Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ai Làm Được

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Ai Làm Được của tác giả Hồ Biểu Chánh. Nguyễn Thanh Liêm   Văn học chữ Quốc Ngữ đã được thành hình ở Miền Nam ngay từ hạ bán thế kỷ XIX với Petrus Trương Vĩnh Ký và Paulus Huỳnh Tịnh Của. Nhờ công của hai ông, chữ Quốc Ngữ bành trướng nhanh chóng trong dân gian. Với sự bành trướng của chữ Quốc Ngữ và phương tiện in ấn mới, phong trào đọc tiểu thuyết càng ngày càng lan rộng. Tiểu thuyết trở thành món tiêu khiển rất ăn khách ở Miền Nam vào đầu thế kỷ XX. Các báo chí, các nhà in, và nhà xuất bản đều đói tác phẩm tiểu thuyết. Khởi đầu là những tiểu thuyết dịch, phần lớn là truyện Tàu, rồi đến những sáng tác của người Việt. Một trong những tiểu thuyết gia nổi tiếng trong thời kỳ mở đầu này là Hồ Biểu Chánh. So với các tiểu thuyết khác cùng thời thì tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có tính cách mới mẻ hơn và hấp dẫn hơn.  Với tác phẩm đầu tiên, „U Tình Lục“, thành hình năm 1909 và xuất bản năm 1913, Hồ Biểu Chánh còn chịu ảnh hưởng truyện Nôm trong cách dùng thể văn lục bát trường thiên như Ðoạn Trường Tân Thanh hay Lục Vân Tiên. Tuy vậy mầm mới mẻ của tiểu thuyết của ông cũng đã khởi sắc qua bối cảnh (câu chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhất là ở quê hương Gò Công của ông ở Miền Nam), qua cách dàn dựng cốt truyện (plot) cũng như qua văn tự (dùng chữ Quốc Ngữ). U Tình Lục chỉ củ ở thể văn (thể lục bát trường thiên) và ở một số các từ ngữ và lối diễn tả trong một số câu thơ mà nghe qua ta thấy tương tự như truyện Kiều, như trong hai câu sau đây:                         „Cúc-Hương trở gót trướng hoa,                         Ruột gò chín khúc, lụy sa đôi hàng.“       Nhưng đến tác phẩm „Ai Làm Ðược“, ra đời liền sau U Tình Lục, thì Hồ Biểu Chánh đã là một tiểu thuyết gia loại mới hẳn.  Ai Làm Ðược  là quyển tiểu thuyết đầu tiên viết theo thể văn xuôi bằng chữ Quốc Ngữ. Bản thảo đã thành hình hồi năm 1912 lúc Hồ Biểu Chánh còn làm ký lục ở Cà Mau, nhưng phải đến năm 1922 tác phẩm tiểu thuyết đầu tay này mới chính thức ra đời sau khi đã được ông nhuận sắc. Ai Làm Ðược là tiểu thuyết viết theo kỷ thuật mới, nghĩa là viết theo cách viết tiểu thuyết của Pháp, chớ không viết theo kiểu truyện Tàu (chương hồi tiểu thuyết), hay kiểu truyện Nôm của các nhà nho Việt Nam xưa (viết theo thể lục bát trường thiên) như Nguyễn Du hay Nguyễn Ðình Chiểu. Hồ Biểu Chánh thành công ngay với tác phẩm đầu tiên theo loại mới này. Liền sau Ai Làm Ðược là một loạt 15 quyển tiểu thuyết khác của ông được xuất bản trong những năm kế tiếp trong thập niên1922-29. Ðiều này cho thấy độc giả rất ưa thích loại tiểu thuyết mới này của ông. So với truyện Tàu còn rất ăn khách trong thời gian này thì Ai Làm Ðược tỏ ra mới lạ và hấp dẫn hơn nhiều. Trước hết là mới trong bối cảnh của câu chuyện. Ðây là câu chuyện xảy ra ở Miền Nam Việt Nam, ở ngay tại Cà Mau, chớ không phải ở một nơi xa xôi nào bên Trung Quốc. Và chuyện xảy ra ngay trong thời gian gần đây chớ không phải chuyện xảy ra hồi xửa hồi xưa nào, với những nhân vật là người Việt Nam, và những sinh hoạt quen thuộc trong xã hội Miền Nam (Nam Kỳ Lục Tỉnh) vào khoảng thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX. So với truyện Tàu dịch ra tiếng Việt, và với các truyện Nôm xưa, bối cảnh của Ai Làm Ðược hoàn toàn mới mẻ với tính cách phong tục (hay môi trường văn hóa/xã hội) của nó. Và đó là điểm hấp dẫn đầu tiên của quyển tiểu thuyết mới này.  Kế đó và quan trọng hơn nữa là cách dàn dựng cốt chuyện của Hồ Biểu Chánh. Phần đông truyện Tàu đều theo mẫu dựng mấu chốt chung của câu chuyện tựa trên những thử thách (challenges) bên ngoài để cho người anh hùng (nhân vật chánh) phải đương đầu và vượt qua những thử thách đó. Thử thách càng nhiều, càng lớn thì sự chiến thắng của người hùng càng vẻ vang và câu chuyện càng lôi cuốn hấp dẫn. Kết thúc câu chuyện là sự chiến thắng của người anh hùng, của người quân tử, của lẽ phải và luân lý đạo đức, với sự thỏa mãn của đọc giả. Loại chuyện tạo xúc động tựa trên những thử thách bên ngoài đó (loại melodrama) có cái hay của nó nhưng chưa nói hết được tấn kịch sâu sắc của con người trong loại drama. Ở đây không những có thử thách bên ngoài mà còn có xung đột giữa những tính tình khác nhau của các nhân vật và những mâu thuẫn bên trong tâm lý của các nhân vật chính. Từ những xung đột, những mâu thuẫn đó câu chuyện thường ẩn chứa nhiều ngang trái, éo le, gây nhiều xúc động trong lòng độc giả. Cũng từ những xung đột, mâu thuẫn ngang trái, éo le đó mà câu chuyện xảy ra, và diễn tiến một cách hợp tình, hợp lý, đưa dần đến đỉnh cao nhất (climax) của câu chuyện để kết thúc. Mấu chốt của câu chuyện trong Ai Làm Ðược là những xung đột, mâu thuẫn đó, những xung đột, mâu thuẫn dẫn đến những éo le ngang trái trong đời. Xung đột giữa mẹ ghẻ độc ác và con chồng cương quyết trả thù cho mẹ ruột. Mâu thuẫn trong bổn phận làm con đối với cha và bổn phận trả thù cho mẹ. Xung đột giữa luân lý về danh dự, tiết hạnh và về chữ hiếu, v.v. . . Qua những mâu thuẫn, xung đột trong tâm lý nhân vật, Hồ Biểu Chánh đã khéo léo kích thích và gây nhiều cảm xúc mạnh trong lòng người đọc khiến họ bị lôi cuốn vào câu chuyện từ đầu đến cuối. Câu chuyện diễn tiến như sau: Có một phú ông tên Bạch Khiếu Nhàn, nhà ở gần chợ Cà Mau, góa vợ, sống một mình trong ngôi nhà to lớn với mấy người gia nhân. Ông có một người con gái độc nhất đã gả cho ông Tri Phủ Lê Xuân Thới ở tại đó. Nhưng con gái ông không may đã lìa đời sau khi sinh được một cô con gái đặt tên là Bạch Tuyết. Ông Tri Phủ thì đã có thêm một người vợ lẽ là bà Nguyễn Thị Phường con của ông hương thân ở Ðầm Dơi trước khi mẹ Bạch Tuyết chết. Bạch Tuyết sống với cha là ông Tri Phủ và bà mẹ ghẻ bây giờ đã chính thức trở thành bà Tri Phủ sau cái chết của mẹ cô. Bà này có nhan sắc, lanh lẹ, ở với ông Tri Phủ có một đứa con trai tên là Lê Xuân Sắc. Bạch Tuyết thường hay qua lại nhà ông Bạch Khiếu Nhàn để thăm viếng ông ngoại.  