Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khởi Nghiệp Tinh Gọn

Cuốn sách "Khởi nghiệp Tinh gọn" (The Lean Startup) trình bày một mô hình khởi nghiệp vang danh toàn cầu, giúp thay đổi toàn bộ cách thức xây dựng công ty và tung ra sản phẩm mới trên thị trường. “Khởi nghiệp” - hai tiếng đơn giản đó có sức hút mạnh mẽ với bất kỳ ai, không chỉ đối với những người đang ấp ủ một dự án kinh doanh, mà ngay cả những ông chủ đang muốn tìm kiếm một sản phẩm hay một ý tưởng mới để “tái khởi nghiệp”, nói cách khác là tái tạo lại mô hình kinh doanh của mình. Tuy nhiên, từ ý tưởng đến thành công là điều không dễ! Nhiều dự án khởi nghiệp thất bại không phải vì ý tưởng không tốt, chiến lược kém hay tầm nhìn sai, mà cốt lõi của mọi vấn đề nằm ở chỗ chúng ta không có được một mô hình và phương pháp để khởi nghiệp thành công. Vì khởi nghiệp không giống với thành lập và điều hành một công ty theo dạng truyền thống, nên nó cần một mô hình và phương pháp quản trị riêng. Trong quản trị kinh doanh, việc khởi tạo một doanh nghiệp mới hay tái tạo một mô hình kinh doanh cũ luôn có những bài học mà nếu không trả giá thì không thể học được, thậm chí là phải trả giá nhiều lần, trả giá đắt, rất đắt thì mới có thể học được. Tuy nhiên, cũng có những bài học mà không cần phải trả giá vẫn có thể học được. Vậy tại sao không học để bớt phải trả giá? Những bài học đắt giá đó nằm trong cuốn sách đặc biệt này. “Khởi nghiệp Tinh gọn” không chỉ cung cấp những kiến thức nền tảng về phương pháp đã được áp dụng bởi rất nhiều tên tuổi lẫy lừng trong lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo này; mà còn trang bị những phương pháp giúp tăng khả năng thành công, đồng thời cũng giảm thiểu tối đa rủi ro trên hành trình khởi nghiệp hoặc phát triển sản phẩm mới, tái tạo doanh nghiệp của các doanh nhân. Đặc biệt, cách tư duy và những phương pháp trong cuốn sách này không chỉ áp dụng cho những siêu tập đoàn toàn cầu, mà còn áp dụng rất phù hợp cho những doanh nghiệp nhỏ, hay siêu nhỏ. Dù ở quy mô nào hay đang ở đâu trên hành trình kinh doanh, đã đến lúc chúng ta cần phải tư duy một cách TINH GỌN! *** TÓM TẮT Khởi nghiệp tinh gọn (2011) giúp những nhà khởi nghiệp và các công ty công nghệ phát triển những mô hình kinh doanh bền vững. Cuốn sách khích lệ việc nhanh chóng đưa ra các mẫu sản phẩm mới, và chú tâm vào các dữ liệu phản hồi từ khách hàng. Phương pháp được dựa trên các khái niệm về sản xuất tinh gọn và phát triển linh hoạt, và hiệu quả của nó được minh chứng qua phân tích các tình huống trong vài thập kỷ gần đây. NHỮNG AI NÊN ĐỌC NHỮNG “CÁI CHỚP MẮT” NÀY? Bất kỳ ai quan tâm đến khởi nghiệp và/hoặc đang khởi sự một công ty riêng Bất kỳ ai hứng thú với việc phát triển sản phẩm một cách nhanh chóng, và kiểm thử Những người sáng lập, quản lý và nhân viên các công ty công nghệ VỀ TÁC GIẢ CUỐN SÁCH Eric Ries là một nhà khởi nghiệp thành đạt – đồng sáng lập IMVU, một mạng xã hội sử dụng những hình đại diện 3D. Hiện nay, ông là một diễn giả và một nhà tư vấn được mọi người săn đón. CÁCH QUẢN TRỊ CÁC START-UP CẦN PHẢI RẤT KHÁC SO VỚI CÁC CÔNG TY LÂU ĐỜI. Trong 3 đoạn “chớp mắt” đầu tiên, bạn sẽ khám phát ra điều gì mới là mục đích chính các start-up nên theo đuổi. Phương pháp quản trị truyền thống bao gồm hai thành phần: phát triển các kế hoạch và giám sát những người thực thi chúng. Một nhà quản trị tạo ra một kế hoạch, thiết lập các cột mốc, giao phó công việc cho các nhân viên, hướng dẫn họ để đảm bảo hoàn thành các cột mốc kịp thời. Chiến lược quản trị này sẽ hiệu quả trong những công ty lâu năm đến mức họ hiểu rõ phương pháp nào đã có tác dụng trong quá khứ và suy ra cái nào sẽ có tác dụng ở tương lai. Khởi nghiệp thì khác: Họ không thể dự đoán được tương lai bởi họ không có quá khứ, không biết khách hàng muốn gì, và không biết cách tiếp cận nào là tốt nhất để tìm kiếm khách hàng hay xây dựng việc kinh doanh bền vững. Để tìm ra điều gì có thể có tác dụng, họ phải duy trì tính linh hoạt. Việc theo đuổi những kế hoạch với các cột mốc định sẵn hoặc phụ thuộc vào các dự đoán thị trường trong dài hạn là hành động tự lừa gạt mình. Dẫu sao, nhiều nhà sáng lập vẫn sử dụng những công cụ quãn trị hãng/công ty như là “các kế hoạch cột mốc” hay “dự đoán thị trường dài hạn”. Họ hành xử như thể đang chuẩn bị phóng tên lửa, mày mò với nó trong nhiều năm ròng và chỉ “phóng” tại thời điểm mà họ nghĩ là hoàn hảo.Thực tế, quản trị một start-up giống với việc lái một chiếc xe jeep băng qua địa hình mấp mô không bằng phẳng hơn, nơi các nhà sáng lập phải liên tục đổi hướng và khẩn trương phản ứng với các rào cản và ngõ cụt ngoài mong đợi. Tuy nhiên, các nhà khởi nghiệp cũng không nên từ bỏ hoàn toàn việc lập kế hoạch để mang một tâm thế “cứ làm đi” hỗn độn. Việc đấy sẽ chẳng đưa bạn đến đâu cả; ai đó phải điều khiển bánh lái để đưa ra các quyết định khôn ngoan về con đường nào phải đi. Một đội quản trị khởi nghiệp nên cố gắng duy trì một cái nhìn toàn cảnh về tình huống của họ và giữ cho công ty tiếp tục nhấn ga về mục đích chung. Nên, họ cần tìm các thông số đúng đắn để đo đếm xem hành trình của họ có đang dẫn họ đi đúng hướng. Cách quản trị các start-up cần phải rất khác so với các công ty lâu đời. MỤC ĐÍCH CỦA MỘT START-UP LÀ TÌM RA MỘT MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG. Mục tiêu chính của bất kỳ start-up nào là tìm ra một mô hình kinh doanh mang lại lợi nhuận và bền vững. Kế hoạch cột mốc tinh tế và chi tiết nhất, công tác thực thi các kế hoạch đó sao cho hiệu quả nhất, hay thậm chí, sự quan tâm tuyệt đối của báo chí chẳng có chút ích lợi gì nếu họ không có mô hình kinh doanh bền vững đó. Nếu bạn muốn công ty bạn không chỉ là một dự án cưng tạm thời, mà trước sau gì cũng dặt dẹo và chết đi, bạn phải tìm cách để chiếm được khách hàng và kiếm tiền bằng cách phục vụ họ. Giả dụ bạn muốn kinh doanh quanh bằng nghề hướng dẫn đan váy Scotland qua mạng: Hãy tự hỏi, có ai muốn những hướng dẫn này không? Có cách nào kiếm tiền từ họ không? Nếu câu trả lời trong cả hai trường hợp là không, hãy đi tìm việc khác, việc mà người ta muốn và sẵn lòng trả tiền. Do đó, mục đích đầu tiên và duy nhất cho khởi nghiệp của bạn là tìm mô hình kinh doanh bền vững,thứ sẽ có ích hôm nay và cũng hiệu quả kể cả trong tương lai. Trong thực tế, điều này nghĩa là bạn phải tìm ra sản phẩm nào khách hàng tiềm năng muốn và bằng cách nào chuyển đổi nhu cầu đó thành doanh thu liên tục. Trách nhiệm chính của ban quản trị start-up nên tập trung vào toàn thể công ty, bao gồm mọi thứ đang được thực thi mỗi ngày, để vươn tới mục đích duy nhất này. Start-up càng nhanh tìm ra mô hình kinh doanh bền vững, họ càng tiến gần hơn tới thành công. Mục đích của một start-up là tìm ra một mô hình kinh doanh bền vững. TÌM MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG CỦA BẠN BẰNG CÁCH HỌC TẬP QUA KIỂM CHỨNG. Để tìm được một mô hình kinh doanh bền vững, các nhà khởi nghiệp cần phải khám phá khách hàng của họ muốn gì và làm sao kiếm được tiền từ đó. Họ phải tìm đúng sản phẩm cho đúng người và tìm hiểu cách bán hàng phù hợp. Điều này không có nghĩa cần đưa ra một kế hoạch tuyệt vời ngay từ khởi đầu. Đúng hơn, nó đòi hỏi một quá trình học tập không ngừng: phương pháp học tập qua kiểm chứng lý tưởng, nghĩa là học tập thông qua cách tiếp cận khoa học. Để bắt đầu quá trình học tập qua kiểm chứng, bạn phải đưa ra các giả thuyết về việc có thể nào và bằng cách nào một sản phẩm nhất định sẽ thành công trong thị trường đã cho. Ví dụ, “Khách hàng Mỹ sẽ sẵn lòng mua giày qua mạng.” Những giả thuyết ban đầu này cần được kiểm thử,  và chỉ khi nó được chứng nghiệm qua việc đối thoại với khách hàng thì start-up mới biết rằng nó có đi đúng hướng trong việc tìm ra mô hình kinh doanh bền vững hay không. Tuy nhiên, cũng đừng sử dụng các bảng hỏi hay khách hàng hư cấu; thay vào đó, hãy nói chuyện với khách hàng thực sự trong một môi trường thực tế. Cách đáng tin cậy nhất để biết người ta có mua sản phẩm của bạn không là đề nghị họ sử dụng nó và quan sát phản hồi của họ. Hãy xem câu chuyện thành công của Zappos: Khởi đầu với một giả thuyết rằng người ta sẽ muốn mua giày qua mạng. Để kiểm thử ý tưởng này, công ty chụp những bức ảnh giày trong của hàng và trưng bày chúng trên một của hàng web giả mạo. Khi người ta thực sự đã cố mua giày qua mạng, Zappos coi giả thuyết của họ đã được chứng nghiệm. Qua cách tiếp cận này, nền tảng đã được phơi bày cho một trong những mô hình kinh doanh thành công nhất thập kỷ qua. Tìm mô hình kinh doanh bền vững của bạn bằng cách học tập qua kiểm chứng. NHỮNG GIẢ ĐỊNH “CÚ NHẢY NIỀM TIN”: HÃY KIỂM THỬ CÁC GIẢ THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ VÀ TĂNG TRƯỞNG. Một phần của việc phát triển sản phẩm là “cú nhảy niềm tin”: Một nhà sáng lập tin vào sự thành công trong tương lai của sản phẩm mà cô muốn tạo ra, dù chưa có bằng chứng nào cả. Để nhanh chóng xoá bỏ khoảng cách giữa “tin” và “biết”, mỗi nhà sáng lập nên công thức hóa và kiểm thử hai giả định cơ bản: Giả thuyết về giá trị giả định rằng một sản phẩm sẽ mang đến giá trị cho khách hàng của nó – có nghĩa là – những người sớm chấp nhận sẽ đi lùng mua và sử dụng sản phẩm Giả thuyết về tăng trưởng chỉ ra rằng sản phẩm sẽ không chỉ hấp dẫn một nhóm đối tượng nhỏ sớm chấp nhận, mà nó sẽ sớm tìm ra một thị trường lớn hơn. Cả hai giả định trên đều cần được kiểm thử càng sớm càng tốt. Chỉ khi chúng được chứng nghiệm thì sản phẩm mới đáng giá để đầu tư thời gian và nỗ lực. Hãy nhìn vào Facebook: Họ đã thành công trong việc chứng nghiệm cả hai giả thuyết giá trị và tăng trưởng từ những bước đầu tiên khi mạng xã hội chỉ được một vài người sử dụng. Ban đầu, những người dùng đã đăng ký tỏ ra rất năng động trên mạng. Hơn một nửa đã đăng nhập ít nhất một lần mỗi ngày – bằng chứng ấn tượng cho giả thuyết giá trị. Thứ hai, Facebook có một tỉ lệ người dùng kích hoạt đáng kinh ngạc, nghĩa là nó xâm nhâp thị trường rất nhanh chóng. Tại những trường đại học nơi Facebook được giới thiệu, ba phần tư số sinh viên đăng ký chỉ trong vòng một tháng – mà công ty chẳng cần tiêu một đồng nào cho marketing. Bởi thế, giả thuyết tăng trưởng cũng đồng thời được chứng minh. Những con số ấn tượng đó đã thuyết phục các nhà đầu tư tin vào thành công trong tương lai của mạng xã hội mới mẻ này, khiến họ không ngần ngại đầu tư hàng triệu đô ngay từ giai đoạn đầu. Những giả định “cú nhảy niềm tin”: hãy kiểm thử các giả thuyết về giá trị và tăng trưởng HÃY PHÁT TRIỂN MỘT SẢN PHẨM KHẢ DỤNG TỐI THIỂU ĐỂ KIỂM THỬ Nhiều nhà sáng lập tập trung quá nhiều thời gian vào bản thân sản phẩm, trong khi không hề biết liệu có khách hàng nào thật sự sử dụng sản phẩm đó. Nếu bạn muốn tạo dựng công việc kinh doanh bền vững, bạn phải tìm hiểu xem khách hàng có nhu cầu về sản phẩm của bạn không, càng sớm càng tốt. Cách nhanh chóng và dễ dàng nhất để nhận được phản hồi chân thực về ý tưởng của bạn là tạo ra một phiên bản tối giản của sản phẩm. Sản phẩm khả dụng tối thiểu (minimal viable product – MVP)này nên đơn giản hết mức có thể, và chỉ chứa những gì cần thiết để cung cấp cho khách hàng trải nghiệm thực tế về cách mà sản phẩm hoạt động – vừa đủ để thu được phản hồi từ họ. MVP có thể là một mẫu thử nghiệm hết sức cơ bản của sản phẩm, hoặc thậm chí là kiểm thử nhu cầu: vờ như rao bán một sản phẩm giả mạo. Đăng ảnh giày lên một trang web bán hàng, dù bạn chưa có đôi nào để bán, là một ví dụ điển hình. Hãy xem những người sáng lập Dropbox. Họ biết rằng việc phát triển từ ý tưởng thành sản phẩm sẽ tiêu tốn rất nhiều thời gian, vì thế, để kiểm chứng giả thuyết rằng mọi người đang có nhu cầu về một dịch vụ đồng bộ hoá dữ liệu mới mẻ và thân thiện với người dùng, họ chọn một cách đơn giản và sáng tạo: dựng một đoạn video trình bày ý tưởng. Các nhà sáng lập giả định rằng thị trường đang có nhu cầu, và họ đã đúng: trong vòng một đêm, 75,000 người đã đăng ký vào danh sách chờ, và nhóm Dropbox kết luận rằng họ đã đi đúng hướng. Như vậy, họ có thể tự tin bắt đầu phát triển sản phẩm chính thức. Tương tự, trước hết mỗi start-up nên tìm hiểu xem thị trường có thực sự có nhu cầu về sản phẩm của mình hay không, trước khi bắt đầu xây dựng nó. Phát triển sản phẩm khả dụng tối thiểu để kiểm thử ý tưởng của bạn trên thị trường. HÃY XÂY DỰNG, ĐÁNH GIÁ, HỌC HỎI – CÀNG NHANH CHÓNG VÀ THƯỜNG XUYÊN CÀNG TỐT. Trong việc tìm kiếm một mô hình kinh doanh bền vững, ưu tiên cao nhất là học hỏi: mỗi start-up phải học được nên xây dựng sản phẩm nào và làm sao để kiếm tiền từ chúng. Việc này không thể thực hiện nếu bạn tách rời thực tế. Bạn cần phải lộ diện, trưng bày sản phẩm cho khách hàng, nhận phản hồi của họ và học tập từ đó. Để tạo điều kiện cho quá trình trên, hãy thiết lập cái gọi là vòng BML. BML là chu trình xây dựng-đánh giá-học hỏi (build-measure-learn): Trước tiên, bạn xây dựng một phiên bản đơn giản của sản phẩm, như mẫu thử nghiệm hoặc thử nghiệm nhu cầu. Thứ hai, bạn đưa sản phẩm này ra thị trường thực tế và thu về phản hồi khách hàng. Bằng cách thu thập dữ liệu định lượng từ thí nghiệm này, bạn đánh giá mức độ ưa thích với sản phẩm; chẳng hạn, có bao nhiêu người bấm vào nút mua hàng và cố gắng mua giày từ trang web giả của bạn. Khi đánh giá, hãy chắc chắn bạn không chỉ nhìn vào dữ liệu mà còn nói chuyện với khách hàng. Nếu muốn hiểu được dữ liệu, bạn cũng nên tìm hiểu về ấn tượng cá nhân và ý kiến của khách hàng. Những gì bạn học được sau một chu trình sau đó nên được sử dụng để lên ý tưởng và xây dựng một sản phẩm mới, được tối ưu hoá, là thứ đưa bạn tới chu trình BML tiếp theo. Sau đó quá trình này được lặp đi lặp lại tới khi bạn tìm được mô hình kinh doanh bền vững. Điều quan trọng ở đây là tốc độ. Mỗi vòng BML giúp bạn cải thiện sản phẩm và cung cấp cho bạn những hiểu biết quý giá về những gì khách hàng mong muốn. Càng trải qua nhiều vòng, càng nhiều khả năng bạn sẽ tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững của mình. Xây dựng, đánh giá, học hỏi – càng nhanh và thường xuyên càng tốt. SỬ DỤNG KIỂM THỬ PHÂN CHIA ĐỂ TỐI ƯU HOÁ SẢN PHẨM. Khi phát triển và cải thiện một sản phẩm, các start-up cần phân biệt giữa giá trị và phế phẩm: họ phải tìm ra những tính năng nào có giá trị và những tính năng nào không, đối với người dùng. Các tính năng giá trị là những đặc điểm giúp doanh nghiệp thu hút thêm khách hàng hoặc giúp tăng doanh thu. Tính năng nào không thực hiện được cả hai điều trên đều là thừa thãi – cho dù nhà sáng lập hay kỹ sư tin rằng chúng là những thứ tuyệt vời hơn bao giờ hết. Một cách thông minh để phân biệt giữa giá trị và phế phẩm là kiểm thử phân chia. Mỗi khi bạn cân nhắc thêm vào một tính năng mới hoặc thay đổi cái cũ, hãy tạo ra hai phiên bản: một chứa tính năng mới, còn cái kia thì không. Bằng cách kiểm thử cả hai phiên bản, bạn sẽ sớm thấy bản nào được khách hàng ưa thích hơn. Các công ty đầu tiên sử dụng kỹ thuật này là các doanh nghiệp bán hàng qua thư. Ví dụ, để tìm hiểu xem bố cục catalogue mới có giúp tăng lượng đơn đặt hàng hay không, họ in ra hai phiên bản: 50% khách hàng nhận bản cũ và 50% nhận bản mới. Ngoài bố cục, tất cả các đặc điểm khác của hai catalogue đều như nhau, và khách hàng được chia nhóm ngẫu nhiên, vì vậy công ty chỉ cần so sánh lượng đặt hàng giữa hai nhóm. Những dữ liệu này trả lời cho câu hỏi rằng liệu thiết kế mới có hữu ích không. Trên tinh thần đó, mọi start-up có thể kiểm thử tất cả các thay đổi tiềm năng trước khi thực sự thực hiện nó. Muốn biết trang web của bạn hoạt động tốt hơn trong màu đỏ hay màu xanh? Tại sao không tạo ra cả hai phiên bản thử nghiệm và theo dõi mức độ truy cập của khách hàng trong vài ngày? Bất kỳ thay đổi nào bạn muốn thực hiện đều nên được kiểm thử bằng phương pháp ít nhiều có tính khoa học này trước khi áp dụng lên sản phẩm. Sử dụng kiểm thử phân chia để tối ưu hoá sản phẩm. ĐỂ TÌM RA MÔ HÌNH KINH DOANH ĐÚNG ĐẮN CHO DOANH NGHIỆP, BẠN THƯỜNG PHẢI CHUYỂN HƯỚNG. Nhiều start-up tin vào huyền thoại phổ biến rằng chìa khoá dẫn tới một doanh nghiệp thành công là sự kiên trì và ý chí sắt đá: người sáng lập anh hùng nảy ra một ý tưởng tuyệt vời, chiến đấu qua rất