tác giả này rồi thì dễ dàng nhận ra văn phong đặc trưng của ông trong những tác phẩm sau. Kỳ lạ, lôi cuốn, hồi hộp. Nếu như Mê cung đỏ là một chuyến phiêu lưu thì Nhà đen chính là một án mạng kinh hoàng. Nhưng nó đáng sợ không phải những màn dọa ma hay jumpscare kinh dị, nó đáng sợ từ chính những con người. Câu chuyện kể về Wakatsuki - một nhân viên chịu trách nhiệm kiểm định các hợp đồng bảo hiểm, bỗng một ngày được khách hàng mời đến nhà và chứng kiến thằng con trai treo cổ tự sát. Dẫn theo sau đó là những vụ giết người kinh tởm mà thủ phạm là một kẻ thái nhân cách không bình thường. Đọc truyện mình có thể thấy tác giả phải nghiên cứu sâu về tâm lý học tâm lý tội phạm và tâm lý nhân vật ra sao mới có thể vẽ nên từng nhân vật đặc sắc và diễn biến nội tâm hợp lý đến thế, dù chỉ là những nhân vật phụ như trợ giảng đại học Kanaishi hay bảo hiểm đen Miyoshi. Ngoài ra truyện cho người đọc tiếp thu một lượng kiến thức khổng lồ về ngành bảo hiểm, quy trình hợp đồng và những kẽ hở lách luật hay những án bảo hiểm đầy mưu mô, tác giả có lẽ phải đọc rất nhiều mới có thể khiến tình tiết đi hợp lý đến thế. Nếu Mê cung đỏ là dùng câu chuyện kỳ ảo để nói về bản thể con người thì trong Nhà đen bản thể con người được khắc họa qua những câu chuyện vô cùng thực tế vốn tồn tại xung quanh ta. Chi tiết về con sâu bướm cuối truyện như vẽ nên một viễn cảnh về xã hội tương lai khi mà con người ta chính là đàn kiến đang sợ hãi hoang mang trước thế lực quá mới mẻ mang tên tâm lý băng hoại của loài người, không còn đến từ cá nhân, mà đến với số lượng khổng lồ. Megumi -bạn gái Wakatsuki đã nói thế này "Không, họ hoàn toàn bình thường. Có thể nói là hầu như tất cả đều bình thường. Vấn đề là họ có chung một nỗi bi quan đến mức bệnh hoạn, cả nỗi tuyệt vọng vô bờ bến đối với nhân loại nữa. Mọi thứ họ nhìn đều phản chiếu nỗi tuyệt vọng tăm tối đó. Họ tuyệt nhiên không chấp nhận một điều, rằng thiện ý và tình cảm của con người sẽ làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Cho nên, chắc chắn họ có ác cảm trên mức cần thiết đối với mọi sự việc trên đời. Họ bảo vệ bản thân bằng thứ mánh khóe vô cùng tinh tế, đó là không kết nối tình cảm và yêu thương bất cứ thứ gì để dù bị phản bội cũng sẽ không tổn thương. Và họ áp đặt thành kiến độc ác lên mọi đối tượng đe dọa sự tồn tại của họ, ngộ nhỡ có bất trắc xảy ra cũng sẽ dễ dàng rũ bỏ mà không cảm thấy đau đớn." Nói tóm lại, Nhà đen không phải truyện trinh thám, không có yếu tố thủ phạm bất ngờ, cũng không phải truyện kinh dị như kiểu The ring, đây là câu chuyện mang yếu tố hình ảnh khắc họa con người rất tốt, tính gợi cao và lối kể chuyện hấp dẫn. Giống như Ktakami Jiro đã bình về cuốn này, nó mô tả bi kịch hiện đại của một xã hội phải đối mặt với sự suy đồi đạo đức thông qua những câu chuyện phụ được liên kết phức tạp cũng như ngòi bút tạo dựng nhân vật xuất chúng, lột tả một cách cảm động sự tôn nghiêm và kỳ vọng của con người. Người viết: Ngoc Anh Pham - fb/trinhthamgroup *** KISHI YUSUKE Sinh năm 1959 tại Osaka, tốt nghiệp khoa Kinh tế học Đại học Kyoto. Năm 1996, tác phẩm ISOLA - Nhân cách thứ 13 của ông đoạt giải xuất sắc Tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản. Sau đó, các tác phẩm khác của ông như: Nhà đen (1997), Búa thủy tinh (2004), Tân Thế Giới (2005), Giờ học của ác quỷ (2008) cũng lần lượt