Câu chuyện bắt đầu vào một buổi chiều năm 1894 khi ông Nhàn vào quán cơm chú Lỳ ở chợ Cà Mau. Ở đây ông có dịp gặp một thanh niên, người ở Vĩnh Long, mồ côi cha mẹ, tên Phan Chí Ðại, người thông minh, có chút học vấn, nhưng nghèo khổ đang muốn tìm việc làm ở Cà Mau. Mến tài Chí Ðại và cũng thương cho tình cảnh của người thanh niên này, ông Nhàn đem Chí Ðại về ở nhà mình và xin cho Chí Ðại một chân thơ ký trong văn phòng ông con rể là quan Tri Phủ. Chí Ðại rất có tư cách, làm việc mẩn cán, được mọi người thương mến, kính nể. Ban ngày Chí Ðại đi làm bên phủ, buổi tối thì về ở nhà Bạch Khiếu Nhàn. Chí Ðại xem ông Nhàn như sư phụ của mình, còn ông Nhàn thì thương mến Chí Ðại như cháu ruột của ông. Bạch Khiếu Nhàn là người gốc ở Thừa Thiên. Từ ngày con gái chết ông buồn rầu không đi về Trung thăm mồ mả ông bà. Bây giờ có Chí Ðại ông muốn nhờ Chí Ðại trông coi nhà cửa để ông đi về nguyên quán chơi chừng vài tháng. Nhưng ông Tri Phủ Lê Xuân Thới thì đề nghị nên để Chí Ðại qua ở bên phủ trong thời gian ông Nhàn đi chơi, để tiện dạy thêm cho con trai ông chớ để Chí Ðại ở một mình bên đó thì buồn chết chịu gì nổi. Ông Nhàn chìu ý ông Tri Phủ và từ đó Chí Ðại sang ở luôn bên phủ. Chí Ðại thường thấy Bạch Tuyết nhưng không hề dám nhìn hay đến gần nói chuyện.  Bà Phủ là người tham lam, độc ác nhưng bề ngoài rất khôn khéo với chồng và con ghẻ. Bà luôn khéo léo chìu chuộng, phục vụ cho ông chồng ghiền thuốc phiện, và lúc nào cũng tỏ vẻ thương yêu lo lắng cho cô con gái con riêng của chồng. Bà thấy ngày nào ông Nhàn, ông ngoại Bạch Tuyết, chết đi thì gia tài đồ sộ của ông sẽ thuộc về Bạch Tuyết. Bà thèm muốn gia tài đồ sộ đó nên muốn xui chồng gả Bạch Tuyết cho cháu ruột của bà. Bà nhỏ nhẹ, thiệt hơn với chồng, khuyên chồng sớm làm theo ý muốn đó của bà. Bà muốn đặt ông Nhàn trước một sự đã rồi để khi trở về dù ông Nhàn có không bằng lòng đi nữa thì cũng không còn làm gì được. Ông Phủ nghe lời vợ, cho Bạch Tuyết biết là ông đã quyết định gả Bạch Tuyết cho anh Ðồ, cháu ruột của bà Phủ. (Câu chuyện trở nên gay cấn bắt đầu từ đây).  Bạch Tuyết mạnh dạn phản đối quyết định của cha, không chịu về làm vợ anh Ðồ, cô cũng nói rõ là cô chê chỗ đó. Thật ra thì Bạch Tuyết từ chối vì một lý do quan trọng hơn là chê chỗ đó nhưng mà cô không thể nói ra lý do đó được. Cô thầm biết âm mưu sang đoạt gia tài của người kế mẫu. Cô cũng biết là trước đây mẹ cô chết không phải vì bệnh mà là vì bị bà kế mẫu tráo thuốc độc giết chết. Việc ác độc này cha cô không hề hay biết gì cả. Cha cô lại rất thương yêu, rất nghe lời bà kế mẫu độc ác này. Cô ôm mối hận thù trong thâm tâm và quyết chí chờ cơ hội trả thù cho mẹ ruột. Ðó là lý do thầm kín quan trọng khiến cô cương quyết từ chối cuộc hôn nhân. Thấy việc ép gả Bạch Tuyết chưa có kết quả tốt, bà phủ xoay qua cách khác. Bà nói với chồng là vì Bạch Tuyết đã có tư tình với người nào rồi nên mới từ chối cuộc hôn nhân do cha định đoạt. Bà tạo cơ hội để cho Bạch Tuyết phải có dịp đem thuốc cho Chí Ðại uống, và nói chuyện với Chí Ðại trước mắt đám gia nhân. Từ đó có tiếng xì xầm về việc Bạch Tuyết lo thuốc men cho Chí Ðại và hai người trò chuyện riêng với nhau. Chắc là họ có tư tình gì với nhau rồi. Từ tin đồn đó bà xui chồng đuổi Chí Ðại đi. Ông phủ lúc nào cũng thấy bà có lý, luôn nghe lời bà. Chí Ðại bị đuổi không một lời giải thích. Bị đuổi vô cớ, Chí Ðại sợ ở lại Cà Mau sẽ còn nhiều chuyện không hay nên biên thơ cám ơn Bạch Khiếu Nhàn và đi về Sài Gòn tìm việc làm. Chí Ðại đi là bà Phủ đã thành công một bước trong mưu tính của bà. Bà phải làm sao cho ông Phủ thấy là con gái mình đã bị hư và muốn che dấu sự hư hỏng đó để người ngoài đừng biết thì chỉ có cách là phải gả nó cho cháu bà càng sớm càng tốt. Chí Ðại đi rồi thì việc cho rằng Bạch Tuyết đã hư hỏng với anh chàng này càng được dễ dàng dựng nên. Ông Phủ liền nghe theo bà Phủ, chỉ thị thuộc hạ gắp rút chuẩn bị làm đám cưới cho Bạch Tuyết.  Bạch Tuyết cương quyết từ chối thì bị ông Phủ đánh cho một trận đòn đích đáng về tội hư hỏng. Bạch Tuyết không cách gì minh oan dược. Nhờ bà mẹ ghẻ can thiệp, xin cho cô, ông Phủ mới không đánh nữa. Bạch Tuyết chẳng những không mang ơn bà mẹ ghẻ mà còn căm hận nhiều hơn. Bạch Tuyết khổ sở quá mà không biết làm sao, không còn biết cầu cứu với ai được. Cô định tự tử, nhưng nghĩ lại nếu chết rồi thì còn ai để lo trả thù cho mẹ. Cô nghĩ đến việc thà trốn đi theo trai, thà mang tiếng xấu mà còn có thể trả thù được chớ ở lại đây thì chắc sẽ chết vào tay bà mẹ ghẻ mà thù nhà không trả được. Nhân một hôm ông bà Phủ đi xa, cô lén trốn nhà ra đi. Trước khi đi cô có qua nhà ông ngoại định viết thơ để lại nhưng chỉ mới viết có mấy chữ ông ngoại rồi bỏ dở. Nhưng cô đã có cơ hội đọc thơ Chí Ðại để lại cho Bạch Khiếu Nhàn. Qua thơ này cô biết Chí Ðại đi về đâu, và do đó cô quyết lòng đi theo Chí Ðại. Bạch Tuyết tìm gặp được Chí Ðại ở Sài Gòn. Cô kể rõ tình cảnh đớn đau, nguy hiểm, cô đơn, bơ vơ của cô cho Chí Ðại nghe, cô nói cho Chí Ðại biết tâm sự thầm kín của cô trong vấn đề trả thù cho mẹ, cô mong ước được sự giúp đỡ của Chí Ðại. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo này cô chỉ còn biết trông cậy vào Chí Ðại mà thôi, và cô mong được sống chung với Chí Ðại. Thương cho thân phận của Bạch Tuyết lại đã từng mang ơn Bạch Khiếu Nhàn, tất nhiên Chí Ðại phải hết lòng lo cho Bạch Tuyết nhưng để cho Bạch Tuyết đi theo ở chung với mình thì thật là khó coi nếu không nói là tội lỗi. Chí Ðại phân tích lợi hại, tốt xấu cho Bạch Tuyết nghe và khuyên nàng nên trở về Cà Mau để bảo toàn danh tiết. Nhưng Bạch Tuyết quả quyết thà tự tử chết chớ không thể về Cà Mau được. Cuối cùng Chí Ðại đành phải để Bạch Tuyết theo, sống chung với mình. Hai người sống với nhau và trở thành vợ chồng dù không chánh thức cưới hỏi. Nhưng cuộc sống của hai người vô cùng khổ cực. Chí Ðại không tìm được việc làm vững chắc, vợ chồng thiếu trước hụt sau, nợ nần không trả nổi. Bạch Tuyết có thai, sinh con, nhưng con đau và chết đi vì không tiền thuốc thang chạy chửa. Hoàn cảnh của họ thật vô cùng bi đát. Sau gần bốn tháng đi chơi ở Huế, Bạch Khiếu Nhàn trở về Cà Mau mới hay việc Chí Ðại bị đuổi và Bạch Tuyết đã trốn đi rồi. Ông đọc thơ Chí Ðại và Bạch Tuyết và nghĩ có thể Bạch Tuyết đã theo Chí Ðại lên Sài Gòn thành ra ông vội vã đi ngay lên Sài Gòn tìm cháu. Sau một thời gian khó nhọc tìm kiếm ông đã đến được chỗ ở đậu tồi tàn của hai người. Ông cho tiền trả nợ, mua sắm áo quần, giúp hai người làm hôn thú, rồi đưa hai người về Cà Mau. Ông hùn vốn với một người khách trú mua tàu lớn sang Ấn Ðộ Dương vớt ngọc điệp đem về bán ở bên Trung Quốc. Ông cho Chí Ðại theo tàu điều hành công việc để Chí Ðại có cơ hội gầy dựng sự nghiệp. Còn Bạch Tuyết thì ở nhà với ông. Nhưng bà Phủ đâu có để yên, bà lại xúi ông Phủ sang xin cho Bạch Tuyết về ở với ông bà. Trước lời cầu xin tuy hợp tình hợp lý của ông Phủ, ông Nhàn vẫn chưa chấp thuận. Nhưng Bạch Tuyết lại sợ rồi đây thế nào bà kế mẫu độc ác kia cũng tìm mọi cách ám hại nàng cho nên nàng phải một lần nữa trốn lên Sài Gòn để xa lánh bà mẹ ghẻ độc ác này.  