Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nếp Cũ - Lễ Tết, Hội, Hè (Toan Ánh)

Trong lịch sử ngàn năm của một dân tộc có nền văn minh lúa nước như dân tộc Việt, mùa xuân chính là mùa của lễ hội. Quanh năm làm việc đồng áng, xuân đến là lúc nông nhàn, người dân các làng, các miền mở hội.

Cuốn “Hội hè đình đám” của học giả Toan Ánh cho thấy, trong các hội xuân có hai loại: hội đình và hội chùa. Ngày hội tùy theo mỗi làng thay đổi, có làng mở hội sớm, có làng mở hội muộn, có làng bắt đầu mở hội từ trong năm cho đến ngoài giêng mới hết. Dù trong hội đình hay hội chùa, dù hội kéo dài trong năm hay ngoài xuân, bao giờ ở hội cũng có rất nhiều trò vui để dân làng và khách trẩy hội giải trí. Có những trò vui chung thông thường cho mọi hội như: rún đu, cờ bỏi, đốt pháo… lại có những trò vui riêng của từng địa phương: đánh phết, hát quan họ, kéo co, bơi chải… Trong các thú vui chung có những thú dành riêng cho người già như tổ tôm, cờ bỏi, thi thơ, và cũng có những trò vui riêng cho bạn trẻ nam nữ thanh niên, những trò vui này rất nhiều và rất thú vị: đánh phết, đánh trung bình tiên, hát quan họ, hát đúm, thổi cơm thi, nấu cỗ thi, bơi thuyền, đánh vật… Các cụ bà trong ngày hội, dù là hội đình đều có thú đi chùa...

Còn gì náo nức hơn không khí của làng xóm quê hương thủa xưa với bóng cờ ngũ sắc, với những tiếng trống thờ, với đám trai gái vùng quê, quần áo mới màu Tết lũ lượt dìu tới những hội làng, vẻ mặt hớn hở, vừa đi vừa nói cười hân hoan. Trong các hội quê, lại có các hội về lịch sử, các hội về Tôn giáo, các hội hè về phong tục.

Những phong tục tập quán này biểu lộ tính dân tộc của Việt Nam với nhiều cái hay cái đẹp, nhiều cao khiết lành mạnh. Những hội hè đã từng mua vui cho người dân, đã từng chứng tỏ ý niệm thiêng liêng tôn giáo của người dân qua lễ nghi, đã từng nêu cao lòng biết ơn của người dân đối với các bậc anh hùng đất nước cũng như đối với các vị thần linh, nhất là các vị Thành hoàng đã che chở phù hộ cho dân mỗi xã, và nhất là đã từng là những dịp để người dân ôn lại lễ nghi, nhớ lại phong tục.

Những hội hè đình đám lại là những dịp để thắt chặt thêm tình thân giữa dân làng và có khi giữa dân các làng lân cận bởi những tục giao hảo hoặc bởi hội hè đình đám làng này đã kéo dân làng khác tới chung vui. Tìm mua: Nếp Cũ - Lễ Tết, Hội, Hè TiKi Lazada Shopee

Một mùa xuân mới lại về, các bạn hãy cùng đọc và cùng dự những hội hè, đình đám của mỗi làng quê để thấy yêu vô cùng đất nước Việt, dân tộc Việt.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc Việt