được nhận các giải thưởng văn học khác nhau. Một anh nọ làm ở công ty bảo hiểm nhân thọ, chuyên môn thẩm định tiền bồi thường tử vong. Một ngày kia, anh ta được khách gọi đến tận tư gia, và bất ngờ trở thành người đầu tiên phát hiện ra thi thể treo cổ của đứa con trai nhà ấy. Qua thái độ của bố mẹ chúng, anh ngờ rằng đây không phải là tự tử, mà là giết con để lấy tiền bảo hiểm, nên khi đơn yêu cầu bồi thường được gửi tới, anh đã âm thầm tiến hành điều tra. Từ đó, ác mộng dồn dập tấn công cuộc sống của anh. Nỗi khủng hoảng triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn quanh nghi can sát nhân. Và hơn hết thảy, cái chết của những người vô tình hoặc cố ý đã nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Một truyện dài bất tận dẫn vào địa hạt của bất nhân và run rẩy… Nhà đen đoạt giải Nhất tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản năm 1997. *** Ngày 8 tháng Tư năm 1996, thứ Hai. Ngừng bàn tay đang cầm cây bút chì xanh lại trong chốc lát, Wakatsuki Shinji khẽ vươn vai. Anh vén rèm lên, để ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ phía Đông của phòng Tổng hợp, tạo thành những đốm nắng nhỏ trên mặt bàn. Những tia sáng li ti lấp lánh trên các đồ vật nằm trong khay bút, nào nắp bút bi, con dấu, kính lúp soi dấu hồ sơ và cả com-pa nữa. Wakatsuki nhìn ra bên ngoài cửa sổ, bầu trời Kyoto trong vắt, đâu đó có những vệt mây đang lặng lờ trôi, như thể được quệt bởi đầu bút vẽ. Anh hít căng không khí trong lành của buổi sáng rồi lại tiếp tục kiểm tra số hồ sơ yêu cầu tiền bảo hiểm tử vong đang chất đống trên bàn làm việc. Một thợ mộc 48 tuổi, ho ra máu, nhập viện và bị chẩn đoán mắc ung thư dạ dày. Một nhân viên văn phòng 60 tuổi, ngất xỉu trong lúc chơi golf và bị phát hiện mắc bệnh u não. Một sinh viên đại học vừa làm lễ trưởng thành[1] năm nay, chạy xe quá tốc độ nên đâm phải cột điện ở khúc cua… Wakatsuki đang đối diện với cái chết của những con người anh chưa một lần gặp mặt. Xem ra, khởi đầu mỗi buổi sáng bằng công việc như thế này thật chẳng mấy dễ chịu. Trong vòng năm năm sau khi vào công ty, Wakatsuki được phân bổ về ban Đầu tư trái phiếu quốc tế ở trụ sở chính. Bấy giờ, trong đầu chỉ rặt những vấn đề kinh tế vĩ mô như lãi suất dài hạn của Mỹ hay tỉ giá hối đoái, thành ra anh cứ ý thức một cách mơ hồ rằng mình đã trở thành nhân viên của một cơ quan tài chính chứ nào phải công ty bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên, vào mùa xuân năm ngoái, anh đã chuyển đến chi nhánh Kyoto làm công việc thẩm định tiền bảo hiểm tử vong. Kể từ đó, anh mới có cảm giác mình thật sự là nhân viên của một doanh nghiệp liên quan đến chuyện sống chết của con người. - Hôm nay lại có hàng tá vụ tử vong nữa nhỉ. Phó phòng Kasai Yoshio ngồi kế bên, nhìn sang bàn Wakatsuki và cất tiếng. - Đang mùa xuân mà... Tội nghiệp quá. Ngẫm lại, đúng là số người chết nhiều đến bất thường. Theo thống kê, lượng người chết nhiều nhất là vào mùa đông vì người già hay bệnh nhân sức khỏe yếu thường không vượt qua nổi giá rét. Chắc chắn phải có nguyên do nào đó mới dẫn đến quá nhiều cái chết ngay giữa mùa xuân thế này... Wakatsuki thử lật mớ hồ sơ. Ngay dưới đơn yêu cầu tiền bảo hiểm do người thụ hưởng điền đều có biên bản xác nhận tử vong của bác sĩ, bản phô tô hộ khẩu gia đình, vài trường hợp có biên bản chứng minh tai nạn giao thông. Ẩn số ngay lập tức được giải đáp. - Ồ, hồ sơ vụ hỏa hoạn ở quận Sakyo đây mà. Khoảng ba tuần trước, một xưởng mộc bị thiêu rụi khiến năm người trong gia đình thiệt mạng. Hiện tại, có tổng cộng mười lăm yêu cầu tiền bảo hiểm tử vong cùng một lúc nên thoạt nhìn, số trường hợp có vẻ nhiều hẳn lên. Già nửa số đó là những loại bảo hiểm có tính tiết kiệm cao, chẳng hạn như bảo hiểm dưỡng lão kì hạn năm năm. Chắc toàn những người không nỡ từ chối đây mà, Wakatsuki tưởng tượng. Họ đã động lòng vì lời nài nỉ “bị áp lực chi tiêu” của đám nhân viên bán bảo hiểm và cứ liên tiếp bỏ tiền ra mua giúp. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm nhân thọ của Nhật Bản cao nhất thế giới, phần lớn là nhờ công của những khách hàng như thế. - Mà này, có kẻ đốt đúng không? Biết thủ phạm chưa vậy? - Chưa anh ạ, nhưng khả năng có người thụ hưởng rất thấp nên em nghĩ việc thanh toán không vấn đề gì đâu. - Rõ thật là... Cứ phải tử hình hết cái bọn đốt nhà người khác làm vui đi cho rồi! Kami lẩm bẩm. Anh xắn tay áo sơ mi lên, để lộ cánh tay to như lực sĩ, thi thoảng lại lấy khăn mùi soa lau mồ hôi trán. Chiều cao tầm 1m75, cân nặng lên đến 120 kilogam có lẻ nên nhiệt lượng thoát ra từ anh hẳn phải lớn hơn nhiều so với người bình thường. Mới buổi sáng đầu xuân mà lưng và phần nách chiếc áo sơ mi dài tay màu xanh da trời cỡ XXL trên người anh đã ướt đẫm. Điện thoại đổ chuông. Kasai nhấc ống nghe không chút chần chừ rồi ấn chiếc nút đang nhấp nháy. Anh cố thực hiện kế hoạch chỉ đạo âm thầm đối với các nhân viên nữ rằng phải trả lời điện thoại ngay lập tức. - Bảo hiểm Nhân thọ Showa chi nhánh Kyoto xin nghe! Xin lỗi đã để quý khách chờ lâu! Giọng nam cao sang sảng của Kasai vang lên khắp phòng. - Nhờ anh nhé, chủ nhiệm Wakatsuki. Sakagami Hiromi đặt lên bàn tập hồ sơ yêu cầu tiền bảo hiểm trợ cấp nằm viện sau khi kiểm tra xong một lượt. Cô là nữ nhân viên xuất sắc đã có kinh nghiệm năm năm làm việc tại công ty. Ngoài hồ sơ mới, số hồ sơ đã được phân loại theo màu cũng nằm la liệt trên mặt bàn, nào là thanh toán bảo hiểm hết thời hạn, thanh toán bảo hiểm sinh kì, thanh toán lương hưu, vay tiền theo hợp đồng bảo hiểm, cắt hợp đồng, đăng kí con dấu, thay đổi người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng tiền bảo hiểm, đính chính địa chỉ hoặc ngày tháng năm sinh, thậm chí còn đính chính thông tin người thân hay giới tính của người mua, và cả tái phát hành bảo hiểm rủi ro chứng khoán nữa. Nói chung là muôn hình vạn trạng hồ sơ, không có thời gian mà đủng đỉnh. Wakatsuki nhanh chóng bắt tay vào kiểm tra. Ngoại trừ vụ cháy xưởng mộc, hầu hết đều là người chết do bệnh tật kinh niên, không thấy vấn đề gì. Nhưng gần đến cuối, anh phát hiện ra một trường hợp. Bảo hiểm trọn đời 10 triệu yên, tham gia bảo hiểm đã hai mươi năm. Một hồ sơ rất bình thường, nhưng đáng chú ý nhất là dòng chữ “Biên bản xác nhận tử vong” đã được thay thế bằng dòng chữ “Biên bản khám nghiệm tử thi”. Sự khác nhau của hai biên bản này nằm ở chỗ, bác sĩ lập biên bản có khám cho người đó trong vòng 24 giờ trước lúc chết hay không. Nếu là “Biên bản khám nghiệm tử thi” thì ngay từ đầu, bác sĩ đã chỉ tiếp xúc với tử thi nên chưa thể khẳng định chắc chắn nguyên nhân gây ra cái chết. Wakatsuki kiểm tra các mục theo thứ tự từ trên xuống dưới. Mời các bạn đón đọc Nhà Đen của tác giả Kishi Yusuke.