Lần này thì Bạch Tuyết phải sống một mình ở Sài Gòn, nhưng cũng may là cô có mang theo được chút ít tiền và cô đã biết rành cuộc sống ở đây. Lần này cô cũng có cơ hội quen biết và giúp đỡ cho hai người bạn mà sau này họ sẽ trở thành đôi vợ chồng. Họ là những người bạn rất thân của cô, hết lòng giúp đỡ cô trong cơn hoạn nạn về sau. Một người là Băng Tâm, một cô gái quê ở Vĩnh Long, nghèo khổ, bơ vơ lần đầu đến Sài Gòn, và một người là Lý Trường Khanh, nhà giàu có, và là chỗ quen biết với chồng cô từ trước. Cuộc sống của Bạch Tuyết ở Sài Gòn lần này tuy có đỡ hơn lần trước nhưng cũng vẫn rất khổ cực. Cô lại bị đau yếu phải nhờ đến sự chăm sóc tận tụy của Băng Tâm và Trường Khanh. Bà Phủ thì không bao giờ chịu để cho Bạch Tuyết yên thân. Cái gia tài đồ sộ của ông Nhàn lúc nào cũng ám ảnh bà. Không cưới được Bạch Tuyết cho cháu bà thì phải làm sao giết được Bạch Tuyết để may ra ông Phủ và con trai bà còn được hưởng phần nào cái gia tài đồ sộ đó. Bà đích thân lên Sài Gòn tìm gặp Bạch Tuyết, dùng lời ngon ngọt dụ Bạch Tuyết về Cà Mau sống với ông bà. Bạch Tuyết nhất định không chịu. Bà Phủ lật đật về Cà Mau xúi ông Phủ lên Sài Gòn bắt Bạch Tuyết về. Biết thế nguy, Bạch Tuyết nhờ Trường Khanh tìm chỗ ở khác để trốn lánh. Nhưng Trường Khanh chưa tìm được chỗ thì ông Phủ đã lên tới. Lúc này Bạch Tuyết đau nhiều. Ông Phủ thuê ghe đưa Bạch Tuyết về Cà Mau với ông. Bạch Tuyết không trốn tránh nữa được, đành phải để cho ông Phủ bắt về thôi. Sợ Bạch Tuyết bị hại nên Băng Tâm nài nỉ xin được theo bên cạnh để săn sóc cho Bạch Tuyết. Bà Phủ không thích nhưng cũng không làm sao ngăn cản được. Khi Bạch Tuyết và Băng Tâm theo ông bà Phủ đi rồi thì Trường Khanh cũng hối hả xuống Cà Mau tìm gặp ông Nhàn để thông báo mọi việc. Ông Nhàn và Trường Khanh hết sức lo lắng cho số phận của Bạch Tuyết. Trường Khanh nghĩ kế đem Bạch Tuyết ra khỏi nhà ông bà Phủ, nhưng mưu kế bị bại lộ. Bà Phủ biết được bèn tương kế tựu kế cho gia nhân bao vây bắt Trường Khanh và Băng Tâm, vu cáo cho hai người thông đồng ăn trộm đồ nhà bà, kêu ông Phủ phải làm tờ trình gắp rút giải họ lên tòa để Bạch Khiếu Nhàn không kịp can thiệp, giúp đỡ. Giải quyết được Băng Tâm và Trường Khanh, bà Phủ bây giờ đã có đủ điều kiện và cơ hội để giết Bạch Tuyết. Bà tráo thuốc độc cho Bạch Tuyết uống cũng như bà đã làm trước đây cho mẹ ruột Bạch Tuyết. Biết thuốc của bà Phủ bưng vào là thuốc độc nên Bạch Tuyết không chịu uống. Bà Phủ bèn đóng chặt cửa phòng, đè Bạch Tuyết xuống, định đổ thuốc vào miệng. Bạch Tuyết chống cự mãnh liệt nhưng vì đau yếu lâu ngày thành ra không chống nổi sức mạnh của bà Phủ. Nhưng vừa lúc bà Phủ đè được Bạch Tuyết để sắp sửa đổ thuốc vào thì có người tông mạnh cửa phòng, nhào tới kéo bà Phủ ra, giải thoát cho Bạch Tuyết. Người đó là Chí Ðại, vừa về kịp đúng lúc để cứu Bạch Tuyết. Chí Ðại không quên giữ kỷ chén thuốc độc để làm tang chứng tố cáo bà Phủ.  Chí Ðại lên tòa giải oan cho Trường Khanh và Băng Tâm, và nhờ trạng sư đầu đơn tố cáo bà Phủ. Bà Phủ bị tòa tuyên án 8 năm cấm cố về tội giết người. Tri Phủ Trần Xuân Thới thì bị bắt phải về hưu sớm. Ông hết sức ăn năn. Chí Ðại đã thành công lớn lao trong chuyến đi vớt ngọc điệp ở Ấn Ðộ dương. Bạch Khiếu Nhàn vô cùng mừng rỡ. Trường Khanh và Băng Tâm làm lễ thành hôn ở đây với sự giúp đỡ của ông Nhàn. Chí Ðại và Bạch Tuyết vui mừng sum họp, nhưng niềm vui chưa trọn thì Chí Ðại bỗng thấy bức thơ tuyệt mạng của vợ viết cho mình mà chưa ký tên. Ðọc thơ xong Chí Ðại sợ quá nhưng may mà Bạch Tuyết chưa kịp tự tử. Chí Ðại phải hết lời khuyên giải, cắt nghĩa thiệt hơn, Bạch Tuyết mới bỏ ý định đó. Câu chuyện kết thúc ở đây với cảnh mọi người vui vẻ sống hạnh phúc bên nhau.    Ngoài sự hấp dẫn của câu chuyện, tâm lý các nhân vật cũng được khéo léo xây dựng để góp phần quan trọng vào tính logic của câu chuyện. Bà Phủ đẹp đẽ, lanh lợi, rất khéo léo bên ngoài nhưng bên trong vô cùng thâm độc, lúc nào cũng mưu tính giết người, đoạt của. Bên ngoài bà là người vợ hiền thục, hết sức lo lắng, chìu chồng, là người mẹ ghẻ tốt lúc nào cũng để ý lo lắng cho con riêng của chồng, nhưng bên trong bà là người hết sức tham lam và vô cùng ác độc, có thể mưu tính làm bất cứ cái gì, kể cả giết người, để đoạt lấy sự sản gia tài của người khác. Ông Phủ thì hiền từ nhưng lôi thôi, chỉ biết hưởng thụ (hút thuốc phiện), lúc nào cũng nghe lời bà Phủ, không hề biết những mưu toan và hành động gớm ghê của vợ. Vì chỉ biết nghe theo bà Phủ nên ông không biết được những đớn đau, khổ sở của con gái, ông không thấy và cũng không ngờ được sự nguy hiểm đến tính mệnh của Bạch Tuyết trước mưu toan hiểm độc của bà Phủ. Lại là người có học, biết trọng đạo lý Nho giáo nên ông phải nghe lời vợ mạnh dạn trừng trị đứa con gái bất hiếu, không nghe lời cha dạy lại mang tiếng hư hỏng, tư tình với trai.  