Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Pho Tượng Thần Kâli

Tác giả: Henri Vernes NXB: Trẻ 1988 Charles-Henri-Jean Dewisme, được biết đến với bút danh là Henri Vernes, là một tác giả của tiểu thuyết hành động và khoa học viễn tưởng, trong đó ông đã xuất bản hơn 200 đầu sách. Tác phẩm: Bảy Cây Thánh Giá Bằng Chì Pho Tượng Thần Kâli ... *** Mặt trời ngả bóng trên thành phố Calcutta, biến đổi dòng sông Hoogly, một trong hàng trăm phụ lưu của sông Hằng linh thiêng, thành một dòng thác khổng lồ của chất lưu huỳnh nóng chảy, điểm xuyết đây đó vài chiếc buồm đen của những ghe thuyền chở nông dân từ những cánh đồng xa trở về. Chỉ mặc quần soóc, áo may-ô, nằm dài trên bao lơn trước cửa phòng mình ở khách sạn Thanh Xà, Bob Morane lặng ngắm thành phố. Thành phố Calcutta này, chữ Ấn Độ gọi là Kâli Ghât - thành phố Kâli - lấy tên của nữ thần Kâli, chủ sự Phá hoại và Chết chóc, có năm triệu dân, bày ra cảnh nghèo khổ nheo nhóc với hàng ngàn con bò thần gieo rắc bệnh dịch. Ở thành phố lớn này bệnh dịch tả hoành hành, là nơi mà Đông phương và Tây phương chung góp những điều xấu; một bên là dịch tễ và đói khát, bên kia là thất nghiệp và sa đọa tinh thần. Từ chỗ nằm, không cần đứng lên khỏi chiếc ghế dài, Morane nhìn những đốm lửa thắp lên trong những khu phố đông dân cư. Và rộng ra tất cả miền đồng bằng sông Hằng rực sáng dưới mặt trời sắp lặn... Một cảnh tượng khó quên, vượt cả óc tưởng tượng của con người, có hình dáng như một tấm vải khổng lồ sẵn sàng chìm vào bóng tối bất cứ lúc nào. Bob đã tới Calcutta được bốn ngày. Tờ tuần báo "Phản Ánh", một tờ tuần báo lớn của Pháp đang đăng một loạt phóng sự về các con sông lớn trên thế giới, đã giao cho Bob thiên phóng sự về sông Hằng. Morane, trước nay chỉ ghé Ấn Độ trong những khoảng thời gian ngắn ngủi, đã sốt sắng nhận ngay sự ủy thác đó. Trong bốn ngày vừa qua, chàng đã thăm viếng Calcutta, sau đó sẽ đi khắp miền đồng bằng, rồi sẽ tới Bénarès, Thành phố Thánh, để lên tận vùng xa xôi thượng lưu sông Hằng, sát ranh giới dãy núi Hy Ma. Tối hôm đó, Bob quyết định phải nghỉ ngơi, cả buổi sáng và gần hết buổi chiều, chàng đi qua những khu đông dân, chụp từng bức ảnh và bị những nhóm hành khất gầy trơ xương liên lục nhào đến xin bố thí, chàng phải len lỏi giữa hàng trăm con bò gầy gò vô chù đi ngúng nga ngúng nguẩy, ruồi bám quanh mình. Những con bò này là những vật tổ thần, không ai được giết hoặc hành hạ, đã là gánh nặng cho Ấn Độ nói chung, và Calcutta nói riêng. Morane ngả người trên ghế dài, ưỡn mình, hít không khí nóng bức của buổi hoàng hôn, chàng lùa những ngón tay mặt vào trong mớ tóc cứng. Sau một ngày vất vả, chàng cảm thấy khoan khoái được nằm dài; không suy nghĩ, không lo toan công việc, hưởng những lạc thú trong tầm tay. Việc đó cho chàng ý niệm về Niết Bàn, cõi hư vô cao cả và thánh thiện mà những người sùng bái đức Phật ao ước. Đột nhiên, một giọng nói cất lên bên cạnh làm chàng người Pháp giật mình : - Có thư cho ông Morane. Bob quay đầu lại. Một người hầu Ấn Độ, quần áo trắng toát, trên trán vẽ thêm con mắt thứ ba của thần Siva, đứng ngay bên chiếc ghế dài, tay bưng chiếc khay đựng một lá thư. Bob nghĩ thầm: "Những người Ấn này di chuyển như những bóng ma. Anh chàng này dám cắt cổ mình mà mình cũng chưa kịp nhận ra nữa..." Bob cầm lấy lá thư, người hầu rút lui, chàng vội xé phong bì, trong đó có một tờ giấy gấp tư. Chàng mở ra, và đọc: "Thiếu tá Morane, Cần gặp ông gấp. Nhận được thư này, hãy đến ngay nhà tôi, số 115 phố Baghavapur. Việc sinh tử. Cecil Mainright" Morane nhảy dựng. Chàng biết Cecil Mainright, tuy chưa hề gặp mặt ông ta. Ở Paris, giáo sư Aristide Clairembart, nhà khảo cổ học già bạn của Bob, biết chàng sang Ấn, có dặn rằng : - Ông qua Calcutta thì hãy thay mặt tôi, lại thăm ông bạn đồng nghiệp của tôi là Cecil Mainright. Ông ta là người nhiệt tình theo Ấn Độ giáo, đã ở bên đó bốn chục năm, thuộc nằm lòng xử