Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kinh Cầu cho Một Đứa Trẻ Không Ra Đời

Nhà văn Hung gốc Do thái Kertész Imre sinh ngày 9 tháng 11 năm 1929 tại Budapest- Hungary. Năm 1943, mới 14 tuổi, ông đã trải qua trại Auschwitz, rồi Buchenwald, những trại tập trung phát xít Đức dựng lên để lùa nhốt dân Do thái toàn cõi châu Âu, với mục đích thủ tiêu họ dần dần. Năm 1945, sau khi các trại tập trung được Hồng quân liên Xô giải phóng, Kertész Imre quay về Hungary. Ông làm nhiều nghề khác nhau: nhà báo, biên tập viên cho các báo và văn phòng Bộ công nghiệp, viết lời cho một số nhạc kịch, có lúc làm công nhân trong một thời gian ngắn. Từ 1953 trở đi, Kertész là nhà báo tự do, kiếm sống chủ yếu bằng công việc dịch thuật. Tiểu thuyết đầu tay của Kertész Imre, tác phẩm Không số phận viết trong 13 năm, sau nhiều chờ đợi và chối từ, năm 1975 mới được xuất bản tại Hungary. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là một thiếu niên, sau khi đã trải qua những kinh nghiệm sống hãi hùng, trong các trại tập trung của phát xít Đức trở về, cậu trở thành người lớn, một người lớn, vĩnh viễn không bao giờ có thể sống đời sống bình thường như những người khác, chính vì dấu ấn nạn nhân, từ chủ nghĩa bài Do thái, đã để lại sâu sắc trong tâm hồn cậu. Ngày 10 tháng 10 năm 2002, Kertész Imre nhận giải Nobel văn học với cuốn tiểu thuyết Không số phận. Ông trở thành nhà văn Hungary đầu tiên đoạt Nobel văn chương. Tác phẩm Không số phận đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới, và được chuyển thể thành phim năm 2005. Trong các tác phẩm khác viết sau này, Kertész Imre thường phân tích một cách độc đáo và sâu sắc, số phận của những con người, bị quy định như một bi kịch định mệnh trong các tình huống xã hội đặc thù, như trong xã hội Hungary nói riêng và trong lịch sử Đông Âu nói chung. Đó là các tác phẩm: Sự thất bại (1988), Lá cờ Anh (1991), Nhật ký khổ sai (1992) Kẻ khác (1997), Tính sổ (2003)… Tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời , viết năm 1990, thường được coi là câu trả lời tiếp nối của Không số phận. Giới phê bình và độc giả trong nước, đánh giá tác phẩm này là một trong những kiệt tác văn học Hungary- kể cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện- trong thập kỷ đầu tiên, khi Hungary trở lại thành một xã hội dân chủ. Ngay với tên cuốn sách, tác giả đã lưu ý bạn đọc đến một loại kinh cầu nguyện, thường sử dụng trong các buổi tang lễ, phúng những người đã mất: đó là kinh Kaddis trong tôn giáo Do thái. Cuốn tiểu thuyết được viết như một lời cầu nguyện, các ý tưởng nối tiếp nhau, dàn trải theo một nhịp điệu nhịp nhàng, Kertész Imre đã sử dụng lối viết độc đáo của văn học truyền thống Do thái khi xây dựng tác phẩm này. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là một người đàn ông Do thái, lấy một người vợ Do thái, nhưng ngay từ điểm xuất phát vào đời, người đàn ông này đã quyết định sẽ không có con. Trong một đêm giông tố của cuộc đời, nhân vật chính kể lại tại sao mình lại nhất quyết nói: "Không!” với người vợ (cũ) khi nàng muốn có con, muốn xây dựng tổ ấm với mình. Ông từ chối cơ hội sinh ra những đứa trẻ, từ chối cơ hội, để cuộc sống của mình tiếp nối với những thế hệ con, cháu. Ông chuẩn bị một cái chết từ từ cho mình, và quay lưng lại với cuộc sống. Cuộc đời của nhân vật, là một chuỗi phủ nhận những gì đang tồn tại với mình, và quanh mình. Nguyên nhân của sự phi lý này, chính là toàn bộ quá khứ, đã gây ra những vết thương, giết chết tâm hồn con người, mà Kertész Imre đã phân tích cực kỳ sâu sắc, trong những triết lý thiên tài, về những vết thương còn "mạnh hơn cả tri thức…” Đấy là hậu quả của một quá khứ tổng hợp, của một con người được nuôi dạy trong nền giáo dục thiên chúa giáo cực kỳ nghiêm khắc, của tuổi thơ bị mất, vì sự hà khắc của người cha, của những kinh nghiệm sống sót từng trải, thu thập từ trại tập trung của phát xít Đức. Đấy là toàn bộ sự hiện hữu bi kịch của một người Do thái, trong lịch sử bi thương của dân tộc Do thái. Tiểu thuyết kết thúc bằng kết quả lạc quan bất ngờ: người vợ ly hôn, nàng kết hôn với người khác, và sinh ra những đứa con. Cuộc sống, dù cay đắng bao nhiêu, vẫn tiếp tục đơm hoa kết quả. Người đàn ông- nhân vật chính của tác phẩm, là một nhà văn và một dịch giả - tuy lựa chọn con đường sống độc thân, nhưng với các tác phẩm và dịch phẩm của mình, vô hình chung vẫn kéo dài cuộc sống của chính mình bằng nghệ thuật và văn chương, bằng những giá trị đích thực từ một nền văn hóa tạo ra thế giới con người. Đây là giá trị vĩnh cửu của văn chương và nghệ thuật trong đời sống con người, được nhắc đến như ý nghĩa của tác phẩm. Giá trị nhân bản của tác phẩm, cùng với những triết lý, tuy rất”tự thân”, rất đặc thù của Kertész Imre, nhưng có nhiều tương đồng với những yếu tố triết học đương đại của thế kỷ XX, khiến tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời đã trở thành một trong những kiệt tác văn chương xuất sắc, trong văn chương hiện đại châu Âu, và thế giới. Là một dịch giả tiếng Đức nổi tiếng, tác phẩm của Kertész Imre chắc chắn chịu nhiều ảnh hưởng từ các nhà triết học Đức, Áo mà ông dịch như: Elias Canetti, Sigmund Frend, Hugo Von Hoffmannstahl, Friedrich Nietzsche, Jozseph Roth, Arthur Schnitzler, Ludwig Wittgenstein Để lần đầu tiên tác phẩm của Kertész Imre được xuất bản tại Việt nam, người dịch đã bỏ rất nhiều công sức, cố gắng mang lại cho bạn đọc Viêt nam một ấn phẩm dịch có chất lượng, với mong muốn, sau tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời , người dịch sẽ có dịp giới thiệu tiếp, những tác phẩm ưu tú khác, của nhà văn đoạt giải Nobel Hungary Kertész Imre, giúp bạn đọc tìm hiểu thêm một nền văn học châu Âu cực kỳ đặc sắc: văn học Hungary. Budapest 18-05-2008 Người dịch: Nguyễn Hồng Nhung "Không!” – tôi nói luôn và ngay tức khắc, không do dự và có thể nói, theo bản năng, bởi vì hoàn toàn hiển nhiên, những bản năng của chúng ta hoạt động chống lại chính những bản năng của chúng ta, nói cách khác, những bản năng đối kháng của chúng ta hoạt động thay cho những bản năng thuần tính, thậm chí không quá lời – tôi đang ví von, nếu điều này có thể coi như sự ví von, hoặc cũng vậy, nếu sự thật trần trụi và thảm hại có thể xem là sự ví von. – tóm lại, tôi đang kể cho nhà thông thái đi ngược về phía tôi, sau khi cả ông ta lẫn tôi cùng dừng lại trong cánh rừng sồi đang héo mòn và hổn hển thở có thể nghe thấy được, bởi mắc một căn bệnh, có thể là bệnh lao phổi, rừng cây sồi, hay gọi là cây gì nhỉ: xin thú thật, tôi yếu kém về môn thực vật, riêng cây thông thì tôi nhận ra ngay, do những lá kim nhọn của nó, và những cây sung dâu, bởi vì tôi thích chúng. Cái gì tôi thích, cho đến tận hôm nay, ngay cả bằng bản năng đối kháng, nếu không phải bằng cái cảm giác buốt nhói trong ngực, đau quặn ruột, muốn nhảy dựng lên, như khi tôi phát hiện ra những điều tôi thù ghét, nói thẳng ra là, với sự nhận biết cảm hứng, tôi vẫn nhận ra nó. Tôi không biết, ở tôi, tại sao mọi cái với nhau, luôn luôn khác, đơn giản hơn, nếu tôi biết tại sao tôi không biết. Bởi vì điều này giải thoát tôi khỏi vô số lời giải thích. Nhưng, có vẻ không thể chạy trốn khỏi những lời giải thích, chúng ta luôn luôn giải thích và phân trần, bản thân cuộc sống đòi chúng ta phải giải thích, đây là cái hiện tượng-, cảm giác phiền toái không thể cắt nghĩa, môi trường xung quanh chúng ta đòi lời giải thích, và sau cùng, chúng ta cũng đòi lời giải thích từ ngay bản thân chúng ta, rốt cuộc, chúng ta thành công tiêu diệt tất cả những gì có xung quanh chúng ta, kể cả bản thân mình, hay nói cách khác, chúng ta thành công thanh minh đến vỡ đầu – tôi giải thích cho nhà thông thái hiểu, bằng thái độ nói chuyện gượng ép mà đối với bản thân tôi thật kinh tởm, nhưng không thể chống lại, cái thái độ luôn xâm chiếm tôi khi không có gì để nói, và là thứ, tôi e rằng, cùng gốc rễ với các đồng tiền boa tôi trả trong các quán ăn, trên những taxi, khi đút lót những nhân viên hành chính chính thống, chính xác hơn, nửa chính thống, và tiếp nữa, bằng thái độ lịch sự quá ư tự dâng hiến bản thân, như thể tôi đang sám hối không ngừng vì sự tồn tại, vì sự hiện hữu của mình. Lạy Chúa! Chỉ đơn giản là tôi vào rừng dạo chơi – cho dù đây chỉ là một cánh rừng sồi còi cọc –, trong bầu không khí thoáng đãng – cho dù bầu không khí này đã ô nhiễm chút ít –, với mục đích làm thông thoáng cái đầu của mình, hãy nói như vậy, bởi vì nếu chúng ta không quan tâm vào ý nghĩa của từ ngữ, thì nghe như thế thật hay ho, còn giả sử chúng ta có quan tâm đi nữa, thì, các từ ngữ này cũng chẳng có ý nghĩa gì, như việc cái đầu của tôi không cần thiết phải làm thông thoáng, trái lại, tôi là người rất dễ bị trúng gió. Tôi đốt – đã đốt – thời gian của tôi ở đây, một cách