Bạch Khiếu Nhàn là người giàu có, rất thương con cháu, nhất là thương Bạch Tuyết và sau này thêm Chí Ðại. Ông cũng biết con gái ông bị bà Phủ thuốc chết nhưng ông không nuôi ý định trả thù mà lại muốn tha thứ hết. Khi Bạch Tuyết bày tỏ với ông ý muốn trả thù cho mẹ ruột của cô thì ông cũng khuyên nên tha thứ chớ không tích cực giúp Bạch Tuyết trong vấn đề này. Ông rất thương yêu cháu ngoại và cũng rất thương Chí Ðại. Thấy Chí Ðại có học, có tài, có đức, nhưng không gặp thời ông đem về ở nhà, giúp Chí Ðại tìm việc, và có ý thầm muốn gả Bạch Tuyết cho Chí Ðại nhưng chưa tiện nói ra. Khi gặp được Chí Ðại và Bạch Tuyết ở Sài Gòn, ông không hề có một lời trách móc hay phê phán gì về hành động của hai người. Ông lại vui vẻ, hết lòng giúp đỡ hai người. Sợ Chí Ðại có mặc cảm nghèo khó trước cô vợ giàu ông tìm cách giúp Chí Ðại lập nên sự nghiệp. Chỉ tiếc là ông quá nhân từ và không có đủ thủ đoạn để giúp cháu ngoại đương đầu với mẹ ghẻ độc ác, tội lỗi. Bạch Tuyết, nhân vật chính của truyện, là một thiếu nữ thông minh, khá trí thức, biết lễ nghi, đạo lý, có ý thức và rất có ý chí. Biết mẹ bị dì ghẻ giết, cô âm thầm mang mối thù trong tâm, quyết chí tìm cơ hội trả thù. Cô không độc ác, không đủ bản lĩnh làm chuyện hung dữ, không dự tính hại bà Phủ bằng những hành vi ám muội. Cô chỉ mong có cơ hội đưa vấn đề ra trước pháp luật để luật pháp trừng trị tội phạm một cách công minh. Nhưng điều kiện sinh sống của cô không cho phép cô làm theo như cô muốn. Ngược lại cô bị đặt trong hoàn cảnh thật éo le ngang trái. Cô bị bắt buộc phải sống dưới bàn tay vô cùng độc ác của bà Phủ. Là người sẽ có gia tài đồ sộ, cô là miếng mồi ngon của bà mẹ ghẻ tham lam. Hằng ngày sống bên cạnh bà Phủ chẳng khác nào sống dưới tay tử thần. Ai có thể bảo vệ được cho cô? Người thứ nhất là ông ngoại cô. Ông rất thương cô nhưng ông không ở cạnh bên, không có quyền gì đối với ông bà Phủ, lại quá nhân từ, không có đủ thủ đoạn để đối phó, đương đầu với một người khôn lanh độc ác như bà Phủ. Người thứ nhì là cha cô. Cha cô chắc cũng thương cô nhưng lại rất nghe lời bà Phủ. Ở gần bên nhưng thật sự rất cách xa. Ông cha này không hề hiểu biết gì về cô thành ra vô tình ông trở thành đồng lõa với bà Phủ trong kế hoạch hãm hại cô. Tệ hơn nữa vì quá nhu nhược trước bà Phủ, ông bị bà biến thành một công cụ trong mọi dự tính thực hiện ý định độc ác của bà. Vô cùng cô đơn trước những hiểm nguy, Bạch Tuyết phải vớ vào cái phao cuối cùng là Chí Ðại. Theo trai là hư hỏng, là mất danh tiết, nhưng đó là con đường sống sót còn lại cho người thiếu nữ này. Theo trai để không chết, để còn có thể có cơ hội trả thù cho mẹ. Nàng là đứa con có hiếu, nhưng không phải vì thế mà dễ dàng để cho cha mẹ sai khiến lẽ nào cũng được. Ðặt trong cảnh ngặt nghèo nàng dám liều. Nàng chống lại quyết định của cha. Nàng quyết định trốn ra khỏi nhà. Nàng liều lĩnh ra đi, phiêu lưu chẳng kể, miễn sao tránh được bàn tay ác độc của bà mẹ ghẻ. Khi gặp Chí Ðại nàng liều lĩnh bày tỏ ý muốn sống với Chí Ðại một cách không mấy ngại ngùng. Thật ra Bạch Tuyết không mù quáng, điên rồ khi quyết định theo sống với Chí Ðại. Nàng cũng không phải chỉ có ý định dùng Chí Ðại như một công cụ hay một phương tiện để trả thù nhà. Trong thâm tâm, Bạch Tuyết rất kính nể mến yêu Chí Ðại. Có thể là cô thầm yêu Chí Ðại.  Khi trở thành vợ Chí Ðại nàng là người hết sức lo lắng thương yêu chồng. Con người liều lĩnh này vẫn trọng danh tiết cho nên mới có cái màn viết thơ tuyệt mạng để lại cho chồng trong phần kết thúc. Cô định tự tử để chứng tỏ rằng cô là người trọng danh dự, muốn bảo toàn danh tiết chớ không phải là người theo trai hư hỏng. Sở dĩ cô phải theo Chí Ðại là vì mối thù phải trả mà thôi. Bây giờ thù đã trả xong cô muốn tự tử chết đi để chứng tỏ lòng trọng danh tiết của cô. Chí Ðại rất xứng đáng là người yêu, là người chồng lý tưởng của Bạch Tuyết. Có học thức, rất đạo đức, có khả năng, làm việc tận tụy, rất trung thành, ngay thẳng, Chí Ðại là một chàng trai lý tưởng trong xã hội bấy giờ. Nghèo nhưng không bao giờ ham muốn nhận tiền của của người khác, dù đó là của vợ hay của bên vợ. Gặp cơn túng thiếu thì làm bất cứ việc gì dù là những nghề tay chân cực khổ bị người ta coi thường hay khinh khi, miễn có chút tiền nuôi vợ con. Chí Ðại rất xứng đáng với tình thương của Bạch Khiếu Nhàn, và càng xứng đáng hơn nữa với tình yêu và sự trao thân gởi phận của Bạch Tuyết. Phần đông người ta đọc tiểu thuyết là để được thích thú với câu chuyện, để quên cuộc sống thực tế mệt nhọc của mình trong phút chốc. Ðọc tiểu thuyết là để tiêu khiển, để „mua vui một vài trống canh“ như một nhà văn xưa đã nói. Thành ra tiểu thuyết phải có câu chuyện, và câu chuyện càng gay cấn, càng có nhiều động tác (actions) thì tiểu thuyết càng hấp dẫn đối với phần đông đọc giả. Câu chuyện phải có phần tưởng tượng ly kỳ nhưng cái ly kỳ tưởng tượng đó đừng quá xa cuộc sống thực tế. Câu chuyện phải có những bất ngờ mà người đọc không quá dễ dàng đoán trước sự việc, nhưng những bất ngờ đó đừng trái ngược tính hợp tình, hợp lý hay logic ở đời. Và câu chuyện phải sít sao với tâm lý các nhân vật, những động tác không trái ngược với tâm lý nhân vật. Phần đông độc giả đều có ý hướng đạo đức, phần đông đều mong đến một kết thúc có hậu, ơn đền oán trả, thiện thắng ác, người ngay/người tốt được thưởng, kẻ ác/kẻ gian phải bị trừng trị. Cái ý hướng luân lý đó thiếu thì đa số đọc giả sẽ rất phiền, sẽ ngại đọc những tác phẩm khác nữa của tác giả, nhưng nếu luân lý đó được đặt lên hàng đầu để buộc câu chuyện phải uốn nắn theo, thì câu chuyện sẽ trở nên nhàm chán, không còn đủ lôi cuốn, hấp dẫn. Câu văn cầu kỳ, khó hiểu cũng không mấy hấp dẫn đối với đa số độc giả, nên giản dị, nên nói cái ngôn ngữ của người đọc để cho họ dễ đọc. Ðó là những điều kiện để tiểu thuyết được nhiều người ưa thích. Ai Làm Ðược và nhiều tiểu thuyết khác của Hồ Biểu Chánh có đủ những điều kiện đó, ông đã đáp ứng đúng nhu cầu đọc tiểu thuyết để tiêu khiển của đa số độc giả Miền Nam trong các thập niên 1920- 1940 của thế kỷ XX.   ***   Tóm tắt Câu chuyện kể về cuộc đời của Bạch Tuyết và Chí Đại, hai nhân vật chính trong tiểu thuyết "Ai Làm Được" của Hồ Biểu Chánh. Bạch Tuyết là con gái của ông Tri Phủ Lê Xuân Thới và bà vợ cả, nhưng sau khi mẹ cô mất, bà Phủ, vợ lẽ, đã giết mẹ cô để chiếm đoạt gia tài. Bạch Tuyết ôm mối hận thù, quyết tâm trả thù cho mẹ. Chí Đại là một thanh niên nghèo, mồ côi cha mẹ, được ông Tri Phủ nhận về làm thơ ký. Chí Đại và Bạch Tuyết gặp nhau và yêu nhau, nhưng bà Phủ tìm cách chia rẽ hai người. Bà vu oan cho Bạch Tuyết hư hỏng và ép ông Tri Phủ đuổi Chí Đại đi. Bạch Tuyết đau khổ, bỏ nhà theo Chí Đại. Hai người sống với nhau ở Sài Gòn, nhưng cuộc sống rất khó khăn. Bà Phủ tiếp tục tìm cách hãm hại Bạch Tuyết. Bà dụ Bạch Tuyết về Cà Mau, rồi cho thuốc độc giết cô. Chí Đại kịp thời ngăn cản, cứu sống Bạch Tuyết. Cuối cùng, bà Phủ bị bắt vì tội giết người. Chí Đại và Bạch Tuyết đoàn tụ, sống hạnh phúc bên nhau. Review Tiểu thuyết "Ai Làm Được" được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Ai Làm Được" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Ai Làm Được" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bà Phủ là nhân vật phản diện điển hình, với những thủ đoạn độc ác, mưu mô. Ông Tri Phủ là một người hiền lành, nhưng nhu nhược, dễ bị bà Phủ lừa gạt. Bạch Tuyết là một cô gái xinh đẹp, có cá tính mạnh mẽ, quyết tâm trả thù cho mẹ. Chí Đại là một chàng trai hào hoa, phong nhã, có tình yêu thủy chung, son sắt. Tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Ai Làm Được" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm lên án những thế lực tàn ác, độc ác, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự kiên cường, ý chí trả thù. Kết luận Tiểu thuyết "Ai Làm Được" là một tác phẩm văn học có giá trị, góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Mời các bạn mượn đọc sách Ai Làm Được của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Sơ Một Tử Tù - Nguyễn Đình Tú
Đọc xong cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Đình Tú, tôi nghĩ đến một khái niệm còn khá mới mẻ với nền văn học nước ta, đó là loại Tiểu thuyết tội phạm học. Khuất Quang Thụy Cũng phải nói ngay rằng đây cũng chỉ là một khái niệm tương đối mà chúng tôi nghĩ tới trong khi tìm cách tiếp cận cuốn tiểu thuyết đầu tay này của một tác giả trẻ. Nếu bạn không đồng ý với khái niệm này thì cũng chả sao, bạn có thể có một cách hình dung khác để tiếp cận tác phẩm kể trên và có thể cũng sẽ có được những kiến giải lý thú Trở lại cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Nội dung của cuốn sách dường như chả có gì mới. Câu chuyện xoay quanh một tên tội phạm bị khép án tử hình với một quá trình diễn biến khá phức tạp để biến một thanh niên nhà quê hiền lành chất phác trở thành một tên giết người nguy hiểm... Nhưng đọc xong cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, ta không có được cảm giác kiểu như "thế là đã rõ", "thế là xong việc", và rồi chúng ta có thể yên tâm bỏ cuốn sách xuống để chìm vào giấc ngủ hay thanh thản bước vào những công việc thường nhật mà không còn bất kỳ sự vương vấn nào về số phận của nhân vật hay về những vấn đề mà cuốn sách đã xới lên. Sự kiện cuối cùng trong cuốn sách của Nguyễn Đình Tú đặt dấu chấm hết cho số phận của nhân vật chính bằng đoạn đầu đài. Tất cả dường như rất minh bạch, rất đúng trình tự pháp luật. Nhưng không hiểu sao, đọc đến đây, chúng ta vẫn có cảm giác rằng cái chết chưa phải là sự trả giá cuối cùng cho những tội ác mà kẻ tử tù và những kẻ tòng phạm của hắn ta đã gây ra với đời. Vụ án chưa phải là đã khép lại. Vì còn có những câu hỏi quan trọng khác chưa được trả lời. Trong đó có cả câu hỏi: những ai, cái gì, hoàn cảnh nào đã xô đẩy một con người vốn có "tính bản thiện" trở thành một kẻ giết người? Khi đưa kẻ tử tội lên đoạn đầu đài, trong mỗi con người chúng ta đều xuất hiện một cảm giác giống như cảm giác của nhân vật Bằng, bạn học cũ của kẻ tử tội, nay lại là một luật sư bào chữa cho kẻ tội đồ, ấy là dường như mình cũng là kẻ có lỗi, có can dự vào quá trình trở thành kẻ tội phạm của bị cáo. Anh ta nhắc lại lời một ông thầy chung rất đáng kính của cả hai người: “Đáng tiếc, nhưng đáng tiếc hơn là tất cả chúng ta đều có lỗi mà không biết". Cái cảm giác gột rửa ấy xuất hiện khi đọc xong cuốn sách, chúng ta bỗng hiểu rằng, dường như kẻ bị đưa lên cọc xử bắn kia cũng là một nạn nhân mà mỗi chúng ta, ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đều có lỗi, đều tham gia xô đẩy hắn ta vào con đường tội lỗi để dẫn tới kết cục bi thảm này. Trong cuộc đời nhiều khi chúng ta vô tình gây ra tội ác, hoặc gieo những mầm mống tội ác mà không biết. Đến khi cáimầm ác ấy nảy cành, xanh lá gây hoạ cho đời thì chúng ta lại dửng dưng, coi như mình là kẻ ngoài cuộc vô can, thậm chí chúng ta lại nhân danh pháp luật và đạo đức để phán xử chính những tội ác mà chúng ta đã góp phần gieo mầm và nuôi dưỡng mà không hề hay biết? Có lẽ đây chính là điều khác biệt quan trọng nhất khiến cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú vượt qua khỏi sự thường tình của những cuốn "sách hình sự" "sách vụ án" và có giá trị như một cuốn tiểu thuyết tội phạm học rất đáng được chú ý. Là một cử nhân luật và cũng từng là một cán bộ pháp lý của quân đội một thời gian trước khi trở thành nhà văn, chắc chắn Nguyễn Đình Tú có kiến thức khá vững vàng về "tội phạm học". Nhưng khi khảo sát khái niệm này ở góc độ một nhà văn, Nguyễn Đình Tú đã có những ý tưởng mới mẻ sâu sắc hơn những dòng lý luận khô khan. Anh đã cố gắng thông qua ngôn ngữ và hệ thống hình tượng để lý giải quá trình hình thành nhân cách của một con người cũng như quá trình tha hoá một nhân cách. Anh cũng đã hiểu một cách cặn kẽ khái niệm của Max - Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội - nên đã đi tìm câu trả lời từ những nguyên nhân xã hội, từ môi trường sống để tìm cách lý giải vì sao con người có thể trở thành những kẻ tội phạm, để từ đó đi đến một định đề rằng, quá trình hình thành nhân cách của một con người là một quá trình xã hội, trong đó mỗi con người chỉ có thể hoàn thiện mình thông qua sự không ngừng vươn lên chiến thắng mọi hoàn cảnh, khắc phục những hạn chế của hoàn cảnh và những cái mà chúng ta vẫn thường gọi là sự trớ trêu của số phận. Phạm Bạch Đàn, nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết sinh ra và lớn lên tại một làng quê nghèo có một nghề truyền thống khá oái oăm là nghề khai thác đá. Cái nghề khai sơn phá thạch ấy tuy gian khổ thật, nhưng chắc chắn nó cũng nuôi sống nổi nhiều kiếp người và sẽ cứ tự nhiên nhi nhiên mà sống nếu không có những sự tác động của thời cuộc. Trong cái làng nhỏ bé ấy cũng có đủ thứ chuyện do thời thế đưa lại như cải cách ruộng đất với những nỗi oan sai làm đảo lộn thang giá trị đạo đức truyền thống, với cuộc kháng chiến chống Mỹ long trời lở đất và rồi với những cái sai, cái đúng trong những chính sách quản lý kinh tế, quản lý xã hội ở nông thôn. Trầm luân là vậy nhưng cái cậu bé đẻ rơi bên gốc cây bạch đàn ngày nào vẫn vượt qua