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ - Lễ Tết, Hội, Hè PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nghiên Cứu Chữ Hán PDF (NXB Thống Nhất 1955) - Thi Đạt Chí
Nghiên Cứu Chữ Hán là tập sách mỏng song ngữ Hán Việt (45 trang, trong đó phần tiếng Việt 25 trang) của Thi Đạt Chí, năm xb không rõ (bìa sách bị mất, có lẽ cuối 195x), do tiệm sách Thống Nhất (Chợ Lớn) tổng phát hành. Sau phần nói về giá trị của chữ Hán, nguồn gốc chữ Hán, tác giả trình bày 6 cách cấu tạo chữ Hán (Lục thư: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá) Trong khi 4 loại đầu, tác giả phân loại rất chi li (loại tượng hình có 7 biến thể: đơn thể, song thể, hợp thể, trọng thể, .. ; loại chỉ sự chia thành 4 thể: thuần thể, gia thể, hợp thể, biến thể) một cách không mấy hữu ích thì hai loại sau viết quá gọn, đặc biệt loại chuyển chú, sau khi dẫn ý Thuyết Văn Giải Tự, phần giảng thêm khá tối và rối.Nghiên Cứu Chữ HánNXB Thống NhấtThi Đạt Chí45 TrangFile PDF-SCAN
Những Tin Tức Và Dư Luận Về Ông Phan Bội Châu PDF (NXB Thực Nghiệp 1925) - Mai Du Lân
Trong cuộc đời hoạt động yêu nước, chống Pháp sôi nổi của mình, Phan Bội Châu luôn chú trọng đến thanh niên, coi thanh niên là một lực lượng cách mạng đặc biệt quan trọng. Ngược lại thanh niên Việt Nam thủa đó cũng dành những tình cảm đặc biệt cho Phan Bội Châu. Thanh niên Việt Nam đã tích cực ủng hộ, hưởng ứng và tham gia những hoạt động yêu nước, chống Pháp do Phan Bội Châu khởi xướng. Họ tin vào tấm lòng yêu nước trong sáng, tinh thần chống Pháp cứu nước sục sôi của Phan Bội Châu. Họ hết lòng theo Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du và tích cực gia nhập tổ chức Việt Nam Quang phục Hội. Mọi hoạt động yêu nước của Phan Bội Châu đều được thanh niên dõi theo, hưởng ứng và hâm mộ.Những Tin Tức Và Dư Luận Về Ông Phan Bội ChâuNXB Thực Nghiệp 1925Mai Du Lân38 TrangFile PDF-SCAN
Hán Học Phổ Thông PDF (NXB Nam Thiên Thư Cục 1942) - Nguyễn Di Luân
Thời nay, học chữ Hán đối với thanh niên trí thức Việt Nam, ngoài mục đích trau dồi tư tưởng, còn là để sử dụng cái lợi khí diễn đạt bằng Việt văn một cách thấu đáo, đầy đủ và tinh vi. Hán tự đối với Việt văn chẳng khác gì chữ La tinh, chữ gờ-réc đối với Pháp văn. Nếu Pháp văn đã gần thoát ly hẳn được với gốc La tinh, gờ-réc, Việt văn còn mật thiết quan hệ với Hán tự vì thời gian ly khai hãy còn ngắn ngủi. Tuy nhiên, ngày nay muốn trở thành một văn sĩ Pháp, người ta còn học La tinh và gờ-réc là thứ chữ chết. Muốn sành Việt văn thì chúng ta làm sao vội bỏ Hán tự là thứ chữ đang còn sống? Huống chi những sách vở tiền nhân chúng ta trong vòng ngót ngàn năm để lại đều viết bằng Hán tự.Hán Học Phổ ThôngNXB Nam Thiên Thư Cục 1942Nguyễn Di Luân100 TrangFile PDF-SCAN
Việt Hán Thành Ngữ Lược Biên Tập Thượng PDF (NXB Minh Tân 1949) - Nguyễn Can Mộng
Nhà giáo dục Nguyễn Can Mộng, hiệu Nông Sơn, quê làng Hoằng Nông, huyện Duyên Hà, phủ Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình, nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, ông đỗ phó bảng năm 1916 nên thường gọi là Bảng Mộng. Xuất thân trong một gia đình nho học truyền thống, năm 1912 đỗ cử nhân tại trường Hà Nam lúc 27 tuổi, năm 1916 đỗ Phó bảng. Sơ bổ Huấn đạo huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Năm 1917 làm giáo thọ cùng huyện, năm 1919 về dạy Hán Văn tại trường Bưởi ở Hà Nội, năm 1920 thăng Kiểm học, rồi làm việc ở phòng báo chí phủ Thống sứ Bắc kì đến năm 1931. Năm 1936 giữ chức đốc học tỉnh Nam Định đến năm 1940 thì về hưu, nhưng vẫn lưu dạy Hán văn tại trường Bưởi. Trong thời gian dạy học, ông cộng tác với các tạp chí Nam Phong, Đông Dương chuyên về văn chương Trung Hoa và văn học cổ Việt Nam. Những năm 1949-1953 ông phụ trách giảng dạy môn Hán văn tại Đại học Văn khoa Hà Nội.Việt Hán Thành Ngữ Lược Biên Tập ThượngNXB Minh Tân 1949Nguyễn Can Mộng110 TrangFile PDF-SCAN