tạm thời (lúc này tôi không lan man sang những điều ngoài đề tài mà từ này tiềm tàng), trong cái thung lũng của dãy núi miền trung nước Hung này, trong một căn nhà, hãy gọi là nhà nghỉ mát, tuy nó xứng đáng được coi là nơi làm việc (tôi vẫn luôn luôn làm việc, và không chỉ sự sống còn buộc tôi phải thế, bởi nếu tôi không làm việc, thì tôi tồn tại, và nếu tôi tồn tại, thì điều đó, tôi không biết, nó buộc tôi làm gì, thành ra tốt hơn, tôi cũng không nên biết, cho dù các tế bào, phủ tạng của tôi, chúng chắc mẩm rồi, chính vì vậy tôi làm việc không ngừng: chừng nào tôi còn làm việc, chừng ấy tôi còn hiện hữu, nếu như tôi không làm việc, có giời biết, tôi có còn hiện hữu hay không, nên, tôi cho là quan trọng, và tôi cũng lấy làm quan trọng, bởi vì đây là cả một mối tương quan nghiêm túc nhất giữa sự sống còn và công việc của tôi, điều này hoàn toàn rõ ràng). Tóm lại, trong một căn nhà, nơi tôi được thưởng cái quyền đến ở với đám trí thức đồng quan điểm hoành tráng, những kẻ mà tôi không có cách gì để tránh họ, tôi có nằm bẹp bất động trong phòng mình cũng vô ích – tiếng lách cách của cái máy chữ của tôi sẽ tố giác ngay nơi tôi ẩn nấp –, tôi vô ích rón rén đầu ngón chân trên hành lang, vẫn cần phải đi ăn, những lúc đó, bằng hiện thực tồn tại không thương tiếc, đồng loại cùng bàn xúm xít quây quần, cũng cần phải đi dạo, thế là ngay giữa rừng tôi đụng trán với tiến sĩ Obláth đi ngược lại, nhà thông thái với cái dáng dấp mập mạp thô thiển, trên đầu sùm sụp phi lý cái mũ lưỡi trai kẻ ca-rô màu nâu xám, trong cái áo khoác cháo lòng tay rộng, với cặp mắt ti hí và khuôn mặt rộng, béo tốt, nhàu nát, giống như bột mỳ chứa bột nở và quả thực đã phồng to, ngài đã tỉnh ngủ hẳn. Thông thái gia, đây là chức danh nghề nghiệp thị dân của ngài, bên cạnh đó, cũng nên biết thêm rằng, và điều này có thể chứng minh bằng danh mục có ghi trong chứng minh thư của ngài, tiến sĩ Obláth là nhà triết học, giống như Immanuel Kant, như Baruch Spinoza, hoặc như triết gia Herakleitos của xứ Ephesos, như bản thân tôi là nhà văn và dịch giả, nhưng tôi không đính thêm vào người một danh hiệu đáng nực cười màu mè nào khác với những tên tuổi khổng lồ, những người là nhà văn và – đôi khi – cũng là dịch giả đích thực, bởi vì ngay khi chưa làm điều này, tôi, với nghề nghiệp của mình, cũng đã đủ là một trò cười rồi, và bởi vì hoạt động dịch thuật mang tính chất khách quan, trong mắt của vài người – chủ yếu của các cơ quan chính quyền và, tất nhiên do nhiều nguyên nhân khác, nhưng của bản thân tôi nữa – đôi khi, với chút dáng dấp của những nghề nghiệp minh bạch, nó là tấm ngụy trang cho biết bao bận bịu của tôi. "Không” – một cái gì đó tru lên, rền rĩ trong tôi, ngay lập tức, chính lúc đó, khi vợ tôi (người thực ra từ lâu đã hết là vợ tôi) lần đầu tiên rào đón về chuyện này – về con – và sự khiếm khuyết này của tôi rất chậm rãi, đúng thế, sau rất – rất nhiều năm mới dịu dần đi trong tôi, biến thành nỗi đau nhân thế buồn bã vô tận, như thể cơn giận dữ bùng nổ của Wotan trong buổi chia ly lừng danh, cho đến tận khi, trở thành bè vĩ cầm tắc nghẹn từ những ảo ảnh, rất chậm rãi và nhức nhối, như một căn bệnh từ lâu ấp ủ, như một câu hỏi mạnh mẽ xoáy trong tôi, câu hỏi đó chính là con, chính xác hơn là ta, nhưng được đặt ra vì con, chính xác hơn nữa là (điều này tiến sĩ Obláth cũng đồng tình):): Sự hiện hữu của ta chính là khả năng tồn tại sự hiện hữu của con, xét cho cùng. Hay nói cách khác, tôi như một kẻ giết người, nếu chúng ta muốn chính xác đến tột cùng, muốn tăng đến tận cái không thể, và với chút tự gặm nhấm bản thân cho phép điều này, bởi vì, lạy Chúa, muộn mất rồi, luôn luôn sẽ là sự chậm trễ mất rồi, con không xuất hiện, còn ta tự biết một cách chắc chắn, sau cái khăng khăng ”Không! Không!”, ta đã làm đổ vỡ tất cả, nghiền nát mọi thứ thành bụi, trước tiên là cuộc hôn nhân bất hạnh ngắn ngủi của mình – tôi kể – tôi đã kể – cho ngài Obláth, tiến sĩ khoa Nhân văn nghe, bằng một thái độ lãnh đạm thờ ơ, mà cuộc sống chưa bao giờ dạy thế, nhưng rốt cuộc tôi đã thể hiện thuần thục, khi cần thiết vô điều kiện. Và tất nhiên là cần, vì nhà thông thái đến gần tôi với vẻ mơ màng, tôi lập tức nhìn thấy nó trên cái đầu ngoẹo sang một bên, trên là một cái mũ lưỡi trai nằm bẹp dí, như thể một tên côn đồ láu cá đang tiến lại gần, sau khi đã nốc vài chén, bần thần tính toán, nên tống tôi một cú hay chỉ vòi tiền, nhưng tất nhiên, suýt nữa tôi nói: rất tiếc, ngài Obláth không bần thần, một nhà thông thái không có thói quen trầm ngâm giữa đường, còn nếu có, điều này hiện ra trong hình thái một vấn đề triết học nghiêm trọng, những công việc thấp hèn do những kẻ chuyên nghiệp thực hiện, tương tự, ta đã thấy, cho dù điều chợt lóe trong đầu tôi liên quan đến tiến sĩ Obláth là sự chuyên quyền đích thực và gần như đáng ngờ, bởi tôi không biết quá khứ của ngài, hy vọng ngài đừng kể. Không, nhưng ngài khiến tôi ngạc nhiên, vì một câu hỏi chẳng tế nhị chút nào, như thể một tên du côn vặn hỏi có bao nhiêu tiền trong túi tôi, tóm lại, ngài bắt đầu tra hỏi hoàn cảnh đời tư của tôi, tuy rằng, để mào đầu, ngài cho biết về đời riêng của ngài, với mục đích tạm ứng, làm tiền đề cho trường hợp nếu tôi muốn biết tất cả về ngài, dù tôi không hề quan tâm mảy may, với việc này ngài có thể nhào nặn cái quyền về… nhưng tôi phải dừng cuộc suy diễn này, tôi cảm thấy những chữ cái, những từ ngữ bắt đầu bị cuốn đi, bị trôi dạt theo hướng sai lầm, hướng của luân lí mù mờ, thứ mà đáng tiếc, gần đây tôi nhận ra mình cũng mắc vào, và các nguyên nhân của nó hiển hiện quá rõ ràng trước mắt tôi (nỗi cô độc, sự cách ly, việc lưu đày tự nguyện), như thể những nguyên nhân này khiến tôi phải lo âu, bởi suy cho cùng, chính tôi đã gây nên chúng, như vài nhát cuốc ban đầu vào một cái hố sâu thăm thẳm, đến tận cùng, với từng nhát bổ, tôi cần phải đào xong, để sau này nó nuốt chửng mình (giá có thể, tôi không đào vào đất mà nên đào vào không khí, vì ở đó có đầy chỗ) – Tóm lại, tiến sĩ Obláth hỏi tôi đúng một câu vô tội, tôi có con hay không, trong mọi trường hợp, đây là sự thẳng thắn vô lại, đặc trưng cho một nhà thông thái, hay nói cách khác, bất lịch sự, nhất là trong giây phút tồi tệ nhất, tất nhiên làm sao ngài biết, câu hỏi của ngài không thể phủ nhận, thậm chí còn làm tôi bối rối. Vì sau đấy, tôi đành trả lời bằng sự lên tiếng bắt buộc không thể đừng, bắt nguồn từ nỗi lịch sự quá ư tự dâng hiến bản thân, làm tôi vừa trả lời vừa kinh tởm, mà vẫn cứ phải kể lại, rằng: "Không!” – tôi nói ra luôn và ngay tức khắc, không chút lưỡng lự và có thể nói, theo bản năng, bởi vì hoàn toàn hiển nhiên là những bản năng của chúng ta hoạt động chống lại chính những bản năng của chúng ta, nói cách khác, những bản năng đối kháng của chúng ta đang hoạt động thay cho những bản năng thuần tính, thậm chí: đúng thế, vì những lời nói ngu xuẩn, vì sự hạ thấp bản thân một cách tự nguyện, riêng tư và không động cơ gì của tôi (cho dù tôi có hàng tỷ lý do để nói, như vài dẫn chứng tôi đã nêu trên, nếu tôi nhớ không nhầm), tôi muốn trả đũa ngài Obláth, vị tiến sĩ của khoa Nhân văn, khi tôi tô vẽ lại chân dung ngài giữa cánh rừng sồi (hay rừng phong gì đấy) cằn cỗi, như tôi đã tô vẽ, với cái mũ lưỡi trai bẹp dí, cái áo khoác raglan, và đôi mắt ti hí nhờ nhờ sữa đục trên khuôn mặt rộng, nặng nề nhàu nát, giống tảng bột mì có bột nở phồng to – tôi vẫn cho như thế – đúng, hoàn toàn phù hợp với thực tế. Toàn bộ những điều này, hoàn toàn có thể viết khác đi, một cách cân bằng hơn, rộng lượng hơn, tôi muốn nói thêm: với nhiều tình thương mến hơn nhưng e rằng, tôi chỉ biết viết như thế về tất cả, với ngòi bút tẩm mực châm chọc, một cách chế riễu, có thể hơi nực cười (nhận định điều này không phải việc của tôi), nhưng từ góc độ nào đấy, thật vụng về, như thể có một ai đấy cứ đẩy chệch ngòi bút của tôi đi, khi nó chuẩn bị viết những từ định sẵn, nhưng cuối cùng bàn tay tôi lại cho ra những từ khác, khiến bức tranh phác họa, chả bao giờ chứa tình yêu thương nào trong đấy, đơn giản hơn, sợ rằng, trong lòng tôi chả có tí yêu thương nào, nhưng, – lạy Chúa tôi! – tôi có thể yêu thương ai chứ, và tại sao. Trong khi tiến sĩ Obláth nói một cách trìu mến, đến nỗi vài chia sẻ cốt tủy khiến tôi phải chú ý, cuối cùng (sau này tôi gọi là: một cách định mệnh) đã được tôi ghi lòng tạc dạ. Rằng: ngài không có con, ngài nói, ngài chẳng có ai, ngoài một bà vợ già nua, đang vật lộn với tuổi già, nếu tôi hiểu đúng, bởi vì nhà thông thái giảng giải một cách mờ mịt, hay nói cách khác, định nghĩa một cách bóng bẩy, vì ngài tin là tôi hiểu được, thứ mà tôi muốn hiểu, mặc dù tôi không hề muốn, nhưng tuy vậy tôi vẫn hiểu, tất nhiên. Rằng, tiến sĩ Obláth nói tiếp, cái việc không có con của ngài thực ra chỉ gần đây mới xuất hiện trong đầu, và giờ trở nên thường xuyên, vì thế đúng lúc này, ngài ngẫm nghĩ về nó, trên con đường mòn trong rừng, không thể dừng lại mà không nói về nó, có lẽ, vì ngài đã đứng tuổi, và những khả năng ở tuổi này, ví dụ khả năng có thể sinh được con, đối với ngài ngày càng ít khả năng, thậm chí tuyệt đối mất khả năng, chính vì thế giờ đây ngài thường xuyên nghĩ đến, ngài bảo, ngài nghĩ đến nó "như một cơ hội bị bỏ lỡ”. Đến đây, tiến sĩ Obláth dừng lại giữa con đường mòn, vì trước đó cả hai chúng tôi cùng bắt đầu rảo bước, hai sinh vật xã hội, hai thằng đàn ông trung niên trò chuyện giữa đống lá khô, hai chấm buồn trên nền vải vẽ bức tranh thiên nhiên, hai vết loang phá hoại sự hài hòa vốn chưa bao giờ có của thiên nhiên, chỉ có điều tôi quên mất, tôi lẽo đẽo sau ngài tiến sĩ, hay ngài lẽo đẽo theo tôi, tất nhiên ta không nên đặt câu hỏi kiêu ngạo này ra làm gì, đúng thế, tất nhiên tôi lẽo đẽo sau ngài Obláth, có thể, với mục đích thoát khỏi ngài, bởi vì trong giây phút thích hợp nhất cho mình, tôi có thể quay trở lại; Tóm lại, tiến sĩ Obláth dừng lại giữa đường mòn trong rừng, bằng duy nhất một động tác buồn bã mênh mông, ngài căng cái khuôn mặt phồng to, xệ xuống, thêm nữa, ngài ngước cái đầu có chiếc mũ kỳ quái, lấc cấc về phía sau, rồi ngài treo ánh mắt của mình vào một cành cây ngang tầm mắt, như móc manh áo rách rưới thảm hại, nhưng vẫn sẵn sàng dâng hiến sự phục vụ. Rồi chúng tôi dừng lại giữa chừng như thế, câm lặng, tôi trong luồng thôi miên của ngài, còn ngài, tiến sĩ Obláth, của cây rừng, tôi có cảm giác, mình sắp làm nhân chứng cho một phát ngôn cực kỳ tin cẩn sắp phát ra của ngài; đúng vậy, vì sau cùng, tiến sĩ Obláth lên tiếng, ngài bảo, ngài nói rằng, ngài cảm thấy điều đã xảy ra, hay nói đúng hơn, điều chưa xảy ra, là cơ hội bị bỏ lỡ, có nghĩa là ngài nghĩ không phải đến việc nối dõi, mà đến một điều mang chút tính trừu tượng, và cần phải thú thực rằng, về bản chất cũng là niềm an ủi làm khuây khỏa con người, trong trường hợp ngài đã đáp ứng được – đúng hơn, và chính vì điều này, không đáp ứng được, công việc cá nhân và trên cả cá nhân ở thế gian này, nói cách khác, ngoài sự tồn tại ra, còn cần đảm bảo cuộc sống tiếp tục, sự thoát chết, những thứ được kéo dài và nhân rộng bởi chính các thế hệ tiếp theo, đó là (ngoài sự tồn tại ra) trách nhiệm, có thể nói, mang tính tiên nghiệm, nhưng lại vô cùng thực tiễn của con người đối với cuộc sống, để mình không cảm thấy là què cụt, là dư thừa, và nước đường cùng, là liệt dương bất lực; và ngài cũng không nghĩ đến những viễn cảnh đang đe dọa của tuổi già không nơi nương tựa, không, thực ra ngài sợ cái khác kia, sợ "sự vôi hóa tình cảm”, ngài nói như thế, tiến sĩ Obláth sử dụng đúng những từ này, khi giữa chừng, ngài tiến bước có vẻ như về phía điểm tựa của chúng tôi, phía căn nhà nghỉ mát, nhưng thực ra bây giờ tôi đã hiểu, là về phía sự vôi hóa tình cảm. Và trên con đường này của ngài, tôi lẽo đẽo theo ngài như một kẻ tháp tùng trung thành, trong trạng thái tâm hồn bị khuấy động đến độ thích đáng bởi những từ ngữ đầy khích động của ngài, nhưng tôi không chia sẻ nỗi sợ hãi với ngài, cái mà, tôi e rằng (chính xác hơn là tôi tin rằng, thậm chí tôi biết chắc chắn rằng) chỉ là phút chốc, và, tuy trong mọi trường hợp đều thiêng liêng, nhưng trong hiện thực vĩnh cửu, vẻn vẹn chỉ là nỗi sợ hãi cần được nhúng vào chậu nước thánh mà thôi, vì khi nó xuất hiện, chúng ta không còn sợ nó nữa, không còn nhớ thứ mình đã sợ, bởi vì nó đã lấy đi sức mạnh trên chúng ta, và chúng ta ngập tận cổ trong nó, nó đã là của chúng ta và chúng ta là của nó. Bởi vì đấy cũng chỉ là nhát cuốc vào cái hố, cái hố chôn, mà tôi đang đào vào không khí (vì ở đó tôi nằm xuống thoải mái hơn), cho nên, tôi nói, không phải với nhà thông thái, chỉ với bản thân, rằng đối với sự vôi hóa tình cảm, không cần phải sợ, mà cần phải tiếp nhận nó, ngay cả khi không chào đón trực diện, như chào đón bàn tay cứu vớt hướng về phía chúng ta, bàn tay hiển nhiên giúp chúng ta đi về phía nấm mồ, chắn chắn: vì thưa ngài Kappus, thế giới này không chống lại chúng ta, và nếu nó mang nhiều nỗi hiểm nguy đi chăng nữa, chúng ta hãy cần thử yêu lấy chúng, nếu như, tôi nói xen vào, nhưng không phải với nhà thông thái, cũng không phải với ngài Kappus – anh chàng may mắn đã nhận biết bao thư từ Rainer Maria Rilke – tôi nói với bản thân, là tôi chỉ yêu những nỗi hiểm nguy này, và tôi nghĩ, tuy vậy điều này có gì đấy chưa hợp lý, trong nó cũng có cái gì đấy không thực, mà tôi lúc nào cũng không ngừng nghe thấy, kiểu như một vài nhạc trưởng nghe thấy lập tức cái nốt nhạc kèn đồng, do lỗi in ấn, thổi cao hơn nửa âm. Cái âm thanh giả này, không chỉ từ trong bản thân tôi, mà xung quanh tôi, trong không gian, có thể nói, vũ trụ hạn hẹp hoặc rộng lớn của tôi, lúc nào tôi cũng không ngừng nghe thấy, ngay cả trong khung cảnh thiên nhiên đáng ngờ này, với rừng (sồi, hay phong) còi cọc, với lạch nước hôi hám và bầu trời u ám xỉn màu, lộ ra khỏi hàng cây hom hem, tại nơi, thưa ngài Kappus thân mến, kiểu gì tôi cũng không nghe thấy tiếng gọi thôi thúc của ý nghĩ "trở thành Tạo hóa, để sản sinh, để sáng tạo”, cái ý nghĩ đó, đúng không, chẳng đạt được điều gì trong thế giới nếu không kiểm chứng liên tục và biến nó thành hiện thực to lớn, sẽ chẳng thành gì, nếu thiếu sự đồng thuận của hàng nghìn âm thanh vang lên từ các loài vật và các vụ việc. . . Đúng thế, bởi vì vô ích chúng làm cụt hứng chúng ta (về điều này, tôi chỉ nói có thế), trong bí mật, nếu chúng ta thầm lặng và kỹ lưỡng theo rõi sự tuần hoàn của máu, và những giấc mơ kinh hãi của chúng ta, có nghĩa là, trong bí mật – tôi chỉ trong bí mật này, mới cảm thấy sự đồng thanh của hàng ngàn giai điệu vang lên từ mọi vật và mọi người – chúng ta luôn luôn và khăng khăng muốn sống, một cách rũ rượi, vô hồn, một cách bệnh hoạn, đúng thế, kể cả khi sống như thế này, cũng không được, như thế kia, cũng không xong… Chính vì vậy, hãy đừng mắc kẹt vào cái trạng thái tình cảm này, hay đúng hơn, vào gần như tất cả các trạng thái, hoặc ít nhất, trong tất cả những trạng thái mà tôi cũng tham dự, tôi lại nghe thấy âm thanh sai điệu của chiếc kèn đồng, tôi đặt cho ngài một câu hỏi đụng chạm mạnh đến chuyên môn của ngài, mang tính chất bác học, nhưng tuyệt đối không phải là một câu hỏi thông thái, rằng tại sao cái điều này lại như vậy? toàn bộ đây là sự ốm yếu?, rằng rốt cuộc ở đâu và khi nào "chúng ta đã làm đổ bể những cái quyền của mình”? rằng tại sao, một cách không thể thay đổi được và không gì có thể lay chuyển nổi, chúng ta vĩnh viễn không thể biết cái chúng ta biết? và cứ thế, cứ thế, như thể tôi không biết cái tôi biết, nhưng do bị bắt buộc phải lên tiếng, cái thái độ bất khả kháng, như nỗi sợ hãi nào đấy, kiểu như ngài đang ở giữa đồng hoang ma quỷ: thế là trên khuôn mặt tiến sĩ Obláth, quay trở lại cái nét mặt của nhà thông thái hành chính vùng núi trung nguyên Hungary, nét mặt của kế sinh nhai hạng trung, nét mặt của tầng lớp trí thức hạng trung với những quan điểm hạng trung, vóc dáng hạng trung, tuổi tác hạng trung, tương lai hạng trung, những nếp nhăn của nụ cười thỏa mãn, hạnh phúc, hoàn toàn nuốt chửng đôi mắt ti hí của ngài. Giọng nói của ngài ngay lập trở lại khách quan, thậm chí, cụ thể rành mạch, cái giọng mà đã quen với lối nói bóng nói gió trơn tru, vốn dĩ đầy tự tin, và mới đó vài giây còn thoáng run nghẹn bởi sự đe dọa gần kề của các sự việc rất thực tiễn cuộc sống. Thế là chúng tôi thong thả rảo bước quay về, hai kẻ ăn mặc gọn ghẽ, được nuôi nấng no đủ, tư thế chỉnh chu, hai trí thức thường thường bậc trung, trạc ngoại tứ tuần, quan điểm trung lưu, hai kẻ sống sót theo hai kiểu riêng của mỗi người, hai kẻ vẫn đang tiếp tục sống, hai kẻ đã chết một nửa, và trò chuyện, về những gì có thể trò chuyện, giữa hai kẻ trí thức và hoàn toàn vô bổ. Chúng tôi thảo luận, một cách ôn hòa, nhạt phèo, tại sao không thể tồn tại; bản thân sự tồn tại của cuộc sống, nói cho cùng là một sự vô lại, bởi vì, từ góc độ cao hơn, trong ý nghĩa cao hơn, không được phép tồn tại, đơn giản vì các sự kiện cứ lặp đi lặp lại, ta hãy bằng lòng như thế, lý do để ngao ngán có đủ; chưa nói đến việc đã từ lâu, những tư tưởng tân tiến hơn cũng không cho phép đồng nhất sự hiện diện với sự tồn tại. Chúng tôi đề cập – tất nhiên, tôi không thể nhớ ra tất cả, bởi có hàng trăm đề tài tương tự, vang lên, đúng hơn là kêu boong boong từ cuộc nói chuyện lộn xộn và vô tình này, như một ngàn đêm yêu đương hồi sinh từ quên lãng, với bậc vua chúa, trải dài bằng duy nhất một ý nghĩ sáng tạo – quả thật, tôi không nhớ ra tất cả, nhưng tôi tin: có chăng – toàn bộ bộc lộ vô thức hướng về sự hiện diện của tồn tại, khác xa dấu hiệu của nỗi ngây thơ vô vị, nói như vậy hơi quá, và thực ra không tồn tại – trái lại, đây là triệu chứng cho thấy cần phải tiếp tục, cần diễn biến một cách vô thức, nếu mọi giá cần phải tiếp tục. Và, nếu khả năng sống sót không thành công, điều mà tất nhiên ở mức độ cao hơn (tiến sĩ Obláth), lúc đó không chỉ những biểu hiện mơ hồ được bộc lộ, mà thậm chí sự trái ngược của nó cũng phơi bày, rơi vào vô thức một cách rõ ràng…và tiếp tục, sự vô thức này được biết đến như những nỗi phân tâm… Nhưng, theo những điều trên, để đạt đến sự cảm nhận của nhân loại (tôi) và sự hiện hữu của nó (tiến sĩ Obláth), là trạng thái mà nhân loại luôn cố gắng vươn tới, là niềm tin, là nền văn hóa, và những nghi lễ khác, ngày nay thuần túy là một tai họa… Vì vậy, chúng tôi lại tiếp tục, tiếp tục thổi tiếng kèn đồng lạc điệu, giữa lúc sương mù xanh mỏng hoàng hôn bắt đầu phủ kín ngọn những rặng cây cao đứng sừng sững, che kín một đám đông đang ẩn náu trong khu nghỉ mát, như mầm cây chen chúc dưới lòng đất sâu, nơi bàn đã phủ khăn và bữa tối đang chờ đợi, dao dĩa kêu leng keng, cốc tách chạm nhau tanh tách, đám đông đó đang trò chuyện rì rào, từ nơi đang diễn ra sự thật trần trụi này, tiếng kèn đồng lạc lõng cũng vang lên; vì không thể tự phơi bày bản thân, cuối cùng tôi cũng không rút lui, để thoát khỏi tiến sĩ Obláth: có trời biết tại sao, từ sự trống rỗng, che đậy bằng nỗi bị thôi miên và lối chuyện trò bắt buộc, tôi luôn luôn cảm thấy buồn phiền (kinh tởm), tôi ở lại đến cùng với ngài tiến sĩ để khỏi nghe, khỏi thấy, khỏi nói về điều cần nói, thậm chí, ai mà biết được, cần viết. Đúng thế, và màn đêm đã trừng phạt – hay tặng thưởng?, – vì tất cả những điều này, mang đến một bước ngoặc, một cơn giông bất ngờ ập đến, những tiếng sấm rền trên bầu trời, và chớp giật từng hồi, từng hồi, khắp vũ trụ, rồi lắng xuống, rõ ràng, khúc chiết, ít nhất đối với tôi, những chữ cái rành rọt xuất hiện, và… "Không!” – tôi nói, bởi vì quá tất yếu, những bản năng của chúng ta hoạt động chống lại bản năng, có thể nói, những bản năng chống đối của chúng ta hoạt động thay những bản năng thuần tính. "Không!” – một cái gì đó tru lên, rền rĩ trong tôi, ngay lập tức, chính lúc đó, nỗi ca thán đã gọt rũa, sau rất nhiều năm trôi qua, biến thành nỗi đau da diết, câm lặng, khi chưa qua đi, nó âm ỉ và nhức nhối, như một căn bệnh đang ủ, khắc vào trong tôi một câu hỏi – rằng, con sẽ là một cô bé mắt đen chăng? xung quanh chiếc mũi bé nhỏ của con sẽ là những chấm tàn hương mơ hồ chăng? Hay con sẽ là một cậu bé bướng bỉnh? Đôi mắt vui tươi và ngỗ ngược của con sẽ giống như những viên sỏi xám nhỏ xinh chăng? – đúng, cuộc đời của ta sẽ chính là khả năng tồn tại hiện hữu của con. Cả đêm hôm đó ta chỉ nghiền ngẫm câu hỏi này, lúc dưới ánh chớp chói lòa, khi với cặp mắt hoa lên trong màn đêm, trong khoảnh khắc nén thở, ta như nhìn thấy câu hỏi này khắc trên tường. Những câu chữ tôi viết ra trên giấy, giờ đây, cần coi như tôi đã viết ra hồi đêm, dù trong đêm, tôi sống, đúng hơn là viết, tôi đã trải qua, hay đúng hơn, những nỗi đau khác nhau của tôi, nhất là của những kỷ niệm đã vật vã (với nửa lít rượu cô nhắc). Có thể, tôi ghi bừa vài câu rối rắm vào sổ tay, vào tập giấy trắng luôn bên mình, những câu chữ sau đó tôi không thu thập lại, hoặc nếu có, tôi cũng không hiểu, rồi quên đi. Chỉ sau nhiều năm, đêm hôm đó mới sống lại trong tôi, để sau nhiều năm nữa, giờ đây tôi thử ghi lại, những gì đáng lẽ lúc ấy tôi phải viết ra, vì một đêm quá ngắn ngủi, với những gì cần viết, nếu tôi định viết. Nhưng sao viết được, bởi đêm hôm đó mới là sự mở đầu, có thể không phải sự mở đầu sớm nhất, nhưng chắc chắn là một trong những bước đi đầu tiên của nỗi tỉnh ngộ chín chắn, hay đúng hơn, sự sám hối lâu dài, ai mà biết, dài đến bao giờ, là nhát bổ đầu tiên để đào nấm mồ, cho bản thân tôi – không còn nghi ngờ gì nữa – tôi sẽ trải giường vào những đám mây. Câu hỏi này – cuộc đời của ta chính là khả năng cho sự tồn tại hiện hữu của con – có vẻ đi đúng hướng, đúng vậy, như thể bằng bàn tay bé bỏng, mảnh khảnh, con dắt, kéo ta đi trên đường, mà tận cùng đường chẳng dẫn đến đâu, cùng lắm dẫn đến sự nhận biết vô ích và không thể thực hiện được của bản thân, con đường chỉ đẩy lùi những trở ngại và chướng ngại vật mới tiếp tục tiến bước. Cái gì "có thể?” thậm chí "cần!” không mang ý nghĩa gì hết. Đầu tiên, phải chặn đứng cái thể chất trí thức bậc trung của tôi lại, phải dứt tận gốc rễ, kể cả khi thể chất này, chỉ được tôi sử dụng như bao cao su tránh thai, như thể tôi là một kẻ tình dục bừa bãi, cần thận trọng trong môi trường chứa bệnh AIDS. Chính xác hơn, tôi đã như vậy, bởi từ lâu, tôi không còn là một trí thức bậc trung, tuyệt đối không phải là một trí thức, tôi chẳng là cái gì, tôi sinh ra làm một con người tự thân, ngài J.W.G. từng nói thế, tôi là một kẻ sống sót tự thân, tôi nói, cùng lắm là nhà dịch thuật, đại loại như thế, một khi tôi đã xuất hiện và cần phải tồn tại. Là gì đi nữa, trái với hoàn cảnh đe dọa này, tôi đã tẩy hết thể chất đáng hổ thẹn của một nhà văn Hung thành đạt trên mình, vợ tôi (người từ lâu đã là vợ kẻ khác) bảo: mọi đặc tính của anh đều toát lên thể chất đó (lúc đó, khiến tôi hơi hoảng), nàng không bảo, vợ tôi nói, tôi phải từ bỏ những quan điểm nghệ sỹ, hoặc gì gì của tôi đi, nàng chỉ bảo, vợ tôi nói, tôi đừng tự ti như thế, có nghĩa là nếu anh càng (từ bỏ những quan điểm nghệ sỹ, hoặc bất kỳ lí thuyết gì) anh sẽ càng phải quan tâm đến nó, nghĩa là rốt cuộc, anh phải tự thực hiện bản thân mình, tóm lại phải đạt được thành công, vợ tôi bảo, bởi vì ai cũng cố gắng đạt điều ấy, kể cả nhà văn vĩ đại nhất thế giới, anh đừng tự lừa dối mình, vợ tôi nói, nếu anh không thích sự thành công, thì anh viết để làm gì cơ chứ? nàng hỏi, thật là một câu hỏi độc đáo, nhưng lúc đó tôi chưa có dịp lảng tránh; điều đáng buồn, có thể nàng đã nhìn thấu ruột gan tôi, có thể nàng nói hoàn toàn đúng, có thể tôi có – đã từng có – đủ tư chất, xứng với thể trạng đáng hổ thẹn của một nhà văn Hung thành đạt, tôi có – đã từng có – khả năng bẩm sinh. Nếu không có , tôi phải tạo ra – cần tạo ra, để toàn bộ nỗi do dự và sợ hãi sinh tồn của tôi, có thể biến thành sự ngưỡng mộ bản thân giản dị, mù quáng, không giới hạn, đầy say mê, nếu không đầy lôi cuốn, chí ít cũng hoành tráng, nếu tôi biến nó thành bệnh hoang tưởng đạo đức, và thành một chiến dịch kết tội liên tục, chống những người khác; Mời các bạn đón đọc Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời của tác giả Imre Kertesz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Hè Thiên Đường Tập 3 - Jenny Han
Một kết thúc hoàn hảo! “Một cuốn sách về mùa Hè nhưng rất thích hợp để đọc vào mùa Xuân” - một độc giả đã nhận xét như vậy, bởi vì trong không khí của cả cuốn sách luôn tràn ngập tình yêu. Nếu bạn đã đọc hai cuốn đầu tiên của bộ sách Mùa Hè Thiên Đường (tác giả Jenny Han), thì hẳn tập cuối cùng này sẽ là tập không thể bỏ qua. Và nó cũng sẽ không làm bạn thất vọng khi mang tới một đoạn kết hoàn hảo. *** Đã có quá nhiều thay đổi trong cuộc sống của Belly. Mùa Hè không bao giờ còn giống như xưa đối với Belly, Conrad, Jeremiah và cô Laurel - mẹ của Belly. Một mùa Hè nữa lại đến... nhưng năm nay Belly không tới bãi biển Cousins nghỉ Hè như mọi năm, bởi cô Susannah đã qua đời. Mặc dù bề ngoài Belly vẫn đi chơi, gặp gỡ bạn bè như không có chuyện gì xảy ra, nhưng trong thâm tâm Belly có cảm giác như thế giới của cô đang dần sụp đổ. Trái tim cô luôn hướng về bãi biển Cousins khiến cho mỗi ngày Hè của Belly dài đằng đẵng như một năm. Cô Susannah ra đi để lại một khoảng trống quá lớn trong tim của mọi người. Việc đối mặt với sự mất mát to lớn đó càng trở nên khó khăn hơn cho Belly khi mà anh Conrad hoàn toàn đóng sập mọi cảm xúc, mọi chia sẻ với mọi người xung quanh. Mọi thứ bắt đầu thay đồi khi cô nhận được cuộc điện thoại khẩn cấp từ Jeremiah Fisher. Anh Conrad đã biến mất, không một ai biết anh đi đâu và làm gì. Không còn cách nào khác, Jeremiah đành gọi điện cầu cứu sự giúp đỡ của Belly, mặc dù lần cuối cùng khi Belly nói chuyện với anh Conrad tại buổi prom ở trường, hai người đã có một kết cục không hề vui vẻ gì. Belly và Jeremiah đã tìm thấy anh Conrad tại căn nhà bãi biển ở Cousins và ba người họ quyết định dành những ngày Hè cuối cùng nghỉ tại đây. Bao kỷ niệm và những cảm xúc của quá khứ chợt ùa về, đặt mối quan hệ giữa Belly và hai anh em nhà Fisher vào một phép thử mới, tạo ra một trang mới trong cuộc đời họ. Trong thời gian ở Cousins tìm cách thuyết phục anh Conrad quay trở lại trường học Belly và Jeremiah phát hiện ra rằng chú Fisher có ý định bán căn nhà bãi biển. Và đó chính là lý do tại sao anh Conrad nhất quyết không chịu rời Cousins để quay lại trường. Chính mẹ của Belly đã thuyết phục được chú Fisher không bán căn nhà bãi biển nữa, với điều kiện Conrad sẽ quay trở lại trường học và hoàn thành đầy đủ các bài kiểm tra còn thiếu. Jeremiah và Belly đã giúp Conrad ôn bài. Sau khi làm xong bài kiểm tra thứ hai, Conrad từ trong trường bước ra và bắt gặp Jeremiah đang hôn Belly trong xe. Mặc dù Belly đã chạy theo giải thích nhưng Conrad đã nổi giận và nói những lời đầy tổn thương với Belly. Trên đường đưa Belly trở về, trời đổ mưa quá to, ba người họ đành phải dừng chân nghỉ tạm ở một nhà nghỉ ven đường. Cuộc trò chuyện giữa Belly và Conrad ngày hôm đó đã chính thức đặt dấu chấm hết cho quan hệ của họ. Trên đường về, Belly đã nắm tay Jeremiah và họ cứ nắm tay nhau như vậy mãi suốt cả chặn đường. Mối quan hệ giữa Belly và Jere chính thức bước sang một chương mới. ***  “Một câu chuyện cảm động về gia đình, các chàng trai và những biến cố trong cuộc đời của một người. Cuốn sách này chứa đựng tất cả những gì ngọt ngào nhất, lãng mạn nhất về một mùa-Hè-trong-mơ của mọi cô gái.”    – Sarah Dessen, tác giả của ALONG FOR THE RIDE, cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí NEW YORK TIMES bình chọn.   “Một sự kết hợp ngọt ngào giữa tình yêu mùa Hè và tình bạn vĩnh cửu.” – Deb Caletti, tác giả cuốn HONEY, BABY, SWEETHEART.   “Nếu có thể, tôi cũng muốn được sống trong thế giới của cuốn sách tuyệt vời này. Tôi sẽ tận hưởng không khí mát mẻ của đại dương, đầm mình trong ánh Mặt Trời của Cousins và tôi sẽ chơi cả ngày không biết chán với cô bạn Belly tốt-bụng-vui-tính-dễ-thương, củng hai cậu bạn nối khố Jeremiah và Conrad. Tôi sẽ được chứng kiến sự trưởng thành của bộ ba này khi không còn là trẻ con nữa và bắt đầu một cái gì đó hơn thế... và tôi rất rất rất hy vọng rằng khi Belly biết yêu thật sự, cô sẽ trao tặng trái tim của mình cho đúng người.” – Lauren Myrade, tác giả bộ truyên BLISS. *** Tuần thi cử đã đến, và bạn đã ngồi học suốt 5 tiếng liền tù tì, và ba thứ có thể giúp bạn "sống sót" qua được một đêm dài. Một cốc Slurpee cỡ bự, nửa Coke nửa anh đào. Một chiêc quần ngủ siêu mềm mại và thoải mái, loại mà bạn đã giặt đi giặt lại không biết bao nhiêu lần và giờ chỉ còn mỏng như tờ giấy ăn. Cuối cùng là các điệu-nhảy-giải-lao. Khi hai mắt bạn bắt đầu nhắm tịt lại và tất cả những gì bạn muốn là làm đỏ kềnh ra giường, đánh một giấc đến sáng. . . thì một điệu-nhảy-giải-lao sẽ giúp bạn vượt qua được cơn thèm muốn đó. Cứ đứng dậy và "dẩy" thôi, "dẩy" bất kỳ kiểu gì điệu gì, miễn là "dẩy". Khi ấy đã là 4h sáng, và tôi đang ngồi cày cho môn thi cuối cùng, kết thức năm thứ nhất của kình tại trường Đại học Finch. Toi, cùng cô bạn thân mới Anika Johnson và cô bạn thâm cũ Taylor Jewel, hầu như đêm nào cũng "cắm trại" ở thư viện kí túc xá. Kỳ nghỉ hè đang ở gần đếm nỗi tôi có cảm giác như sắp chạm được vào nó tới nơi. Chỉ còn 5 ngày nữa thôi. Tôi đã chờ mong kỳ nghỉ này suốt từ tháng 4 tới giờ. "Đố mình cái gì đi," - Taylor ra lệnh, giọng khản đặc. Tôi lật đại một trang trong cuốn sổ ghi chép ra và hỏi:"Hãy định nghĩa hai từ anima và animus." Taylor cắn môi dưới, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: "Cho một chút gợi ý đi." "Ờ. . . trong tiếng La-tinh." - tôi nói. "Mình có đăng kí học tiếng La-tinh đâu! Đừng nói là bài thi sắp tới sẽ hỏi gì liên quan tới tiếng La-tinh nhá?" "Không, mình chỉ là gợi ý cho cậu thế thôi. Bởi vì trong tiếng La-tinh, tên của con trai kết thúc bằng đuôi -us còn con gái kết thũ bằng -a, và như thế có nghĩ là từ amima được dùng để chỉ nữ giới, còn từ animus để chỉ nam giới. Hiểu chưa?" Taylor thở dài cái thượt: "Vẫn chẳng hiểu gì ý. Chắc là mình trượt môn này quá." Ngước mắt lên từ cuốn sổ ghi chép của mình, Anika thủng thẳng nói: "Nếu cậu ngừng nhắn tin và chịu khó ngồi học đi thì chắc cũng không đến nỗi trượt đâu." Taylor nguýt Anika một cái rõ dài: " Mình đang phải giúp chị mình lên kế hoạch cho bữa sáng mai, vì thế tối nay mình phải trực." "Trực á?" - Anika mỉm cười đày tò mò - "Như kiểu trực bác sĩ á?" "Ờ đấy, như kiểu trực bác sĩ, được chưa?" - Taylor gắt lên. "Thế chị cậu định làm món bánh kếp hay bánh quế?" "Bánh mỳ nướng kiếu Pháp, cậu thật nhiều chuyện." Trong năm thứ nhất này, ba đứa chúng tôi cũng đăng ký học chung lớp tâm lí với nhau, tôi và Taylor sẽ thi ngày mai, còn Anika phải ngày kia mới tới lượt. Ở trường, ngoài Taylor ra thì tôi thân nhất Anika. Bản tính của Taylor xưa nay vẫn luôn thích mình phải hơn người khác, vì thế cũng dễ hiểu khi cậu ấy có chút ghen tị với tình bạn của tôi với Anika, mặc dù cậu ấy sẽ không bao giờ chịu thừa nhận điều ấy. Tình bạn giữa tôi và Anika khác với tình bạn giữa tôi và Taylor. Anika tính rất thoải mái và dễ gần. Cậu ấy không phải dạng hồ đồ, thích lên giọng với người khác. Và hơn tất cả là cậu ấy luôn dành cho tôi một khoảng không gian riêng để thở. Chúng tôi cũng mới quen nhau, nên cả hai vẫn còn nể nang nhau ra phết. Cậu ấy cũng không giống như các bạn tôi ở nhà. Cậu ấy đến từ New York, bố cậu ấy là một nghệ sĩ nhạc Jazz còn mẹ là nhà văn. Vài tiếng sau, Mặt Trời bắt đầu mọc và những tia nắng đầu tiên của ngày mới cũng len lỏi chiếu sáng cả căn phòng. Taylor đã ngủ gục trên bàn từ bao giờ, còn Anika mắt mũi lờ đờ như một thây ma. Tôi vớ lấy mấy tờ giấy nháp vò thành hai quả bóng và nhắm thẳng vào đầu hai cô bạn thân mà ném. "Đến tiết mục nhảy-giải-lao nào!!!" - toii nhấn nút "play" trên máy tính, hồ hởi kêu gọi Anika và Taylor. Anika nhíu mày hỏi: "Sao cậu vẫn có thể líu lo thế hả Belly?" "Bởi vì," - tôi vỗ vỗ hai tay vào nhau - "chỉ vài tiếng nửa thôi là mọi thứ sẽ kết thúc." Phải tới một giờ chiều nay tôi mới phải đi thi, vì thế tôi định là sẽ quay về phòng, chợp mắt một lúc rồi dậy ôn lại bài thêm một lượt nữa. Tôi đã ngủ quên, nhưng cũng may vẫn còn đủ một tiếng để đọc lại bài. Không còn thời gian xuống căng-tin ăn sáng, tôi đành lót dạ bằng một cốc Coke vị anh đào mua tạm ở cái máy bán hàng tự động cuối hành lang. Đúng như dự đoán của tụi tôi, bài thi không hề dễ một tẹo nào, nhưng chắc tôi cũng phải được điểm B là ít. Đến Taylor còn tự tin là sẽ không trượt cơ mà. Sau buổi thi, cả hai đứa tả tơi như hai cái chổi quét nhà sắp vứt đi, và bởi vì không còn sức nghĩ tới chuyện ăn mừng nên chúng tôi chỉ kịp vẫn tay chào nhau rồi đường ai người nấy đi. Tôi chạy về phòng, định rằng sẽ làm một giấc tới tối luôn, và ngay khi vừa mở cửa ra đã thấy Jeremiah đang ngủ ngon lành trên giường của mình. Lúc ngủ, trông anh không khác gì một cậu bé con. Chân hai gác lên thành giường, hai tay ôm chặt chú gấu bông Junior Mint của tôi trước ngực. Tôi cởi giày và nhẹ nhành bò vào chiếc giường đôi kế bên anh. Anh trở mình, mở mắt ra và mỉm cười với tôi. "Chào em." "Chào anh," - tôi nói. "Em làm bài thế nào?" "Cũng tàm tạm." "Vậy là tốt rồi." - anh buông con Junior Mint ra và kéo tôi vào lòng - "Anh mang cho em một nửa bữa trưa của anh đấy." "Anh đáng yêu thế" - tôi dụi đầu vào vai anh. Anh dịu dàng hôn lên tóc tôi. "Làm sao anh để bạn gái mình bỏ bữa được." "Chỉ là một bữa sáng thôi" - tôi đính chính lại. Nhưng sau một hồi ngẫm nghĩ, tôi đành thừa nhận - "Và bữa trưa." "Em muốn ăn luôn bây giờ không? Anh để trong túi xách ý." Giờ nghe anh ấy nói tôi mới nhận ra là mình cũng hơi đoi đói thật, nhưng nếu phải chọn giữa ăn và ngủ thì tôi muoisn ngủ hơn. "Lát em ăn," - tôi thì thầm nói, mắt nhắm nghiền. Và thế là cả hai chúng tôi ôm nhau ngủ theo hình thức lịm dần đều. Khi tôi tỉnh dậy, ngoài trời đã tối mịt, Junior Mint đang nằm lăn lóc dưới sàn nhà và tay của Jeremiah vẫn đang ôm lấy tôi. Anh vẫn đang ngủ. Tôi và Jeremiah bắt đầu hẹn hò ngay khi tôi vào năm cuối của trung học. Nếu nói là "hẹn hò" thì cũng không hoàn toàn chính xác. Chúng tôi chỉ đơn giản là ở bên nhau. Mọi thứ diễn ra rất tự nhiên và nhanh, như thể trước giờ vẫn luôn là như vậy. Một phút trước chúng tôi vẫn còn là bạn bè, rồi bỗng dưng chúng tôi hôn nhau, và việc tiếp theo tôi làm là đăng ký vào cùng một trường đại học với Jeremiah. Tôi đã nói với bản thân và mọi người ( kể cả anh, và đặc biệt là mẹ ) rằng đây là một ngôi trường tốt, chỉ cách nhà có vài tiếng ngồi xe, nên việc tôi lựa chọn theo học ở đây là điều dễ hiểu. Tất cả những điều đó là sự thật. Nhưng trên hết, tôi chỉ muốn được gần anh. Tôi muốn được ở bên anh tất cả các mùa trong năm, không chỉ mùa Hè không. Và giờ chúng tôi đang ở đây, nằm bên nhau trên chiếc giường đôi, trong kí túc xá của trường. Anh đang là sinh viên năm thứ hai, còn tôi vừa kết thúc năm thứ nhất của mình vài tiếng trước. Thật không thể tin nổi chúng tôi đã cũng nhau đi được một chặng đường dài đến vậy. Jeremiah và tôi quen biết nhau qua các mùa Hè, vì thế việc giờ chúng tôi đến với nhau như thế này cũng chẳng có gì bất ngờ - nếu không muốn nói đó là điều khó tránh khỏi. ... Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Thiên Đường Tập 3 của tác giả Jenny Han.
Công Tước Và Em - Julia Quinn
Thông minh, quyến rũ và cũng lại vô cùng ngây thơ, Daphne Bridgerton không bao giờ tưởng tượng rằng cô sẽ bị cuốn vào vòng xoáy tình yêu với chàng công tước độc thân sáng giá bậc nhất nước Anh, đồng thời cũng là một tay chơi khét tiếng khiến cả mẹ lẫn các anh cô phải cấm đoán. Không chỉ có thế, khi bị anh trai cô lôi vào cuộc đấu súng một mất một còn, anh chàng đó sẵn sàng chấp nhận cái chết chứ nhất định không trao cho Daphne Bridgerton bất cứ điều  gì ngoài câu nói, Tôi không thể lấy em… Công tước và em - cuốn tiểu thuyết lãng mạn danh tiếng của Julia Qinn, cuốn sách mang màu của ký ức, màu của những rượt đuổi cô độc về cảm xúc, lại cũng tràn ngập màu đỏ của đam mê, màu vàng rực rỡ của hạnh phúc. Khi mọi sắc màu đó hòa quyện, thế giới của hai nhân vật chính tan vào nhau trong sự toàn vẹn… *** Đôi nét về tác giả: Julia Quinn (tên thật Julie Pottinger) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên khắp thế giới với các tác phẩm lãng mạn lịch sử. Các tác phẩm của bà đã được dịch ra hơn mười thứ tiếng, chín lần được đứng trong danh sách New York Times Bestseller, ba lần đoạt giải RITA. Julia Quinn đã tốt nghiệp trường Harvard chuyên ngành Lịch sử Nghệ thuật và từng học y tại Yale trước khi quyết định dành toàn thời gian cho viết lách. Bà bắt đầu sáng tác ngay từ khi rời trường trung học, và ngay từ các tác phẩm đầu tay đã nhận được những phản hồi tích cực từ cả độc giả lẫn các nhà xuất bản. Năm 2010, bà đã được ghi danh tại Bảo tàng Danh vọng các Nhà văn Lãng mạn Mỹ. Những tác phẩm của cùng tác giả Julia Quinn được Nhã Nam xuất bản: The Secret Diaries of Miss Miranda Cheever (Nhật ký bí mật của tiểu thư Miranda) What Happens in London (Chuyện xảy ra ở London) Tử Tước và Em Như Chốn Thiên Đường Công tước và Em Săn Lùng Quý Cô Thừa Kế ... *** Lời khen tặng dành cho Công tước và em “Cuốn hút.” - Nora Roberts “Tôi chỉ có thể chân thành cảm ơn Julia Quinn vì đã phục hồi niềm tin của tôi đối với văn học lãng mạn.” - Walaika Haskins, Romance Reader   “Julia Quinn là Jane Austen đương đại.” - Jill Barnett “Quinn sẽ mang đến cho các bạn những giấc mơ thú vị.” - Romantic Times *** Ngày sinh của Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset, Bá tước Clyvedon, được tổ chức rất long trọng. Nhà thờ đổ chuông trong hàng giờ liền, champagne được xả lênh láng hào phóng trong khuôn viên tòa lâu đài khổng lồ, nơi cậu bé mới sinh gọi là nhà, và cha ngài Bá tước nhỏ tuổi yêu cầu toàn thể dân làng Clyvedon nghỉ việc để tham dự yến tiệc và kì nghỉ. "Đây," bác bán bánh mì nói với người thợ rèn, "không phải là đứa trẻ bình thường." Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset không phải được sinh ra để cả đời sống với tước vị là Bá tước Clyvedon. Đó chỉ là một tước vị có được do ưu đãi. Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset – cậu bé con có nhiều tên hơn hẳn bất kỳ đứa trẻ nào khác – là người thừa kế một trong những tước vị Công tước lâu đời và giàu có nhất nước Anh. Và cha cậu bé, ngài Công tước Hastings thứ chín, đã chờ đợi khoảnh khắc này trong nhiều năm liền. Khi ngài đứng trong đại sảnh bên ngoài phòng sinh của vợ, nâng niu đứa con đỏ hỏn đang khóc ầm ĩ trong tay, trái tim ngài Công tước gần như nổ tung vì tự hào. Nhiều năm sau khi bước qua tuổi 40, ngài đã chứng kiến biết bao người bạn của mình – những vị Công tước và Bá tước khác, tất cả – đều sinh ra hết người thừa kế này đến người thừa kế nọ. Một vài người có con gái trước khi đứa con trai quý giá của họ được sinh ra, nhưng cuối cùng, tất cả họ đều tin chắc dòng dõi của họ sẽ tiếp tục, dòng máu của họ sẽ được truyền lại cho thế hệ tiếp theo. Nhưng không phải ngài Công tước Hastings. Mặc dù vợ ngài đã mang thai năm lần trong suốt 15 năm hôn nhân của họ, chỉ hai lần bà hạ sinh, và cả hai lần con ngài đều chết yểu ngay khi mới chào đời. Sau lần mang thai thứ năm, kết thúc bằng việc sẩy thai vào tháng thứ năm của thai kỳ, các bác sĩ đều cảnh báo họ không nên thử thêm một lần có con nào khác. Mạng sống của nữ Công tước đã ở trong tình trạng nguy hiểm. Bà quá yếu, quá mỏng manh, và có thể, họ nhẹ nhàng nói, quá lớn tuổi rồi. Ngài Công tước chỉ đơn giản cố gắng chấp nhận thực tế, rằng tước vị sẽ không còn liên quan đến dòng họ Basset nữa. Nhưng nữ Công tước, Chúa phù hộ cho bà, biết rõ vai trò của mình, sau sáu tháng hồi phục, đã mở cánh cửa thông giữa phòng ngủ của họ, và ngài Công tước lại tiếp tục yêu cầu có một đứa con trai. Năm tháng sau, nữ Công tước thông báo cho ngài biết, bà đã có mang. Tâm trạng của ngài Công tước lập tức phấn chấn hẳn lên, bằng một niềm tin không gì lay chuyển được – chắc chắn là không gì lay chuyển được – rằng lần mang thai này sẽ thành công. Nữ Công tước đang nằm trên giường trong giây phút bà nhận ra mình đã trễ tháng. Các bác sĩ đến khám cho bà mỗi ngày, và trong suốt thời kỳ mang thai ấy, ngài Công tước đã mời vị bác sĩ được nể trọng nhất ở London, trả cho ông ta một khoản hậu hĩnh để ông tạm thời rời khỏi phòng mạch của mình, đến sống ở lâu đài Clyvedon. Ngài Công tước không còn cơ hội nào khác ngoài lần này. Ngài phải có một đứa con trai, và tước vị sẽ vẫn ở trong tay của dòng họ Basset. Kinh nghiệm về những cơn đau của nữ Công tước đến sớm hơn một tháng, những tấm đệm được lót dưới hông bà. Trọng lực sẽ giúp đứa bé bên trong, bác sĩ Stubbs giải thích. Ngài Công tước nghĩ đó là một lập luận có cơ sở, và, vị bác sĩ rời đi vào buổi chiều, sau khi đặt những tấm đệm khác cho vợ ngài, giúp bà nằm theo một góc nghiêng hai mươi độ. Bà đã nằm trong tư thế ấy suốt một tháng. Rồi cuối cùng, khoảnh khắc ấy cũng đến. Tất cả mọi người đều cầu nguyện cho ngài Công tước, người luôn muốn có một người thừa kế, và cả cho nữ Công tước, lúc bấy giờ rất mảnh khảnh và yếu ớt, vào lúc vòng bụng của bà ngày càng tròn và to hơn. Tất cả đều cố gắng không hy vọng quá nhiều – bởi nữ Công tước đã hai lần hạ sinh và cả hai lần đều phải chôn đứa bé. Ngay cả nếu như bà an toàn sinh hạ một đứa trẻ, thì đứa trẻ ấy, chà, rất có thể là một bé gái. Khi tiếng hét của nữ Công tước ngày một lớn và lặp lại thường xuyên hơn, ngài Công tước xô cửa bước vào phòng bà, mặc kệ lời phản đối của bác sĩ, bà đỡ và cả đám hầu gái. Ngài nhất quyết phải ở đây, dù nơi đây đang hỗn độn cả lên bởi máu và máu, để chứng kiến giây phút được biết giới tính của đứa bé. Đầu đứa bé xuất hiện trước, rồi đến bờ vai. Mọi người đều cúi người quan sát nữ Công tước căng ra và cố gắng, và rồi... Và rồi ngài Công tước biết đó là Chúa, và ngài mỉm cười với toàn thể dòng tộc Basset. Ngài cho bà đỡ một phút để lau sạch đứa bé, rồi để bà đặt đứa bé trai nhỏ bé vào vòng tay ngài, rồi ngài bước vào đại sảnh để khoe cậu với cả thế giới. "Ta có một đứa con trai!" Ngài gầm lên. "Một đứa con trai nhỏ xíu hoàn hảo!" Tất cả người hầu đều vỗ tay và thở phào nhẹ nhõm, ngài Công tước cúi xuống nhìn vị Bá tước tí hon trong tay mình và nói. "Con thật hoàn hảo. Con mang họ Basset. Con là của ta." Công tước muốn ẵm cậu ngài ra ngoài để chứng minh với mọi người rằng cuối cùng ngài đã cho ra đời một thằng bé khỏe mạnh, nhưng vẫn còn quá sớm khi thằng bé hãy còn là một đứa trẻ mới sinh nhỏ bé vào tháng tư, nên ngài giao đứa trẻ lại cho bà đỡ, để bà đem thằng bé đến chỗ mẹ nó. Ngài Công tước bừng lên niềm vui về phần thưởng quý giá và tổ chức tiệc mừng, hét lên về vận may của mình cho bất kỳ ai chịu lắng nghe. Trong lúc đó, nữ Công tước, mất quá nhiều máu sau khi sinh và dần dần chìm vào hôn mê. Cuối cùng bà ra đi. Ngài Công tước tiếc thương vợ. Ngài thực sự tiếc thương. Ngài không yêu bà, dĩ nhiên, và bà cũng chẳng yêu ngài. Nhưng họ đã là bạn trong gần như cả cuộc đời. Ngài Công tước không mong mỏi gì hơn một đứa con trai và một người thừa kế từ cuộc hôn nhân, và trước sự quý trọng ấy, vợ ngài đã chứng tỏ là một người vợ mẫu mực. Ngài đặt những bông hoa tươi thắm bên cạnh mộ phần của bà vào mỗi tuần, bất kể đó là mùa nào trong năm, và hương phần của bà được chuyển từ phòng khách vào đại sảnh, trên một vị trí trang trọng nhất. Sau đó, ngài Công tước bận bịu với việc nuôi dạy con trai. Chẳng có việc gì ngài có thể làm được trong năm đầu tiên, dĩ nhiên là thế. Con ngài vẫn còn quá nhỏ cho những bài học về quản lý đất đai và trách nhiệm, nên ngài Công tước để Simon lại cho bảo mẫu và lên đường đi London. Tại đây, cuộc sống của ngài vẫn tiếp diễn như thường lệ, như trước khi ngài nhận biết được về tình cảm cha con, ngoại trừ việc ngài thuyết phục tất cả mọi người – thậm chí cả Đức vua – để chiêm ngưỡng con trai ngài trong một bức họa nhỏ mà ngài vẽ sau khi thằng bé chào đời. Ngài Công tước ghé thăm Clyvedon trong nhiều lần, rồi trở lại để chuẩn bị quà cho sinh nhật hai tuổi của Simon, sẵn sàng cho việc học của thằng bé. Ngài mua một chú ngựa con; một khẩu súng nhỏ cho cuộc săn bắn cáo trong tương lai cũng được ngài chọn sẵn, và ngài cũng đã thuê hẳn các gia sư cho mỗi môn học cần thiết giúp con trai ngài trở thành một người đàn ông thực thụ. "Cậu ấy còn quá bé cho tất cả những thứ này!" Bảo mẫu Hopkins la lên. "Không sao cả." Hastings đáp trả nhún nhường. "Rõ ràng là, ta không hy vọng thằng bé nắm vững hết được bất cứ cái nào trong khoảng thời gian này, nhưng không bao giờ là quá sớm để bắt đầu việc giáo dục một Công tước." Mời các bạn đón đọc Công Tước Và Em của tác giả Julia Quinn.
