Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Năm Chú Heo Con

Giới thiệu tóm tắt tác phẩm: Câu chuyện lấy ý tưởng từ một bài đồng dao của trẻ em Anh, với năm nhân vật là nghi phạm trong một vụ án: Chú heo con này đi ra chợ Chú heo con này ở nhà trông  Chú heo con này ăn bò nướng  Chú heo con này bụng rỗng không  Chú heo con này khóc “oa oa oa” suốt đường về nhà Nhiều năm trước, một vụ án mạng xảy ra làm kinh động xã hội: bà Crale bị buộc tội đầu độc chồng – một họa sĩ tài hoa, và nhận án chung thân. Bà chết sau một năm thụ án. Nhưng con gái bà không tin mẹ mình là thủ phạm, cô đã đề nghị thám tử lừng danh Poirot điều tra lại vụ án này. Poirot đã tiếp cận năm người có mặt khi sự việc xảy ra – năm nghi phạm, và lần về quá khứ 16 năm trước để vén bức màn bí mật, tăm tối quanh cái chết của họa sĩ lừng danh Amyas Crale. Tiểu thuyết đỉnh cao này là một câu chuyện tinh tế và tài hoa, một chuyện tình sâu sắc và một đại diện tiêu biểu của nghệ thuật kể chuyện, trong đó có năm cách kể khác nhau của cùng một vụ giết người. Theo bình chọn của nhiều độc giả, đây là tác phẩm hay nhất của nữ hoàng truyện trinh thám Agatha Christie. *** GIỚI THIỆU CARLA LEMARCHANT Hercule Poirot nhìn người phụ nữ trẻ đang được dẫn vào phòng với sự tò mò thích thú. Không có gì đặc biệt trong lá thư cô viết. Đó chỉ là một lá thư xin hẹn gặp mà không hề có thêm ẩn ý gì bên dưới lời yêu cầu. Một lá thư ngắn gọn và thuần công việc. Chỉ có nét chữ dứt khoát kia biểu lộ Carla Lemarchant là một phụ nữ trẻ. Giờ cô đã xuất hiện bằng xương bằng thịt – một phụ nữ trẻ cao ráo mảnh dẻ mới vừa đôi mươi. Kiểu phụ nữ trẻ mà người ta không thể không ngoái nhìn. Trang phục chỉn chu, áo choàng cắt may đắt tiền cùng với váy và khăn choàng lông thú sang trọng. Vẻ thông minh đĩnh đạc, cô có hàng chân mày xếch, chiếc mũi nhỏ thanh tú, và một chiếc cằm cương nghị. Trông cô đầy sức sống. Hơn cả vẻ đẹp của cô, chính vẻ ngoài đầy sức sống đó mới là thứ giúp cô trở nên nổi bật trong mắt người khác. Trước khi cô đến, Hercule Poirot đang tự thấy mình thật già cỗi, giờ đây ông như trẻ lại lần nữa… người tràn đầy sức sống… mãnh liệt! Khi tiến đến chào cô gái, Poirot nhận ra đôi mắt xám sẫm của cô đang chú mục vào ông. Cô quan sát ông với một sự nghiêm túc cao độ. Cô ngồi xuống và nhận điếu thuốc ông mời. Sau khi châm lửa, cô ngồi yên hút thuốc trong một hai phút, vẫn tiếp tục nhìn ông với vẻ nghiêm túc kia, ánh mắt đầy suy tư. Poirot ôn tồn lên tiếng. “Vâng, trước sau gì cô cũng phải quyết mà, đúng không?” Cô giật mình. “Ông nói gì cơ?” Cô sở hữu một giọng nói thu hút, có một chút khàn khàn dễ chịu trong giọng nói ấy. “Cô đang cân nhắc, đúng không, rằng tôi có phải là một tên bịp bợm, hay chính là người cô cần?” Cô mỉm cười, nói. “Vâng, đúng vậy… đại loại thế. Ông thấy đó, ông Poirot, ông… trông ông chẳng giống tí nào với hình dung của tôi cả.” “Và tôi già rồi, phải thế không? Già hơn cô tưởng?” “Vâng, cả chuyện đó nữa.” Cô ngập ngừng. “Ông thấy đó, tôi sẽ thẳng thắn vậy. Tôi muốn… tôi phải có được người giỏi nhất.” “Cô yên tâm đi,” Hercule Poirot nói. “Tôi chính là người giỏi nhất!” “Ông chẳng khiêm tốn gì cả… Dù vậy, tôi muốn tin ông.” Carla trả lời. Poirot điềm tĩnh nói. “Cô biết đó, người ta không phải lúc nào cũng dùng đến cơ bắp. Tôi không cần phải lăn lê, đo dấu chân hay nhặt những đầu lọc thuốc lá và quan sát những