được những hạn chế của hoàn cảnh và số phận để trở thành một học sinh giỏi, thi đỗ vào một trường đại học tại thủ đô. Số phận của Phạm Bạch Đàn đã bước sang một trang mới với những thách thức mới thoạt nhìn tưởng như không ác liệt, gian khổ như bao năm sống vật vã với luống cày và hòn đá ở quê hương, ăn đói mặc rách để cắp sách đến trường, nằm trong ổ rơm nhưng vẫn mơ tới một chân trời tươi đẹp. Những gì mà cậu sinh viên mới này nhìn thấy ở trường đại học hóa ra còn có nhiều điều kinh khủng hơn, đáng ngạc nhiên hơn những gì cậu từng nhìn thấy trong suốt cả quãng đời niên thiếu cộng lại? Tiện đây cũng xin nói ngay rằng người viết những dòng này cũng không khỏi ngạc nhiên và thán phục trước sự dũng cảm, chân thành của tác giả đã khiến những người đọc yếu bóng vía như tôi toát cả mồ hôi hột khi chỉ với vài chục trang sách, tác giả đã cho ta thấy sự băng hoại đến như thế nào của "nền văn hoá và đạo đức học đường" của xã hội ta. (Tôi rất mong đó chỉ là một sự thật đã được “tiểu thuyết hoá” và nó chỉ là sự thật của một thời điểm ngắn ngủi nào đó mà thôi). Thế là từ giảng đường trường đại học, chứ không phải từ đời sống lam lũ ở làng quê là nơi Phạm Bạch Đàn đi những bước đầu tiên tới đoạn đầu đài, anh đã bị đuổi khỏi trường đại học. Dĩ nhiên những lỗi lầm của Đàn cũng có căn nguyên từ quá khứ xa xôi, từ gốc gác xuất thân của anh, nhưng điều quan trọng nhất là bản thân anh cũng chưa đủ bản lĩnh để vượt qua những thử thách đó. Không phải ở vào thời buổi ấy, tất cả sinh viên có xuất thân từ những gia đình nông dân nghèo khổ đều hư hỏng cả. Tuy vậy, Đàn cũng đã quyết tâm làm lại từ đầu. Sau một năm vừa lao động vừa học tập, anh lại thi đỗ vào Đại học. Nhưng con đường làm lại của anh lại "vướng vào cơ chế", một quy chế vu vơ nào đó được đặt ra rằng những sinh viên đã bị đuổi học thì phải hai năm sau mới được thi để trở lại trường. Anh đã nhanh nhảu đoảng trong việc sửa chữa khuyết điểm! Nếu có được cơ hội thứ hai trở lại trường Đại học, số phận Đàn có thể đã khác đi chẳng? Chán nản, thất vọng, anh trở lại làng quê trong bối cảnh ở đó đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa cơ chế cũ và cái mới đang hình thành nhưng chưa thắng thế. Anh ủng hộ cái mới, nên anh càng thất vọng hơn. Anh vừa thương cho phận mình vừa thương cho làng xóm “Đói. Đói dài rạc. Đất ấy, ruộng ấy, màu mỡ thế, tươi tốt thế mà thóc cứ lép, sản cứ thấp, sống trên đất luá mà cứ thèm gạo, sống bên núi đá mà cứ nhà tranh vách đất, cứ lầy lội lép nhép trên con đường nhão nhoét, lồi lõm ổ trâu ổ gà. Đám trai làng bạn Đàn kéo nhau đi đào vàng...." Đàn cũng buông trôi theo số phận, nhập vào cái số đông đi tìm vận may nơi rừng thiêng nước độc, để mình rơi vào một môi trường hắc ám, đầy cạm bẫy, đó chính là bước trượt dài của nhân cách, của số phận, đó là cú hích đưa anh tới con đường tội lỗi và... tới đoạn đầu đài. Những gì diễn ra sau đó trên bãi vàng dường như đã là điều tất nhiên, tuy rằng anh cũng đã có đôi lần tìm cách chống lại hoàn cảnh, chống lại số phận, chống lại cả những cái ngẫu nhiên, chống lại cả sự trôi trượt để giữ lấy chút phẩm giá còn lại, nhưng rốt cuộc anh là người bại trận. Xung quanh hình tượng trung tâm kể trên, Nguyễn Đình Tú đã có những thành công nhất định khi xây dựng nên hàng loạt nhân vật phụ, tạo nên sự đa dạng về nhân cách trên cái nền chung của xã hội nước ta ở vào một giai đoạn nhập nhằng giữa quá khứ và hiện tại. Qua những nhân vật này, chúng ta có được sự hình dung về cuộc sống của những làng quê nghèo, của trường đại học và cả một phần xã hội của những con người sống mấp mé giữa lằn ranh đen - trắng, đó là thế giới của những kẻ tội phạm và những người có thể trở thành tội phạm bất kỳ lúc nào. Cái ranh giới giữa có tội và không có tội ở đây thật mỏng manh. Vả chăng, sự mong manh ấy đâu chỉ có ở cái xã hội thu nhỏ quanh những bưởng vàng? Khảo sát những mối quan hệ nhân quả trong cuốn sách của Nguyễn Đình Tú, chúng ta còn có thể chỉ ra nhiều kẻ tội phạm vô hình khác. Đó là kẻ tội phạm mắc những tội danh không được ghi trong những bộ luật thành văn, nhưng không phải vì thế mà sẽ không bị kết án, ít ra cũng là tại toà án lương tâm. Triết lý Nhân - Quả, Thiện - Ác của đạo Phật, tình thương Cơ đốc giáo và những quan niệm đạo đức truyền thống cũng đã được tác giả huy động để làm rõ thêm cái vùng còn mờ nhoè bất cập của những thứ lý luận khô khan, duy lý về luật pháp, về tội ác và sự trừng phạt và về nhiều thứ oái oăm, nhiêu khê do con người đặt ra để tự ràng buộc mình và ràng buộc đồng loại nữa Với những vấn đề rất nghiêm túc được đặt ra trong cuốn sách, Nguyễn Đình Tú đã chứng tỏ mình là một cây bút có trách nhiệm và có tham vọng. Tuy vậy, cũng có thể dễ dàng nhận thấy anh chưa đạt được nhiều lắm cho những mục tiêu nghệ thuật, nhất là nghệ thuật tiểu thuyết. Bố cục của cuốn sách chưa thật chặt chẽ, có chương còn rời rạc. Những đoạn trích dẫn hoặc thuật kể điển tích của Phật giáo, Ki tô giáo chưa nhuyễn và hơi tham lam. Ngoài nhân vật chính, những nhân vật có hình hài, có cá tính chưa nhiều. Có một số nhân vật xuất hiện có "tính thời vụ", được tác giả tung ra khi cần thiết và sau đó thì mất hút hoặc chỉ là những cái bóng mờ nhạt... Bù lại, Nguyễn Đình Tú đã thành công khi tạo ra được cho mình một cách tiếp cận hiện thực khá mới mẻ và một lối kể chuyện có sức cuốn hút. Ít nhất khi đọc cuốn sách này, chúng ta cũng bị lay động và buộc phải suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn, ít phiến diện hơn về một số vấn đề đặt ra trong cuộc sống hôm nay. Đó chính là sự khởi đầu tốt đối với một nhà tiểu thuyết. Và sau 8 năm ra đời, Hồ sơ một tử tù cũng đã khẳng định được sức sống riêng của nó với bốn lần tái bản, một lần làm phim, hai lần vinh danh giải thưởng lớn của Bộ Công an. 8 năm ấy Nguyễn Đình Tú cũng đã chứng tỏ khả năng tiểu thuyết của mình với một loạt tác phẩm như Bên dòng Sầu Diện, Nháp và mới đây nhất là Phiên bản. Đến tiểu thuyết Phiên bản, lại một lần nữa, khái niệm tiểu thuyết tội phạm học trở nên rõ ràng hơn trong tôi, nhưng đó sẽ là nội dung của một bài viết khác khi có dịp quay trở lại vấn đề này. Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Một Tử Tù của tác giả Nguyễn Đình Tú.