Bất Cứ Điều Gì Em Muốn - Jennifer Crusie
Bất cứ điều gì em muốn của tác giả Jennifer Cruise -Tiểu thuyết gia văn học lãng mạn ăn khách nhất tại Mỹ là cuốn sách được đứng vào loại sách bán chạy nhất trong năm (Best-seller). “Bất cứ điều gì em muốn” nói về diễn biến tâm lý của một con người khi yêu. Tình yêu đánh gục bất kỳ ai, kể cả một thám tử tư vốn luôn tỉnh táo và bất cần. Kẻ giết người vì tình liệu có đáng được tha thứ? Mitch Peabody nhanh chóng nhận ra rằng cuộc đời của một thám tử tư chẳng giống những gì diễn ra trong phim ảnh. Anh đã hình dung ra một thế giới của những anh chàng thám tử ăn nói cứng rắn và những người cô nàng kiêu sa, lanh mồm lanh miệng. Thay vào đó anh gặp phải hết vụ này đến vụ khác nói về những gã chồng lừa dối, những cô vợ đáng ngờ và những cô nhân tình khờ khạo… cho đến khi cô bước qua cánh cửa. Mae Sullivan thực sự bốc lửa, kèm theo đó là một gia đình bất hạnh. Có một điều gì đó không hoàn toàn trung thực ở cô, nhưng cô đem đến một vụ án mà anh không thể chối từ…và để lại trong anh một cơn khát tình chưa từng có kể từ thời trung học. Nhưng liệu có phải Mae chỉ quan tâm đến việc bắt được kẻ lừa đảo phản bội đã giết ông bác mình… hay quý cô đó muốn bắt chính con người anh? “Hết sức mới mẻ, hài hước, tình cảm và táo bạo… Crusie là một trong những tác giả như thế”.  *** Jennifer Crusie (sinh năm 1949) là bút danh của nhà văn Jennifer Smith, một tác giả dòng tiểu thuyết lãng mạn bán chạy và dành nhiều giải thưởng. Bà đã viết được hơn 15 cuốn tiểu thuyết, đã được xuất bản ở hơn 20 nước trên thế giới. Bà đã tốt nghiệp ở trường Trung học Wapakoneta và có bằng cử nhân ngành Mỹ thuật tại trường Đại học Liên bang Bowling Green ở Bowling Green, bang Ohio. Bà có hai bằng Thạc sĩ. Bằng đầu tiên thuộc về chuyên ngành Professional Writing and Women's Literature ở Đại học Liên bang Wright, Crusie đã viết luận văn về vai trò người phụ nữ trong tác phẩm văn học kỳ bí. Bằng thạc sĩ thứ hai của bà thuộc nghành Mỹ thuật trong Tiểu thuyết của Đại học Liên bang Ohio. Vào mùa hè năm 1991, bà bắt đầu nghiên cứu cho luận văn về ảnh hưởng giới tính đối với việc tường thuật, nghiên cứu sự khác nhau của việc kể chuyện giữa phụ nữ và đàn ông. Là một phần trong quá trình nghiên cứ, bà đã dự tính đọc một trăm cuốn tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ và một trăm cuốn tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Các tiểu thuyết lãng mạn hóa ra khá nữ quyền và quá hấp dẫn, khiến bà không bao giờ đụng đến tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Thay vào đó, bà quyết định viết tiểu thuyết, bỏ việc và dành toàn bộ thời gian để viết cũng như hoàn tất học vị tiến sĩ. Đây là một trong những bước biến chuyển vô cùng mạo hiểm vì bà đã không bán được cuốn sách đầu tiên của mình mãi cho đến tháng Tám năm 1992. Mặc dầu NXB Silhouette đã từ chối cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Crusie, NXB Harlequin đã chấp nhận nó và xuất bản vào năm 1993 với tên gọi Săn chồng thuộc dòng sách Quyến rũ của họ. Thêm năm cuốn nữa của bà được Harlequins xuất bản, gồm Getting Rid of Bradley – đã giành được giải RWA dành cho Tiểu thuyết ngắn hiện đại hay nhất, Strange Bedpersons, What the Lady Wants, Charlie All Night, and Anyone But You. Các tác phẩm tiểu thuyết của bà tiếp tục khám phá các cuộc hành trình của những người phụ nữ, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ, tình bạn, cộng đồng, và sự sáng tạo. Bà là một phụ nữ may mắn, và bà biết điều đó. *** Các tác phẩm của Jennifer Crusie: Faking It Welcome to Temptation Fast Women Crazy For You Bet Me Maybe This Time Anyone But You What The Lady Wants (Bất cứ điều gì em muốn) Manhunting (Săn chồng) Strange Bedperson ... *** Mae Sullivan cau mày nhìn lên toà nhà cũ kỹ đầy bụi bẩn và đổi thế đứng từ bàn chân đau nhức trên chiếc giày cao gót nhọn hoắt này sang chân bên kia, cố tránh không đè lên những vết phồng rộp. Vẻ ngoài của khu dân cư này cho thấy cơ hội cô bị cướp ngày có lẽ cũng chỉ cao hơn tí chút so với khả năng toà nhà sẽ đổ sập xuống đầu cô. Chỉ có kẻ thất thế mới làm việc ở một nơi như thế này. Tốt. Chẳng dễ gì mới tìm được một tay thám tử tư bất tài bằng một mẩu quảng cáo ngắn cũn tại một thành phố ở miền trung tây như Riverbend. Nhưng giờ đã có Mitchell Peatwick. Cô có thể hình dung ra anh ta đang ngả ngớn trên chiếc ghế bành, hói đầu và béo ục ịch, quai hàm trễ xuống và đôi mắt lóe lên sự hiểm độc, trong khi não thì bé như quả nho. Anh ta sẽ chiếu cố đến cô vì cô là phụ nữ. Còn cô sẽ chơi anh ta như chơi đàn piano. Tất cả những gì cô phải làm là thuyết phục anh ta rằng anh ta đang điều tra một vụ giết người thực sự, rồi anh ta sẽ vác tấm thân phì nộn ấy đi loanh quanh, tạo nên những lời đồn đại và nỗi ngờ vực cho đến khi ai đó đã lấy cuốn nhật ký của ông bác cô sẽ buộc phải hoặc từ bỏ nó hoặc phải thủ tiêu nó vĩnh viễn nếu như kẻ đó không muốn bị bắt vì tội giết người. Phải, đó là tất cả những gì cô phải làm. Vậy thì làm thôi. Cô hít một hơi thật sâu và nhăn mặt khi cạp của chiếc váy hồng đi mượn cắt vào da. Rồi cô kéo chiếc mạng trên mũ xuống che ngang mắt và rảo bước về phía cánh cửa kính rạn nứt của toà nhà cũ kỹ, liếc nhìn bóng mình trong đó khi bước lên cầu thang. Thậm chí là qua lớp mạng màu hồng ngớ ngẩn, trông cô vẫn cực kỳ gợi cảm. Đó là điều kỳ diệu mà váy áo có thể tạo nên. Giờ nếu cô có thể tiến hành cho xong cuộc nói chuyện khỉ gió này trước khi cạp váy của June cắt cô thành hai và đôi cao gót nhọn hoắt của bà biến cô thành kẻ tàn tật suốt đời, thì cô sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề mà bọn họ đang mắc phải. Cầu trời để Mitchell Peatwick là một gã ngu như bò và yếu lòng trước phụ nữ mặc váy bó, cô thầm cầu nguyện khi bấm chuông thang máy. Cầu trời để anh ta là bất cứ thứ gì theo ý mình. Cánh cửa sổ ọp ẹp phía sau lưng anh mở toang, chiếc quạt trần trên đầu xoay xoay phả gió, và Mitch tin chắc rằng nếu như trời còn nóng hơn nữa thì anh sẽ chết. Và đúng là trời đang nóng hơn thật, anh khá chắc điều duy nhất giúp cho anh còn sống sót là vì anh không hề cử động. Nếu như anh nhúc nhích, thân nhiệt của anh sẽ tăng lên, và anh sẽ bị tan chảy ngay trên chiếc ghế bành của mình. Dù sao thì anh cũng không muốn cử động gì ráo. Anh đang chán chường đến mức chẳng buồn cựa quậy. Anh ngả lưng trên chiếc ghế da đã rạn – tay áo xắn cao, tay vắt ra sau đầu, chân gác lên chiếc bàn kim loại méo mó – và suy nghĩ về những kế hoạch mà anh đã lập ra và về cái cách mà những kế hoạch đó diễn ra. Có sự khác biệt lớn ở đây. Kỳ vọng là sự chuẩn bị tồi tệ trước thực tế. Đó là lý do vì sao anh từ bỏ những mộng tưởng của mình. Mộng tưởng không mang lại hiệu quả đặc biệt gì, cũng chẳng sinh ra chút lợi lộc nào, nhưng mộng tưởng lại dễ dàng hạ gục thực tế. Thực tế thì thật chó má. Mộng tưởng làm cho nghề thám tử tư trở thành một thứ nghề nghiệp hoành tráng. Thực tế thì tiếc thương cho nó. Anh nhắm nghiền mắt và cố hình dung lại giấc mơ đó, cái phần mà anh sẽ trở thành Sam Spade[1] của thập niên 90. Rồi tiếng dây cáp treo thang máy kêu xủng xoẻng vọng qua hành lang và Mitch biết rằng một vụ ly dị khác nữa sắp sửa tìm đến mình. Trước đây anh còn ảo tưởng chút ít về các mối quan hệ, anh ảo não nghĩ thầm, nhưng bây giờ thì tuyệt đối không. Ngay cả những kẻ chưa kết hôn cũng thuê anh điều tra xem liệu những người mà họ không kết hôn cùng có thành thật hay không. Và dĩ nhiên là những người đó không thành thật. Đó là một sự thật không thể thay đổi mà Mitch đã học được trong một năm qua, là điều duy nhất mà giờ đây anh nhận ra là mình có thể tin tưởng được. Tất cả mọi người đều nói dối. Hẳn là Sam Spade đã hiểu được phần này, nhưng anh ta sẽ phỉ nhổ vào các vụ ly dị. Mitch có một cảm giác không mấy dễ chịu là lẽ ra anh cũng nên phỉ nhổ vào công việc này thay vì dựa vào nó để sống tạm bợ. Quá là tạm bợ. Anh vẫn còn một tuần nữa trong năm, một tuần nữa để kiếm được những đồng cuối cùng trong món tiền hai mươi nghìn đô và thắng vụ cá cược ngớ ngẩn rồi quay lại với cuộc sống bình thường của mình, nhưng để làm được điều đó cần phải có một khách hàng sẵn sàng trả cho anh hai ngàn sáu trăm chín mươi bốn đô trước ngày thứ Sáu. Chuyện đó sẽ không xảy ra. Moi tiền từ phía khách hàng là điều kém ưa thích thứ hai mà anh đã học được từ cái nghề này. Vì vậy khi nghe thấy tiếng dây cáp treo thang máy kêu xủng xoẻng ở ngoài hành lang đối diện với cửa văn phòng, anh chẳng hề sốt sắng bật dậy. Không chỉ vì nhiệt độ tăng lên sẽ giết chết anh nếu anh cử động, mà còn vì lâu lắm rồi anh đã chẳng hăng hái làm bất cứ chuyện gì, và anh cũng quên mất không biết chuyện tỏ ra nhiệt tình kiểu đó diễn ra như thế nào. Nếu mình là Sam Spade, thì đây ắt phải là Brigid O’Shaughness[2]. Chiếc quạt trần cũ kỹ kêu kẽo kẹt trên đầu Mitch, ánh mặt trời vàng vọt phủ lên người anh, và thật ngạc nhiên, anh bắt đầu cảm thấy lạc quan trở lại. Có lẽ niềm hi vọng vẫn chưa tắt hết. Có lẽ đây là một vụ Brigid dành cho anh, một người phụ nữ không hứng thú gì với hôn nhân và ràng buộc, sẵn sàng quyến rũ anh để đạt được những gì cô ta muốn. Chắc như bắp là anh sẵn lòng để bị quyến rũ. Cô ta sẽ bước vào văn phòng, lạnh lùng, thon thả, duyên dáng và bốc lửa trong một bộ vest trắng cổ rộng và một chiếc váy bó xẻ dọc đến tận hông. Cô ta sẽ có đôi chân tuyệt hảo. Và có thể cô ta sẽ đội một chiếc mũ trên mái tóc xoăn đỏ rực, một chiếc mạng tối che đi đôi mắt xanh thăm thẳm và chiếc mũi thẳng nhỏ xinh bên trên đôi môi căng mọng, ẩm ướt. Và ở giữa đôi môi và đôi chân sẽ là phần đẹp đẽ nhất. Chiếc áo vest sẽ bó chặt lấy ngực cô ta. Bộ ngực tròn. Bộ ngực căng, tròn. Bộ ngực cao, căng, tròn. Mitch cố xua hình ảnh bộ ngực kia ra khỏi đầu. Thế rồi cô ta bước vào và nói: "Tôi cần anh tìm Chim ưng xứ Manta[3]." Giọng nói của cô ta hơi khàn và nhẹ nhàng. Và từ lúc nào đó cô ta sẽ bỏ mũ xuống, và họ sẽ có một cuộc mây mưa đầy đam mê, ướt át, trơn trượt và đẫm mồ hôi… Mitch nấn ná một lúc với màn mây mưa. …và rồi anh sẽ phát hiện ra từ đầu đến cuối cô ta là kẻ có tội. "Anh sẽ không chịu tội thay cho em đâu[4], bé cưng", anh sẽ nói thế, và họ sẽ giao nộp cô ta vì tội ám sát cộng sự của anh. Thôi được rồi, anh chẳng có cộng sự nào trừ phi anh tính đến Newton, và chẳng ai từng tính đến Newton cả, thế nhưng… Chả trách mà cuốn sách đó lại là một cuốn kinh điển. Sam Spade đã tóm được cô ả mà không cần phải ràng buộc bất cứ điều gì và vẫn cảm thấy rất tuyệt về bản thân khi đá cô ta. Đầu tiên là ăn nằm với nhau cho thoả thích, rồi sau đó anh ta bỏ rơi cô ả, tự do thảnh thơi như chim trời, như một người anh hùng thay vì một tên sở khanh. Nào nào, cũng phải có tí mơ mộng chứ. Rồi cửa phòng mở ra, anh nhìn lên và cô bước vào. Tóc cô màu nâu sẫm, giống như màu mắt phía sau mạng che mặt, bộ vest màu hồng chứ không phải màu trắng, nhưng tất cả những thứ còn lại khá giống với trong tưởng tượng. Chiếc mũi, đôi môi, bộ… "Mình sẽ bị đày xuống địa ngục mất." Với nỗ lực to lớn, Mitch dứt ánh mắt khỏi bộ ngực để nhìn lên mặt cô. "Chắc vậy." Chất giọng trầm trầm của cô dội thẳng vào sống lưng anh. "Anh là Mitchell Peatwick?" "Ừ, phải." Mitch vung chân xuống sàn và đứng dậy, quẹt lòng bàn tay đẫm mồ hôi lên áo trước khi chìa tay cho cô. "Mitch Peatwick, thám tử tư. Nghe này, cô đã bao giờ đọc cuốn Chim ưng xứ Manta chưa?" "Rồi." Cô phớt lờ tay anh trong khi quan sát căn phòng bẩn thỉu, môi trề ra dè bỉu khi nhìn thấy những vết rách trên đệm ghế bọc và lớp bụi bặm. "Có thật đây là văn phòng của anh không?" Đó là cách mà cái thế giới này vận hành đấy. Sự kỳ vọng lần nào cũng làm anh vấp ngã. Giá như chỉ cần im miệng lại, cô ta sẽ rất hoàn hảo, thế nhưng không. … Mời các bạn đón đọc Bất Cứ Điều Gì Em Muốn của tác giả Jennifer Crusie.