nhiều thất bại cho đến khi ý tưởng rốt cục trở thành một cú hit. Nhưng cách nghĩ này đẩy phần lớn start-up vào chỗ gọi là nơi xác chết biết đi. Như những con zombie không não, họ không nhận thức được một điều gì và sẽ tiếp tục làm việc cật lực để bán một sản phẩm mà thị trường không cần. Để tránh điều này, bạn nên liên tục tự hỏi mình cần thay đổi sản phẩm ra sao để nâng cấp nó và tìm được thị trường. Bên cạnh đó, bạn nên xem xét một cách định kỳ rằng có cần một sự chuyển hướng – một thay đổi căn bản. Sự chuyển hướng có thể dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như: định nghĩa lại giá trị cốt lõi của sản phẩm; theo đuổi phân khúc khách hàng khác; hay đổi kênh bán hàng chính. Đặc điểm chính của sự chuyển hướng là những giả định cốt lõi dẫn đến khởi nghiệp đã thay đổi, vì vậy cần phải thử nghiệm các giả thuyết mới. Quyết định chuyển hướng có thể là một việc khó khăn, và bởi thế các start-up thường né tránh hoặc trì hoãn đưa ra quyết định này. Đó là lý do việc tổ chức họp chuyển hướng mỗi tháng một lần có thể có ích. Trong những cuộc họp này, bạn quan sát các dữ liệu đã thu được một cách trung thực, và tự hỏi mình có phải một con zombie đang cần chuyển hướng. Nhiều start-up đã phải chuyển hướng vài lần trước khi đạt được thành công. Hãy nhìn Groupon: khởi đầu là nền tảng cho các hoạt động tuyên truyền và gây quỹ, rồi sau đó mới chuyển thành nền tảng daily deal nổi tiếng ngày nay. Để tìm ra mô hình kinh doanh đúng đắn cho doanh nghiệp, bạn thường phải chuyển hướng. MỌI START-UP TRƯỚC HẾT NÊN TẬP TRUNG VÀO MỘT ĐỘNG CƠ TĂNG TRƯỞNG. Một phần cơ bản của bất kỳ mô hình kinh doanh nào là động cơ tăng trưởng đảm bảo cho công ty không bị trì trệ. Có ba loại động cơ tăng trưởng khác nhau: Động cơ gắn kết hoạt động bằng cách giữ chân khách hàng hiện tại, những người đã tạo ra dòng doanh thu liên tục. Trọng tâm không phải là quảng bá để thu hút khách hàng mới, mà là khiến khách hàng hiện tại sử dụng sản phẩm nhiều hơn bằng cách ra mắt tính năng mới hoặc nâng cấp dịch vụ. Động cơ lan truyền hoạt động bằng cách khiến các khách hàng hiện có đảm nhiệm việc tiếp thị cho công ty. Khách hàng mục tiêu biết về sản phẩm thông qua truyền miệng. Điều này có thể giúp bạn tiết kiệm rất nhiều chi phí quảng cáo, vì vậy bạn nên làm sao để khách hàng càng dễ tham gia vào hoạt động viral marketing này càng tốt. Một ví dụ nổi tiếng về động cơ tăng trưởng lan truyền là chữ ký email tự động của Hotmail: “Tái bút: Nhận thư điện tử của bạn miễn phí tại Hotmail.” Cuối cùng, động cơ trả phí hoạt động nhờ đầu tư vào tiếp thị, chẳng hạn qua quảng cáo online có trả phí. Tất nhiên, nó chỉ bền vững khi doanh thu từ khách hàng hiện tại đủ để đảm bảo rằng chi phí cho mỗi khách hàng mới thu hút được nhỏ hơn giá trị khách hàng trọn đời. Nói chung, bạn có thể sử dụng cả ba động cơ tăng trưởng này cùng một lúc, nhưng ban đầu thì tập trung vào một động cơ để khiến nó tăng tốc nhanh hết mức có thể thường là việc làm khôn ngoan. Chú trọng vào một động cơ tăng trưởng cũng giúp đánh giá mức độ thành công của tính năng mới dễ dàng hơn: nếu động cơ tăng tốc nhanh, các tính năng đó là hữu dụng; nếu không, chúng nên được bỏ đi. Mọi start-up trước hết nên tập trung vào một động cơ tăng trưởng. SỐ LIỆU ẢO THƯỜNG TÂNG BỐC NHƯNG GÂY HIỂU LẦM – CHÚNG KHÔNG GIÚP BẠN TÌM THẤY MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG. Không start-up nào có thể tìm ra mô hình kinh doanh hiệu quả mà không cần thỉnh thoảng dừng lại để định hướng, và các định hướng này xuất phát từ việc xem xét các số liệu đúng đắn. Để đánh giá liệu bạn đã tiến thêm được chút nào tới mục tiêu dài hạn hay chưa, bạn cần phải kiểm tra các dữ liệu đã thu thập được trên đường. Thật không may, nhiều start-up đầu hàng trước sự cám dỗ của việc sử dụng số liệu ảo: những số liệu tâng bốc nhưng vô dụng, thậm chí có hại. Chúng khiến một doanh nghiệp trông có vẻ thành công nhưng không đưa nó đến gần hơn với các mục tiêu. Các start-up dựa trên số liệu ảo nhìn vào công việc kinh doanh như một tấm gương lung linh, khiến họ khó đối mặt với những khó khăn thực tế và khắc phục chúng. Ví dụ, được truyền thông chú ý và có nhiều Facebook fan có thể là chuyện tốt, nhưng đừng bao giờ nhầm lẫn đó là thành công. Những việc đó không giúp bạn chi trả các khoản phí, và bạn không nên tốn công tác động vào những số liệu vô nghĩa như vậy. Một số liệu ảo khác có thể là số giờ làm việc bạn đã đầu tư vào sản phẩm, hay những cột mốc đã đạt được. Chúng có thể liên quan (nhưng không nhất thiết) đến thành công của bạn. Vì vậy, đừng bao giờ đặt mục tiêu tối đa hoá chúng. Cho dù ai đó làm việc 100 giờ một tuần, vẫn có khả năng số giờ lao động ấy đã bị lãng phí vào việc gì đó hoàn toàn vô giá trị khi nhìn từ góc độ dài hạn. Để thành công, bạn phải tìm một mô hình kinh doanh bền vững và mở rộng nền tảng khách hàng sử dụng sản phẩm của bạn –  và bạn không thể làm được việc nào nếu cứ chăm chăm vào những số liệu sai lệch. Số liệu ảo thường tâng bốc nhưng gây hiểu lầm – chúng không giúp bạn tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững. MỌI START-UP PHẢI XÁC ĐỊNH ĐƯỢC NHỮNG SỐ LIỆU CỐT LÕI VÀ PHÂN TÍCH CHÚNG ĐÚNG CÁCH. Xác định đúng số liệu để theo dõi và liên tục đánh giá chúng là điều cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ start-up nào. Quan sát được số liệu thay đổi theon hướng tích cực, chỉ qua đó bạn mới có thể chắc rằng mình đang tiến dần tới mục tiêu dài hạn là tìm kiếm mô hình kinh doanh bền vững. Số liệu cốt lõi khác nhau tuỳ theo mỗi start-up, nhưng chúng thường là những số liệu như sự tăng lên trong lượng khách hàng trả phí, chiều dài phiên sử dụng trung bình trên mỗi khách hàng, và số lượt giới thiệu cho người khác trên một nghìn khách hàng đã sử dụng, chẳng hạn. Mọi start-up cần tìm ra số liệu phù hợp cho riêng nó để định hướng và cung cấp nhận định thực tế về quá trình phát triển. Khi phân tích dữ liệu, kỹ thuật được gọi là phân tích nhóm có thể hữu ích. Thay vì chỉ xem xét chung chung doanh thu hay nền tảng người dùng đã phát triển như thế nào, hãy so sánh hành vi của khách hàng mới với khách hàng cũ. Hãy coi một trong những số liệu cốt lõi của bạn là chỉ số khuyên dùng. Để hiểu nó tiến bộ như thế nào, bạn nên kiểm tra các yếu tố sau đây: Trung bình, tần suất một khách hàng đăng ký sáu tháng trước giới thiệu sản phẩm cho bạn bè là bao nhiêu? Còn với khách hàng đăng ký bốn tháng trước? Hai tháng trước? Bằng cách so sánh các nhóm (trong trường hợp này là các nhóm khách hàng đăng ký vào thời điểm khác nhau) và chỉ số khuyên dùng tương ứng, bạn có thể thấy mình tiến gần hơn đến mục tiêu hay không. Chỉ khi các số liệu chuyển biến tốt thì bạn mới đang phát triển; còn không, bạn đang mắc kẹt. Mọi start-up phải xác định được những số liệu cốt lõi và phân tích chúng đúng cách. KẾT Thông điệp chủ chốt của cuốn sách này là: Các start-up nên sử dụng cách tiếp cận ít nhiều mang tính khoa học để kiểm thử các giả định cốt lõi và xây dựng một mô hình kinh doanh hiệu quả dựa trên những giả thuyết đã được kiểm chứng. Họ nên nhanh chóng phát triển mẫu thử nghiệm sản phẩm, không ngừng cải tiến chúng bằng cách thu thập phản hồi từ khách hàng và thông qua các vòng xây dựng-đánh giá-học hỏi. Cuốn sách này trả lời các câu hỏi: Start-up nên theo đuổi mục tiêu chính nào, và tại sao? Cách quản trị các start-up cần phải rất khác so với các công ty lâu đời. Mục đích của một start-up là tìm ra mô hình kinh doanh bền vững. Hãy tìm mô hình kinh doanh bền vững bằng cách học tập qua kiểm chứng. Làm thế nào để các start-up tìm thấy sản phẩm và mô hình kinh doanh đúng đắn? Giả định “cú nhảy niềm tin”: kiểm thử giả thuyết giá trị và tăng trưởng của bạn. Phát triển sản phẩm khả dụng tối thiểu để kiểm thử ý tưởng của bạn trên thị trường. Xây dựng, đánh giá, học hỏi – càng nhanh và thường xuyên càng tốt. Để tìm ra mô hình kinh doanh đúng đắn cho doanh nghiệp, bạn thường phải chuyển hướng. Làm thế nào để các start-up tìm thấy động cơ tăng trưởng và phân tích số liệu đúng đắn? Mọi start-up trước hết nên tập trung vào một động cơ tăng trưởng. Số liệu ảo thường tâng bốc nhưng gây hiểu lầm – chúng không giúp bạn tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững. Mọi start-up phải xác định được những số liệu cốt lõi và phân tích chúng đúng cách Nguồn : tsubakidream.wordpress.com Mời các bạn đón đọc Khởi Nghiệp Tinh Gọn của tác giả Eric Ries.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson
John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.
Chiến Thắng Trò Chơi Cuộc Sống - Adam Khoo
Adam Khoo là một doanh nhân, tác giả sách bán chạy nhất và là một trong những chuyên gia đào tạo xuất sắc. Trở thành triệu phú tay trắng làm nên vào năm 26 tuổi, Adam sở hữu và quản lý nhiều công việc kinh doanh với tổng thu nhập hàng năm hơn 30 triệu đô. Anh là Chủ tịch của công ty Adam Khoo Learning Technologies Group, một trong những công ty lớn nhất châu Á về giáo dục và đào tạo. Adam cũng là tác giả của mười một quyển sách bán chạy nhất khác bao gồm,“I Am Gifted, So Are You!”, (ấn bản tiếng Việt – “Tôi Tài Giỏi, Bạn Cũng Thế!”), “How to Multiply Your Child’s Intelligence”, “Master Your Mind, Design Your Destiny” (ấn bản tiếng Việt – “Làm Chủ Tư Duy, Thay Đổi Vận Mệnh”, “Secrets of Self-made Millionaires” (ấn bản tiếng Việt – “Bí Quyết Tay Trắng Thành Triệu Phú”) và “Nurturing the Winner & Genius in Your Child” (ấn bản tiếng Việt – “Con Cái Chúng Ta Đều Giỏi”). Những quyển sách của anh liên tục nằm trong danh mục sách bán chạy nhất toàn quốc và đã được dịch sang sáu thứ tiếng. Adam tốt nghiệp bằng danh dự ngành Quản trị kinh doanh ở trường Đại Học Quốc Gia Singapore (National University of Singapore – NUS). Thời sinh viên, anh đứng trong top 1% những sinh viên dẫn đầu trường và được nhận vào chương trình Phát Triển Tài Năng (Talent Development Program), một chương trình đào tạo những sinh viên tài năng của trường. Trong hơn 18 năm qua, anh đã đào tạo hơn 550.000 học sinh sinh viên, giáo viên, chuyên gia, nhân viên và chủ doanh nghiệp về việc phát triển tiềm năng cá nhân và đạt thành quả xuất sắc trong nhiều lĩnh vực. Thành công và thành tích đạt được của anh thường xuyên được đăng tải trên các phương tiện truyền thông trong khu vực như The Straits Times, The Business Times, The New Paper, Lianhe Zaobao, Channel News Asia, Channel U, Channel 8, Newsradio 938, The Hindu, The Malaysian Sun, The Star và thậm chí trên cả Đài truyền hình Quốc gia Brazil. Năm 2007, tạp chí “The Executive Magazine” đã xếp hạng Adam Khoo là một trong 25 người giàu nhất Singapore dưới tuổi 40. *** Nhiều người nghĩ rằng người trưởng thành nghĩa là một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định nào đó trong cuộc sống. Tuy nhiên, đó là định nghĩa cổ điển về mặt sinh học. Trong xã hội hiện đại ngày nay, nếu một người có nhiều tuổi nhưng vẫn sống dựa vào người khác, vẫn không nỗ lực tự phấn đấu, vẫn ỷ lại, chây lười, ăn bám,... thì liệu có khác gì một đứa trẻ. Một người như thế không thể được coi là một người có kinh nghiệm sống và càng không thể được coi là một người trưởng thành, mà chỉ đáng được gọi là một đứa trẻ có nhiều tuổi. Kinh nghiệm sống và sự trưởng thành không phụ thuộc vào việc bạn đã sống bao lâu, mà phụ thuộc vào việc bao nhiêu năm qua bạn đã và đang sống như thế nào. Người trưởng thành là người: - Muốn làm chủ vận mệnh của mình, thay vì ỷ lại, chây lười, ăn bám, đổ lỗi cho số phận,... - Muốn hoàn thành tốt công việc của mình để có một sự nghiệp rạng rỡ. - Muốn biến những khó khăn thách thức thành cơ hội giúp mình thành công hơn. - Muốn giữ vững vị thế và lợi thế cạnh tranh trong một thời đại mà sự cạnh tranh đang trở nên ngày một quyết liệt hơn. - Muốn liên tục xây dựng và phát triển lòng tự trọng và sự tự tin của mình để ngẩng cao đầu mà sống. - Muốn vượt lên trên bản thân và làm chủ những cảm xúc bên trong một cách hiệu quả. - Muốn tạo ra vận may cho chính mình thay vì cầu mong vận may đến với mình. - Muốn gặt hái những kết quả đột phá trong nhiều khía cạnh của cuộc sống như: gia đình, sự nghiệp, địa vị xã hội, các mối quan hệ,... - Muốn có một cuộc sống không chỉ thành công mà còn hạnh phúc trọn vẹn. Nếu bạn mong muốn những thứ đó, chắc chắn bạn đã là một người trưởng thành cho dù bạn đang ở bất kỳ độ tuổi nào, thậm chí là một học sinh đi nữa, bởi vì thật sự có rất ít người đã biết mong muốn như trên ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Hơn thế nữa, một người trưởng thành không chỉ mong muốn, mà còn hành động. Hơn ai hết, những người trưởng thành hiểu rằng mong muốn suông thì rốt cuộc cũng chỉ là những giấc mơ mãi không thành hiện thực. Những người trưởng thành hành động và biết cách xem cuộc sống này như một trò chơi thú vị. Trong trò chơi ấy, có những người tham gia để thắng và cũng có rất nhiều người dường như "bị buộc phải tham gia", cho nên họ chỉ tham gia để "không bị thua". Nếu bạn là một trong số ít những người muốn chơi để thắng thì quyển sách Chiến Thắng Trò Chơi Cuộc Sống sẽ mang đến cho bạn những lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ. Bạn sẽ phát hiện ra rằng, bất kỳ ai cũng có thể trở thành người chiến thắng trong trò chơi cuộc sống - để xuất sắc trong công việc, tận hưởng những mối quan hệ tốt đẹp, dư dả về tài chính và hạnh phúc dài lâu. Chỉ cần bạn tìm hiểu và áp dụng chiến lược của những người trưởng thành như bạn nhưng đã thành công tột bậc trong cuộc sống. Nếu bạn mong muốn nhiều điều và khao khát chiến thắng, đã đến lúc phải hành động! Hãy để Chiến Thắng Trò Chơi Cuộc Sống là người bạn đồng hành cùng bạn trên con đường vươn lên. ... Mời các bạn đón đọc Chiến Thắng Trò Chơi Cuộc Sống của tác giả Adam Khoo.
Nguyên Lý 80/20 - Bí Quyết Làm Ít Được Nhiều
Lệch chênh, vũ trụ này là thế! Nguyên lý 80/20 là gì? Nguyên lý 80/20 cho chúng ta biết rằng trong bất cứ một nhóm nào cũng đều có một số đối tượng có một vai trò quan trọng hơn những đối tượng khác rất nhiều. Một mức chuẩn hoặc giả thuyết phù hợp là 80% những kết quả hoặc sản phẩm được sản sinh ra từ 20% những nguyên nhân, và nhiều khi từ một tỷ lệ nhỏ hơn nhiều những động lực có sức tác động lớn. Lời ăn tiếng nói thường nhật là một minh họa rất rõ cho thực tế này. Ngài Issac Pitman, người phát minh ra tốc ký, khám phá ra rằng chỉ có 700 từ thông dụng mà đã chiếm đến 2/3 các từ ngữ dùng trong những cuộc nói chuyện trao đổi qua lại giữa chúng ta với nhau. Pitman nhận thấy rằng, những từ ngữ này, kể cả những từ ngữ phái sinh của chúng, chiếm 80% trong lời ăn tiếng nói thông thường. Trong trường hợp này, không tới 1% từ ngữ (bộ từ điển New Oxford Shorter Oxford English Dictionary tập hợp nửa triệu từ) được sử dụng trong 80% lượng thời gian. Chúng ta có thể gọi đây là nguyên lý 80/1. Tương tự, trên 99% những trao đổi, chuyện trò sử dụng không tới 20% vốn từ: chúng ta có thể gọi đây là nguyên lý 99/20. Điện ảnh cũng có thể sử dụng để làm một minh họa cho nguyên lý 80/20. Một nghiên cứu mới đây cho thấy rằng 1,3% các bộ phim đem về 80% tổng doanh thu từ vé xem phim ở rạp, và ta có thể xem đây là quy luật 80/1 (xem mục “Nguyên lý 80/20 phân loại phim – gà ra gà, công ra công, trang...). Nguyên lý 80/20 không phải là một công thức huyền bí gì. Nhiều khi mối quan hệ giữa kết quả và nguyên nhân gần tỷ lệ 70/30 hơn là 80/20 hay 80/1. Nhưng có một thực tế là ít khi nào xảy ra trường hợp 50% các nguyên nhân dẫn đến 50% kết quả. Chúng ta có thể thấy được vũ trụ này không cân đối, không bằng cân. Một thiểu số lại đóng một vai trò quan yếu. Những con người và tổ chức thật sự có hiệu quả đều biết bám sát, tận dụng một số ít những động lực quan trọng có thể phát huy hiệu quả trong lĩnh vực, thế giới của họ và chuyển chúng thành những lợi thế của họ. Các bạn hãy tiếp tục đọc những trang sách sau đây để tìm hiểu xem các bạn cũng có thể học hỏi và làm như thế nào để cũng được như những người ấy... *** Trong một thời gian dài, định luật Pareto [Nguyên lý 80/20] cứ lừng lững tồn tại trong lĩnh vực kinh tế như một tảng đá bất trị không mời mà đến trên một khoảng sân đã ngăn nắp đâu vào đó, một định luật thực chứng không ai có thể giải thích nổi. Jose f Steind1 Nguyên lý 80/20 có thể và nên được áp dụng bởi mọi con người thông minh trong cuộc sống thường nhật của họ, bởi mọi tổ chức, đơn vị, và bởi mọi nhóm và hình thái xã hội. Nguyên lý này có thể giúp các cá nhân và tổ chức đạt được nhiều kết quả hơn nhiều với lượng công sức ít hơn nhiều. Nguyên lý 80/20 có thể làm cho con người ta hiệu quả hơn và hạnh phúc hơn. Nó có thể nhân lên gấp bội mức độ lợi nhuận của các công ty và tính hiệu quả của bất cứ tổ chức nào. Thậm chí nó còn đóng một vai trò quan yếu trong việc nâng cao chất lượng và số lượng những dịch vụ công ích trong khi cắt giảm chi phí. Cuốn sách này, công trình đầu tiên bàn về Nguyên lý 80/20,2được viết ra từ một niềm xác tín cháy bỏng, đã được kiểm nghiệm và thực chứng qua kinh nghiệm kinh doanh và cá nhân, rằng nguyên lý này là một trong những phương cách tốt nhất để giải quyết và vượt qua được những áp lực của cuộc sống hiện đại. Nguyên lý 80/20 là gì? Nguyên lý 80/20 khẳng định rằng một thiểu số nguyên nhân, “nguyên liệu đầu vào”, hoặc công sức thường dẫn đến một đa số những kết quả, “sản phẩm đầu ra”, hoặc những thành quả. Hiểu theo nghĩa đen, điều này có nghĩa là, chẳng hạn, 80% những gì các bạn đạt được trong công việc của mình là kết quả của 20% lượng thời gian các bạn đã bỏ ra. Như vậy, có thể nói 4/5 những nỗ lực mà các bạn đã bỏ ra – chiếm một tỷ lệ rất lớn – đều chủ yếu là không đem lại hiệu quả mong đợi. Thực tế này trái ngược với những gì người ta thường nghĩ. Như vậy Nguyên lý 80/20 khẳng định rằng tự trong nội tại quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả, “nguyên liệu đầu vào” và “sản phẩm đầu ra”, và giữa công sức và thành quả thu được đã có một tình trạng mất cân đối. Một chuẩn mức rất rõ cho tình trạng mất cân đối này có thể thấy qua quan hệ 80/20: công thức điển hình sẽ cho thấy rằng 80% những “sản phẩm đầu ra” kết tựu từ 20% những “nguyên liệu đầu vào”; rằng 80% các kết quả xuất phát từ 20% các nguyên nhân; hoặc rằng 80% những thành quả có được từ 20% công sức đã đầu tư. Hình 1 minh họa cho mối quan hệ này. Trong kinh doanh, nhiều ví dụ minh họa cho Nguyên lý 80/20 đã được kiểm chứng. 20% các sản phẩm thường chiếm 80% doanh số tính theo đô-la Mỹ; và 20% các khách hàng cũng có một tầm quan trọng tương tự. 20% các sản phẩm hoặc khách hàng thường chiếm khoảng 80% lợi nhuận của đơn vị. Trong xã hội, 20% các tội phạm chiếm 80% giá trị của tất cả các tội phạm. 20% người lái xe gây ra 80% số tai nạn. 20% số người kết hôn cấu thành 80% số người ly dị (những kẻ cứ tái hôn rồi lại ly dị đã làm méo lệch các con số thống kê, gây ra một cảm giác bi quan sai lệch về mức độ chung thủy trong hôn nhân). 20% các học sinh sinh viên nắm giữ 80% những bằng cấp, chứng chỉ được phát ra. Trong cuộc sống gia đình, 20% những tấm thảm trải trong nhà thường xuyên có những bước chân giẫm lên. 20% số quần áo được đem ra mặc trong 80% lượng thời gian. Và nếu các bạn có gắn một chuông báo trộm, 80% những vụ báo trộm nhầm là do 20% những nguyên nhân khả hữu. Động cơ đốt trong là một minh họa tuyệt vời cho Nguyên lý 80/20. 80% lượng năng lượng bị bỏ phí trong quá trình đốt nhiên liệu và chỉ có 20% là được chuyển thành năng lượng đẩy cho bánh xe chạy; số 20% “nguyên liệu đầu vào” này tạo ra 100% “sản phẩm đầu ra”!3 Khám phá của Pareto: thiếu cân đối, một tình trạng xảy ra một cách có hệ thống và có thể đoán trước được Cơ sở nền tảng của Nguyên lý 80/20 được Vilfredo Pareto (1848-1923) – nhà kinh tế học người Ý – khám phá ra năm 1897, cách đây đúng 100 năm. Khám phá của ông cho đến nay đã có nhiều tên gọi khác nhau, như Nguyên lý Pareto (Pareto Principle), Định luật Pareto (Pareto Law), Qui tắc 80/20 (80/20 Rule), Nguyên lý thiểu công (Principle of Least Effort), và Nguyên lý bất cân bằng (Principle of Imbalance); trong bộ sách này chúng ta sẽ thống nhất gọi là Nguyên lý 80/20. Qua cả một quá trình ảnh hưởng ngấm ngầm đối với nhiều người thành đạt quan trọng, nhất là những người làm kinh doanh, những người say mê máy tính, và những kỹ sư phụ trách về chất lượng, Nguyên lý 80/20 đã góp phần tác động đến thế giới hiện đại. Tuy nhiên, nó hãy còn là một trong những bí ẩn lớn nhất trong thời đại chúng ta – và ngay cả một số ít người biết và sử dụng Nguyên lý 80/20 cũng chỉ khai thác được một phần nhỏ nhoi sức mạnh của nó. Như vậy Vildredo Pareto đã khám phá ra cái gì? Ông đã tình cờ nghiên cứu những quy luật về của cải và thu nhập ở nướcAnh thế kỷ XIX. Ông nhận thấy rằng, theo mẫu nghiên cứu của ông, hầu hết lượng thu nhập và của cải về tay một nhóm người thiểu số. Có lẽ chuyện này cũng không có gì đáng ngạc nhiên cho lắm. Nhưng ông cũng khám phá ra hai điều khác mà ông cho là rất có ý nghĩa. Một là, có một mối quan hệ nhất quán, có tính toán học giữa tỷ lệ người (lượng phần trăm trong tổng số đối tượng nghiên cứu đang xét) và lượng thu nhập hoặc của cải mà nhóm này được hưởng.4Nói đơn giản hơn, nếu 20% của nhóm đối tượng nghiên cứu hưởng 80% lượng của cải,5thì các bạn có thể đoán chắc rằng 10% sẽ hưởng, chẳng hạn như, 65% lượng của cải, và 5% sẽ hưởng 50%. Điểm mấu chốt không phải ở chỗ các con số phần trăm, mà là ở chỗ việc phân bố của cải trong một nhóm đối tượng có thể tiên đoán là không cân đối. ... Mời các bạn đón đọc Nguyên lý 80/20 - Bí quyết làm ít được nhiều của tác giả Richard Koch.
Chinh Phục Mục Tiêu - Brian Tracy
Chinh Phục Mục Tiêu với 21 ý tưởng và chiến lược quan trọng sẽ giúp bạn hiện thực hóa mọi điều mong ước. Hàng trăm ngàn người, thậm chí là hàng triệu người, khởi nghiệp với hai bàn tay trắng và đạt được thành công vang dội nhờ những nguyên tắc này. Những gì người khác làm được thì bạn cũng có thể làm được, miễn là bạn thực sự bắt tay thực hiện! “Tiềm năng của con người cũng giống như một đại dương chưa được khám phá, một lục địa mới hãy còn tinh khôi, một thế giới của những khả năng chờ được cởi trói để hướng đến những điều vĩ đại.” - Brian Tracy. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật với các phương tiện hiện đại đã nâng tầm tri thức của con người lên một bước vượt bậc so với các thời kỳ trước đây. Ở thời đại này, con người quyết định cuộc sống và tương lai của chính mình thông qua những hoạch định để phát triển bản thân và trí tuệ của mình. Với sự tin tưởng rằng bất kỳ cá nhân nào cũng có những năng lực tiềm ẩn to lớn chưa được khám phá. Tác giả cuốn sách Chinh phục mục tiêu - Brian Tracy cho rằng mọi người đều có thể tiến xa hơn nữa và nhanh chóng tiếp cận mục tiêu của mình, chỉ cần họ biết học hỏi và rèn luyện những phương pháp, kỹ năng và chiến lược mà những người thành đạt đi trước đã từng áp dụng. Phương pháp xác lập mục tiêu đã giúp tác giả cũng như hàng ngàn người khác kiểm soát cuộc sống tốt hơn và đạt được sự thành công như chính họ mong đợi. Và chắc chắn rằng phương pháp này cũng sẽ mang đến cho bạn những điều tương tự. Điều mà tác giả nhấn mạnh là việc lên kế hoạch cho tương lai rất quan trọng, dù cho kế hoạch ấy có kém cỏi thế nào đi chăng nữa thì vẫn tốt hơn là không có kế hoạch nào cả. Hàng trăm ngàn người, thậm chí là hàng triệu người, khởi nghiệp với hai bàn tay trắng và đạt được thành công vang dội nhờ những nguyên tắc này. Những gì người khác làm được thì bạn cũng có thể làm được, miễn là bạn thực sự bắt tay thực hiện. Được xem là cẩm nang hướng dẫn những cách nhanh nhất để đạt được thành công mình mong muốn, cuốn sách tóm tắt 21 ý tưởng và chiến lược quan trọng nhất để xác lập và hoàn thành mục tiêu để bạn sống một cuộc đời tuyệt vời. *** 1. PHÁT HUY TIỀM NĂNG CÁ NHÂN 2. CHỊU TRÁCH NHIỆM VỚI CUỘC ĐỜI MÌNH 3. KIẾN TẠO TƯƠNG LAI 4. XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ BẢN THÂN 5. XÁC LẬP MỤC TIÊU ĐÍCH THỰC 6. XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH LỚN LAO VÀ CỤ THỂ 7. PHÂN TÍCH NIỀM TIN 8. HÀNH ĐỘNG NGAY TỪ ĐẦU 9. ĐO LƯỜNG SỰ TIẾN BỘ CỦA BẢN THÂN 10. LOẠI BỎ TRỞ NGẠI 11. TRỞ THÀNH CHUYÊN GIA TRONG LĨNH VỰC CỦA MÌNH 12. KẾT GIAO VỚI NHỮNG NGƯỜI PHÙ HỢP 13. LẬP KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG 14. QUẢN LÝ THỜI GIAN HIỆU QUẢ 15. RÀ SOÁT MỤC TIÊU HÀNG NGÀY 16. LIÊN TỤC HÌNH DUNG VỀ CÁC MỤC TIÊU 17. KÍCH HOẠT TIỀM NĂNG TRÍ TUỆ 18. LUÔN LUÔN LINH HOẠT 19. PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO BẨM SINH 20. HÀNH ĐỘNG MỖI NGÀY 21. KIÊN TRÌ ĐẾN LÚC THÀNH CÔNG *** Brian Tracy là một nhà hùng biện, diễn thuyết, tư vấn chuyên nghiệp và là Chủ tịch Tập đoàn quản lý nguồn nhân lực Brian Tracy International, có trụ sở tại Solana Beach, San Diego. Ông đại diện cho hình ảnh những con người biết vượt qua những khắc nghiệt của cuộc sống để đạt đến thành công đỉnh cao. Để có thể đúc kết được những bài học kinh nghiệm cho mình và cho người khác, Brian đã phải trải qua vô vàn khó khăn. Vì mưu sinh, ông phải rời trường trung học khi chưa tốt nghiệp và bắt đầu bươn chải với những công việc lao động phổ thông trong nhiều năm liền. Ông rửa chén bát, bốc xếp gỗ, đào giếng khoan, làm công nhân trong nhà máy và phụ khuân vác cỏ khô đến các nông trường và trang trại chăn nuôi gia súc. Vài năm sau, ông bước chân vào nghề bán hàng và dần thành danh trong giới kinh doanh. Ba mươi tuổi, ông mới bắt kịp nền học vấn đã phải bỏ dở trước kia khi theo học chương trình MBA tại một trường đại học lớn. Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, cộng với kiến thức từ quá trình học tập và ý thức nỗ lực phấn đấu không ngừng, ông đã thăng tiến qua nhiều vị trí khác nhau ở 22 công ty thuộc nhiều lĩnh vực. Năm 1981, ông bắt đầu nói chuyện và truyền đạt những nguyên tắc thành công của mình tại các cuộc hội thảo chuyên đề trên khắp nước Mỹ. Đến nay, các chương trình này đã được đưa vào giáo trình giảng dạy cho các doanh nghiệp toàn Hoa Kỳ và trên thế giới, với 20 ngôn ngữ và tại 38 quốc gia. Ông còn là nhà tư vấn và giảng viên cho hơn 500 tập đoàn trên thế giới. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy nhất như The 100 Absolutely Unbreakable Laws of Business Success (100 quy luật bất biến để thành công), Eat That Frog! (Để hiệu quả trong công việc), Hire and Keep The Best People (Tuyển dụng và đãi ngộ người tài), Getting Rich Your Own Way, Create Your Own Future, Be a Sales Superstar, Advanced Selling Strategies, The 21 Success Secrets of Self-Made Millionaires,... Brian cho rằng bất cứ cá nhân nào cũng có những năng lực tiềm ẩn to lớn chưa được khám phá. Do đó, ông tin tưởng mọi người đều có thể tiến xa hơn nữa và nhanh chóng tiếp cận mục tiêu của mình, chỉ cần họ biết học hỏi và rèn luyện những phương pháp, kỹ năng và chiến lược mà những người thành đạt đi trước đã từng áp dụng. Qua những buổi diễn thuyết, thảo luận, ông luôn tập trung vào việc xóa bỏ trạng thái thất vọng, bi quan và cảm giác kém tự tin ẩn sâu trong mọi người để hướng đến một tương lai tươi sáng với nhiều thành công rực rỡ. Brian Tracy thường xem mình là một "độc giả chiết trung", nghĩa là không bị bó hẹp vào một tín ngưỡng, một dòng tư tưởng đặc biệt nào cả. Ông không nghĩ bản thân mình là một nhà nghiên cứu khoa học, mà chỉ là một người đi thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau sau đó tổng hợp đúc kết chúng lại thành những bí quyết, kinh nghiệm hữu ích dành cho thế hệ theo sau ông. Brian hiện đang sống hạnh phúc cùng với vợ và 4 người con tại thành phố San Diego, California. Mỗi năm, ông tổ chức thuyết trình khoảng hơn 100 lần cho hơn 300 ngàn thính giả đồng thời tham gia hoạt động kinh doanh tại 17 nước.   Mời các bạn đón đọc Chinh Phục Mục Tiêu của tác giả Brian Tracy.