Phiên Bản - Nguyễn Đình Tú
"Phiên bản" là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Diệu, cô nữ sinh ngây thơ trong sáng, sinh ra trong một gia đình có người anh trai phạm tội, phải đi tù. Bí bức, gia đình cô, trừ bà nội, còn bố, mẹ và cô liều lĩnh thuê tầu vượt biển đi nước ngoài. Cuộc vượt biên trốn chạy và giải thoát không thành. Hơn một trăm con người trên chuyến tầu bị bọn cướp biển giết chết hết. May mắn, cô cùng một người đàn ông theo đạo và đứa cháu trai mới chín tháng tuổi của ông - sau này nó sẽ là một nhà nghiên cứu tội phạm học - thoát chết, sống sót trở về được đất liền. Trở lại cuộc sống bên người bà, Diệu gặp Hưng, một gã lưu manh, bạn tù của anh trai Diệu, rồi từng bước một, như một định mệnh, một tất yếu không sao cởi thoát được, cô dấn thân dần dần vào cuộc đời gió bụi giang hồ. Giang hồ gió bụi ngẫm ra vậy mà có nhiều cung bậc! Hạ đẳng nhất phải kể là loại đao búa côn đồ, gặp người là đánh, thấy của là cướp. Kế đó là lớp bất tri lý, coi thường công an, chính quyền, cả gan chống lại cả người thi hành công vụ, được đồng loài mệnh danh là những kẻ thích tự sát. Loại ba là loại ma xui quỷ khiến, chuyên dùng thuốc kích thích để gia cường “bản lĩnh” chém giết, hiếp đáp, cướp giật. Đại để là vậy! Chứ còn chi ly ra thì có thể phân thành nhiều loại nữa; chẳng hạn, loại chỉ chuyên kiếm tiền, loại chỉ thích ra oai, loại trộm cắp vặt, loại đi ăn cướp chỉ vì phẫn chí, loại bần cùng mà sinh đạo tặc, loại làm ẩu vì chứng rối loạn tâm thần, loại vì tình ái mà gây thù chuốc oán, loại manh động vì ăn phải bùa mê thuốc lú... Diệu lưu manh hoá theo quy luật nội tại, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, trong khi lương tâm vẫn le lói chút tiếc nuối và vài tia ánh sáng nhân phẩm. Vì thực tình là sau cuộc vượt biển không thành trở về, thoạt kỳ thuỷ cô mới chỉ là một cô bé bán thuốc lá lẻ ở bến xe bến tầu, rồi tiến thêm một bước nữa, thấy thiên hạ bao nhiêu đứa sống được bằng ăn cắp, trong khi mình cũng có đủ hai con mắt, hai bàn tay và cái đầu được học đến tận lớp chín mà chỉ trông chờ vào lờ lãi mấy điếu thuốc thì làm sao sống nổi, nhưng cũng mới chỉ là sa chân vào tội tiếp tay cho kẻ gian, nghĩa là mang hộ đồ ăn cắp của bọn chôm chỉa đi bán để ăn hoa hồng thôi. Bước đường tha hóa tiếp diễn ngay sau đó chẳng lâu la gì đối với một kẻ tay đã nhúng chàm, ngày đêm phiêu diêu trong những dục vọng tăm tối, trên mảnh đất nhan nhản những tay anh chị khét tiếng ranh ma quỷ quái hung ác bạo tàn. Rất nhanh thôi Diệu đã lên ngôi nữ chúa, một siêu sao trong giới giang hồ, lập nên một đế chế dọc ngang không còn biết sợ ai! Tập hợp xung quanh và có quan hệ dây mơ rễ má với nữ quái này là một lũ lĩ, những là Lân "Sói", Cộc "Ba Tai", Hưng "Mã", Tùng "Hê rô", Châu "Điên", Tuấn "Chợ"… tàn ác, bạo ngược có thừa, những thành tố bất hảo của một xã hội đen, một thế giới tội phạm! Thế giới tội phạm, một lát cắt của đời sống hiện thực! Của đời sống hiện thực! Xa lạ chăng chỉ là, ở nơi đây không có cái thường quy, cái phổ biến. Thống trị ở nơi đây là cái hỗn mang chi sơ, là những bản năng kinh thiên động địa, là cái ác độc, là thói tàn bạo thâm căn. Thế giới tội phạm! Một bước lùi của lịch sử nhân loại! Nhà văn không viết chỉ bằng cảm hứng. Ortega Y Gasset, tiểu thuyết gia Tây Ban Nha nói đại ý: Chiếc rìu của một tiều phu giỏi chẳng có nghĩa lý gì trên một sa mạc không cây cối. Muốn viết được một cái gì đó cho ra hồn, nhà văn phải có chất liệu và đừng tưởng chất liệu là cái vốn tự có, là nước ở cái giếng sâu không đáy, là vỉa quặng vô tận, thả sức đào bới. Tôi đã hơn một lần rất có cảm tình và thật sự là khâm phục năng lực hiểu biết thấu đáo cái lĩnh vực đời sống, cái đối tượng nghệ thuật mà cây bút Nguyễn Đình Tú, một triển vọng đầy hứa hẹn của văn xuôi hôm nay, đã cầy xới trong tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù và mới đây, trong cuốn sách có cái tên rất lạ tai là Nháp của anh. Tất nhiên là chàng sĩ quan - cử nhân Luật này có sẵn cái vốn liếng cơ bản về học thuật đã được trang bị của mình. Nhưng dẫu thế nào thì cái sự sống trực tiếp nhằm khám phá kỹ lưỡng vào chiều sâu bên trong cái thế giới kỳ quái này của nhà văn, vẫn là một nét nổi trội, nó khiến người đọc rơi vào trạng thái say mê với một niềm tin cậy chắc chắn là đã không bị lừa! Một cốt truyên hay! Trước nay tôi vẫn là kẻ bảo thủ, khi cho rằng, cốt truyện, với tổng số các tình tiết éo le, giàu kịch tính cùng các nhân vật có số phận độc đáo của nó, chính là cái khung thép cần có để làm chỗ dựa cho tất cả, là một nhu cầu, là cái khôn ngoan đặc biệt của tiểu thuyết, của truyện dài; vậy thì tội gì mà không tận dụng; huống hồ đây là một tiểu thuyết thuộc dòng hành động và tâm lý. Tất nhiên, cốt truyện hay của Phiên bản chỉ là một mặt mạnh và như một lẽ phải thông thường, đó cũng không phải là mặt chủ yếu nhất của cuốn tiểu thuyết này. Bởi vì, điều đáng kể hơn, sâu sắc hơn còn là, sau cái nhu cầu được nhìn thấy, được hình dung ra nhân vật trong diễn tiến của các sự kiện nối tiếp, người đọc tiểu thuyết còn cái khát khao là được lặn ngụp trong cái vùng còn đang vô cùng mung lung, bí ẩn, mơ hồ của suy tưởng. Tội phạm là vấn đề toàn cầu! Cái ác sinh ra từ khi có loài người, nhưng liệu có phải là nhân chi sơ tính bản ác và con người thì hoàn toàn bất lực, không thể triệt tiêu, không bao giờ chế ngự nổi cái ác, cái ác sẽ tồn tại mãi mãi, nó song hành cùng cái thiện? Tư duy truyền thống trước nay vẫn thường quy tội cho xã hội khi lý giải số phận của các tội phạm. Tám Bính trong Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng cũng không ở ngoại lệ. Nhưng còn những trường hợp khác? Chi tiết nhà văn Nguyễn viết chuyện một nữ tặc sinh ra và hoành hành ở chính mảnh đất quê hương, vùng không gian sinh tỏa của nhân vật Diệu trong Phiên bản là một ẩn dụ nghệ thuật, một điểm nhấn có dụng ý của nhà văn. “Đất này dữ, trai gái đều thành nghịch tặc cả”. Cùng với câu nói đã hơn một lần bà nội Diệu đay đi đay lại với Diệu, công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Chín Tháng có nhan đề Tội phạm học dưới giác độ địa văn hoá, phải chăng chính là chủ đích của nhà văn, anh muốn dùng pháp lý đồng thời với Kinh thánh - con người là phiên bảncủa Chúa - để giải minh vấn đề? Và nếu đúng là vậy thì sự kiện Diệu bắn chết Hưng ngay trên giường ngủ của mình ở đoạn kết của cuốn tiểu thuyết có thể coi là một cuộc tự chối bỏ của cái ác từ trong tiềm thức, cái ác tự huỷ hoại cái ác, một mệnh đề mang tính tường luận khá lý thú? Phiên bản là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Khúc được kể bằng ngôi Thị nhằm trần thuật những diễn biến sự kiện của nhân vật chính. Khúc được kể bằng ngôi Em là dòng chảy nội tâm của nhân vật chính. Và các khúc người kể đứng ở ngôi Ta có dáng dấp một cuộc hỏi cung, một cuộc vượt thoát để tìm về bản ngã. Chắc đó cũng sẽ là những thủ pháp tạo thêm hứng thú cho bạn đọc cuốn sách này.   Mời các bạn đón đọc Phiên Bản của tác giả Nguyễn Đình Tú.