Lụa - Alessandro Baricco
Một chuyện tình làm tan nát cõi lòng được kể dưới hình thức ngụ ngôn cổ điển. Một tấn kịch gợi tình và đầy sống động, khắc họa những dục vọng sâu kín nhất của con người. Chuyện bắt đầu với Herve Joncour – một thương gia giàu có trong ngành tơ lụa nước Pháp. Năm 1861 cả thế giới phải hứng chịu một dịch bệnh đe dọa xóa sạch việc buôn bán lụa. Đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan, Herve quyết định vượt qua những châu lục xa xôi để đến Nhật Bản, nơi sẽ có thứ trứng tằm có thể nhả ra loại tơ tuyệt vời nhất trần gian. Chàng bắt đầu một cuộc hành trình dài, vượt qua những thung lũng, núi đồi xa xôi, băng qua sa mạc và những vùng băng tuyết khắc nghiệt. Một nơi được gọi là tận cùng thế giới, một bí ẩn của phương Đông với vô số huyền thoại. Đến Nhật Bản, Herve Joncour gặp một lãnh chúa tên Hara Kei. Người này đồng ý bán cho chàng một ngàn kén trứng để mang về. Nếu mọi chuyện có thể dừng lại ở đó thì đã thực đơn giản, Herve bị ái nữ của Hara Kei “bỏ bùa”. Đó là đôi mắt của một người phụ nữ phương Đông mà không hề phương Đông, một sự hấp dẫn đầy mê hoặc. “Uống nhầm một ánh mắt, cơn say theo nửa đời” quả không sai, cái nhìn ấy như một lời nguyền bám dính lấy chàng. Herve luôn đau đáu nhớ về Nhật Bản bất chấp đại dịch kia đã tìm được thuốc chữa.Chàng quyết tâm trở lại dù nơi ấy đang trong giai đoạn chính trị rối ren. Tình yêu giữa chàng và ái nữ kia đã vô tình chớm nở, như hai kẻ đồng điệu về tâm hồn. Chuyến đi mua trứng tằm đã thay đổi tất cả… Và chỉ khi mất đi những điều yêu thương nhất Herve mới nhận ra đâu là điều thực sự trân quý ở đời. Một nghịch lý không khó bắt gặp, khi ta mải mê đuổi theo một “dải lụa” mà vô tình quên đi mất đang có một “dải lụa” khác đẹp đẽ, mềm mại, hơn rất nhiều ngay cạnh bên. Với Lụa, tên tuổi Alessandro Baricco, nhà văn người Italy sinh tại Turin năm 1958 đã trở nên lừng lẫy trên văn đàn quốc tế. Xuất bản tại quê nhà năm 1996 và tại Pháp năm 1997, Lụa nhanh chóng trở thành một trong những tác phẩm bán chạy nhất châu Âu. Sau thành công vang dội trên khắp thế giới cuốn sách đã được chuyển thể thành phim vào năm 2007. *** 1. Dù người cha đã hình dung anh sẽ có một tương lai rực rỡ trong quân đội, Hervé Joncour cuối cùng lại kiếm sống bằng một nghề khác thường, cái nghề không phải xa lạ, như một sự trớ trêu kỳ cục, với các nét sắc sảo dễ thương của tướng mạo anh, để lộ ra một sự đổi giống nữ mơ hồ. Để sống, Hervé Joncour mua và bán tằm. Ta đang ở vào năm 1861. Flaubert viết tiểu thuyết Salammbo, đèn điện còn là một giả thuyết và Abraham Lincoln, bên kia bờ Đại Dương, đang tiến hành một cuộc chiến tranh mà ông sẽ không thấy hồi kết thúc. Hervé Joncour được ba mươi hai tuổi. Anh mua, và anh bán. Những con tằm. 2. Trong thực tế, Hervé Joncour mua và bán tằm khi tằm còn là trứng bé tí xíu, màu xám hay vàng, bất động và tưởng như chết. Chỉ cần một lòng bàn tay đủ nắm hàng ngàn trứng như thế. "Đó là điều ta gọi là nắm một tài sản trong tay". Vào những ngày đầu tháng năm, trứng nở ra con sâu tằm ăn lá dâu để lớn lên thành tằm, ăn suốt ba mươi ngày, ăn rào rào, ăn bỗ bã; tằm chín thì thu mình kéo kén, hai tuần sau thì thân tằm bị tách ra khỏi kén vĩnh viễn để lại đằng sau một di sản tương đương, nếu tính bằng sợi, một ngàn thuộc tơ sống, nếu tính bằng tiền, một số lượng to tát quan Pháp: với điều kiện là mọi sự được tiến hành theo đúng phép tắc, bài bản, và phải ở một vùng miền nam nước Pháp, như trường hợp của Hervé Joncour. Lavilledieu là tên cái thị trấn nơi Hervé Joncour sinh sống. Helène, tên người vợ anh. Họ không có con. 3. Những trận dịch bệnh càng ngày càng tàn phá ngành chăn tằm ở châu Âu. Để tránh những sự tác hại, Hervé Joncour phải đi mua trứng tằm bên kia bờ Địa Trung Hải, tận Syrie và Ai Cập. Đó là khía cạnh phiêu lưu đặc thù của nghề anh. Hằng năm vào những ngày đầu tháng giêng, anh lên đường. Anh băng qua một ngàn sáu trăm dặm trên biển và tám trăm cây số trên bờ. Anh ra tay chọn trứng, trả giá, thu mua. Rồi anh quay lưng, băng qua tám trăm cây số đường bộ và một ngàn sáu trăm dặm đường biển, về đến cái thị trấn nhỏ Lavilledieu thường vào ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư, thường kịp giờ dự lễ ca trong nhà thờ. Anh còn làm việc suốt hai tuần nữa cho trứng vào bao bì và đem bán. Thời gian còn lại trong năm, anh nghỉ ngơi. 4. - Và châu Phi nó ra sao? - người ta hỏi anh. - Mệt mỏi. Anh có một ngôi nhà lớn nằm ngoài thị trấn một chút và một xuồng nhỏ ở trung tâm, ngay trước mặt ngôi nhà bỏ hoang của ông Jean Berbek. Jean Berbek, một ngày đẹp trời nào đó bỗng nổi hứng quyết định từ nay về sau không mở miệng nói gì nữa. Ông giữ lời hứa. Vợ và hai đứa con gái bỏ ông ra đi. Ông chết. Nhà ông chẳng ai muốn mua và như thế bây giờ thành nhà hoang. Mua và bán tằm, nội việc này thôi cũng mang lại cho Hervé Joncour hàng năm một số lợi tức đủ bảo đảm cho anh và vợ một cuộc sống tiện nghi thoải mái mà ở tỉnh lẻ người ta dễ cho là sang trọng, xa hoa. Anh hưởng thụ của cải mình một cách kín đáo, và anh thấy mình hoàn toàn lạnh nhạt trước cái viễn tưởng không xa thực tế lắm là anh có thể trở nên thực sự giàu có. Ngoài ra, anh là một trong những người thích làm khán giả trước chính cuộc đời của mình, mọi tham vọng sống cuộc đời mình được xem là không thích đáng, là lạc lầm. Ta sẽ nhận ra là những người như thế lặng ngắm số mệnh mình cùng một cách như phần lớn những người khác lặng ngắm một ngày mưa. 5. Nếu được hỏi, có lẽ trả lời rằng cuộc đời anh sẽ tiếp tục như thế mãi mãi. Tuy nhiên, vào những năm đầu thập niên sáu mươi, trận dịch bệnh tằm gai, sau khi đã làm cho số trứng tằm nuôi ở châu Âu trở thành vô dụng, lan tràn sang bên kia biển, tận châu Phi và ngay sang cả Ấn Độ, theo lời một số người. Năm 1861, Hervé Joncour trở lại quê nhà sau chuyến đi xa thường lệ, mua về một số trứng mà hai tháng sau mới biết bị nhiễm bệnh gần hết. Đối với Lavilledieu cũng như các thành phố khác đã dựa trên nền sản xuất tơ lụa mà làm giàu, năm đó tưởng như báo hiệu sự bắt đầu cho sự suy sụp, tàn cuộc. Khoa học tỏ ra bất lực trong việc tìm hiểu những nguyên nhân gây dịch bệnh. Và khắp mặt đất, tận những vùng xa xôi hẻo lánh, tưởng như bị giam hãm, đày đọa bởi cái phù phép, tai ương không lời giải thích đó. - Không phải khắp mặt đất đâu - Baldabiou nói nhẹ nhàng - không khắp đâu, và rót một chút nước lạnh vào ly rượu anizét của mình. ... Mời các bạn đón đọc Lụa của tác giả Alessandro Baricco.