ngọn cỏ gãy. Đối với tôi, chỉ cần ngồi trên ghế và suy luận là đủ. Chính là cái này,” ông gõ gõ vào cái đầu hình quả trứng của mình, “nó mới là thứ hoạt động!” “Tôi biết,” Carla Lemarchant nói. “Đó là lý do tôi đến tìm ông. Ông thấy đó, tôi muốn nhờ ông làm một việc có hơi kỳ quặc!” “Nghe có vẻ hứa hẹn!” Hercule Poirot đáp. Ông nhìn cô gái chờ đợi. Carla Lemarchant hít một hơi dài. “Tên tôi,” cô nói, “không phải Carla. Mà là Caroline. Giống với tên mẹ tôi. Tôi được đặt tên theo bà.” Cô ngập ngừng. “Và tuy là trước nay tôi vẫn dùng họ Lemarchant… nhưng họ thật của tôi là Crale.” Trán của Hercule Poirot thoáng nhăn lại đăm chiêu. Ông lẩm bẩm. “Crale… hình như tôi có nhớ…” Cô nói. “Cha tôi là họa sĩ, một họa sĩ khá nổi tiếng. Vài người nói ông từng là một họa sĩ xuất chúng. Tôi cũng thấy thế.” Hercule Poirot nói. “Amyas Crale ư?” “Đúng thế.” Cô ngập ngừng, rồi tiếp. “Còn mẹ tôi, Caroline Crale, bị xét xử vì tội sát hại ông ấy!” “À ha,” Hercule Poirot nói. “Giờ thì tôi nhớ ra rồi… nhưng vẫn mơ hồ lắm. Lúc đó tôi đang ở nước ngoài. Cũng đã lâu lắm rồi.” “Mười sáu năm,” cô gái đáp. Gương mặt cô giờ trắng bệch, còn đôi mắt thì như hai ngọn đèn rực sáng. Cô nói. “Ông có hiểu không? Mẹ tôi bị đưa ra xét xử và kết án… Bà không bị treo cổ vì họ thấy là có vài tình tiết giảm nhẹ, thế nên hình phạt được giảm xuống còn khổ sai chung thân. Nhưng bà chết chỉ một năm sau đó. Ông thấy không? Chuyện đã qua lâu lắm rồi…” Poirot lặng lẽ hỏi. “Rồi sao nữa?” Cô gái với cái tên Carla Lemarchant ép chặt hai tay vào nhau. Cô nói chậm rãi và đứt quãng nhưng với một sự nhấn mạnh rõ ràng, kì lạ. Cô nói. “Ông phải hiểu – hiểu cho chính xác – chuyện của tôi bắt đầu từ đâu. Tôi chỉ mới năm tuổi khi vụ việc… xảy ra. Quá bé để hiểu được nội tình của nó. Tôi nhớ được mẹ và cha tôi, dĩ nhiên, và tôi nhớ việc mình rời khỏi nhà vô cùng đột ngột… bị đưa đến vùng thôn quê. Tôi nhớ những chú heo và vợ một người nông dân mập mạp tốt bụng, mọi người đó đều rất tử tế, và tôi còn nhớ khá rõ cái nhìn kỳ lạ họ dành cho tôi, tất cả mọi người đều thế, kiểu khi ta lén lút nhìn gì đó. Dĩ nhiên tôi biết, trẻ con luôn biết, rằng có gì đó không ổn… nhưng tôi không rõ đó là gì. “Rồi tôi lên một con tàu, một chuyến đi mới vui làm sao, cuộc hành trình kéo dài suốt mấy ngày, tôi đến Canada và chú Simon gặp tôi, tôi sống ở Montreal với chú ấy cùng cô Louise, và mỗi khi tôi hỏi về cha hay mẹ thì họ trả lời rằng cha mẹ tôi sẽ đến đây sớm thôi. Và rồi… và rồi tôi nghĩ mình đã quên mất… tôi chỉ mơ hồ biết là họ đã chết mà không nhớ nổi có ai thực sự báo tin cho tôi hay không. Bởi lúc đó, như ông thấy, tôi không còn nghĩ về họ nữa. Tôi đã rất hạnh phúc, ông biết đó. Chú Simon và cô Louise rất thương tôi, rồi tôi đến trường, có nhiều bạn bè, và tôi gần như đã quên hẳn là mình từng có một cái tên khác không phải Lemarchant. Ông thấy đó, cô Louise nói với tôi rằng đó là tên của tôi ở Canada và tôi thấy có lý lắm, Lemarchant chỉ là cái tên Canada của tôi thôi, nhưng như đã nói dần dà tôi quên mất là mình còn một cái tên khác nữa.” Cô hất chiếc cằm cương nghị lên. Cô nói. “Nhìn tôi xem. Nếu ông thấy tôi, hẳn ông sẽ nói: ‘Kia là một cô gái vô ưu vô lo!’, đúng không nào? Tôi khá giả, sức khỏe tuyệt vời, tôi nhìn cũng không đến nỗi nào, tôi có thể tận hưởng cuộc sống. Ở tuổi hai mươi, tôi chẳng mong đổi chỗ với cô gái nào khác trên thế giới