sở ấy, sẽ giúp đỡ ông được nhiều việc. Vừa tới thủ đô của miền Bengale phương Đông, Bob đã bắt đầu liên lạc ngay với nhà bác học kia nhưng ông ta bận nhiều công việc, hẹn chàng mấy hôm nữa mới cho gặp. Theo hẹn thì ngày mai chàng mới phải tới nhà ông Mainright. Vậy tại sao lại có lá thư kỳ quái này, nhất là câu: "Việc sinh tử". Mainright gặp nguy chăng? Nếu gặp nguy, sao ông ta không gọi đến cảnh sát, mà lại cầu cứu chàng, người mà ông ta chưa hề biết mặt? Bob nhún vai. Tìm làm quái gì câu giải đáp cho những sự bí ẩn loại này? Cứ biết là chỉ lát nữa đây, chính miệng giáo sư Mainright sẽ nói cho hay là được rồi. Xưa nay có bao giờ Morane từ chối lời kêu gọi giúp đỡ của ai đâu? Bạn của ông Aristide Clairembart gặp nguy thì chàng phải tìm cách cứu thôi. Bởi thế chàng quyết định tới nhà ông Mainright ngay tối hôm đó. Vì biết số điện thoại của giáo sư Mainright chàng nhấc ống nói trong phòng mình, xin số bên kia. Đợi hơn một phút, chàng mới nghe tiếng nói của cô phụ trách điện thoại trong khách sạn : - Rất tiếc, ông ạ. Số mà ông gọi đang kẹt. Morane nhăn mặt, gác máy. Không thể liên lạc với giáo sư Mainright, chàng đành tới nhà ông ta. Mặc vội chiếc sơ-mi thể thao hở cổ, và chiếc quần len màu vàng mang đôi giày nhẹ, chàng định bước ra thì chợt nghĩ lại, đến lôi ở dưới gầm giường ra cái túi du lịch lớn, có dây kéo. Chàng rút trong một ngăn túi lấy ra một khẩu colt 38, ngắn nòng, dắt vào thắt lưng. Chiếc áo vét-tông che khuất khẩu súng. Chàng không có thói quen đi đâu cũng mang sùng kè kè, nhưng nhớ đến câu "Việc sinh tử" mà giáo sư Mainright viết trong thư, nên chàng nghĩ chẳng nên phó mặc cho sự may rủi trong một cuộc đụng độ. Vài phút sau chàng rời khách sạn, vẫy một chiếc taxi. Chiếc xe ghé sát lề đường, và người tài xế, một anh chàng người Sikh to con có bộ râu đen, xuống xe mở cửa cho khách. Bob nhận ra anh kia mang ở thắt lưng một con dao quắm rất dài. Chỉ vào vũ khí đó, chàng người Pháp hỏi : - Anh dùng thứ đó làm gì vây? Cắt cổ khách đi xe hả? Toét miệng ra cười, để lộ hàm răng trắng, đẹp hơn những phím đàn dương cầm, người tài xế lắc đầu. - Thưa ông, không. Munghal này không cắt cổ khách đi xe bao giờ... nếu khách trả tiền đàng hoàng. Dao này chỉ để cứa cổ Hồi hồi. Nói rồi anh ta nhổ nước bọt, tỏ lòng khinh ghét. Morane mỉm cười : - Rất may tôi không phải là người Hồi giáo. Munghal lại cười : - Thưa ông, vâng. Rất may... ông đi đâu, để tôi chở? Bob Morane ngồi trong xe, nói : - Số 115, đường Baghavapur! Chiếc taxi chuyển bánh lao đi, qua những đường phố đông nghẹt giữa một rừng xe cam nhông, xe điện, xe tay xe đạp và những con bò đi lang thang. Những con bò này gây trở ngại cho cho sự lưu thông, bởi chúng chỉ nhích từng chút cho chiếc taxi lọt qua. Chúng sợ tiếng còi xe hơn là bản thân chiếc xe. Đường Baghavapur là một con đường hoang vắng, nằm sát chân cầu Howrah, hai bên là những ngôi nhà cổ, kiểu xây cất thời nữ hoàng Victoria, bao bọc chung quanh là những khu vườn rộng, có rào sắt rất cao. Chiếc taxi ngừng trước nhà số 115, Morane xuống xe. Chàng người Sikh hỏi : - Tôi phải đợi ngài chăng? Bob lắc đầu : - Không, chắc tôi phải ở lại đây khá lâu. Chàng trả tiền cuốc xe, còn biếu thêm tiền thưởng hậu hĩnh. Chiếc taxi rồ máy. Bob còn lại một mình trên vỉa hè. Đêm đã xuống được một lúc, đường Bagharapur hoàn toàn chìm trong bóng tối. Đôi chỗ, vài bóng đèn điện tù mù soi xuống hàng cây phượng vĩ hoa đỏ thắm trong khung cảnh đen tối của ban đêm. Bob nhủ thầm: "Cái chỗ này chẳng có gì vui!" Thử lại cho chắc dạ khẩu súng lục dắt ở thắt tưng có thể rút ra dễ đàng, chàng tiến lại chỗ hàng rào sắt. Cánh cửa sắt hé mở làm chàng ngần ngừ. Chàng có cảm tưởng là đang rơi vào một ổ phục kích. Tuy nhiên chàng vẫn lách mình qua khoáng hẹp giữa hai cánh cửa, và tiến vào một lối đi rộng dẫn tới ngôi nhà mà một cửa sổ ở tầng trệt có ánh đèn rất sáng. Nhanh nhẹn, bằng bước chân đi đôi giày nhẹ, đế crếp, Morane lặng lẽ tiến lại gần ngôi nhà. Chàng tới bậc thềm thì có một bóng người từ phía trong hấp tấp bước ra. Đáng lẽ phải tránh sang một bên, Bob lại đứng chắn ngang đường, và hai người xô vào nhau rất mạnh, đồng thời có một vật trăng trắng lăn xuống lối đi. Người lạ mặt, hẳn là một người Ấn, vì bộ mặt đen của hắn không nổi lên trong bóng tối, cúi xuống để nhặt vật đánh rơi. Morane liền ngăn lại, chàng nói bằng tiếng Anh : - Ê! Một phút đi, anh bạn! Chạy ẩu chạy tả như thế mà không xin lỗi, đâu có được. Chàng vừa nói thế, người kia lầu bầu giận dữ, nhào lại bên chàng. Bob nhìn thấy một lưỡi dao găm lóe lên, vội lùi lại một bước. Lưỡi dao chệch qua cổ họng chàng vài phân, chàng vội dùng cườm tay chặt vào cánh tay đối thủ. Nhát chặt rất chính xác, người Ấn đành để mất vũ khí. Ngay lúc đó có tiếng chân tháo chạy, Bob nghĩ đối thủ tính bỏ trốn. Nhanh như chớp, chàng rút súng khỏi thắt lưng, hô to: "Ngừng lại, không ta bắn!", nhưng người kia đã biến mất trong bóng tối. Morane đứng lại một lúc, súng vẫn cầm tay, sẵn sàng nhả đạn nếu nghe có tiếng động nhỏ, nhưng kẻ gây hấn đã biến hẳn và vật rơi xuống từ đầu trận đấu vẫn nằm yên trên mặt đất. Bob nhặt lên, mới đầu chàng chưa nhận ra được đó là cái gì, vì nó được bọc kín trong một mảnh vải. Có thể là một chiếc khăn được buộc dầy chặt chẽ. Qua lần vải, Bob nắn bóp thấy một vật cứng, hình thù không đều đặn. Toàn bộ, dù vật ấy không lớn, nhưng rất nặng, Bob đoán chừng vật ấy bằng đá hay kim loại. Chàng nhún vai: "Đây hẳn là một báu vật mà thằng kia đánh cắp của ông giáo sư. Ta đem trả lại cho ông ta tất biết ngay đó là cái gì..." Leo lên những bậc thềm, Morane tới cửa thì thấy cảnh cửa mở toang dẫn vào một căn phòng vuông vắn bên trong sáng trưng. Cánh cửa thứ hai cũng mở, để lọt ra ngoài một vệt sáng dài. Bob đứng im, tay vẫn lăm lăm khẩu súng, tai lắng nghe nhưng cả gian nhà im ắng, hình như người nhà đã đi đâu cả. - Giáo sư Mainright! Giáo sư Mainright! Gọi liên tiếp hai lần, chàng chờ đợi, nhưng không có ai trả lời. - Trong nhà có ai không? Lại vẫn im lặng. Lần này, Morane cảm thấy lo lắng. Cái người cầm dao găm chạy trốn như một tên trộm, cùng ngôi nhà bỏ hoang mà phòng nào cũng sáng trưng đèn đối với chàng có vẻ bí ẩn. Các giác quan chàng đều hoạt động. Bob tiến vào căn phòng lớn, thăm dò để tìm xem có người nào chăng. Sau đó, hăng hái lên, Bob bước mau tới cánh cửa thứ hai đang hắt ra một luồng ánh sáng. Căn phòng hiện ra trước mắt Morane là một phòng làm việc rất rộng, chứa đầy những mẫu khảo cổ. Những hình chạm nổi gỡ ở những thạch động thiêng liêng, những bức tượng Phật cổ xưa qua thời gian đã nhẵn bóng những mớ ngọc thạch màu xanh hoặc những mẫu phún thạch, những mảnh đồng quý cắt ra từng miếng. Trên trần nhà, một chiếc quạt máy quay chầm chậm, làm chuyển đi luồng không khí nặng nề và nóng bức của đêm miền nhiệt đới. Tuy nhiên, tất cả những thứ đó chẳng khiến Bob chú tâm. Trái lại, chàng để ý ngay đến một người tóc hoa râm, một người Âu cúi gục trên chiếc bàn gỗ, đầu bất động quay về phía cửa. Không còn nghi ngờ gì nữa, Bob biết người đó là giáo sư Mainright, nhưng ông đã chết rồi. Chàng người Pháp đứng lặng hồi lâu ở chỗ bậc thềm. Nghề nghiệp phiêu lưu của chàng đã nhiều lần đưa chàng tới những cảnh ngộ tương tự, nhưng sự hiện hữu của tử thi gây cho chàng nhiều ấn tượng. Ông Mainright, mới một thời gian ngắn trước đây kêu cứu với chàng mà bây giờ không còn sống nữa. Bob có cảm tưởng mình chịu phần nào trách nhiệm về cái chết này. Nếu chàng đến sớm hơn, hẳn là mọi chuyện êm xuôi. Nhưng làm sao chàng đến sớm hơn được. Vừa nhận lá thư của nhà bác học bất hạnh chàng đã chẳng rời khách sạn ngay đấy ư? Dần dần, Morane cũng lấy lại được bình tĩnh. Đi tới cuối căn phòng chàng đem cái vật chưa biết rõ vẫn bọc trong chiếc khăn đặt vào một góc bàn giấy. Sau đó chàng lại gần người chết, thấy dấu vết bị siết còn rành rành trên cổ nạn nhân, và gần ghế bành, chàng thấy một dải lụa rất dày thắt một nút thòng lọng. Hẳn là hung thù đã sử dụng nó để giết nạn nhân. Chàng đưa mắt nhìn khắp phòng: Không một cửa tủ nào bị nạy. Hình như trong nhà không bị mất mát thứ gì. Hoàn toàn không... trừ ra... Morane lấy lại cái gói chàng vừa đặt ở góc bàn, mở vội chiếc khăn và vật bí ẩn hiện ra, đó là một pho tượng nhỏ tráng men, cao cỡ chừng không hơn mười phân, mang hình dáng một người đàn bà đang đứng, bốn cánh tay đều duỗi ra một cánh tay cầm thanh gươm, một xách một thủ cấp, còn hai cánh tay khác thì xòe ra như ban phép, lòng bàn tay đỏ lòm. Dễ sợ nhất là khuôn mặt với đôi mắt cú vọ có những tia máu, cái miệng toác hoác, lưỡi thè lè giữa hàm răng nhọn hoắt. Hai mảnh xương nhỏ dùng làm hoa tai cho người đàn bà kỳ quái và một chuỗi sọ người vấy máu, lủng lẳng trước ngực. Ở hai cổ chân và bốn cổ tay, người đàn bà ấy mang những chiếc vòng ngọc thạch sáng rực, và quanh cổ đeo một đạo bùa. Morane nghĩ thầm: "Nếu ta không lầm thì đây là bức tượng nữ thần Kâli, vị Hắc thần, vợ của thần Siva, và vì muốn cướp đoạt pho tượng mà kẻ kia đã giết vị giáo sư tội nghiệp này. Nhưng những vòng ngọc thạch và lá bùa thì ta thấy dường như là của già, và có thể cả bức tượng nữa..." Lấy một con dao rọc giấy ở trên bàn, chàng cậy một mảnh men tráng ở gót chân pho tượng thì thấy hiện ra một thứ kim loại màu xam xám. Bob thì thầm : - Chì! Thế mà kẻ gây hấn với ta hoài công đánh cắp pho tượng. Như vậy có thể không phải hắn đã giết ông Mainright đâu. Đột nhiên, chàng giật mình, đôi mắt chàng, chăm chú nhìn dải lụa ở gần chỗ bàn giấy. Dải lụa gợi cho chàng một ý nghĩ. Chàng thì thầm : - Vật này dùng để siết cổ ông Mainright. Nó với pho tượng thần Kâli phải có một liên hệ nào đó. Cá nhân ta, ta không thấy một liên hệ nào. Chuyện này, ta thấy có vẻ quái đản, không thể nào tưởng tượng được. Chàng không khỏi rùng mình, đưa mắt nhìn quanh, tưởng như một quái vật khát máu khủng khiếp thình lình hiện ra. Nhưng không, chẳng có gì, chỉ có một mình chàng ở trong phòng với xác chết. Chẳng bao lâu sau, chàng làm chủ lại thần kinh của mình. "Nếu ta không lầm thì đây chỉ là một vu giết người bình thường. Hung thủ đã vào đây, trong ngôi nhà có nhiều tiền bạc và bảo vật quý giá này, nhưng sau khi thắt cổ ông giáo sư bất hạnh Mainright, hắn đã lấy đi thứ gì? Một pho tượng tầm thường bằng chì tráng men..." Morane lại quan sát pho tượng Hắc thần, một lúc lâu sau khi xem xét kỹ lưỡng, mới nghĩ tiếp: "Phải. Đây là pho tượng của mụ già uống máu Kâli, có thể mở ra nhiều bất ngờ cho chúng ta. Tốt nhất là ta báo cảnh sát cái đã". Chàng nhấc ống điện thoại đặt trên bàn giấy. Nhưng khi chàng đặt ống nghe vào tai thì không có tiếng gì cả. Chàng lẩm bẩm: "Ta quên đi mất! Máy kẹt mà! Dây điện bị cắt rồi! À, không có điện thoại, vẫn có cách kêu cảnh sát rất kiến hiệu: cách này đây..." Chàng lại gần một cửa sổ, mở ra, dang thẳng tay chĩa khẩu súng lên trời, bốp cò liền ba phát. Trong đêm tĩnh mịch, tiếng súng vang dội như sấm và chàng không thắc mắc gì về kết quả. Trong khu phố toàn những biệt thự, xưa nay thường lặng lẽ êm ả, chắc chắn một loạt đạn nổ sẽ mau chóng đánh động hàng xóm. Tác phẩm: Bảy Cây Thánh Giá Bằng Chì Pho Tượng Thần Kâli ... *** Mời các bạn đón đọc Pho Tượng Thần Kâli của tác giả Henri Vernes.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Tình Quái Thú - Shelly Laurenston
Có những thứ càng chờ đợi càng hạnh phúc. Hệt như khi Bobby Ray Smith gặp lại Jessica Ann Ward sau 16 năm xa cách vậy… Sinh ra tại Long Island, New York, nhưng Shelly Laurenston đã chuyển tới sinh sống tại West Coast với nắng, gió và những chàng trai vạm vỡ, quyến rũ trên bãi biển. Đây chính là nơi bà viết nên những câu chuyện về tình yêu đầy hài hước, nóng bỏng nhưng vẫn không kém phần lãng mạn. Bà được tạp chí New York Times bình chọn là tác giả có tác phẩm bán chạy nhất cho dòng tiểu thuyết lãng mạn mang yếu tố giả tưởng, trong đó không thể không kể đến series ăn khách Pride viết về thế giới người biến hình và những câu chuyện tình yêu của họ. Người tình quái thú là phần thứ 2 trong series Pride và cũng hài hước không kém phần đầu tiên - Đối diện với tình yêu. Trong phần 2 này, ta gặp lại chàng người sói Bobby Ray Smith - kẻ luôn tự tin đến mực tự phụ về vẻ đẹp trai và sự quyến rũ của mình. Không chỉ được tôi luyện trong hải quân, chàng người sói này còn có xuất thân từ một gia đình "hoang dã" và "bạo lực" có tiếng tăm tại New York. Thế nhưng, thay vì tự hào về dòng máu chảy trong huyết quản, Smith luôn lo sợ bị khuất phục bởi con dã thú ẩn náu trong bản năng của mình. Vì thế, khi biết mình đem lòng yêu Jessie Ann, anh phải đứng trước sự lựa chọn vô cùng khó khăn: chấp nhận con người thật sự của mình hoặc là đánh mất người con gái mình yêu thương mãi mãi. Về phần Jessie Ann, cô cũng là một người biến hình thuộc loài chó hoang. Thông minh, xinh đẹp và đầy kiêu hãnh, cô là mục tiêu săn đón của biết bao kẻ cuồng si. Bị Smitty từ chối và bỏ rơi thời trung học, giờ đây - sau 16 năm, cô có thể ngẩng cao đầu nhìn kẻ từng khiến trái tim mình tan vỡ phải tìm mọi cách để chiếm được trái tim mình: "Jess biết rõ cô không thể mặc hắn ngang ngược như vậy. Cô biết cô không nên đặt con tim lên trên lý trí của mình. Bobby Ray Smith đã, đang và sẽ luôn có khả năng làm tan vỡ con tim của Jess. Hắn ta đã làm thế một lần, cô sẽ không tạo cơ hội cho hắn lặp lại chuyện đó lần thứ hai." Xuyên suốt mạch truyện, Smitty luôn luôn phải gắng sức vừa khống chế con dã thú bên trong, vừa phải nghĩ cách săn đuổi con thú hoang bên ngoài là Jessie. Anh thật lòng muốn dành cho cô những gì dịu dàng nhất, đẹp đẽ nhất, những thứ mà người trong gia đình Smith không bao giờ có thể mang tới cho người bạn đời của mình. Vậy nhưng Jessie không sẵn sàng thỏa hiệp với những thứ dễ dàng, không bao giờ chịu chấp nhận một Smitty hiền hòa như thế. Điều cô thực sự muốn là Bobby Ray Smith sống đúng với chính con người mình, bản năng hoang dại của mình. Và cô sẽ chiến đấu tới cùng để có được điều cô muốn. Người tình quái thú đưa độc giả vào một thế giới kỳ thú chưa từng có, một thế giới với những nhân vật có khả năng biến hóa và sống trong bản năng của các loài sư tử, sói, chó hoang hay báo đốm… Shelly Laurenston đã lồng ghép khéo léo và tinh tế những đặc trưng riêng biệt của các loài động vật cũng như sự kết nối của chúng với các thành viên trong Bầy và các giống loài khác. Không chỉ là một câu chuyện về cuộc chiến đấu giành lấy tình yêu, cuốn tiểu thuyết còn mang tới cho người đọc những phút giây ý nghĩa bên bạn bè, những tình cảm gia đình mà chỉ có thể thể hiện bằng hành động… Cuối cùng, Laurenston đã tạo nên một tác phẩm tuyệt vời, thành công trong việc xây dựng sự căng thẳng và thiết lập đủ những trở ngại giữa hai nhân vật chính. Qua đó, người đọc tìm được sự thoả mãn khi dõi theo quá trình Jess và Smitty theo đuổi hạnh phúc mãi mãi về sau của mình. *** Smitty - tên thường gọi của Bobby Ray Smith - một người Sói và cựu quân nhân Hải quân Mỹ, là một kẻ quá tự tin đến mức tự phụ về vẻ đẹp trai và sự hấp dẫn của mình đối với phụ nữ cho tới khi anh gặp lại Jessie Ann. Smitty và Jess đã từng có khoảng thời gian bên nhau, khi Smitty đứng ra bảo vệ Jess nhỏ bé, yếu đuối khỏi những kẻ chuyên bắt nạt, cho đến khi anh bỏ rơi cô để tham gia vào lực lượng hải quân Mỹ. Jess giờ đây đã trở thành một triệu phú thành đạt, vừa là giám đốc một công ty công nghệ tin học vừa là người đứng đầu một Bầy Chó hoang. Cô muốn cho Smitty phải cảm thấy hối tiếc vì đã bỏ rơi cô 15 năm trước, muốn anh phải đau khổ, thèm thuồng mà quỳ rạp dưới chân cô. Nhưng Smitty cũng không phải dạng vừa, anh sẽ quyết liệt theo đuổi cô cho tới khi cô phải khuất phục mà ngã vào lòng anh.   Mời các bạn đón đọc Người Tình Quái Thú của tác giả Shelly Laurenston.
Cuộc Chiến Đi Qua - Kanta Ibragimov
Những năm qua, văn học Nga luôn có một vị trí xứng đáng trong lòng bạn đọc Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc nuôi dưỡng nhân sinh quan và thế giới quan của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam qua các thời kỳ. Nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ Nga và Liên Xô đã được dịch sang tiếng Việt và trở nên quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như Pushkin, Tolstoy, Dostoyevsky, Gogol, Lermontov, Tsekhov, Pasternak, Solzenisyn, Bulgakov, Bunhin, Solokhov, Gorky, Aitmatov, Dumbadze, Kazakov, Bykov, Evtushenko, Astaphiev... Tuy nhiên, kể từ khi Liên bang Xô viết không còn nữa, văn học Nga cũng như một số các loại hình nghệ thuật khác đã bị tác động trong một thời gian, việc sáng tác của các văn nghệ sĩ Nga cũng gặp không ít trở ngại và việc giới thiệu văn học Nga ở Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Về tình trạng này, Vasil Bykov (1924-2003), một trong số những nhà văn Belarus nổi tiếng nhất, Giải thưởng Quốc gia Liên Xô, Giải thưởng Lenin, Anh hùng Lao động XHCN đã phải cay đắng thốt lên: “Các nhà văn vô cùng bối rối: viết về cái gì? Trước kia, suốt nhiều năm họ cứ rên rỉ, nào là bộ phận kiểm duyệt không cho phép, nào là bị o ép. Còn bây giờ, khi không còn kiểm duyệt, không còn bị o ép, hóa ra sự việc lại càng tồi tệ hơn. Chẳng khác gì những con thú, lâu ngày được nuôi trong chuồng, bây giờ thả ra, không biết tự kiếm sống”. Còn các giải thưởng của Nhà nước Nga về văn học nghệ thuật, một nguồn động viên không kém phần quan trọng để tạo cảm hứng cho các văn nghệ sĩ cũng bị hủy bỏ. Tuy nhiên, bất chấp những xáo trộn khi bước vào một thể chế chính trị mới, các nhà văn Nga vẫn tiếp tục lao động sáng tạo nên nhiều tác phẩm, kế thừa và phát huy những giá trị nhân văn cao đẹp đã được kết tinh, vun đắp từ lâu, chỉ khác là giờ đây chúng được cảm thụ và thể hiện dưới một góc nhìn mới, chân thực và khách quan hơn về cuộc sống đương đại. Năm 1993, trước yêu cầu của xã hội, Tổng thống Nga lúc bấy giờ là Boris Elsin đã cho thành lập lại Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về văn học nghệ thuật. Và trong số các tên tuổi quen thuộc của văn đàn Nga đã nổi tiếng từ thời Xô viết vẫn được tiếp tục ghi nhận và trao Giải thưởng Quốc gia như Solzenisyn, Evtushenko, Astaphiev, Akhmadulina, Ekimov, Granin... người ta thấy xuất hiện một cái tên hoàn toàn mới - Kanta Ibragimov. Kanta Khamzatovich Ibragimov sinh ngày 9 tháng 7 năm 1960 tại thành phố Grozny, thủ đô nước Cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia thuộc Liên bang Nga, trong một gia đình trí thức có cha là tiến sĩ hóa học. Sau khi tốt nghiệp Khoa Kinh tế Đại học Tổng hợp Quốc gia Chechnya-Ingushetia năm 1982, Ibragimov về làm việc ở nông trang rồi gia nhập quân đội, hết hạn nghĩa vụ ông lại quay về nông trang làm việc. Sau khi bảo vệ luận án phó tiến sĩ năm 1990, Ibragimov làm việc ở Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Chechnya-Ingushetia, rồi Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khoa học ứng dụng thành phố Grozny. Năm 1995, ông lên Moskva làm luận án tiến sĩ và bảo vệ thành công trước thời hạn. Từ 1996 đến nay Ibragimov công tác tại Khoa Kinh tế Đại học Tổng hợp Quốc gia Chechnya, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Liên bang Nga từ 1999 đến năm 2000, hiện là Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thành phố Grozny, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học nước Cộng hòa Chechnya. Có một điều khá lý thú là cho đến trước năm 38 tuổi, Ibragimov chưa một lần xuất hiện trên văn đàn mà chỉ làm công việc chuyên môn thuần túy và chỉ công bố các bài báo, công trình khoa học, sách chuyên khảo và sách giáo khoa về kinh tế (hơn 20 công trình và đầu sách). Tác phẩm văn học đầu tay của ông chính là cuốn tiểu thuyết đồ sộ 700 trang Cuộc chiến đi qua. Sau khi ra đời vào năm 1999, ngay lập tức tác phẩm đã gây tiếng vang lớn, còn tác giả trở nên nổi tiếng và được đọc nhiều nhất không chỉ ở Chechnya mà cả Liên bang Nga. Bốn năm sau, Cuộc chiến đi qua đã được Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về văn học nghệ thuật năm 2003. Vậy, Cuộc chiến đi qua là một tác phẩm như thế nào mà được cả bạn đọc và nhà nước Liên bang Nga đánh giá cao như vậy? Chechnya là một vùng đất nằm ở Bắc Kavkaz, ngay từ cuối thế kỷ XV đã phải đương đầu với các thế lực cai trị từ bên ngoài, buộc người Chechnya phải cải theo đạo Hồi. Đến cuối thế kỷ XVIII, Đế chế Nga hoàng đã chính thức đặt Bắc Kavkaz dưới sự bảo hộ và kiểm soát của mình. Thời kỳ Xô viết, vùng đất Chechnya được gộp chung với Ingushetia thành nước cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia vào cuối thập niên 1930, nhưng mối quan hệ giữa Nhà nước Trung ương Liên Xô với những người Chechnya theo đạo Hồi cũng chẳng mấy khi thuận chèo mát mái. Khi Liên bang Xô viết tan rã vào năm 1990, nước Cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia lại tách ra thành Cộng hòa Chechnya và Cộng hòa Ingushetia với các phong trào ly khai bùng phát thành các cuộc chiến tranh khốc liệt. Lịch sử vùng đất Bắc Kavkaz, kể từ khi chính quyền Xô viết được thành lập tại đây vào năm 1924 và tan vỡ hoàn toàn vào năm 1995 đã được tác giả Ibragimov tái hiện thông qua hình tượng nhân vật chính lấy từ nguyên mẫu cuộc đời đầy thăng trầm và sóng gió của chính ông nội tác giả. Các cuộc chiến tranh đẫm máu trên mảnh đất này đã dẫn đến những cuộc ly tán, đói nghèo, mất mát, rồi sau đó, khi chính quyền Xô viết không còn nữa thì quá trình “tư nhân hóa” đã diễn ra một cách khốc liệt, làm cho người dân vô cùng hụt hẫng vì chưa kịp thích ứng... Nhưng, dù có những biến động dữ dội đến đâu thì điều quan trọng còn lại trên mảnh đất này vẫn là niềm tin vào sức mạnh bất diệt của dân tộc, vào một cuộc sống tốt đẹp hơn đang mở ra cho tất cả mọi thành phần cư dân đang sinh sống tại đây. Tác phẩm Cuộc chiến đi qua có sức bao quát rộng lớn, và thông qua đó, người đọc có thể cảm nhận một cách đầy đủ và chân xác về bản anh hùng ca cùng những tấn bi kịch tại Chechnya và các vùng đất khác nhau trên lãnh thổ rộng lớn của Liên bang Xô viết trước đây. Bản thân tác giả Ibragimov đã trực tiếp trải qua các cuộc chiến tranh đó, và khi được hỏi về những năm tháng này, ông đã thành thật chia sẻ: “Làm người Chechnya trong khoảng mười - mười lăm năm gần đây chẳng dễ dàng chút nào”. Nhưng ông vẫn quyết định quay về với quá khứ trong tác phẩm văn học đầu tay của mình “để không được quên những năm tháng đau thương ấy và thật may là đã trở thành dĩ vãng và để không bao giờ lặp lại những sai lầm khủng khiếp đó nữa”. Theo nhận xét của các nhà phê bình văn học Nga, sự thành công của Cuộc chiến đi qua là nhờ vốn hiểu biết sâu sắc và khách quan của tác giả về lịch sử miền đất quê hương ông, hòa quyện một cách hữu cơ với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Chính vì vậy mà tác phẩm đã đạt đến một sự “hấp dẫn” đối với đông đảo bạn đọc khó tính mà không cần phải nhờ đến một thủ pháp giả tạo nào. Có thể, lời bộc bạch của chính tác giả trong bài trả lời phỏng vấn trên Cánh đồng Nga sẽ làm sáng tỏ thêm nhận xét này: “Tôi bắt đầu cầm bút viết văn lúc 37 tuổi, và viết tiểu thuyết ngay. Chỉ có điều xin đừng nghĩ, tôi chỉ đơn giản ngồi vào bàn là viết xong một cách dễ dàng. Để làm được điều đó, tôi đã phải lặn lội khắp nơi để lấy tư liệu và học hỏi cho đến tận bây giờ. Tôi không học chuyên ngành ngữ văn và dĩ nhiên là còn nhiều lỗ hổng kiến thức, nhưng mặt khác, tôi nghĩ mình cũng có thế mạnh riêng là tôi không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức hay phương pháp sáng tác nào cả, và điều đó không chỉ tồn tại trong văn học mà còn ở tất cả mọi lĩnh vực”. Tiếp theo tác phẩm đầu tay, Ibragimov liên tiếp cho ra mắt nhiều tác phẩm khác và cũng được bạn đọc đánh giá cao, như Kavkaz già nua (2001), Thầy giáo lịch sử (2003), Thế giới trẻ em(2005), Truyện cổ phương Đông (2007), Ngôi nhà hỗn tạp (2009), Avrora (2012)... Kanta Ibragimov được kết nạp vào Hội Nhà văn Cộng hòa Chechnya và Hội Nhà văn Liên bang Nga, rồi được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Cộng hòa Chechnya và Chủ tịch Chi hội nhà văn Nga tại Chechnya. Hiện tại, Ibragimov vẫn tiếp tục làm công tác khoa học và vẫn sáng tác văn học. Và như lời ông nói: “Công việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy là để nuôi sống tôi và gia đình cùng với năm đứa con, còn văn chương là để nuôi dưỡng tâm hồn. Những lo toan thường nhật chiếm rất nhiều thời gian của tôi. Nhưng ai mà không có những lo toan thường nhật ấy, nhất là trong thời kỳ suy thoái kinh tế như hiện nay?”. Tại Việt Nam, nhà văn Ibragimov hầu như chưa được biết tới và chưa có tác phẩm nào của ông được dịch sang tiếng Việt. Hy vọng, Cuộc chiến đi qua sẽ mang lại cho bạn đọc một làn gió mới lạ từ một vùng đất xa xôi nhưng cũng rất thân quen với nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Cuộc Chiến Đi Qua của tác giả Kanta Ibragimov.
Tóc Mây Nghìn Sợi - Dung Sài Gòn
Trường không bao giờ trở lại- từ đêm đó. Tôi đã đợi chờ chàng suốt cả những đêm sau, và lại những đêm sau. Tôi vừa tự dằn vặt mình vừa xót xa nghe tự ái bừng dậy. Chàng đã bỏ tôi rồi! Sự tức giận ghen tuông cũng chỉ là cái cớ cho chàng bỏ đi mà thôi. Vừa giận Trường, vừa nhớ chàng, tôi nằm vùi ở nhà để nuôi hy vọng Trường trở về. Hãy vì những tháng năm mật ngọt của chúng ta mà trở về! Tôi nhớ chàng biết bao! Tôi muốn chàng trở về để nói với chàng “em vẫn là con bé Diễm ngày nào yêu anh”. Hơn một năm trời đi hát, tôi vẫn giữ mình, không bị cám dỗ bởi những đón mời vật chất, không sa đoạ, hát xong tôi vội vã về nhà.Bây giờ nếu Trường muốn tôi sẽ nghỉ làm cho chàng yên lòng, tôi chỉ cần Trường thôi. Tôi mong mỏi, đợi chờ Trường từng ngày, tôi nhớ chàng trong từng hơi thở của tôi. Nhìn con tôi lại bật khóc. Trường đã bỏ tôi rồi. Chàng tưởng tôi mê man tiền bạc phụ chàng nên đã rời xa tôi. Lòng tôi nặng trĩu nỗi buồn. Tôi lặng lẽ đi tìm chàng, dò hỏi tin tức Trường ở những người bạn. Ngữ nói: - Hắn đã trở về nhà rồi Diễm ạ. Gia đình hắn đang có chuyện buồn nên hắn phải ở nhà để lo liệu. Tôi thổn thức: - Tôi không biết gì về những chuyện buồn của gia đình anh ấy, nhưng tôi biết là anh ấy đang giận tôi, đang hiểu lầm tôi mà không chờ tôi giải thích. Anh ấy muốn rời xa tôi. ... Mời các bạn đón đọc Tóc Mây Nghìn Sợi của tác giả Dung Sài Gòn.
Như Con Mèo Ngái Ngủ Trên Tay Anh - Võ Hà Anh
Nụ cười nhếch lên thành nét trên đôi môi Thủy. Đôi môi ấy ta đã từng được hôn, thân thể ấy ta đã từng ôm và vuốt ve âu yếm. Nhưng bây giờ lại là quyền của một người nào khác. Cường nghĩ ngợi lan man và nhìn bàn tay lóang thoáng gân xanh của Thủy đặt hững hờ trên bụng mà thấy tất cả đã thực đổi thaỵ Chàng thở dài đứng dậy : - Đến thăm Thủy... thôi anh về. Thủy im lặng đứng lên tiễn chàng. Cường ngước nhìn đám là Ngọc Lan rậm rạp : - Anh xin Thủy một bông hoa Ngọc Lan. - Hình như hoa đã hết mùa nở rồi anh ạ. Cường cố tìm nhưng không thấy. Chàng ngắt một chiếc lá vàng : - Thì xin chiếc lá xế chiều này vậy. Thủy nghe như tiếng thao ai oán của chàng. Hai người sáng vai nhau ra cổng. - Tùng đâu Thủy? Cường hỏi. Thủy đáp : - Anh ấy đi làm. Công chức mà anh. Một người bên trong, một người bên ngoài cánh của. Nhưng lần chia tay này không có nắm tay nhau siết chặt , không trao đổi nụ hôn, không nhìn nhau si mê đắm đối. Cường nhìn Thủy ngậm ngùi rồi gật đầu nhè nhẹ, quay đi. Dáng chàng cao và gầy, lầm lũi và câm nín. Thủy đứng nhìn theo Cường và thấy như Cường mang cả đời mình theo bước chân chàng. Thủy quay lại dựa lưng vào cánh cổng, nước mắt nàng chan hòa trên má. Nắng chói chang trong những giọt nước mắt long lanh. ... Mời các bạn đón đọc Như Con Mèo Ngái Ngủ Trên Tay Anh của tác giả Võ Hà Anh.