Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lý Thuyết Hộp Darvas

Lý thuyết hộp DARVAS

Một phương pháp phân tích kỹ thuật cũ nhưng rất hợp thời trong thời đại mới.

Từ vũ công nổi tiếng trên sàn nhảy trở thành một nhà đầu tư, một “vũ công” thực sự trên sàn chứng khoán.Trên thế giới có lẽ chỉ có một người là Nicolas Darvas.

Không coi đầu cơ là nghề mà lại trở thành nhà đầu cơ trứ danh, không từ sàn chứng khoán mà từ vũ trường viết nên luận thuyết đầu cơ riêng, không coi thế giới đầu cơ là sân chơi mà chỉ là nơi thử nghiệm kinh nghiệm thực tiễn từ một sân chơi khác, không bằng cao, học rộng về tài chính và tiền tệ mà vẫn được coi là thần tượng trong cư dân của thế giới đầu cơ. Nhà đầu cơ có một không hai này là Nicolas Darvas, với biệt danh cũng có một không hai là “Vũ công trên sàn chứng khoán”.

Sự tình cờ của số phận

Nicolas Darvas là người Hungari, sinh năm 1920, theo học kinh tế và xã hội học ở trường đại học tổng hợp Budapest trước khi chạy trốn phát xít Đức sang Thổ Nhĩ Kỳ năm 1943 và rồi di cư sang Mỹ năm 1951. Học hành vậy thôi nhưng đâu có được đến đầu đến đũa cho nên nghề nghiệp chính của Darvas là… vũ công, chỗ làm việc chính của Darvas là vũ trường. Trong thập kỷ 50 của thế kỷ trước, Nicolas Darvas là vũ công nổi tiếng nhất trên tất cả các vũ trường ở New York. Công việc ấy đem lại cho Darvas những đồng tiền đầu tiên. Nhưng nghề này không giúp Darvas trở nên giàu có. Khán giả hoan nghênh và ngợi ca vũ công Nicolas Darvas về tài nghệ của anh, nhưng cũng chỉ đến như vậy. Sự khâm phục và nể trọng, dấu ấn riêng và danh tiếng lưu truyền hậu thế lại được Darvas gây dựng từ sàn chứng khoán chứ không phải từ vũ trường. Và tất cả được bắt đầu bằng một sự tình cờ.

Năm 1952, chủ một vũ trường đêm ở thành phố Toronto (Canada) gợi ý trả thù lao cho Darvas không phải bằng tiền mà bằng cổ phiếu của một công ty xây dựng gần như không ai biết đến tên là Brilund. Darvas không chấp nhận kiểu trả thù lao này, nhưng để tỏ thiện chí với người chủ vũ trường nên đã mua lại số cổ phiếu với giá 3.000 USD và gần như quên lãng chúng. Một thời gian sau, khi tình cờ xem lại giá trị số cổ phiếu này, Darvas ngạc nhiên nhận thấy giá trị của chúng đã tăng gấp ba lần. Có thể may hơn khôn, có thể chỉ là một trường hợp ngoại lệ riêng lẻ, nhưng điều chắc chắn là Darvas đã có được nhận thức mới về kiếm tiền bằng đầu cơ chứng khoán: Nếu kiếm tiền bằng cách ấy dễ như vậy thì sao lại không làm?. Đầu cơ chỉ là nghề phụ, trình diễn vũ điệu vẫn là nghề chính, như vậy chỉ có lợi chứ không bị thiệt. Darvas đổ xô vào đầu cơ chứng khoán, nhưng thời gian đầu này càng hăng hái và liều lĩnh thì lại càng thua đậm. Bài học Darvas rút ra từ những thất bại này là, phải nghiên cứu quy luật biến động của giá chứng khoán, tìm ra mô hình giao động giá của chúng và những mối liên hệ tương tác trên sàn chứng khoán. Trong hồi ký của mình Darvas kể rằng, thời kỳ đó đã đọc hơn 200 cuốn sách về tài chính, tiền tệ và kinh doanh chứng khoán. Những nhận thức thu lượm được từ sách báo, nghiên cứu và phân tích biến động giá chứng khoán và bài học từ những sai lầm và thất bại của chính mình đã giúp Darvas chinh phục được thế giới đầu cơ và biến sàn chứng khoán thành vũ trường cho riêng mình. Trong vòng có 8 năm từ phi vụ đầu tiên năm 1952, Darvas đã kiếm được gần 2,5 triệu USD từ đầu cơ chứng khoán, nhưng thật sự chỉ trong 18 tháng cuối cùng.

Luận thuyết đầu cơ riêng

Nhiều người khác cũng đầu cơ thất bại không ít lần, cũng nghiền ngẫm sách báo về tài chính, tiền tệ và đầu cơ, nhưng không mấy ai lại thành công như Darvas. Lý do đơn giản là, Darvas đã phát hiện ra những quy luật mà người khác không phát hiện ra được. Mà Darvas phát hiện được ra chúng là nhờ kinh nghiệm thực tế trên vũ trường và những kinh nghiệm ấy chỉ riêng Darvas có được.

Darvas để ý thấy rằng trước khi tăng, giá cổ phiếu thường biến động lên xuống trong một hành lang nhất định giống như vũ công phải đi về góc sân khấu trước để lấy đà nhảy lên cao. Giới hạn dưới và trên của hành lang này được Darvas so sánh như cái hộp thủy tinh mà quả bóng cao su nhảy lên đập xuống trong đó. Vì thế, Darvas gọi luận thuyết của mình là “Luận thuyết cái hộp” (The Box Theory). Cứ sau một lần tăng thì giá chứng khoán lại lấy đà tăng lên cấp độ mới và như vậy các hộp thủy tinh cứ chồng lên nhau thành chiếc kim tự tháp. Một khi quả bóng vượt quá đáy của chiếc hộp trên cao nhất thì cũng là lúc Darvas bán chứng khoán đi vì nó báo hiệu giá chứng khoán sẽ bắt đầu giảm.

Nguồn: sachhaymienphi.com

Đọc Sách

Những phù thủy trên thương trường
Những phù thủy trên thương trườngGiới thiệu sáchMục lục:Phần I: Triển vọng linh doanhPhần II: Thị trường lớn nhất thế giớiPhần III: Thị trường kỳ hạn- một thị trường phức tạpPhần IV: Nhà quản trị và hoạch định đầu tư vốn.Phần V: Những tay chơi đa năng trên thị trường.Phần VI: Những cỗ máy làm ra tiềnPhần VII: Tâm lý học kinh doanhPhần VIII: Hồi chuông kết thúc
10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh
10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh10 điều răn về những thất bại trong kinh doanh” là một cuốn cẩm nang hết sức có giá trị cho mọi nhà lãnh đạo kinh doanh. Bản thân tác giả là một doanh nhân có tên tuổi, được rất nhiều người có uy tín khác xin ý kiến tư vấn.Rất nhiều diễn giả và người viết đã đưa ra các lời khuyên về việc làm sao để có được thành công trong kinh doanh. Những “chuyên gia” về thành công trong các lĩnh vực dường như hiện diện ở khắp mọi nơi, từ những huấn luyện viên bóng đá, các cựu CEO, đến những nhà tâm lý, người thuyết giảng… Tuy nhiên chẳng ai trong số họ có thể đưa ra bất cứ sự đảm bảo nào cho những lời tư vấn: nói cho cùng thì bí quyết thành công vẫn không thể được diễn tả bằng một kế hoạch cụ thể với các bước tiếp nhau được.Thất bại thì hoàn toàn không giống như thế. Thất bại là một cái gì đó… dễ dàng. Trên thực tế, có mười lỗi lầm ngớ ngẩn mà các doanh nghiệp và cá nhân liên tục lặp đi lặp lại, đến mức phải lập ra một danh sách để ghi nhớ suốt đời!Nếu bạn cũng muốn tránh vấp phải những sai lầm và cạm bẫy trên, những sai lầm và cạm bẫy có thể xảy ra với bất kỳ cá nhân và doanh nghiệp nào, thì đây chính là cuốn sách dành cho bạn.
Bí Quyết Đầu Tư Và Kinh Doanh Chứng Khoán Của Tỷ Phú Warren Buffett Và George Soros
Bí Quyết Đầu Tư Và Kinh Doanh Chứng Khoán Của Tỷ Phú Warren Buffett Và George SorosWarren Buffett Và George Soros đều khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng, và họ cùng làm nên những gia tài trị giá hàng chục tỷ đô la chỉ bằng một hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, sự nghiệp của hai người lại trái ngược và mâu thuẫn với nhau như mặt trăng mặt trời. Buffett dùng tiền mặt để mua những cổ phiếu và cả các doanh nghiệp được định giá thấp hơn đáng kể so với giá trị thực của chúng, rồi sở hữu chúng vĩnh viễn, còn Soros nổi tiếng nhờ những vụ mua bán khổng lồ và chớp nhoáng tại các thị trường tiền tệ.Những thói quen và chiến lược tinh thần mà cả Warren Buffett Và George Soros được hành dường như đang thách thức “những bộ óc thông minh” của Wall Street.– Cả Warren Buffett Và George Soros đều phản đối việc đa dạng hoá danh mục đầu tư.– Cả hai đều sẽ nói với bạn rằng việc dự đoán động thái tiếp theo của thị trường hay của nền kinh tế không đem lại thành công cho các vụ đầu tư.– Cả hai cũng không tập trung vào lợi nhuận mà họ sẽ thu được từ các vụ đầu tư, mà trên thực tế, động lực cao nhất của họ hoàn toàn không phải là tiền bạc.– Họ không tin rằng để có lợi nhuận lớn thì nhất thiết phải chấp nhận rủi ro lớn. Vì thế, họ dành sự quan tâm lớn hơn cho việc bảo tồn vốn.– Và họ không đọc tất cả những bài nghiên cứu, báo cáo… mà Wall Street công bố!Thành công tiềm ẩn trong những thói quen và chiến lược tinh thần của bạn – tác giả Mart Tier đã khẳng định như vậy trong cuốn sách có tính chất mở đường này. Thông qua việc xác định những thói quen đưa Warren Buffett và George Soros đến với sự thành công phi thường, Mark Tier lần đầu đã chứng minh rằng tất cả các nhà đầu tư thành công đều có những thói quen đó. Và bạn có thể học hỏi và rèn luyện những thói quen này thông qua cuốn sách kinh doanh này.
Hòn Tuyết Lăn - Tập 1,2
Hòn Tuyết LănGiờ đây, cái tên Warren Buffett không còn mấy xa lạ với mọi người ở khắp các châu lục, bởi vì con người này có một tầm ảnh hưởng vô cùng rộng lớn và luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất thế giới suốt hai thập kỷ vừa qua.Song, ít ai biết rằng, vị tỷ phú 80 tuổi đáng kính ấy, “nhà hiền triết vùng Omaha” của Hoa Kỳ thuở thiếu thời lại là một cậu học sinh thường bị điểm kém, từng bỏ nhà đi hoang, nhiều lần tham gia đánh cắp những món đồ thể thao từ cửa hiệu Sears, điều hành một lộ trình giao báo năm 13 tuổi, mua một trang trại 40 mẫu Anh vào năm học lớp 10, bị trường Harvard từ chối, có một cuộc tình “đầy sóng gió” với Hoa hậu Nebraska 1949 Vanita Mae Brown, từng là một “tín đồ” trung thành có thâm niên hàng chục năm của Pepsi trước khi chuyển sang uống Cherry Coke của Coca-cola từ năm 1987, kết thân và xem vợ chồng tỷ phú số 1 thế giới 2009 Bill Gates và Melinda Gates gần như con ruột nhưng không bao giờ đầu tư một đồng vào “đế chế” Microsoft hùng mạnh, cùng vô số những thương vụ đầy táo bạo mang đến cho ông những thành công tột bậc (và một vài thất bại “nho nhỏ”) dọc theo chiều dài sự nghiệp của ông… cho đến khi đọc The Snowball – Hòn Tuyết Lăn, quyển tự truyện về cuộc đời và sự nghiệp của Warren Buffett do Alice Shroeder chấp bút theo đề nghị của chính ông.Đó là mùa đông thứ chín trong cuộc đời của Warren. Cậu đang nghịch tuyết ngoài sân cùng Bertie, cô em gái nhỏ của mình.Warren đưa tay đón từng bông tuyết trắng tinh đang rơi xuống từ trên tận trời cao rồi đặt vào lòng bàn tay kia cho đến khi cậu có một nắm bông tuyết đầy ắp. Cậu ém chặt và vo nó lại thành một viên bi rồi đặt xuống đất. Viên bi bắt đầu lăn chầm chậm sau mỗi cú hích của cậu và ngày càng to ra vì tích thêm nhiều tuyết trên đường lăn của nó. Cậu lăn nó xuyên qua thảm cỏ nhà mình, lúc này đã phủ tuyết trắng xóa, chẳng mấy chốc cậu đã chạm đến mí vườn. Một thoáng ngập ngừng, cậu quyết định tiến lên và lăn viên bi sang thảm cỏ của những nhà kế cận.Và kể từ đó, Warren tiếp tục lăn quả bóng tuyết của mình đi khắp trên thế giới…Bắt chéo hai chân nơi đầu gối, Warren Buffett đong đưa trên chiếc ghế lắc lư sau chiếc bàn gỗ trơn láng mà cha ông, Howard Buffett, vẫn thường ngồi trước đây. Chiếc áo vét-tông đắt tiền nhãn hiệu Zegna choàng qua vai ông như vừa lấy xuống khỏi giá treo mặc vào mà không thử lại số đo. Ông thích vận chiếc áo đó suốt ngày từ sáng đến tối bất kể mười lăm nhân viên đang làm việc bên cạnh ông tại trụ sở chính của Bershire Hathaway ăn mặc tềnh toàng hay trịnh trọng đến mức nào. Chiếc áo sơ-mi bên trong, luôn là màu trắng, có cổ hơi nhỏ làm cho chiếc cà-vạt trông như muốn bung ra khỏi cổ áo ông. Hình ảnh này cho thấy vị doanh nhân đã qua rồi thời trai trẻ, dường như ông đã quên lấy lại số đo mới trong suốt bốn mươi năm qua.Hai tay ông đan vào nhau rồi luồn bên dưới mái tóc bạc óng ánh và đỡ lấy đầu từ phía sau. Một vạt tóc khá dày nhưng rối, có lẽ được ông chải bằng chiếc “lược-năm-răng”, nổi bồng bềnh trên mái tóc như một gờ dốc lớn trong môn nhảy tuyết tốc độ cao (ski jump), được vén lên trên và tràn xuống chạm vành tai phải. Hàng lông mày rậm bên phải chạy dài miên man về hướng vành tai phải như muốn “giao lưu” với cái đuôi của vạt tóc đặc biệt đang phủ lấy bên dưới nó một gọng kính đồi mồi. Hàng lông mày này trông lúc thì hoài nghi, lúc hiểu biết, nhưng cũng có lúc như để che giấu một điều gì đó. Ngay lúc này đây, trên gương mặt ông là một nụ cười hiền lành tinh tế càng làm cho hàng lông mày bướng bỉnh bỗng trở nên quyến rũ một cách kỳ lạ. Tuy nhiên, đôi mắt màu xanh nhạt của ông lúc này cho thấy ông đang rất tập trung và rất nhiệt thành.Quanh ông là những biểu tượng và vật lưu niệm của 50 năm qua. Bên ngoài sảnh trước phòng làm việc của ông là những tấm ảnh lớn chụp đội bóng Cornhuskers của Nebraska, quê hương ông, một tấm chi phiếu tiền thù lao ông được nhận khi tham gia một chương trình truyền hình nhiều tập, một thư đề nghị (nhưng không bao giờ được chấp thuận) đầu tư vào một hedge fund[1] tên là Long-Term Capital Management và rất nhiều hình ảnh về những sự kiện đáng nhớ của Coca-Cola. Trên bàn nước trong phòng làm việc của ông là một chai Coca-Cola truyền thống. Một chiếc găng bóng chày được đổ trong một khối lớp thủy tinh acrylic sáng loáng. Phía trên ghế sofa là một tấm giấy chứng nhận hoàn thành khóa huấn luyện Nói trước Công chúng của Dale Carnegie vào tháng Giêng năm 1952. Tấm ảnh thời ông làm nhà đào tạo huấn viên của Tập đoàn Tài chính Ngân hàng Wells Fargo được chưng trên đỉnh kệ sách. Một Giải thưởng Pulitzer 1973 dành cho tờ the Sun Newspaper of Omaha mà ông có phần sở hữu. Khắp gian phòng là sách và các loại báo chí. Ảnh gia đình và bạn bè ông phủ đầy các mặt bàn lớn nhỏ và bên hông phía sau bàn làm việc của ông là một chiếc máy vi tính. Đập vào mắt của mọi vị khách đến thăm là bức chân dung cha ông được treo trang trọng trên bức tường ngay sau bàn làm việc của ông.