cả. “Nhưng ông biết đó, tôi bắt đầu đặt câu hỏi. Về cha mẹ ruột của tôi. Họ là ai và họ đã làm gì? Tôi hẳn đã được định trước là sau này sẽ rõ mọi chuyện… “Và đúng như thế, họ đã kể tôi nghe sự thật. Khi tôi hai mươi mốt tuổi. Họ phải làm thế thôi, bởi lẽ tôi đến tuổi được hưởng số tiền của mình. Và rồi, ông thấy đó, còn vì lá thư nữa. Lá thư mẹ để lại cho tôi khi bà chết.” Biểu cảm của cô thay đổi, dịu đi. Mắt cô không còn là hai đốm sáng rực nữa mà như hai hồ nước mờ tối. Cô nói. “Đó là lúc tôi biết được sự thật. Rằng mẹ tôi đã bị kết án vì tội giết người. Điều đó thật… khủng khiếp.” Cô ngừng lại. “Có một chuyện nữa tôi phải nói ông biết. Tôi đã đính ước. Người ta nói chúng tôi phải đợi, chúng tôi chỉ có thể cưới nhau khi tôi hai mươi mốt tuổi. Khi tôi biết mọi chuyện, tôi hiểu ngay lý do.” Poirot cựa mình và bây giờ mới cất tiếng. Ông hỏi. “Và hôn phu của cô phản ứng như thế nào?” “John ư? John không quan tâm. Anh nói với anh chẳng có gì khác biệt cả. Anh và tôi vẫn là John và Carla, còn quá khứ không ảnh hưởng gì hết.” Cô chồm về phía trước. “Chúng tôi vẫn đính ước. Nhưng dù như thế, ông biết không, chuyện rõ ràng là có ảnh hưởng. Nó ảnh hưởng đến tôi. Và nó cũng ảnh hưởng đến John nữa… Không phải quá khứ ảnh hưởng đến chúng tôi, mà chính là tương lai.” Cô siết chặt hai tay. “Chúng tôi muốn có con, ông thấy đó. Cả hai chúng tôi đều muốn có con. Và chúng tôi không muốn chứng kiến cảnh con mình lớn lên và sợ hãi.” Poirot nói. “Cô không biết là ai ai cũng có ông bà tổ tiên với quá khứ bạo lực và độc ác à?” “Ông không hiểu rồi. Dĩ nhiên là có. Nhưng mà này, không phải ai cũng biết về quá khứ của họ. Còn chúng tôi thì biết. Quá khứ đó quá gần với chúng tôi. Và đôi khi… tôi thấy John nhìn tôi. Một cái nhìn lướt qua, chỉ chớp qua thôi. Giả sử là chúng tôi lấy nhau và có một trận cãi nhau đi, rồi nếu tôi thấy John nhìn tôi và… và anh nghi ngại?” Hercule Poirot hỏi. “Cha cô bị giết như thế nào?” Giọng Carla rõ ràng và dứt khoát. “Ông ấy bị đầu độc.” Hercule Poirot đáp. “Tôi hiểu rồi.” Một thoáng im lặng. Rồi cô gái nói tiếp bằng một giọng bình tĩnh, đều đều. “Ơn chúa, ông thật tinh ý. Ông thấy là chuyện đó ảnh hưởng thế nào, và nó can hệ ra sao. Ông không cố tìm cách khỏa lấp hay buông ra những lời an ủi.” “Tôi hiểu rất rõ,” Poirot nói. “Cái mà tôi không hiểu là cô muốn gì ở tôi?” Carla Lemarchant nói đơn giản. “Tôi muốn cưới John! Và tôi sẽ cưới John! Và tôi muốn có ít nhất hai đứa con gái và hai con trai. Và ông sẽ là người khiến chuyện đó thành sự thực!” “Ý cô là… Cô muốn tôi đi nói chuyện với hôn phu của cô ư? À không, tôi nói thế có ngốc không chứ! Cô đang đề nghị tôi làm một chuyện khác hẳn. Nói tôi nghe cô đang nghĩ gì trong đầu nào.” “Nghe này, ông Poirot. Tôi muốn ông hiểu, và hiểu cho rõ. Tôi muốn thuê ông điều tra một vụ án mạng.” “Ý cô là…?” “Đúng, chính là chuyện đó. Một vụ án mạng vẫn cứ là án mạng dù cho nó mới xảy ra hôm qua hay mười sáu năm trước đi nữa.” “Nhưng cô gái thân mến ơi…” “Chờ đã, ông Poirot. Ông vẫn chưa nghe hết chuyện đâu. Còn một điểm vô cùng quan trọng nữa.” “Là?” “Mẹ tôi vô tội,” Carla Lemarchant nói. Hercule Poirot cọ cọ mũi. Ông lẩm bẩm. “Ừ thì, thông thường… tôi hiểu…” “Đó không phải là cảm tính. Có lá thư của mẹ tôi. Mẹ để lại cho tôi trước khi bà chết. Lá thư được định là sẽ trao cho tôi khi tôi hai mươi mốt tuổi. Bà để lại chỉ nhằm