Đèn Không Hắt Bóng - Watanabe Dzunichi
AudioBook Đèn Không Hắt Bóng Lâu lắm rồi mới tìm lại được cảm giác thích đọc truyện, mà lại là một cuốn tiểu thuyết dày, giấy đen thui, chữ mờ câm nữa chứ. Nhưng khi ngoài trời mưa rơi rả rích, nằm cuộn chăn trên giường để theo dõi từng bước chân của các nhân vật thì đúng là chẳng còn gì bằng. Y hệt cái cảm giác của những ngày còn nhỏ. Đã đóng trang cuối của cuốn truyện lại từ tối hôm qua nhưng tôi vẫn còn ám ảnh bởi đoạn cuối cùng. Hình ảnh Noriko đứng lặng lẽ, một mình trong phòng mổ, dưới ngọn đèn không hắt bóng, cô độc, lạnh lẽo. Cô chờ đợi Naôê xuất hiện như những ngày xưa. Mọi vật xung quanh cô đều không có gì thay đổi, cuộc sống cũng không có gì thay đổi, nó quen thuộc với cô đến mức cô có cảm tưởng rằng chỉ chốc lát nữa thôi, Naôê sẽ xuất hiện ngay lập tức mà thôi. Nhưng không, anh sẽ không bao giờ có thể mở cửa bước vào phòng mổ như mọi khi được nữa. Giờ đây anh đã yên nghỉ thanh thản vĩnh viễn dưới lòng hồ Sikôtsu, không còn đau đớn, không còn dằn vặt, không có mưu toan, không còn thủ đoạn. Cô không thể hiểu nổi tại sao Naôê không thể xuất hiện, căn hộ của anh vẫn còn kia mà, cái quán café cô và anh hay ngồi vẫn còn, cái bàn quen thuộc vẫn y như ngày nào, ngay cả phòng mổ, cái giường phẫu thuật, chùm đèn mổ, vẫn chẳng có gì thay đổi, tại sao anh không thể xuất hiện lại, ngay trước mặt cô trong lúc này đây. Cảm giác cô đơn đến mức rợn người, cô đơn khủng khiếp. Rồi đây cô sẽ sống thế nào khi không có anh bên cạnh, cô sống vì anh, hạnh phúc vì anh, tất cả đều dành cho anh kia mà, không có anh, rồi thì cuộc đời cô sẽ ra sao? Có nhiều người nói rằng tình yêu của Noriko đối với Naôê là một thứ tình yêu cam chịu, rằng cô không đáng phải làm như vậy, cô nhẫn nhục một cách bất bình thường. Cô mù quáng, cô dại dột, cô khờ khạo. Nhưng tôi lại thấy đó là một tình yêu đẹp. Một thứ tình yêu hiến dâng, tình yêu say đắm, tình yêu cuồng nhiệt, yêu mà không đòi hỏi lại bất cứ một điều gì, cô chỉ biết rằng cô yêu anh, như vậy là đủ. Một người phụ nữ như vậy đáng để yêu lắm chứ. Nhưng, ngược lại, Naôê có yêu Noriko không? Hay đó chỉ là một sự thương hại, một sự hối hận vào lúc cuối đời. Anh muốn đền bù cho Noriko vì anh đã làm khổ cô quá nhiều? Tôi không tin điều đó. Tôi nhìn thấy ẩn sau cái vẻ lạnh lùng, băng giá, bất cần đời và bộ mặt ác quỷ của vị bác sĩ ngoại khoa này là cả một tấm lòng. Có lẽ nó bị căn bệnh ác tính mà anh mắc phải che lấp đi mất, nó bị sự từng trải, những thăng trầm mà anh gặp phải trong cuộc sống che khuất đi mất. Những sóng gió của cuộc đời là đánh tan hết những lý tưởng sống, những hoài bão của anh và trao lại cho anh một đôi mắt biết nhìn xoáy sâu vào tận bản chất của mọi vấn đề. Nhưng “Đèn không hắt bóng” không chỉ có tình yêu giữa Noriko và Naôê. Tôi thích “Đèn không hắt bóng” vì còn nhiều điều khác nữa. Watanabe Dzunichi (tác giả) không chỉ là nhà văn mà ông còn là một tiến sĩ y khoa nữa. Có lẽ chính vì điều đó mà ông đã xây dựng được một hình tượng bác sĩ Naôê rất thật. Có nhiều người khó chịu vì hình tượng này, họ cho rằng Naôê không đáng được tôn vinh vì ông lấy lý do bệnh tật của mình mà chà đạp lên thân phận người phụ nữ v.v… Hơi buồn cười cho những suy nghĩ đó. Naôê không phải là một samurai, cũng chẳng phải là một vĩ nhân, anh chỉ là một bác sĩ bình thường như bao bác sĩ khác, có khác chăng là anh có tài hoa, kinh nghiệm, kiến thức. Cũng phải thôi, anh là phó giáo sư của trường ĐH Y mà. Mà đã là một người bình thường thì những hành động của anh trong hoàn cảnh đó hoàn toàn có thể hiểu được, những hành động rất người, rất thật. Không chỉ có Naôê, tôi còn nhìn thấy một Kobasi tràn đầy lý tưởng sống nhưng cũng vô cùng ngờ nghệch, một Yutaro thực dụng, và cả những bệnh nhân nữa, ông già Isikura bị K dạ dày di căn xương đã đến giai đoạn cuối mà cứ giữ vững niềm tin là mình đã khỏi bệnh, sẽ còn sống vui sống khỏe rất lâu sau đó nữa, hai vợ chồng cụ Uênô và bà Chiyô đã già lắm rồi nhưng lại nghèo, không có con cháu, chỉ có cụ bà lụm cụm chăm sóc cụ ông cho đến chết, cụ ông không đủ tiền truyền máu để tiếp tục sống nhưng sau khi ông mất, cụ bà vẫn đi lùng khắp nơi với số tiền ít ỏi của mình mua cho bằng được vài món quà nho nhỏ biếu bác sĩ để cảm ơn. Tôi cảm nhận được cái cảm giác nghẹn ngào của Kobasi khi buộc phải nhận gói quà đó. Cái cảm giác của người thầy thuốc khi thấy mình bất lực trước sức mạnh của tử thần, bất lực trước sự thật phũ phàng của cuộc sống. Tất cả những nhân vật ấy, tôi thấy rất quen, tôi có cảm giác tôi đã gặp họ ở đâu đó trong bệnh viện rồi. Họ là những mảnh ghép rời rạc, những nét chấm phá của tác giả để cố gắng vẽ nên một bức tranh trung thực nhất của ngành Y. Trong bức tranh ấy, không có những thứ giá trị “Y Đức” hão huyền được đề cao, tâng bốc, không có những hành động cao thượng, không có những câu chuyện cổ tích, không có anh hùng, không có hiệp sĩ, cũng chẳng có vĩ nhân. Chỉ có một sự thật, một sự thật trần trụi như thân thể con người ta dưới ngọn đèn không hắt bóng của phòng mổ vậy. Bạn có thể thấy hình ảnh của bệnh viện Oriental ở đâu đó trong bất cứ bệnh viện nào mà bạn có dịp ghé qua. Câu chuyện còn thú vị vì những xung đột, những mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa lý tưởng của anh chàng bác sĩ mới ra trường Kobasi với sự từng trải của bác sĩ Naôê. Có đôi khi tôi cảm thấy không ưa anh chàng Kobasi này, nhưng cũng có lúc anh làm tôi bật cười vì đôi khi tôi bắt gặp hình ảnh của chính tôi trong đó. Mâu thuẫn giữa quan niệm về “Y Đức” (đạo đức trong nghề Y) và đạo đức theo quan niệm thông thường. Cách giải quyết những mâu thuẫn trên của Naôê hoàn toàn hợp lý. Ít nhất là hợp lý đối với bản thân tôi. Chắc cũng phải còn lâu lắm tôi mới đủ nội lực để có thể giải quyết được như Naôê. Một câu chuyện hay, hoàn toàn xứng đáng với 1 đêm thức trắng như đêm qua. Mời các bạn đón đọc Đèn Không Hắt Bóng của tác giả Watanabe Dzunichi.
Vũ Khí Bóng Đêm Tập 6: Lửa Thiên Đàng - Cassandra Clare
Bóng tối đang bủa vây thế giới Thợ Săn Bóng Tối. Hỗn loạn cùng những tai họa và mất mát liên tiếp ập xuống đầu các Nephilim. Trong khi đó, Clary, Jace, Simon, và nhóm bạn của họ phải sát cánh bên nhau chống lại kẻ thù quỷ quyệt nhất: người anh ruột của Clary.Sebastian Morgenstern rắp tâm gây ra cảnh Thợ Săn Bóng Tối đối đầu Thợ Săn Bóng Tối, một trận chiến nồi da xáo thịt. Với Cốc Hỏa Ngục trong tay, hắn biến đổi Thợ Săn Bóng Tối thành những sinh vật của ác mộng, chia cắt những người thân yêu để xây dựng đội quân Hắc Hóa của riêng mình. Không một thứ vũ khí nào ở thế giới này có thể đánh bại Sebastian – nhưng nếu họ tới xứ quỷ, họ sẽ có một cơ hội, dù là mong manh… Sẽ có hi sinh, sẽ có mất mát và cả thế giới sẽ thay đổi. Ai sẽ sống sót sau tập sáu và cũng là tập cuối cùng của series Vũ Khí Bóng Đêm? Lửa thiên đàng là phần 6 sê-ri Vũ khí bóng đêm, xuất bản ở Anh từ năm 2014, được xếp vào danh sách tiểu thuyết ăn khách nhất do New York Times bình chọn. Trọn bộ series Vũ khí Bóng Đêm (The Mortal Instruments) do Chibooks xuất bản: Thành phố Xương (City of Bones, phần 1) - tải eBook Thành phố Tro Tàn (City of Ashes, phần 2) - tải eBook Thành phố Pha Lê (City of Glass, phần 3) - tải eBook Thiên thần sa ngã (City of Fallen Angles, phần 4) - tải eBook Linh hồn lạc (City of Lost Souls, phần 5) - tải eBook Lửa Thiên đàng (City of Heavenly Fire, phần 6) - tải eBook   Cassandra Clare (27/07/1973), tên thật là Judith Rumelt, nhà văn người Mỹ chuyên viết về thể loại tiểu thuyết kỳ ảo. Từng làm việc tại nhiều tạp chí và tòa báo cỡ nhỏ, trong đó có The Hollywood Reporter. Hiện Cassandra Clare đang sống ở Amherst, bang Massachusetts cùng chồng và ba chú mèo. Các series sách tiêu biểu: Vũ khí bóng đêm (The Mortal Instruments), The Infernal Devices Trilogy, The Dark Artifices Trilogy, The Bane Chronicles, Magisterium (viết chung với Holly Black)… Ngoài ra cô còn viết nhiều truyện ngắn và fan-fic khác. Trailer giới thiệu sách: