Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuốn Sách Tiên Tri

"Trong cuốn tiểu thuyết tuyệt vời này, một Erika Swyler đầy tài hoa  đã xuyên suốt qua nhiều thế hệ và nhiều thế kỷ, dịch chuyển một cách khéo léo và dệt các mạch truyện thành một tấm thảm tuyệt đẹp. Tôi ngay tức khắc hòa mình vào trong câu chuyện gia đình đầy thủ đoạn và bất hòa. Văn chương của Swyler hoa mỹ và thanh tao tới mức vô cùng dễ hiểu, tỏa sáng hệt như giọng nói đặc biệt của bà - cách miêu tả của bà về biển và vẻ hung hãn của nó có thể sánh ngang với Annie Proulx trong tác phẩm Shipping News. Tôi thực sự yêu thích cuốn sách này và đã ngấu nghiến đọc một mạch từ đầu đến cuối"  - Trích lời Sara Gruen, tác giả cuốn Water for Elephants; At the Water's Edge - *** Văn học giả tưởng, ma mị là một thể loại cực kỳ thu hút độc giả. Mời các bạn đón đọc review Cuốn sách tiên tri – một câu chuyện cực hot trong thể loại trên. “Trong khi Peabody vẽ và mơ ước, hàng xe vẫn đi theo con đường quanh co chạy theo chiều dài Catawba. Trục xe rên rỉ phản kháng, những cánh cửa xe đóng sập lại và bị kẹt, không khí ẩm ướt khác thường bao trùm lên cả gánh xiếc khi họ mù quáng đi vào trong sương mù.” Cuốn sách tiên tri có cái ma mị của ‘Rạp xiếc đêm’, cũng có chút bất cần tuổi trẻ của ‘Những thành phố giấy’. Cái ma mị bí ẩn trong hình ảnh ngôi nhà bên vách đá gắn với những kỉ niệm, hiệu sách cũ, lửa trại, những lá bài tarot, gánh xiếc, người cá, cuốn sách cổ, những cái chết.. tất cả góp phần tạo nên một không gian truyện bí ẩn và cuốn hút. Đan xen vào đó là những khao khát, ước mơ và cả tình yêu của những con người trẻ tuổi, những con người mang trong mình những đam mê nồng cháy và cảm xúc bùng nổ khi đối diện với người họ thương yêu. Bằng cách kể chuyện song song ở hai khoảng thời gian hiện tại và quá khứ, tác giả như đang thì thầm những bí mật về những con người xa lạ hóa ra lại có mối liên hệ gắn bó và bị thu hút về phía nhau vậy. Tớ rất thích cách viết gắn kết những con người tưởng chừng không chút liên quan, mà qua ngòi bút của tác giả, sợi dây liên kết giữa họ rõ ràng hơn và kì diệu hơn rất nhiều. Không chỉ có vậy, đây còn là câu chuyện về tình cảm gia đình gắn bó, những kỉ niệm đã qua vẫn còn lưu lại trong kí ức tuổi thơ của những kẻ trưởng thành cô đơn, hay những day dứt về sự bồng bột và những hành động trong quá khứ vẫn xuất hiện trong tâm trí họ. Liệu người thân hay chính bản thân họ có dám đối diện với những sai lầm ngày còn trẻ, có thể bằng lòng tha thứ hay không? Bên cạnh đó thì đôi lúc mạch truyện cũng hơi chậm, cảm giác như tác giả cũng đang băn khoăn tìm hướng đi cho nhân vật vậy. Tớ cũng không thích vài chi tiết tình cảm người lớn trong cuốn này, cứ thấy cái gì đó không hợp câu chuyện lắm đâu. Chung lại thì đây là một cuốn khá ổn, nếu anh em muốn thử một cuốn bí ẩn ma mị mà không thiếu đi sự sâu lắng của tình cảm con người thì tớ nghĩ đây sẽ là một câu chuyện phù hợp đó. Cuốn sách tiên tri xoay quanh Simon Watson, anh chàng thủ thư vừa mất việc, rơi vào chán chường vì mất việc đồng nghĩa với không có tiền sửa sang lại căn nhà thơ ấu với bao kỉ niệm cùng bố mẹ và em gái Enola. Một ngày, Simon nhận được cuốn sách cổ từ chủ hiệu sách Churchwarry&son mà trong đó, anh chợt nhận ra những mối liên hệ bất ngờ và một sự trùng hợp kì lạ về những con người đặc biệt từ nhiều năm về trước. Trích dẫn Cuốn sách tiên tri: “Trong khi Amos mơ những giấc mơ của một Cậu bé Rừng xanh – có những đầm lầy dồi dào muông thú, có những đám rong rêu mềm mại để anh ngủ ngon lành trên đó, có sự sảng khoái của những dòng sông mát lạnh áp vào da thịt, có một cô gái đáng yêu trong nước, mái tóc bồng bềnh xung quanh như thảm cỏ – thì những giấc mơ của Evangeline lại u ám hơn nhiều. Cô mơ đến việc bò ra khỏi ngôi nhà màu xám ở Kromeskill, đầu gối đẫm máu, bùn đóng cứng lại cùng với lá thông. Lúc nào bà cô cũng đi theo cô, khuôn mặt tím tái, cầu xin lòng nhân từ và sự cứu giúp. Tại sao? Tại sao? Bà rất yêu cháu. Gánh xiếc đang rời Philadelphia để đến những ngôi nhà gạch có đầu nhọn ở New Castle thì bầu trời nổi gió và mưa trút xuống đe doạ sẽ cuốn trôi cả bầy thú. Con ngựa nhỏ đá chân và lồng lên bên trong xe ngựa của mình, con lạc đà rít lên như một đứa trẻ bị thương. Lo sợ rằng việc cố gắng đi tiếp sẽ khiến chúng bị sa lầy, Peabody lệnh cho tất cả các cỗ xe dừng lại cho đến khi mưa tạnh. Màn đêm buông xuống với hơi nóng dày đặc buộc mọi người phải lên giường đi ngủ. Không khí nặng nề với những đám mây mưa, bầu trời như một quả cân kéo Evangeline xuống như bà của cô đã từng làm. Cô ngủ một giấc ngủ bồn chồn, không yên vì tội lỗi.” Với Cuốn sách tiên tri, tớ chấm 4/5 điểm. *** Ngôi nhà cheo leo bên rìa dốc thẳng đứng trông thật nguy hiểm. Cơn bão đêm qua đã cày tung đất, khuấy đảo vùng biển, khiến bãi biển đầy rẫy chai lọ, rong biển, mai cua hình móng ngựa. Mảnh đất tôi đã sống cả cuộc đời này không chắc có thể trụ qua được mùa bão. Eo biển Long Island rải rác tàn tích của những ngôi nhà và những mảnh đời, tất cả bị chôn vùi trong cái dạ dày tham lam của cát. Nó là một kẻ chết đói. Các biện pháp như xây vách ngăn, tôn nền cao đều không có. Sự thờ ơ của bố đã khiến tôi phải gánh chịu một vấn đề không thể giải quyết, một vấn đề quá tốn kém với một thủ thư ở Napawset. Nhưng, những thủ thư chúng tôi nổi tiếng là có tài xoay xở. Tôi đi về phía những bậc thang gỗ dẫn xuống vách đá. Chân tôi đau nhói ở nơi đá găm vào. Ở bờ biển Bắc này, có một vài thứ cần thiết hơn là bàn chân chai cứng. Vào mùa hè, tôi và em gái Enola thường chạy chân đất cho đến khi vỉa hè nóng ran đến nỗi ngón chân chúng tôi lún xuống nhựa đường. Người ngoài không thể đi bộ trên những bờ biển thế này. Frank McAvoy vẫy tay với tôi từ dưới chân bậc thang trước khi quay ra nhìn chằm chằm vào vách đá. Ông mang theo con thuyền nhỏ xinh xắn, trông như thể được đục đẽo từ một tấm gỗ duy nhất. Frank McAvoy là thợ đóng thuyền gỗ và là một người tốt bụng, đã quen biết gia đình tôi trước cả khi tôi chào đời. Khi cười, khuôn mặt ông hằn lên những nếp nhăn loang lổ của một người Ireland bao năm dãi dầm mưa nắng; cặp lông mày cong lên trên và mất hút dưới vành mũ cũ kỹ. Nếu bố tôi sống đến sáu mươi tuổi, có thể trông ông sẽ giống như Frank, với hàm răng vàng khè và những vết tàn nhang ửng đỏ. Nhìn vào Frank, tôi lại nhớ đến tôi hồi trẻ thơ, đang bò giữa những thanh củi được xếp để đốt lửa trại, bàn tay to lớn của ông kéo tôi khỏi một khúc gỗ đang lung lay. Ông khiến tôi nhớ lại những kỷ niệm về bố, khi ông đang loanh quanh với món lợn quay, ngô nướng, mùi vỏ khô cháy thành than và mùi lụa cháy, trong khi Frank tiêu khiển cho chúng tôi bằng những câu chuyện đi câu. Frank có biệt tài nói dối như thần, đó là điều rất rõ ràng. Mẹ tôi và vợ ông ấy giục ông kể tiếp, tiếng cười của họ khiến cho lũ mòng biển cũng phải khiếp sợ. Hai người họ giờ đã không còn nữa. Tôi nhìn Frank và thấy bố mẹ tôi, tưởng tượng rằng ông không thể nhìn tôi mà không thấy những người bạn đã mất. - Có vẻ như cơn bão đã ảnh hưởng nhiều đến cháu đó. - Ông nói. - Cháu biết. Cháu mất một mét rưỡi. - Một mét rưỡi là đã nói giảm nói tránh rồi. - Bác đã bảo bố cháu phải dựng kè, trồng thêm cây. - Nhà ông McAvoy cách nhà tôi vài trăm mét về phía tây, nằm xa biển, với một cái dốc đứng có bậc thang và cây trồng, được thiết kế để bảo vệ ngôi nhà trong bất cứ hiểm nguy nào. - Bố cháu không bao giờ biết lắng nghe cả. - Đúng thế. Ngoài ra thì một hay hai miếng che trên kè có lẽ đã có thể cứu cháu khỏi một biển rắc rối. - Bác biết bố cháu thế nào mà. - Sau đó là một khoảng lặng đầy cam chịu. Frank hít không khí qua kẽ răng, tạo ra một tiếng huýt sáo khô khốc. - Bác cho rằng bố cháu nghĩ ông ấy có nhiều thời gian hơn thế để sửa chữa mọi thứ. - Có lẽ vậy. - Tôi nói. Ai mà biết được bố tôi đã nghĩ gì. - Dù vậy, mấy năm nay, nước đã lên cao. - Cháu biết, cháu không thể để việc này tiếp diễn lâu hơn được nữa. Nếu bác quen một ai đó mà bác tin tưởng, cháu sẽ rất cảm kích nếu được bác cho biết tên của một nhà thầu. - Chắc chắn rồi. Bác có thể gửi người đến chỗ cháu. - Ông gãi đầu - Nhưng bác không muốn nói dối, tiền công sẽ không rẻ đâu. - Không còn gì khác nữa phải không bác? - Không, bác nghĩ là không. - Cháu có thể xem xét bán một số thứ. - Thật buồn khi thấy cháu làm việc đó. - Vầng trán Frank nhăn lại, khiến chiếc mũ sụp xuống. - Đất đai còn có chút giá trị ngay cả khi ngôi nhà biến mất. - Hãy suy nghĩ thêm. Frank biết vấn đề tài chính eo hẹp của tôi. Cô con gái Alice của ông cũng làm việc tại thư viện. Tóc hoe đỏ và xinh xắn, Alice có nụ cười của bố và cô ấy rất biết cách lấy lòng bọn trẻ. Alice biết cách giao thiệp với mọi người hơn tôi, đó là lý do tại sao cô ấy làm nhiệm vụ thiết lập chương trình, còn tôi làm công việc tra cứu. Nhưng chúng tôi không ở đây để nói về Alice, hay tình trạng nguy hiểm của căn nhà. Chúng tôi ở đây để làm công việc chúng tôi đã làm suốt một thập kỷ qua, thả phao để cách ly một vùng ngập nước. Cơn bão đủ mạnh để kéo phao và mấu neo vào bờ, để lại một đống những dây xích han gỉ và dây thừng bện màu cam, san sát những hàu. Tôi thấy hơi ngạc nhiên khi bị mất đất. - Chúng ta đi chứ? - Tôi hỏi. - Tại sao không? Thời gian không còn dài nữa. Tôi cởi áo, nhấc dây xích và dây thừng lên một bên vai, rồi chầm chậm bước xuống nước. - Có chắc là cháu không cần giúp một tay không? - Frank hỏi. Con thuyền đã chạm mặt cát khi ông đẩy nó xuống nước. - Dạ không, cảm ơn bác, cháu làm được. - Tôi có thể tự mình làm việc này, nhưng có Frank đi theo vẫn an toàn hơn. Ông ở đây không phải vì tôi, mà là vì cái lý do đã khiến tôi làm việc này vào mỗi năm: để tưởng nhớ mẹ tôi, Paulina, bà đã chết đuối ở vùng nước này. Eo biển thật lạnh lẽo vào tháng 6, bước xuống tôi hòa mình vào nó, bàn chân tôi quắp vào nhũng hòn đá bám đầy tảo biển. Dây xích có móc neo khiến tôi chậm lại, nhưng Frank vẫn duy trì tốc độ, xoay tròn mái chèo. Tôi bước đi cho đến khi nước ngập đến ngực, rồi đến cổ. Ngay trước khi lặn xuống, tôi thở hết ra, rồi hít vào, như mẹ tôi đã hướng dẫn tôi trong một buổi sáng ấm áp vào cuối tháng 7, như tôi đã hướng dẫn em tôi. Mẹo để nín thở là chịu khát. “Thở một hơi thật nhanh và mạnh,” mẹ tôi nói, giọng bà êm ái bên tai. Ở vùng nước nông, mái tóc đen dài của mẹ trôi quanh chúng tôi tựa một dòng sông. Hồi đó tôi năm tuổi. Bà ấn bụng tôi cho đến khi các cơ thắt chặt vào, rốn gần chạm xương sống. Bà đẩy mạnh, móng tay sắc nhọn chọc vào tôi, “Bây giờ con hãy hít vào, nhanh. Nhanh, nhanh, nhanh. Xương sườn căng ra. Nghĩ rộng ra.” Bà hít vào, lồng ngực mở rộng, những chiếc xương mảnh như xương chim bành ra cho đến khi bụng bà tròn như cái thúng. Bộ áo tắm của bà là một ánh sáng trắng rạng rỡ trong nước. Tôi nheo mắt nhìn. Bà xỉa một ngón tay vào xương ức tôi. “Con đang thở ra đấy, Simon. Nếu con thở ra, con sẽ chết đuối.” Một cái chạm khẽ khàng. Một nụ cười mỉm. Mẹ bảo tôi hãy tưởng tượng rằng tôi đang khát, cổ họng khô khốc và trống rỗng, rồi uống không khí vào. “Hãy thư giãn xương cốt và uống vào thật nhiều, thật sâu.” Khi bụng tôi đã tròn như chiếc trống cái, bà thì thầm, “Tuyệt, tuyệt. Bây giờ chúng ta lặn xuống nào.” Lúc này tôi lặn xuống. Những tia nắng mềm mại xuyên xuống quanh bóng chiếc thuyền của Frank. Thỉnh thoảng, tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi, đang trôi giạt trong làn nước, và thỉnh thoảng tôi thoáng thấy bà, phía sau lớp rong biển, mái tóc đen hòa lẫn với tảo bẹ. Hơi thở của tôi biến thành một màn sương đẹp đẽ bao phủ lên làn da. Mẹ tôi là một diễn viên ở rạp xiếc và lễ hội, người bói bài tarot, trợ lý ảo thuật gia, và người cá, chuyên sống bằng cách nín thở. Bà dạy tôi bơi như cá, và bà khiến bố tôi mỉm cười. Bà thường xuyên biến mất. Bà thường bỏ việc hoặc làm đồng thời hai hay ba việc một lúc. Bà ở khách sạn chỉ để thử những chiếc giường khác nhau xem chúng như thế nào. Bố tôi, Daniel, là một thợ máy và là một người chồng chung thủy. Ông ở nhà, mỉm cười, đợi vợ trở về, đợi bà gọi ông là anh yêu. Simon, con yêu. Bà cũng gọi tôi như vậy. Tôi lên bảy tuổi vào ngày bà gieo mình xuống nước. Tôi cố quên, nhưng nó đã trở thành kỷ niệm thân thương nhất của tôi về bà. Bà đã bỏ chúng tôi sau khi chuẩn bị xong bữa sáng. Trứng luộc chín phải được đập vào cạnh đĩa và phải dùng móng tay để bóc vỏ. Tôi đập và bóc trứng cho em gái, cắt chúng thành miếng cho vừa những ngón tay nhỏ xíu của đứa trẻ mới chập chững biết đi. Có bánh mì nướng khô và nước cam đi kèm. Những giờ đầu điên của mùa hè khiến bóng tối trở nên tối hơn, khuôn mặt trở nên sáng hơn và chỗ hõm trở nên góc cạnh hơn. Mẹ Paulina là một cảnh tượng đẹp trong sáng hôm đó, vô cùng duyên dáng, không ai sánh bằng. Bố tôi đang làm việc ở nhà máy. Chỉ có mẹ ở nhà với chúng tôi, quan sát, và gật đầu khi tôi cắt trứng cho Enola. - Con là một người anh tốt, Simon à. Con hãy trông chừng Enola. Con bé sẽ muốn chạy trốn khỏi con. Hãy hứa với mẹ rằng con sẽ không để em đi. - Con hứa. - Con là một chàng trai tuyệt vời, phải không? Mẹ không bao giờ trông chờ điều đó. Mẹ không trông chờ điều đó ở con một chút nào. Quả lắc trên chiếc đồng hồ chim cu tích tắc qua lại. Bà gõ một gót giày lên tấm vải son lót sàn nhà, yên lặng. Enola bôi đầy trứng và mảnh bánh mì vụn lên người. Tôi vật lộn với việc vừa ăn sáng, vừa giữ cho em gái tôi sạch sẽ. Một lát sau, mẹ đứng dậy và vuốt thẳng vạt trước của chiếc váy mùa hè màu vàng bà đang mặc rồi nói: - Gặp lại con sau nhé, Simon! Tạm biệt Enola! Bà hôn lên má Enola và áp môi lên đỉnh đầu tôi. Bà vẫy tay tạm biệt, mỉm cười và đi làm, tôi đã nghĩ như vậy. Làm sao tôi có thể biết được lời tạm biệt đó lại chính là lời vĩnh biệt. Những suy nghĩ khó khăn chất chứa trong những lời nói nhỏ bé. Khi bà quan sát tôi trong buổi sáng hôm đó, bà biết rằng tôi sẽ chăm sóc cho Enola. Bà biết chúng tôi không thể theo bà. Đó là thời gian duy nhất bà có thể đi. Không lâu sau đó, khi tôi và Alice McAvoy đang đua xe trên chiếc thảm trải sàn phòng khách nhà cô ấy, mẹ tôi đã trẫm mình xuống eo biển. Tôi lao xuống nước, đẩy nước bằng ngực, thọc chân sâu xuống. Sau khi đã lặn thêm vài mét nữa, tôi thả một cái neo, nó rơi xuống với một tiếng vang nghẹt lại. Tôi nhìn vào bóng của chiếc thuyền. Frank đang lo lắng. Mái chèo đập xuống mặt nước. Hít thở dưới nước sẽ như thế nào nhỉ? Tôi tưởng tượng khuôn mặt méo mó của mẹ tôi, nhưng vẫn tiếp tục đi cho đến khi tôi có thể thả một cái neo khác, và rồi tôi đẩy hết không khí ra khỏi phổi và bước về phía bờ, cố gắng ở phía dưới lâu nhất có thể - đó là một trò chơi mà tôi và Enola đã thường chơi. Tôi chỉ bơi khi không thể giữ nổi thăng bằng để bước đi, sau đó cánh tay tôi di chuyển thành những sải bơi ổn định, cắt qua eo biển như một trong những chiếc thuyền của Frank. Khi nước vừa đủ sâu để ngập đầu, tôi lại chạm xuống dưới đáy. Điều tiếp theo tôi làm là vì Frank. “Chậm thôi, Simon. Hãy mở mắt ra, ngay cả khi con thấy cay mắt. Không được chớp mắt.” Mẹ bảo tôi. Muối làm cho mắt đau nhói nhưng mẹ không bao giờ chớp mắt, không chớp mắt trong nước, không chớp mắt khi không khí bắt đầu đập vào mắt mẹ. Bà đang di chuyển như một bức tượng. “Đừng có thở, ngay cả khi mũi con đã ở phía trên mặt nước. Nếu con hít thở quá nhanh, miệng con sẽ đầy muối. Hãy đợi,” Mẹ nói, kéo dài từ này như một lời hứa. “Đợi cho đến khi miệng con đã lên khỏi mặt nước, nhưng hãy hít thở bằng mũi, hay trông như con bị mệt. Con không bao giờ có thể bị mệt. Rồi con mỉm cười.” Dù miệng nhỏ và môi mỏng nhưng nụ cười của bà luôn căng rộng ra như làn nước. Mẹ chỉ cho tôi cách cúi chào đúng đắn: cánh tay giơ cao, ngực ưỡn ra, như một con sếu chuẩn bị bay. “Đám đông thích những người rất nhỏ và rất cao. Đừng gập cong người như một diễn viên, điều đó sẽ ảnh hưởng đến con. Hãy để họ nghĩ rằng con cao hơn thực chất của mình. Mẹ mỉm cười với tôi khi đang giơ cao cánh tay bà. “Và con sẽ rất cao, Simon à.” Một cái gật đầu căng hết cỡ tới những khán giả vô hình. “Và con hãy thật duyên dáng, Hãy luôn luôn duyên dáng.” Tôi không cúi chào, không phải vì Frank. Lần cuối cùng tôi cúi chào là khi tôi dạy Enola và muối đâm vào mắt chúng tôi đau đến nỗi trông chúng tôi như thể mới đánh nhau. Dù vậy, tôi vẫn mỉm cười và hít một hơi thật sâu qua mũi, để cho xương sườn giãn ra và lồng ngực căng đầy. - Bác nghĩ là bác sẽ phải theo sau cháu. - Frank gọi. - Cháu ở dưới bao lâu rồi bác? Ông nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay bằng dây da đã rạn và thở ra: - Chín phút. - Mẹ cháu có thể làm được mười một phút. - Tôi giũ nước khỏi tóc, đập đập hai lần để nước ra khỏi tai. - Không bao giờ hiểu được điều đó. - Frank thốt lên khi lôi mái chèo ra khỏi khóa. Chúng kêu loảng xoảng khi ông ném chúng vào thuyền. Có một câu hỏi mà cả hai chúng tôi đều không hỏi: mất bao lâu để một người nín thở bị chết đuối? Khi tôi mặc áo, nó đầy cát, đó là hậu quả của việc sống ở bờ biển, cát luôn có trong tóc, dưới móng chân, trong những nếp khăn trải giường. Frank đi đến sau tôi, thở hổn hển vì kéo thuyền. - Lẽ ra bác nên để cháu giúp việc đó. Ông vỗ lưng tôi: - Nếu thỉnh thoảng bác không vận động thì bác sẽ chỉ có già đi thôi. Chúng tôi nói chuyện phiếm về mọi thứ ở bến du thuyền. Ông phàn nàn về sự thịnh hành của những chiếc thuyền bằng sợi thủy tinh, cả hai chúng tôi đều lan man về Windmind, chiếc thuyền đua mà ông và bố tôi cùng sở hữu. Sau khi mẹ tôi chết đuối, bố tôi chẳng nói chẳng rằng đã bán luôn chiếc thuyền đó đi. Ông thật tàn nhẫn khi làm vậy với Frank, nhưng tôi cho rằng Frank đã có thể mua được nó ngay tức khắc nếu ông muốn vậy. Chúng tôi tránh không nói chuyện về ngôi nhà, dù rõ ràng là ông buồn rầu với ý tưởng bán nó đi. Tôi cũng không muốn bán nó. Thế nên chúng tôi cùng trao đổi những lời nhận xét hài hước về Alice. Tôi nói tôi đang để ý đến cô ấy, dù điều đó là không cần thiết. - Thế còn em gái cháu thì sao? Nó đã ổn định ở đâu chưa? - Cháu không rõ. Thật ra mà nói, cháu không biết liệu nó có từng muốn vậy không. Frank khẽ mỉm cười. Cả hai chúng tôi đều nghĩ về điều đó: Enola cũng hoạt bát như mẹ tôi. - Vẫn đang bói bài tarot à? -Nó đang xoay sở với công việc đó. - Em tôi đã bỏ đi cùng với một gánh xiếc. Khi nói ra điều này, chúng tôi đã kết thúc cuộc hội thoại tất yếu. Chúng tôi lau khô và nhấc chiếc thuyền nhẹ trở lại cái kè. - Bác sẽ lên chứ? Cháu sẽ đi bộ về với bác. - Tôi nói. - Hôm nay trời thật đẹp. Bác nghĩ là bác sẽ ở đây thêm một lát nữa. - Nghi thức đã xong. Chúng tôi đi theo hai hướng khác nhau khi chúng tôi đã dìm chết hồn ma của chính mình. Tôi bước lên những bậc thang trở lại, tránh cây thường xuân độc leo lên rào chắn và mọc dày đặc trên dốc đứng - không ai kéo nó xuống, bất cứ thứ gì bám chặt vào cát xứng đáng với bất cứ tội lỗi nào nó đem lại - Và cắt qua đám cỏ biển, hướng về nhà. Giống như rất nhiều ngôi nhà ở Napawset, nhà của tôi là một thuộc địa thực sự, được xây dựng vào cuối những năm 100. Có một tấm bảng từ xã hội lịch sử được treo cạnh cửa trước cho đến khi nó bị thổi bay mất trong một cơn gió đông bắc vài năm trước. Ngôi nhà Timothy Wabash. Với màu sơn trắng bong tróc, bốn cửa sổ vặn vẹo, và một bậc thang dốc, vẻ bề ngoài của ngôi nhà cho thấy nó đã bị lãng quên từ lâu và thiếu tiền tu bổ trầm trọng. Trên bậc thang trước màu xanh lá bạc màu (phải nói đến điều đó) là một gói đồ được dựng mở trên cửa lưới. Người giao hàng luôn để cửa mở dù đã vô số lần tôi để lại lời nhắn là không được như vậy, tôi phải treo lại một cánh cửa vào một ngôi nhà đã không vuông vức kể từ ngày nó mới được xây. Tôi không đặt món hàng nào và không thể nghĩ được ai có thể gửi cho tôi món gì. Enola hiếm khi ở một nơi nào đủ lâu để gửi thư mà chỉ gửi một tấm bưu thiếp. Ngay cả nếu có vậy, chúng cũng thường trống trơn. Gói hàng nặng, kỳ cục, và được đề địa chỉ bằng những nét chữ nguệch ngoạc, khẳng khiu của một người lớn tuổi - một kiểu mà tôi đã quen thuộc, vì khách quen của thư viện chủ yếu là một nhóm những người lớn tuổi. Điều đó nhắc tôi rằng, cần phải nói chuyện với Janice về việc kiếm thêm một khoản trong ngân sách của thư viện. Mọi thứ sẽ không quá tồi nếu tôi có thể đắp kè. Không cần phải tăng lương, chỉ cần một khoản tiền thưởng vào một dịp nào đó, vì thâm niên làm việc. Người gửi là một ai đó tôi không biết, một người nào đó có tên là M. Churchwarry ở Iowa. Tôi dọn sạch một chồng giấy khỏi mặt bàn, đó là một vài bài báo về gánh xiếc và lễ hội, những thứ tôi đã sưu tầm trong những năm qua để bắt kịp cuộc sống của em gái tôi. Hộp đồ có chứa một cuốn sách khá lớn, được bọc cẩn thận. Dù chưa mở thì cái mùi mốc, hăng hăng cho thấy đó là mùi giấy, gỗ, da và keo dán cũ. Nó được gói trong tấm vải mỏng và giấy in báo, khi mở ra, nó là một bìa sách da màu tối trên đó có thể là những họa tiết xoắn phức tạp nếu nó không bị nước hủy hoại. Tôi cảm thấy hơi choáng váng. Nó rất cũ kĩ, không phải một cuốn sách có thể sờ mó bằng những ngón tay trần, mà nó như một thứ đã bị hư hỏng hoàn toàn, tôi hồi hộp chạm vào nó như chạm vào một cái gì đó của lịch sử. Mép trang giấy không bị hỏng mà còn thật mềm mại. Bộ sưu tập săn cá voi của thư viện đã khiến tôi lao mình vào công việc lưu trữ và phục chế, đủ để nói rằng quyển sách có cảm giác như đã tồn tại ít nhất từ những năm 1800. Đây là một sự sắp đặt, không phải một cuốn sách bạn chuyển đến mà không báo trước. Tôi xếp những tờ báo của mình thành hai chồng nhỏ để đỡ cuốn sách - sự thay thế đáng thương cho một cái giá sách nó đáng có được, nhưng như vậy cũng ổn. Có một lá thư được nhét bên trong bìa trước, được viết bằng mực nước cũng với nét chữ run rẩy đó. Cậu Watson thân mến, Tôi tình cờ thấy cuốn sách này tại một buổi đấu giá, nó nằm trong một mớ mà tôi đã mua để đầu cơ. Tình trạng hư hại của cuốn sách này cho thấy nó vô dụng với tôi, nhưng một cái tên bên trong nó - Verona Bonn - đã khiến tôi tin rằng nó có thể là mối quan tâm của cậu hay gia đình cậu. Đó là một cuốn sách thú vị và tôi hy vọng nó tìm được một ngôi nhà tuyệt vời với cậu. Làm ơn đừng do dự liên lạc với tôi nếu cậu có bất kỳ câu hỏi nào cậu cho rằng tôi có thể trả lời. Nó được ký bởi một ông Martin Churchwarry của Hiệu sách Churchwarry & Son nào đó, và có cả một số điện thoại đi kèm. Một người bán sách, chuyên về những cuốn sách cũ và sách cổ. Verona Bonn. Tên bà tôi xuất hiện trong cuốn sách này nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Là một người biểu diễn lưu động như mẹ tôi, bà sẽ không có thời gian cho một cuốn sách như thế này. Tôi khẽ lật một trang sách bằng mép ngón tay. Trang sách bên trong đầy những chữ viết phức tạp, một bản khắc đồng được trang trí với những nét cong bay bướm kì dị. Có vẻ như nó là một cuốn sách kế toán hay hành trình của một ông Hermelius Peabody nào đó, liên quan đến điều gì đó có chứa từ xách tay và phép màu. Bất cứ chi tiết nào khác để nhận dạng cũng rất khó đọc vì bị nước làm hư hại và vì sự cống hiến cho nghệ thuật viết chữ đẹp của ông Peabody. Tôi lướt qua thấy những bức phác họa về phụ nữ, nam giới, những tòa nhà, và những cỗ xe ngựa mái cong, tất cả đều màu nâu. Tôi chưa bao giờ biết mặt bà tồi. Bà mất khi mẹ tôi còn nhỏ, mà mẹ tôi thì chẳng bao giờ nói nhiều về bà. Tôi không rõ cuốn sách này có liên quan đến bà tôi không, tuy nhiên, điều đó cũng thật thú vị. Tôi quay số, lờ đi những âm thanh ám chỉ đó là một tin nhắn. Nó reo một hồi vô cùng lâu trước khi chuyển sang chế độ trả lời tự động và giọng nói già nua của một người đàn ông nói rằng tôi đã gọi đến Hiệu sách Churchwarry & Son, hướng dẫn tôi nhắn lại ngày và thời gian ngoài một lời nhắn chi tiết về bất kỳ cuốn sách cụ thể nào mà tôi đang tìm kiếm. Chữ viết tay không nói dối. Đây là một ông lão. Mời các bạn đón đọc Cuốn Sách Tiên Tri của tác giả Erika Swyler.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lũ Chuột Cống Vùng Bronx - Jerry Cotton
Jerry Cotton là series truyện trinh thám hình sự tiếng Đức thành công nhất từ trước đến nay, do NXB Bastei-Verlag in và phát hành thường xuyên dưới dạng các tập truyện khổ A5. Tập truyện đầu tiên của series dưới nhan đề "Tôi truy tìm ông trùm ganster (Ich suchte den Gangster-Chef) ra mắt độc giả lần đầu vào năm 1954. Hiện giờ tập truyện Jerry Cotton số 3040 đang được phát hành. Toàn bộ số ấn phẩm của series đã được in là khoảng 850 triệu bản!. Delfried Kaufmann là người đầu tiên chủ trương phát hành và cũng là một trong các tác giả của series truyện. Jerry Cotton không phải là tên thật mà chỉ là nghệ danh chung cho hơn 100 tác giả (có ước lượng lên tới 150 - 180 tác giả) của series truyện trinh thám hình sự này. Jerry Cotton là một cảnh sát nguyện cống hiến cả đời mình cho cuộc chiến chống các băng đảng gangster. Với lòng dũng cảm và trí thông minh, anh đã chiếm trọn trái tim hàng triệu độc giả trên thế giới. Những tác giả đã từng tham gia viết các tập truyện này (Nguồn wiki): Heinz Werner Höber Thomas Jeier (bút danh Christopher Ross) Rolf Kalmuczak (bút danh Stefan Wolf,  tác giả của bộ truyện"TKKG") Walter Appel Martin Barkawitz Horst Friedrichs Friedrich Jankuba Helmut Rellergert (bút danh Jason Dark, tác giả của bộ truyện "Geisterjäger John Sinclair") Friedrich Tenkrat Manfred Weinland Một số tác phẩm của bộ truyện đã được xuất bản tại Việt Nam: Những Phiên Bản Phần Mềm Internet-Gangster - 2001 Làn Váy Mini Bên chiếc Xe Sang Trọng - 2001 Lũ chuột cống vùng Bronx - 2003, NXB Văn học xuất bản Cuộc Tình Cuối Của Chàng Cảnh Sát - 2005 Lương Tâm Và Tội Ác (Hêrôin Trong Nhà Trắng) - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Tính Nhầm Luật Chơi - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Cơn bão - 1997 Truy lùng tên sát nhân - 1998, NXB Văn học xuất bản Những đứa con của bố già - 1999, NXB Trẻ xuất bản Con tin tình nguyện - 1999 Địa ngục trên đỉnh núi - 2000 Viên cảnh sát báo thù - 2000 Ngàn dặm xa lộ hiểm nguy - 2000 Trò chơi đã hết - 2000 Khi sát thủ là hai người đẹp - 2001 Người đàn bà bí hiểm - 2001 Con gái cảnh sát sa lưới Amphetamin - 2001 Vụ tống tiền bí hiểm - 2001 Vị đắng Crack ma túy quỷ dữ - 2002 Tiếng kêu cứu giữa nửa đêm - 2002 Phi trường Kennedy ba giờ sáng - 2002 Biệt thự con tin - 2002 30 giờ và gã giết thuê - 2002 Một kịch bản đầy án mạng - 2002 Máu đỏ thuốc phiện trắng - 2003 Những nụ hoa Bangkok - 2003 Đường dây "gái gọi" - 2003 Sòng bài đặt cược - 2003 Sát thủ số 1 của công ty cổ phần giết mướn - 2003 ... *** ...Ở giữa căn phòng rất rộng có để một chiếc bồn tắm di động cỡ lớn. Bồn tắm hình tròn có đường kính tới ba mét. Cỏ và một vài cây cảnh duyên dáng khác được đặt trên thành bồn. Trên một chiếc kệ làm bằng thép đúc có để một chiếc tivi có màn hình cực lớn. Nó đang chiếu một đoạn phim hoạt hình thỏ Bugs Bunny và âm thanh được vặn hết cỡ. Con thỏ màu xám xanh với đôi tai dài ngoẵng đang tinh nghịch trêu chọc người đi săn nó, khiến anh ta phát điên lên. Với đôi cánh tay duỗi dài, một gã trai trẻ đang ngồi dựa vào thành bồn. Làn nước phủ đầy bọt của dầu tắm dâng đến ngang ngực gã ta. Miệng gã cười thật rộng và quan sát chúng tôi bằng vẻ thách thức. Chỉ còn thiếu điếu xì gà nữa thôi, tôi tởm lợm nghĩ thầm, là gã trông giống hệt tên Mafia bố gã. — Chuyện gì cho tôi vinh dự tới mức này? - Joe Manore thờ ơ hỏi và như tiện thể đưa tay gạt một núi con con những bọt tắm vướng bên trên vai gã xuống. Nhưng rồi gã thanh niên phát hiện ra Franca Lucano. Với một cái liếc xéo rất nhanh, gã quan sát cô gái Italia xinh đẹp. Sự hiện diện của cô gái trẻ tuổi đó có vẻ như khiến gã hơi bối rối. Thật nhanh, gã với tay về phía bộ phận điều khiển và tắt tiếng tivi. Ngượng ngùng, gã cười với nữ sĩ quan cảnh sát. — Chúng tôi tới đây để nói chuyện với cậu về bố cậu, Joe, - tôi nói và chìa chứng minh thư FBI xuống dưới mũi thằng bé, sau khi đã đút súng trở lại bao. - Chúng tôi biết là ông ta đang ở New York. Chúng tôi cũng biết là ông ta đã liên hệ với cậu! Trong lúc tôi nói, Phil lục soát các căn phòng. Chúng tôi muốn chắc chắn là không có một tay chân nào của Luigi Venza đột ngột nhảy ra hỗn hào. Lát sau bạn tôi nhanh chóng quay trở về và lắc đầu thật nhẹ. Nghĩa là nơi đây chỉ có chúng tôi với Joe Manore. ... Mời các bạn đón đọc Lũ Chuột Cống Vùng Bronx của tác giả Jerry Cotton.
Bộ Năm Lừng Danh Tập 1: Bộ Năm Trên Đảo Giấu Vàng - Enid Blyton
Enid Mary Blyton (11 tháng 8 năm 1897 – 28 tháng 11 năm 1968) là nữ nhà văn người Anh chuyên viết truyện thiếu nhi. Bà còn có bút danh khác là Mary Pollock. Bà là tác giả người Anh thứ hai lọt vào danh sách 10 nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất. Vào năm 2008, Enid Blyton được bình chọn là nhà văn được yêu mến nhất, đứng trên cả tác giả của loạt truyện Harry Potter - JK Rowling và đại thi hào William Shakespeare. Enid Blyton nổi tiếng với nhiều loạt truyện dựa trên những nhân vật quen thuộc và dành cho mọi lứa tuổi. Sách của bà được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, bán được hơn 600 triệu bản. Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của bà là Noddy trong quyển sách dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy nhiên, các tác phẩm chủ đạo của Enid nằm ở dòng văn học phiêu lưu mạo hiểm dành cho thanh thiếu niên. Những bộ truyện thuộc thể loại này bao gồm Bộ Năm Lừng danh, The Secret Seven và The Five Find-Outers and Dog. Ngoài ra, bà còn viết truyện ngắn và thơ nhưng ít được biết đến hơn. Các tác phẩm của Enid Blyton đôi khi cũng có yếu tố phép thuật. Đến tận ngày nay, chúng vẫn được ưa chuộng ở Khối Thịnh vượng chung Anh và nhiều nước trên thế giới. Trong suốt 40 năm, bà viết gần 800 quyển sách và chúng đã được dịch ra gần 90 thứ tiếng. Đã hơn 70 năm trôi qua kể từ lần đầu được xuất bản, Bộ Năm Lừng Danh vô cùng sống động của Enid Blyton tiếp tục làm say mê hàng triệu bạn nhỏ trên toàn thế giới. Bộ sách đã nhiều lần được chuyển thể truyền hình, điện ảnh, hoạt hình, truyện tranh, kịch bản sân khấu, trò chơi điện tử. Thành công của loạt truyện Bộ Năm Lừng Danh giúp bà đứng trong hàng ngũ những nhà văn thiếu nhi kinh điển và cuốn hút nhất thế kỷ XX. Tác phẩm xuất bản tại Việt Nam: — Bộ truyện The Famous Five, 1942 – 1963 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Bộ năm lừng danh, NXB Hội Nhà Văn, Nhã Nam, 2011) — Bộ truyện Malory Towers, 1946 -1951 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Tòa tháp Malory, NXB Văn Học, 2010) TÁC PHẨM Trước khi có Internet, ti vi hay điện tử thì trẻ con chơi gì nhỉ? • Chúng tổ chức dã ngoại ngoài đảo, đi xe đạp lên núi, cắm trại trong thung lũng và đi bộ đường dài. • Chúng khám phá vô số nơi chốn thú vị như nông trại, lâu đài, hang động và những hành lang bí mật. • Chúng thậm chí còn chiến đấu với trộm cướp, bọn buôn lậu, bọn bắt cóc hay truy tìm kho báu cổ xưa. Cả một thế giới vui tươi, lấp lánh và kỳ thú đã hiện ra trên bước đường phiêu lưu của bộ năm can đảm: Julian, George, Dick, Anne và chó Timothy. Cốt truyện hấp dẫn với nhiều tình tiết bất ngờ, gay cấn, tiết tấu nhanh, khả năng nắm bắt và khắc họa tâm lý nhân vật tinh tế, nghệ thuật xây dựng những nhân vật mang tính điển hình... là những yếu tố tạo nên bộ sách thiếu nhi kinh điển làm mê đắm biết bao thế hệ độc giả trên toàn thế giới *** “Mẹ, đã có tin gì về chuyến đi nghỉ hè của nhà mình chưa ạ?” Julian hỏi trong bữa sáng. “Chúng ta sẽ vẫn tới vịnh Polseath như mọi năm chứ?” “Mẹ e là không được,” mẹ cậu đáp. “Năm nay chỗ ấy quả thực đã kín đặc rồi.” Bên bàn ăn sáng, ba đứa trẻ nhìn nhau thất vọng tràn trề. Chúng mê tít khu nhà ở vịnh Polseath. Bờ biển ở đó mới đáng yêu làm sao, tắm nắng ở đó mới tuyệt đến nhường nào. “Tươi tỉnh lên nào,” bố chúng lên tiếng. “Bố chắc chắn chúng ta sẽ tìm ra chỗ khác hay không kém đâu. Dù sao thì năm nay bố mẹ cũng không đi cùng các con được. Mẹ đã báo với mấy đứa chưa?” “Chưa hề!” Anne đáp. “Ôi mẹ, là thật ạ? Mẹ không thể đi nghỉ với chúng con được sao? Năm nào mẹ cũng đi cơ mà.” “Ừ, lần này bố con muốn mẹ cùng tới Scotland,” người mẹ đáp. “Chỉ riêng bố mẹ thôi! Mấy đứa cũng đã đủ lớn để tự lo rồi nên bố mẹ nghĩ các con sẽ vui hơn nhiều nếu đi một mình. Nhưng giờ khi không đến vịnh Polseath được, mẹ quả thực chưa biết gửi mấy đứa đi đâu.” “Nhà chú Quentin thì sao nhỉ?” đột nhiên bố đề xuất. Quentin là em trai bố, chú của lũ trẻ. Chúng từng có dịp giáp mặt ông chú một lần và sợ chết khiếp. Đó là một người đàn ông cao lêu đêu, cau có, một nhà khoa học có tài, ngày đêm vùi đầu vào nghiên cứu. Ông sống cạnh biển - nhưng đó là tất cả những gì lũ trẻ biết về chú mình! “Chú Quentin á?” mẹ lũ trẻ nói, môi bậm lại. “Cái gì khiến anh tự dưng nghĩ tới chú ấy vậy? Em hoàn toàn không nghĩ là chú ấy thích có bọn trẻ quẩn chân trong cái nhà chật chội đó đâu.” “Ồ,” người bố đáp, “hôm nọ cô Quentin lên thành phố gặp anh bàn ít việc, và anh không nghĩ rằng cuộc sống hiện tại của họ thoải mái lắm đâu. Fanny nói cô ấy sẽ rất mừng nếu có một vài khách tới nghỉ ở nhà mình để có thêm đồng ra đồng vào. Nhà họ nằm ngay sát biển, em biết đấy. Có thể đó chính là nơi lũ trẻ cần. Fanny rất tử tế và cô ấy sẽ trông nom bọn trẻ đâu ra đấy.” “Vâng, nhưng bản thân cô ấy cũng đã có một đứa nhóc để mà chăm lo đúng không?” mẹ lũ trẻ đáp. “Xem nào, tên nó là gì nhỉ, một cái tên kỳ cục, à, Georgina! Con bé mấy tuổi rồi chứ? Khoảng mười một gì đó, em chắc thế.” ... Mời các bạn đón đọc Bộ Năm Lừng Danh Tập 1: Bộ Năm Trên Đảo Giấu Vàng của tác giả Enid Blyton.
Alex Morrow Tập 2: Bầy Ong Biến Mất - Denise Mina
“Bầy ong biến mất” là cuốn sách thứ hai nằm trong serie về thanh tra hình sự Alex Morrow. Cuốn sách có rất nhiều tầng mạch truyện đan cài. Độc giả được chạm trán với thanh tra Alex Morrow tại đám tang của cha cô, ngay sau đó phát hiện ra bản thân nhân vật chính cũng có những bí mật không muốn bị tiết lộ. Nạn nhân của cô là Sarah Erroll, với xuất thân danh giá và một số phận bất hạnh. Cô gái được nuôi dạy trong môi trường biệt lập với thế giới bên ngoài ở trường tư cho các cô tiểu thư nhà giàu, nhưng biến cố gia đình đã đẩy cô vào thế giới của gái gọi hạng sang, và số phận tiếp tay để cô rơi vào lưới ái tình với một gã triệu phú đốn mạt: Lars Anderson. Cô trở thành tình nhân kiêm thủ quỹ cho gã, để cất giấu những khoản tiền bẩn thỉu gã moi ra được từ đế chế tài chính ma quỷ do chính gã tạo ra. Một cô gái trẻ, xinh đẹp, con nhà giàu mà lại đi làm gái gọi và cất giấu 650 ngàn euro trong bếp, Morrow nhanh chóng nhận ra không ai ngoài cô quan tâm đến cái chết của cô gái tội nghiệp. Bởi thế cô quyết tâm tìm cho ra thủ phạm bất chấp những trở ngại do đồng nghiệp lười biếng, cấp trên kỳ thị và cả cái thai năm tháng gây ra. Trong quá trình điều tra vụ án Alex vô tình gặp lại bạn thanh mai trúc mã của mình là Kay Murray. Giờ Kay đã là bà mẹ đơn thân của bốn đứa trẻ vị thành niên, và hai trong số đó bị tình nghi có dính líu tới cái chết của Sarah Erroll. Trong lúc đó, tại một trường tư thục đắt giá, nam sinh Thomas Anderson bị gọi tới phòng hiệu trưởng và người ta lạnh lùng thông báo với cậu về cái chết của bố cậu. Nhanh chóng, tác giả hé lộ những tình cảm phức tạp trong con người cậu bé mười lăm tuổi trước những biến cố khủng khiếp nhất: gia đình cậu phá sản, bố cậu tự vẫn, em gái gặp vấn đề về tâm thần, mẹ cậu tiếp tục sống lãnh cảm như từ trước tới nay, và một người đàn bà lạ lùng gọi điện tới tự xưng là “người vợ kia” của bố cậu. Vượt ra ngoài không khí u ám, buồn thảm của cuốn tiểu thuyết, tác giả vẫn đề cao những nỗ lực của một người mẹ lương thiện, cố gắng đem lại cuộc sống tốt nhất có thể cho những đứa con mình, dù cô phải đơn độc chiến đấu chống lại cả xã hội đầy rẫy bất công. Một phần thưởng ngọt ngào dành cho cô là niềm tin đã được nhà văn gửi gắm vào phần lương thiện của con người. Bộ Alex Morrow gồm có:  Still Midnight (2009) The End of the Wasp Season (2010) - Bầy Ong Biến Mất Gods and Beasts (2012) The Red Road (2013) Blood, Salt, Water (2014) *** Denise Mina sinh năm 1966 tại Glasgow. Vì công việc kỹ sư của ông bố, gia đình bà trôi theo dòng chảy tìm dầu ở biển bắc trong những năm 70 của thế kỷ 20 khắp Châu Âu, từ Paris tới Hague, rồi London, Scotland và Bergen. Mười sáu tuổi, bà phải nghỉ học và làm nhiều công việc tay chân khác nhau như bồi bàn, phụ bếp, đầu bếp... Dần dà, bà ổn định với công việc chăm sóc người già và các bệnh nhân hấp hối. Ở tuổi hai mươi mốt, bà thi đỗ ngành Luật của Đại học Glasgow và tiếp tục học lên. Trong thời gian viết luận án tiến sĩ ở trường Đại học Strathclyde về đề tài bệnh tâm thần của các nữ phạm nhân, đồng thời giảng dạy môn Tội phạm học và Luật Hình sự, bà nảy ra ý định viết cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cuốn sách được nhà xuất bản Transworld phát hành năm 1998, mang tên Garnethill. Cuốn Garnethill đã đoạt giải thưởng John Creasy Dagger của Hiệp hội các nhà văn viết truyện trinh thám cho cuốn tiểu thuyết đầu tay xuất sắc nhất sau đó. Đây cũng là cuốn đầu trong bộ ba tiểu thuyết Garnethill, Exile và Resolution. Cuốn tiểu thuyết thứ tư đứng độc lập, được đặt tên Sanctum (tạm dịch: Đất thánh) ở Anh và Deception (Lừa dối) ở Mỹ. Năm 2005, cuốn The Field of Blood (Cánh đồng máu) được xuất bản, đây là cuốn mở đầu trong bộ năm cuốn nói về sự nghiệp và cuộc đời của nhà báo Paddy Meehan trong phòng biên tập tin tức từ đầu những năm 80, qua các sự kiện trọng yếu của những năm 90. Cuốn thứ hai của serie này được xuất bản năm 2006, đặt tựa là The Dead Hour (Giờ tử) và cuốn thứ ba nối tiếp nó ra đời năm 2007. Bà cũng viết truyện tranh và là tác giả cuốn Hellblazer, serie John Constantine cho Vertigo trong một năm, sắp tới đây sẽ được xuất bản dưới dạng tiểu thuyết bằng tranh với tên gọi Empathy is the Enemy (Nhân từ là Kẻ thù) và The Red Right Hand (Bàn tay phải màu đỏ). Denise Mina cũng đã viết một cuốn tiểu thuyết bằng tranh độc lập về giết người hàng loạt và giá bất động sản mang tên A Sickness in the Family (Gia đình bệnh hoạn) sắp được nhà xuất bản DC Comics phát hành. Ngoài ra bà còn tham gia viết kịch, kịch bản cho BBC radio và đang viết kịch bản chuyển thể thành phim cho vở kịch Ida Tamson. Mời các bạn đón đọc Alex Morrow Tập 2: Bầy Ong Biến Mất của tác giả Denise Mina.
Lắng Nghe Trong Gió - Mạch Gia
Lắng Nghe Trong Gió - Tác phẩm đạt giải Mao Thuẫn 2008 của tác giả Mạch Gia đi sâu vào miêu tả những gì sâu sắc nhất thuộc về nhân tính và trí tuệ con người. Tác phẩm là câu chuyện về đề tài phản gián, phần 1 của Phong Thanh, mang đến cho người đọc những kiến thức mới mẻ về hoạt động của đơn vị làm công tác thu thập thông tin tình báo của Trung Quốc. Bằng những chi tiết ly kỳ, những logic chặt chẽ và cách kể chuyện hấp dẫn như một mê cung huyền bí, Mạch Gia đã đưa người đọc vào một không gian đóng đến cực độ và đột ngột mở ra những khả năng phong phú của câu chuyện. Từ Lắng Nghe Trong Gió đến Phong Thanh, Mạch Gia giống như một người điều tra tinh thần tài tình, từ những góc độ mà người khác không thể tưởng tượng, từ những chỗ tưởng chừng như đã kết thúc, ông đã đem lại những kì tích cho bạn đọc. Ông đã dùng trí tuệ của mình để đặt những bước chân vững chắc lên mảnh đất nhân tính của con người... *** Một người mười năm không gặp, bỗng một hôm gặp lại ở ngoài phố, hoặc một người không quen biết, bỗng một hôm trở thành bạn tâm giao, sau đấy cuộc đời anh như nước gặp nước, hoặc như nước gặp lửa, sự thay đổi không thể nào hiểu nổi bắt đầu xuất hiện. Tôi tin rằng, những chuyện như vậy ai cũng có. Tôi cũng có. Nói thẳng ra, quyển sách này bắt nguồn từ một lần gặp gỡ tình cờ của tôi. Cuộc gặp gỡ tình cờ này thật sự rất có ý nghĩa. Chuyện xảy ra vào mười hai năm trước, khi đó tôi còn là một thanh niên chưa đầy 30 tuổi, làm công việc bình thường, đi công tác chưa có tiêu chuẩn đi máy bay. Nhưng có một lần, sếp của tôi lên Bắc Kinh báo cáo công việc với cấp trên, nội dung báo cáo đã được viết trên giấy trắng mực đen, chỉ cần sếp dọc đường đọc đi đọc lại cho nhớ, khỏi cần tôi đi theo. Nhưng sau đấy cấp trên thay đổi ý kiến, muốn nghe báo cáo trực tiếp, sếp tôi lúng túng, vội vã triệu tôi “bay” tới, để tôi chuẩn bị tài liệu tại chỗ cho ông. Vậy là lần đầu tiên tôi được bước lên máy bay. Giống như các nhà thơ vẫn nói, nhờ vào sức mạnh của bầu trời, chỉ hai tiếng đồng hồ sau tôi đã đến Bắc Kinh. Sếp cuối cùng vẫn là sếp, ông ra tận sân bay đón tôi, tất nhiên không phải vì yêu quý gì nhau mà, chủ yếu là để tôi “nhanh chóng nắm bắt tình hình”. Nhưng vừa ra khỏi sân bay, một đồng chí công an rất ngang nhiên đứng chắn giữa chúng tôi, không cần hỏi lôi thôi, yêu cầu tôi đi theo anh ta. Tôi hỏi có chuyện gì, anh ta bảo cứ đi rồi sẽ biết. Nói xong, anh ta đẩy tôi đi, khiến vị sếp còn bối rối hơn cả tôi. Dọc đường, ông hỏi tôi có chuyện gì xảy ra, tôi đâu biết. Có thể khẳng định đây là cuộc “đưa đi” đầy bí mật, nếu không chỉ là chuyện nhầm lẫn. Tôi phải nhắc đi nhắc lại với “hai vị” công an tên tôi là Mạch Gia - Mạch là lúa mạch, Gia trong chữ gia đình, chứ không phải gia giảm. Thật ra, bố tôi đặt tên cho tôi trước tiên là do kém hiểu biết, không biết trên đời này có Thánh địa Mecca[1], thứ nữa để tỏ ra khiêm tốn, ông yêu cầu tôi phải khiêm tốn, vì ý nghĩa của hai chữ Mạch Gia, nói thẳng ra là đồng ruộng, là cày cấy, là nông dân, rất chất phác. ... Mời các bạn đón đọc Lắng Nghe Trong Gió của tác giả Mạch Gia.