khẳng định điều đó, tôi khá chắc như vậy. Trong thư chỉ nói về mỗi việc này. Rằng bà không phải hung thủ, bà vô tội, và tôi luôn có thể chắc chắn về nó.” Hercule Poirot đăm chiêu nhìn gương mặt trẻ trung đầy sức sống kia đang chiếu ánh mắt chăm chú vào mình một cách vô cùng nghiêm túc. Ông chậm rãi nói: “Dù sao đi nữa…” Carla mỉm cười. “Không, mẹ tôi không như thế! Ông đang nghĩ là bà nói dối… nói dối để tôi yên lòng ư?” Cô sốt sắng chồm tới trước. “Nghe này, ông Poirot, có những thứ trẻ con biết rõ. Tôi có thể nhớ được mẹ của mình, dĩ nhiên chỉ là những ký ức rời rạc thôi, nhưng tôi nhớ khá rõ bà là người như thế nào. Bà không nói dối… dù là nói dối vì mục đích tốt. Nếu có gì đó gây ra đau đớn bà cũng sẽ nói thẳng ra cho ta hay. Đi nha sĩ, hay gai đâm vào ngón tay – những thứ đại loại như vậy. Sự thật như là… là một thôi thúc tự nhiên trong con người bà. Tôi không nghĩ ngày đó tôi thực sự yêu quý mẹ lắm, nhưng tôi tin bà. Tôi vẫn tin bà! Nếu mẹ nói rằng bà không giết cha tôi thì tức là bà không giết ông ấy! Bà không phải là loại người long trọng viết ra những lời dối trá khi biết mình sắp chết.” Hercule Poirot chậm rãi, gần như miễn cưỡng, gật đầu. Carla tiếp tục. “Đó là lý do tôi có thể an tâm cưới John. Tôi biết mình có thể. Nhưng anh thì không. Anh tin rằng việc tôi nghĩ mẹ mình vô tội là lẽ tự nhiên thôi. Chuyện này phải được làm rõ, ông Poirot ạ. Và ông sẽ là người làm việc đó!” Hercule Poirot chậm rãi lên tiếng. “Cứ cho những gì cô nói là sự thật đi, thưa cô, nhưng đã mười sáu năm rồi!” Carla Lemarchant đáp ngay. “Ồ! Dĩ nhiên là chuyện này sẽ khó khăn lắm chứ! Không ai ngoài ông làm được cả!” Hercule Poirot khẽ hấp háy mắt. Ông nói. “Cô thật khéo nói, nhỉ?” Carla nói. “Tôi từng nghe danh của ông. Những vụ ông đã làm. Cái cách mà ông giải quyết chúng. Ông hứng thú với tâm lý học, đúng không? Vâng, thứ đó không thay đổi theo thời gian đâu. Những thứ vật chất đã mất rồi: đầu lọc thuốc lá và các dấu chân, những ngọn cỏ gãy. Ông không thể tìm thấy những thứ đó nữa. Nhưng ông có thể xem lại toàn bộ tình tiết vụ án, và có lẽ là nói chuyện với những người liên quan lúc đó nữa, tất cả họ đều còn sống, và rồi… và rồi, như ông vừa mới nói đây thôi, ông có thể ngả người ra ghế và suy luận. Và ông sẽ biết được chính xác chuyện gì đã xảy ra…” Hercule Poirot đứng lên. Một tay vuốt bộ ria mép. Ông nói: “Thưa cô, tôi rất vinh hạnh! Tôi sẽ không phụ lòng tin của cô. Tôi sẽ điều tra vụ án mạng giúp cô. Tôi sẽ lục lại những sự kiện từ mười sáu năm trước và tôi sẽ tìm ra sự thật.” Carla đứng lên. Mắt cô lấp lánh. Nhưng cô chỉ nói. “Tốt quá.” Hercule Poirot lúc lắc ngón tay trỏ đầy dứt khoát. “Chờ tí đã. Tôi nói là tôi sẽ tìm ra sự thật. Nhưng cô hiểu cho, tôi không thiên về phía nào cả. Tôi không tin lời cam đoan mẹ mình vô tội của cô đâu. Nếu bà ấy có tội thật… ây chà, thì sao đây?” Carla kiêu hãnh ngẩng đầu lên. Cô nói. “Tôi là con gái của bà. Tôi muốn sự thật!” Hercule Poirot đồng ý. “Được, vậy thì, tiến tới. À, nói thế không đúng. Phải là ngược lại. Trở về…” Mời các bạn đón đọc Năm Chú Heo Con của tác giả Agatha Christie & Trương Trung Tín (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd - Agatha Christie
Ở làng King’s Abbot, vụ tự sát của bà góa Ferrars làm dấy lên đồn đoán rằng bà đã giết chồng, bị tống tiền và có quan hệ mờ ám với ông Roger Ackroyd, một người giàu có trong làng. Tối hôm sau, ông Ackroyd bị giết trong phòng làm việc trước khi phát hiện được ai là kẻ tống tiền người đàn bà góa. Thám tử lừng danh Hercule Poirot ra tay phá án, với sự trợ giúp của bác sĩ James Sheppard. Xuất bản lần đầu năm 1926, Vụ ám sát ông Roger Ackroyd nhanh chóng trở thành hiện tượng xuất bản và sau này được coi là tác phẩm kinh điển của dòng văn học trinh thám phổ thông, mở ra một kỷ nguyên mới cho văn chương thể loại này *** Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Bà Ferrars chết vào đêm hôm thứ năm, giữa hai ngày 16 và 17 tháng 9. Người ta gọi tôi đến vào lúc 8 giờ sáng ngày thứ sáu, song tôi không thể làm gì hơn được nữa. Bà ta đã chết được mấy tiếng đồng hồ rồi. Vào khoảng 9 giờ hơn, tôi về đến nhà. Cửa đóng kín. Tôi lặng lẽ mở bằng chiếc chìa khóa riêng, treo áo và mũ ở phòng ngoài. Tôi đứng yên một lúc; một cảm giác nặng nề và lo lắng đè nặng lên tôi. Không biết cái gì sẽ xảy ra sau đây, chắc chắn là tôi không thể đoán được. Nhưng trong đầu tôi cứ quay cuồng một ý nghĩ rằng trong thời gian tới đây, sẽ có nhiều điều bất ngờ nữa xảy ra như cái chết của bà Ferrars. Như người ta thường nói: Những gì con người không hy vọng thì luôn luôn xảy đến. Trong bếp có tiếng cốc va chạm nhau lách cách và một giọng nói khô khan vọng ra, đó là giọng của chị gái tôi: Caroline. - Cậu đã về đấy à, James? Một câu hỏi vô nghĩa, nếu không phải là tôi thì còn là ai khác nữa cơ chứ? Tôi vẫn im lặng không muốn trả lời, chính bà chị tôi là nguyên nhân của sự im lặng này. Caroline là một người đàn bà rất thóc mách và thậm chí còn hơn thế nữa, nếu người ta đề cập đến một vấn đề hay câu chuyện nào đó ở ngoài cái nhà này, Caroline có thể tìm mọi cách để biết cho bằng được những câu chuyện không đâu ra đâu của thiên hạ, mặc dù bà ta vẫn chỉ ngồi ở nhà. Tôi không biết bà chị tôi làm việc đó như thế nào, chỉ biết là bà ấy làm được thôi. Đó cũng chính là nguyên nhân tại sao tôi phải câm miệng. Tất cả những điều tôi sắp phải kể cho Caroline nghe bây giờ, xung quanh cái chết của bà Ferrars, có thể là những điều mà toàn thị trấn này đã được biết cách đây một giờ đồng hồ rồi. Song, bà chị tôi lại luôn luôn muốn biết những cái gì mà những người khác không biết cơ, đó đâu phải là lỗi của tôi. Chồng bà Ferrars bị chết cách đây đã được hơn một năm. Mỗi khi nói về cái chết của ông Ferrars, Caroline vẫn hay khẳng định rằng: Ông Ferrars chết là do bị bà vợ đầu độc. Caroline khẳng định như vậy không dựa trên một chứng cứ hoặc lý lẽ nào và thường xuyên cãi lại khi tôi nói rằng ông Ferrars chết vì bệnh dạ dày quá nặng, thêm vào đó, ông ta còn có thói quen uống rượu mạnh nhiều một cách kinh khủng. Đây là một bằng chứng đúng đắn vì hậu quả của nó đối với bệnh này của ông Ferrars cũng giống như kết quả của một vụ đầu độc. Nhưng Caroline không bao giờ dựa trên cơ sở này để đánh giá lại về bà Ferrars cả, mà vẫn buộc tội bà ấy là một kẻ giết người. - Cậu chỉ cần quan sát kỹ là hiểu ngay bà ta là một người như thế nào - Caroline vẫn thường nói với tôi như vậy. Tôi vẫn do dự đứng ngoài phòng khách không muốn vào và đang suy nghĩ về tất cả những điều đó thì giọng nói gắt gỏng của bà chị tôi lại vọng ra: - Cậu đang làm gì ngoài ấy thế hả, James? Sao không vào đây mà ăn sáng đi? ... Mời các bạn đón đọc Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd của tác giả Agatha Christie.
Con Mồi Táo Bạo - Erle Stanley Gardner
Mason bảo vệ một người dính vào cuộc chiến cổ phiếu, bị cáo buộc giết hại thư ký của đối thủ. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Jerry Conway lật tờ báo đến trang sáu. Cùng một đề tài như vậy cả tuần nay rồi. Đó là bài báo quảng cáo chiếm hết nửa trang với tựa đề: “HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG ỦY NHIỆM”. Bài báo được viết một cách khôn khéo với lời lẽ chứng tỏ bề ngoài đầy sự thực: Quý vị cổ đông của hãng “Tìm kiếm và khai thác dầu mỏ California - Texas” đã đầu tư cho hãng bởi vì quý vị muốn có lợi túc. Quý vị muốn có lợi tức để sử dụng cho chính quý vị, cho con cháu cũng như cho những người thừa kế. Nhưng quý vị đã nhận được gì? Ngoài sự hoàn toàn trông cậy vào may rủi, ông Giám đốc Jerry Conway đã làm được gì cho quý vị? Ông ta nói nào là phát triển, nào là xây dựng và nào là ông ta đang đặt một nền tảng vững chắc cho Công ty. Nhưng đó không phải là con đường của những chuyên viên thượng thặng bậc nhất lựa chọn. Các chuyên viên này đã nhận định rằng Jerry Conway chỉ đang đặt nền tảng trên bãi cát. Quý vị muốn có lợi tức, quý vị muốn có hành động. Quý vị muốn có lợi tức ngay bây giờ, năm tới hoặc trong năm tới nữa chứ không phải là mười hay hai mươi năm sau. Vậy xin quý vị hãy gửi phiếu ủy nhiệm cho Gifford Farrell. Gifford Farrell sẽ đảm nhận trọng trách giao phó và công việc sẽ phát triển tốt đẹp. Farrell chỉ bảo đảm bằng kết quả chứ không phải bằng lời hứa. Farrell chỉ bảo đảm bằng hành động chứ không phải tà tà, bằng quyết định chứ không phải bằng mơ hồ và bằng thành tích chứ không phải bằng hy vọng. Conway gấp tờ báo lại. Ông thấy rằng bài báo quảng cáo đó sẽ có kết quả và ông thấy mình bị tổn thương. Theo Hội đồng Cổ đông ủy nhiệm thì thật ra hoàn toàn do may mắn nên Công ty tìm kiếm và khai thác dầu mỏ California - Texas đã được nằm trong tổ hợp Turkey Ridge. Và do đó Jerry Conway đã tạo được một lợi tức lớn cho công ty và nâng giá trị của chứng khoán. Đúng ra thì Jerry Conway đã có dự trù đầu tư Công ty vào một tổ hợp khác cũng có tiềm lực mạnh tương đương với tổ hộp Turkey Ridge, nhưng lại không thành công. Gifford Farrell đã từng bị mất ảnh hưởng trong Công ty ngay từ đầu và đã bị Ban giám đốc cách chức, và bây giờ ông ta khởi sự lại cuộc chiến dành quyền ủy nhiệm. Ông ta quyết dành giật lấy quyền điều khiển Công ty từ tay Conway. Ai đã hậu thuẫn cho Farrell? Nguồn tài chính nào đã yểm trợ cho các quảng cáo trên báo chí? Conway rất muốn biết và cần phải biết để tìm cách đối phó. Kế hoạch đầu tư tổng quát chính yếu của Conway phải được thi hành một cách âm thầm. Giờ phút nào Conway để lộ ra kế hoạch, giờ phút đó coi như thất bại. Giá của các tài sản mà Conway hy vọng thu mua được sẽ tự động tăng vọt lên liền. Conway không thể giải thích trên báo chí được. Conway có ý định sẽ báo cáo trước đại hội đồng cổ đông và hy vọng rằng hầu hết các cổ đông lớn sẽ tham dự và sẵn sàng hậu thuẫn cho mình. Nhưng còn các cổ đông nhỏ hơn? Những cổ đông mà họ đầu tư đây một chút, kia một chút, những cổ đông mà họ chỉ muốn thấy hành động và lợi nhuận trước mắt? Liệu những người này sẽ đứng trong hàng ngũ Conway hay họ sẽ bỏ phiếu ủy nhiệm cho Farrell? Theo nghiên cứu các tài liệu cho biết, có khá nhiều các cổ đông nhỏ đã từng nắm được quyền điều khiển Công ty, với điều kiện là họ đoàn kết thành một khối. Nếu Farrell nắm được cái phiếu ủy nhiệm của họ có nghĩa là họ đã đoàn kết thành một khối. Tuy nhiên, nếu Gifford Farrell không thu thập được tối thiểu 60 phần trăm các cổ đông nhỏ này, và “nếu” Conway có khả năng nắm được các cổ đông lớn trong đại hội cổ đông thì mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Tuy nhiên đó chỉ là hai chữ “Nếu” to tướng và hiện tại Jerry Conway chưa tìm được giải pháp. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #54: Con Mồi Táo Bạo của tác giả Erle Stanley Gardner.
Tiền 3: Sòng Bạc - Paul Loup Sulitzer
Cimballi, chàng triệu phú 26 tuổi, góa vợ, một con trai, tốt bụng và ham chơi, một hôm bỗng điên rồ nảy ra ý định "tậu" một sòng bạc ở Mỹ để cuộc đời được có thêm phần vui vẻ, bởi vì cái sòng bạc này "...có thể tiếp đón cùng lúc Ba mươi ngàn khách chơi, tổng vốn đầu tư là Năm trăm triệu đô la và ...lãi đồng niên trông rõ được là Một trăm triệu đô la". Vậy thì vui quá rồi. Song, cả tiền lẫn niềm tin đều chưa tìm thấy thì đã thấy chàng Cimballi; nào lồng lên như ngựa vía khắp các châu lục trên trái đất, từ Mỹ sang Âu, Á, Phi rồi lại ngược từ Phi, Á, Âu về Mỹ; nào suýt phá sản; nào hơn thế, suýt bỏ mạng cùng hai đứa con - một đẻ một nuôi, trong đường hầm bên dưới sòng bạc của chính chàng. Bạn đọc sẽ ngạc nhiên và có thể, kinh hoàng, khi đi tới tận cùng của "Sòng Bạc". Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Vào quãng giữa tháng 7 năm 1976, ngày 18, cách đây hơn ba tháng tôi đã lao vào việc mua và xây dựng một khách sạn - sòng bạc khổng lồ trên đất Mỹ. Một sòng bạc đáng gọi là một sòng bạc: Sau khi xây dựng xong, nó sẽ có thể tiếp đón được trong cùng một lúc từ 29 đến 30 ngàn khách chơi. Không phải là nhỏ rồi! Dù sao nó cũng đủ để cạnh tranh với những sòng bạc Caesars hay Saudz của Las Vegas. Quy mô thì y chang như nhau hay cũng gần như thế. Nhưng về tầm quan trọng của công chuyện kinh doanh mà tôi đã dấn thân vào thì chỉ cần ba con số là đủ để biểu hiện nó: Tổng số vốn đầu tư là năm trăm triệu dolars, nếu không có gì bất thường thì số vốn này sẽ được khấu hao xong trong ba năm rưỡi, lãi đồng niên trông thấy được sẽ là một trăm triệu dolars nghĩa là 500 triệu francs mỗi tháng[1]. Trừ tiền thuế và các lệ phí. Ngày 18 tháng 7 năm 1976, một chiếc taxi đưa tôi đến một cao ốc ở Phố 65 Đông, tại Manhattan, New York, lúc đó là tám giờ tối, hơn kém khoảng một hay hai phút gì đó. - Tôi tên là Franz Cimballi. Ông Olliphan chờ tôi. Người bảo vệ có mang súng, tra một bảng danh sách để trên bàn làm việc nhìn chòng chọc vào mặt tôi, rồi gật đầu. Tôi đi về phía thang máy, anh ta gọi giật tôi lại, nói: - Tầng lầu của ông Olliphan có thang máy riêng. Anh ta đến gần tôi, đưa tôi đến trước mặt cái cửa bằng gỗ sồi đánh si, kỳ lạ là không có một quả đấm cửa hay bất cứ một thiết bị mở nào. - Xin mời ông nhìn vào chiếc camera này. Tôi phải ngẩng đầu và con mắt độc nhỡn của chiếc ống kính nhìn xuống tôi. Tôi gửi cho nó một nụ cười quyến rũ mà tôi có bí quyết. Mười giây, cái cửa không có khóa lặng lẽ quay, mở vào một thứ phòng khách của phụ nữ, căng bằng lụa mộc, có kê ở hai bên một chiếc tủ đứng kiểu Louis XVI, hai chiếc ghế fauteuil kiểu Adam, lưng ghế có phù hiệu. Tôi bước vào, cánh cửa đóng lại sau lưng tôi. Tôi không hề cảm thấy chiếc cabin khởi động, và cũng chẳng cảm thấy chấn động nhẹ nào báo hiệu đã lên đến nơi. Một cánh cửa mở ra, gác lầu thứ 64 trên cao, một người quản gia người Porto Rico thản nhiên đỡ chiếc áo choàng của tôi. - Xin mời ông đi lối này, thưa ông Cimballi. Nếu cứ xét theo cái thang, bằng gỗ mun rất hẹp đưa tôi lên một căn phòng có lẽ là căn gác cuối cùng của cao ốc này, thì tầng lầu này phải là song lập. Người mời tôi dùng bữa tối đang chờ tôi ở đầu một dãy hành lang hoàn toàn ốp gỗ, dẫn vào một phòng đọc sách cũng hoàn toàn ốp gỗ như vậy. Khi tôi bước vào, ông cất chiếc vĩ cầm vào hộp, và tôi có thể đoán chắc rằng chỉ riêng một cây đàn này thôi, ít nhất cũng bằng giá của cả tầng lầu song lập này và những gì nó chứa bên trong. Đó là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, cao lớn, mảnh mai, rất đẹp, rất lịch sự! Hai thái dương tóc điểm bạc, da mặt rám nắng, đôi mắt xanh cháy bỏng thông minh. Tên ông ta là James Montague Olliphan. Chính ông là người đứng làm trung gian để bán cho tôi khách sạn “Con Voi Trắng”. - Ông dùng một chút rượu thưa ông Cimballi? ... Mời các bạn đón đọc Tiền 3: Sòng Bạc của tác giả Paul Loup Sulitzer.
Tiền! Niềm Vui Sướng - Paul Loup Sulitzer
"Tiền!..." vào lúc này, chúng tôi hy vọng có thể giúp bạn đọc tiếp cận với "thế giới kinh doanh", với "nghệ thuật làm giàu", và còn hơn thế nữa, có một cái nhìn đầy đủ, xác thực về thời đại mình đang sống. Cậu chàng Frank Cimballi, 19 tuổi, con nhà tỉ phú chỉ biết ăn chơi, bỗng rơi tõm vào một cảnh ngộ bi đát: Bố, mẹ chết, người yêu tự sát, gia tài khổng lồ được thừa kế bị cưỡng đoạt sạch sành sanh. Bị đẩy đến xứ Kenya Châu Phi xa lạ với hai bàn tay trắng - theo đúng nghĩa đen, cậu chàng bắt buộc phải sống, phải làm lại cuộc đời mình. Thế mà chỉ năm năm sau, Cimballi đã trở thành triệu phú, lần luợt đánh bại tất cả những kẻ độc ác đã “gây nên cuộc lừa đảo có tầm cỡ thế kỷ”, kể cả tên trùm tư bản tài chính Martin Yahl. Đánh bại, không phải bằng vũ lực mà bằng chính sức mạnh của đồng tiền, bằng các mánh lới, các thủ đoạn kinh doanh. Và rồi chính Cimballi, đang ngất ngưởng trên đỉnh cao chót vót thắng lợi huy hoàng, lại một lần nữa bị lôi tuột xuống vực cũng bằng những cái “bẫy” nghề nghiệp... Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Tôi nghĩ rằng, ta có thể bắt đầu câu chuyện từ sáng 23 tháng mười một, vào lúc mười một giờ ba mươi phút, trong ngôi nhà ở đường Old Queen bên rìa công viên St. James thành phố London. Sao lại không? Chính vào lúc đó cuộc chơi bắt đầu. Có lẽ không thật đúng vào lúc mười một giờ ba mươi, mà là mười một giờ ba mươi rồi kéo dài trong năm sáu tiếng đồng hồ sau đó. Viên cảnh sát từ công viên Scotland tới ngồi trước mặt tôi. Đến bây giờ trong mắt tôi vẫn còn lưu lại đường nét chiếc veston bằng vải tuýt anh ta mặc hôm đó. Anh ta trạc độ bốn mươi, có khuôn mặt người xứ Scotland hung hung, mái tóc dày và xoắn có đường ngôi bên trái kéo dài sang phải bởi một làn sóng có hai chỗ duỗi, tên là Ogilvie hoặc Watts. Anh ta theo dõi những người dọn nhà thuê đang khuân vác đồ đạc. - Anh rời bỏ căn nhà này? - Chính nó rời bỏ tôi. Người ta đang lấy lại những thứ tôi chưa trả hết tiền. Tôi chưa trả hết tiền một thứ nào. Điện thoại, tôi nhấc máy, lại ngân hàng gọi tới: Tấm séc thứ hai đã tới nơi, họ không chịu đựng nổi tình thế này, tôi định làm gì, mấy giờ tôi mới đến gặp họ, không biết rằng càng sớm càng tốt hay sao? Tôi có biết chứng thư kháng nghị là cái gì không? “Tôi sẽ cố đến thật sớm! Bao giờ? - Một giờ nữa!” Tôi gác máy, thấy cặp mắt màu hạt dẻ đăm chiêu của viên cảnh sát vẫn dán vào tôi. Chắc chắn gã đã nghe hết, đã biết rõ ai gọi tôi, gọi để làm gì, nhưng cứ giả ngây giả điếc như chẳng hay biết gì. Gã bảo: - Hay, tôi vừa nảy ra một ý: Có lẽ tốt nhất là anh nên làm lại từng bước một những cái gì anh đã làm đêm hôm đó. Không bắt buộc đâu. Nhưng tranh thủ được thời gian. Và tôi có thể để anh dược tự do sớm hơn. Tôi đứng lên, chân nặng trịch. - Nào, đi! Các người dọn nhà thuê đã và đang làm việc rất tốt: Họ bắt đầu từ lầu hai, đã dọn sạch mọi thứ trên đó, lầu một cũng trống trơn, chẳng sót thứ gì. Bây giờ họ đang tấn công vào tầng trệt, mang đi hết, nhẵn nhụi, có mảnh giấy vẽ ngôi nhà ở St. Tropez bằng bút mực. - Anh bao nhiêu tuổi? - Hăm mốt. Hai mươi mốt năm, hai tháng và mười bốn ngày. - Anh thuê căn nhà này từ bao giờ? - Cách đây hai tháng mười bốn ngày. - Buổi tối hôm kia là lần đầu tiên? Tôi nhìn theo bức tranh trong tay một người dọn nhà thuê. - Không phải lần đầu. Giữa lầu một và tầng trệt có vài bậc tam cấp. Chúng tôi trèo lên. Tôi ngoái nhìn lại lần cuối cùng mong trông thấy bức vẽ, nhưng người mang nó đi đã ra tới ngoài phố, tới xe tải. - Không phải lần đầu, nhưng chắc chắn là lần cuối cùng. - Đêm ấy anh ăn mừng cái gì là chính? - Sự phá sản của tôi. - Chúng tôi lên thang gác lầu một. - Tôi nói - Tôi ở dưới kia, trong phòng khách bên phải. Trông rõ cô ta trèo lên cầu thang này. Cô dừng lại đứng chỗ này, quay đầu nhìn xuống. Nhìn tôi, giơ tay làm dấu rồi tiếp tục lên gác. - Có tỏ vẻ gì đặc biệt? ... Mời các bạn đón đọc tập 1 bộ Tiền: Tiền! Niềm Vui Sướng của tác giả Paul Loup Sulitzer.